Tải bản đầy đủ (.pdf) (71 trang)

Tổ chức dạy học các phong cách chức năng ngôn ngữ trong chương trình ngữ văn trong chương trình ngữ văn 10 trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (397.09 KB, 71 trang )

Khoá luận tốt nghiệp

Lời cảm ơn

Trong quá trình thực hiện đề tài này, em đã nhận được sự hướng dẫn

nhiệt tình và chu đáo của cô giáo Phạm Kiều Anh giáo viên tổ Phương
pháp dạy học Ngữ văn và các thầy cô trong tổ Phương pháp dạy học Ngữ văn
cùng tập thể các thầy cô giáo trong khoa Ngữ văn trường Đại học sư phạm Hà
Nội 2. Khoá luận được hoàn thành ngày 10 tháng 05 năm 2007.
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo Phạm Kiều Anh cùng tập thể các
thầy cô giáo trong khoa đã giúp đỡ em hoàn thành khoá luận này.
Trong khuôn khổ thời gian có hạn nên đề tài không tránh khỏi những
hạn chế, em rất mong nhận được sự chỉ bảo của thầy cô và bạn bè để có thể
hoàn thiện trong quá trình học tập và giảng dạy sau này.

Hà Nội, Ngày 10 tháng 05 năm 2007
Tác giả khoá luận
Nguyễn Thị Thu Hiền

Nguyễn Thị Thu Hiền

29G - Ngữ văn


Khoá luận tốt nghiệp

Lời cam đoan

Để hoàn thành khoá luận này, ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận
được sự giúp đỡ tận tình của cô giáo hướng dẫn Th.S Phạm Kiều Anh cùng


các thầy cô trong khoa Ngữ văn. Trong quá trình tiến hành nghiên cứu, tôi đã
đọc nhiều tài liệu tham khảo có liên quan dến những vấn đề đặt ra trong đề tài
của mình. Tuy nhiên, tôi xin cam đoan những kết quả nghiên cứu trong khoá
luận này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, nó không trùng với kết quả của
những tác giả khác.
Hà Nội, Ngày 10 tháng 05 năm 2007
Tác giả khoá luận

Nguyễn Thị Thu Hiền

Nguyễn Thị Thu Hiền

29G - Ngữ văn


Khoá luận tốt nghiệp

Bảng các chữ viết tắt

CH

Câu hỏi

GV

Giáo viên

HS

Học sinh


THPT

Trung học phổ thông

PCCNNN

Phong cách chức năng ngôn ngữ

Tr

Trang

VD

Ví Dụ

SGK

Sách giáo khoa

Lưu ý: Trong phần lịch sử vấn đề, chúng tôi sử dụng [] và ở trang ghi
hai số thì số đầu là thứ tự sách theo tài liệu tham khảo, còn số sau là trang
trích dẫn. Ví dụ: [6,19] tức là: Cuốn sách số 6, trích ở trang 19. Trong phần
nội dung, có những chỗ chúng tôi chỉ ghi một số thì số đó là thứ tự sách theo
tài liệu tham khảo. Ví dụ: [13]: tức là cuốn sách số 13.

Nguyễn Thị Thu Hiền

29G - Ngữ văn



Khoá luận tốt nghiệp

Phần 1: Mở đầu

1. Lý do chọn đề tài

Trong cuộc sống hàng ngày con người luôn có nhu cầu giao tiếp với
nhau. Đó là, sự tiếp xúc giữa cá thể này với cá thể khác hay giữa cá thể với
tập thể trong một cộng đồng ngôn ngữ. Quá trình giao tiếp được thực hiện
bằng nhiều phương tiện, trong đó ngôn ngữ được coi là phương tiện giao tiếp
toàn năng nhất bởi nó tiện lợi và có thể đạt được hiệu quả cao nhất.
Khi giao tiếp với nhau, các nhân vật giao tiếp phải hướng tới một mục
đích giao tiếp nhất định. Tương ứng với mỗi mục đích giao tiếp thì con người
chọn những cách thức sử dụng ngôn ngữ khác nhau để biểu đạt nội dung giao
tiếp. Những cách sử dụng ngôn ngữ khác nhau nhằm đáp ứng được những mục
đích giao tiếp khác nhau, như vậy dần hình thành những phong cách ngôn
ngữ. Căn cứ vào từng mục đích giao tiếp khác nhau, ta có những phong cách
ngôn ngữ sau: phong cách ngôn ngữ sinh hoạt, phong cách ngôn ngữ khoa
học, phong cách ngôn ngữ chính luận, phong cách ngôn ngữ hành chính công vụ, phong cách ngôn ngữ báo, phong cách ngôn ngữ nghệ thuật.
ở phổ thông, mục đích của việc dạy học tiếng Việt không chỉ đơn thuần
là cung cấp những kiến thức về từ ngữ, về câu, về cách dựng đoạn, tạo lập văn
bản mà quá đó, giúp học sinh nói, viết đúng phong cách, phù hợp với các
lĩnh vực giao tiếp, đạt tính chuẩn mực và hiệu quả cao khi giao tiếp. Đồng thời
qua việc học những tri thức về tiếng Việt, các em có năng lực cảm thụ ngôn
ngữ trong các tác phẩm nghệ thuật, có khả năng tạo lập những văn bản có tính
sáng tạo. Vì vậy, việc tổ chức dạy học các phong cách chức năng ngôn ngữ là
quan trọng và cần thiết.
Trước đây, khi dạy tiếng Việt ở phổ thông, các phong cách chức năng

ngôn ngữ ít được coi trọng. Bản thân nội dung phong cách chức năng ngôn

Nguyễn Thị Thu Hiền

29G - Ngữ văn


Khoá luận tốt nghiệp

ngữ cũng chỉ được thực hiện trong một chùm bài ở SGK lớp 11, với số tiết hạn
chế, chỉ đủ để giáo viên truyền đạt đến học sinh khối lượng kiến thức sơ đẳng
nhất về phong cách ngôn ngữ. Gắn với chương trình Cải cách giáo dục, các
nhà giáo dục cho rằng: để rèn luyện cho học sinh bốn kỹ năng nghe, nói, đọc,
viết thì cần phải chú trọng hơn tới việc dạy học các phong cách chức năng
ngôn ngữ. Bởi nó chính là cơ sở để các em sử dụng ngôn ngữ một cách chuẩn
mực, nhằm đạt hiệu quả giao tiếp nhất định.
Là một giáo viên giảng dạy Ngữ văn trong tương lai, để có thể hướng
dẫn học sinh thấy được sự trong sáng giàu đẹp của tiếng Việt và giúp các em
có kỹ năng kỹ xảo sử dụng tốt tiếng Việt trong giao tiếp hàng ngày, chúng
tôi cho rằng việc nghiên cứu và tìm hiểu phong cách chức năng ngôn ngữ sẽ là
một cơ hội để tìm ra những cách thức rèn luyện các kỹ năng sử dụng ngôn ngữ
cho học sinh.
Xuất phát từ những lý do trên chúng tôi lựa chọn đề tài Tổ chức dạy
học các phong cách chức năng ngôn ngữ trong chương trình Ngữ văn 10
THPT.
2. Lịch sử vấn đề

Tìm hiểu các phong cách chức năng ngôn ngữ, chúng tôi tập trung xem
xét quá trình nghiên cứu về các phong cách chức năng ngôn ngữ cụ thể, trong
đó có hai phong cách chức năng ngôn ngữ là phong cách ngôn ngữ sinh hoạt

và phong cách ngôn ngữ nghệ thuật được triển khai dạy trong chương trình
Ngữ văn 10 THPT.
Có thể nói, trong những năm gần đây việc nghiên cứu về các phong
cách chức năng ngôn ngữ đã có nhiều thành tựu mới. Đặc biệt, hiện nay khi
Phong cách học đã trở thành nội dung bắt buộc đối với tất cả các sinh viên
năm cuối ở các học viện, các khoa chuyên ngành ngôn ngữ ở các trường Đại
học Khoa học xã hội và nhân văn, ở các trường Đại học sư phạm, thì phong
cách chức năng ngôn ngữ lại càng quan trọng và cần thiết. Trong thực tế

Nguyễn Thị Thu Hiền

29G - Ngữ văn


Khoá luận tốt nghiệp

nghiên cứu đã có nhiều nhà Ngôn ngữ học và các nhà nghiên cứu các ngành
Khoa học xã hội và nhân văn quan tâm đến vấn đề này.
Ngay từ đầu thế kỷ XX, trên thế giới đã xuất hiện khá nhiều công trình
nghiên cứu về các phong cách chức năng ngôn ngữ. Trong đó, tiêu biểu là một
số công trình nghiên cứu của các nhà phong cách nổi tiếng như:
R. Gia côp xơn. Bàn về ngôn ngữ học và thi học. N.Y.1960.
Những vấn đề của phong cách học ngôn ngữ học. M., 1969.
P. Ghirô, P. Cuen. phong cách học, 1997.
ở việt Nam, trong những thập kỷ gần đây, môn Phong cách học và
các vấn đề thuộc phạm vi phong cách chức năng ngôn ngữ cũng được nhiều
nhà Phong cách học quan tâm. Dưới đây, chúng tôi xin điểm qua một số công
trình nghiên cứu tiêu biểu có bàn về phong cách chức năng ngôn ngữ:
Trong cuốn Phong cách học, các tác giả Đinh Trọng Lạc, Nguyễn
Thái Hoà đã bàn về các vấn đề lý thuyết của phong cách học như về đối tượng

nghiên cứu của phong cách học; các phong cách chức năng ngôn ngữ và việc
phân chia chúng. Đồng thời, họ cũng đưa ra khái niệm phong cách chức năng
là: Phong cách chức năng là khuôn mẫu (Strereotype) trong hoạt động lời
nói, hình thành từ những thói quen sử dụng ngôn ngữ có tính chất truyền
thống, tính chất chuẩn mực trong việc xây dựng các lớp văn bản (phát ngôn)
tiêu biểu. [6,19]
Không đồng quan điểm với các tác giả Đinh Trọng Lạc, Nguyễn Thái
Hoà, tác giả Cù Đình Tú lại cho rằng: Phong cách chức năng là dạng tồn tại
của ngôn ngữ dân tộc biểu thị quy luật lựa chọn sử dụng các phương tiện biểu
hiện tuỳ thuộc vào tổng hợp các nhân tố ngoài ngôn ngữ như hoàn cảnh giao
tiếp, đối tượng tham dự giao tiếp. [11,45]
Bên cạnh hai công trình tiêu biểu kể trên, nhiều công trình khác cũng đề
cập đến vấn đề này. ở đó, các nhà nghiên cứu đã đưa ra những hướng phân
chia phong cách chức năng ngôn ngữ khác nhau. Chẳng hạn, tác giả Đinh

Nguyễn Thị Thu Hiền

29G - Ngữ văn


Khoá luận tốt nghiệp

Trọng Lạc chia tiếng Việt ra thành hai phong cách lớn là phong cách khẩu ngữ
và phong cách văn học. Phong cách văn học lại bao gồm: phong cách thư từ;
phong cách ngôn ngữ hành chính; phong cách ngôn ngữ chính luận; phong
cách ngôn ngữ khoa học; phong cách ngôn ngữ nghệ thuật.[ 5, 285 -298] .
Trong cách phân loại này, chúng tôi thấy rõ xu hướng muốn đồng nhất phong
cách chức năng với dạng lời nói.
Trong khi đó các tác giả: Võ Bình, Lê Anh Hiền, Cù Đìng Tú, Nguyễn
Thái Hoà, lại dựa vào chức năng xã hội của tiếng Việt để chia thành hai loại

phong cách chức năng cơ bản: chức năng giao tiếp và chức năng thông báo.
Trong chức năng thông báo lại được chia nhỏ thành các chức năng khác nhau
như: chức năng thông báo - thẩm mĩ (phong cách ngôn ngữ nghệ thuật); chức
năng thông báo - trí tuệ (phong cách ngôn ngữ khoa học). [1,45 - 53]
Xuất phát từ thực tế nghiên cứu về phong cách chức năng ngôn ngữ,
chương trình tiếng Việt ở phổ thông trước đây và chương trình Ngữ văn hiện
nay đã xác định có sáu kiểu phong cách chức năng ngôn ngữ là: phong cách
ngôn ngữ sinh hoạt; phong cách ngôn ngữ nghệ thuật; phong cách ngôn ngữ
chính luận; phong cách ngôn ngữ báo- công vụ; phong cách ngôn ngữ hành
chính; phong cách ngôn ngữ khoa học.
Như vậy, tuy cùng nghiên cứu về các phong cách chức năng ngôn ngữ
nhưng mỗi tác giả đều đề cập đến phong cách chức năng ngôn ngữ dưới những
góc độ khác nhau, ở những lĩnh vực khác nhau tuỳ theo mục đích và nhiệm vụ
nghiên cứu riêng. Nghiên cứu về phong cách chức năng ngôn ngữ phong phú
là vậy, song việc nghiên cứu cách thức tổ chức dạy học các phong cách này lại
dường như chưa đươc chú trọng lắm. Vì vậy, đề tài Tổ chức dạy học các
phong cách chức năng ngôn ngữ trong chương trình Ngữ văn 10 THPT là
một đề tài khá mới mẻ và thiết thực.

Nguyễn Thị Thu Hiền

29G - Ngữ văn


Khoá luận tốt nghiệp

3. đối tượng, phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu
Xuất phát từ nội dung cụ thể của đề tài chúng tôi tập trung nghiên cứu

hai phong cách chức năng là Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt và Phong cách
ngôn ngữ nghệ thuật.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Từ những thành tựu nghiên cứu về phong cách chức năng ngôn ngữ
chúng tôi tìm hiểu hai phong cách ngôn ngữ là phong cách ngôn ngữ sinh
hoạt và phong cách ngôn ngữ nghệ thuật được triển khai dạy học trong chương
trình SGK Ngữ văn 10 THPT.
4. Mục đích nghiên cứu

Thông qua việc nghiên cứu hai phong cách chức năng ngôn ngữ, chúng
tôi vận dụng vào tổ chức dạy học các phong cách chức năng ngôn ngữ trong
chương trình Ngữ văn 10 THPT.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu

Xuất phát từ đối tượng, mục đích nghiên cứu, đề tài này cần hướng tới
các nhiệm vụ sau:
Trình bày hệ thống kiến thức cơ bản về hai phong cách chức năng ngôn
ngữ: phong cách chức năng ngôn ngữ sinh hoạt và phong cách chức năng ngôn
ngữ nghệ thuật.
Trên cơ sở nắm vững những kiến thức đó vận dụng vào tổ chức dạy học
hai phong cách chức năng ngôn ngữ này theo chương trình SGK Ngữ văn 10
THPT.
6. PHương pháp nghiên cứu

Đối với bất kỳ công trình nghiên cứu nào, ở lĩnh vực nào, đối tượng
khám phá càng phức tạp, phong phú bao nhiêu thì càng có nhiều cách thức
tiếp cận bấy nhiêu. Phương pháp tiếp cận đúng đắn, phù hợp sẽ giúp người
nghiên cứu nhanh chóng chiếm lĩnh được đối tượng đạt hiệu quả tốt nhất.

Nguyễn Thị Thu Hiền


29G - Ngữ văn


Khoá luận tốt nghiệp

Thực hiện đề tài này, chúng tôi lựa chọn sử dụng những phương pháp nghiên
cứu cơ bản sau:
Phương pháp phân tích ngôn ngữ: Là phương pháp giúp chúng tôi phân
tích, xử lý các ngữ điệu để tìm ra đặc điểm cơ bản của vấn đề được nghiên
cứu.
Phương pháp so sánh đối chiếu để tìm ra sự giống và khác nhau trong
các phong cách ngôn ngữ.
Phương pháp thực nghiệm, Phương pháp điều tra khảo sát

Nguyễn Thị Thu Hiền

29G - Ngữ văn


Khoá luận tốt nghiệp

PHần 2 : Nội dung
Chương 1: Các phong cách chức năng ngôn ngữ
1.1. Khái niệm Phong cách chức năng ngôn ngữ
Phong cách ngôn ngữ là một trong những nội dung quan trọng trong
quá trình nghiên cứu phong cách học. Vì thế, hầu hết các nhà Phong cách học
đã không bỏ qua việc tìm ra quan niệm về phong cách chức năng ngôn ngữ.
Bởi lẽ, nó là cơ sở, là vấn đề cơ bản khi tìm hiểu về cách sử dụng ngôn ngữ
phù hợp, đạt chuẩn mực, tạo ra những lời nói hay, đẹp trong giao tiếp.

Phong cách chức năng ngôn ngữ vốn là một khái niệm vừa phong phú
vừa phức tạp. Ngay cùng một thời điểm nghiên cứu song mỗi nhà nghiên cứu
nhìn nhận nó theo những cách khác nhau. Tuy nhiên, để phục vụ cho việc tìm
hiểu cách tổ chức dạy học các phong cách chức năng ngôn ngữ trong chương
trình Ngữ văn 10 THPT, chúng tôi lựa chọn khái niệm của tác giả Cù Đình Tú.
Ông cho rằng: Phong cách chức năng là dạng tồn tại của ngôn ngữ dân tộc
biểu thị quy luật lựa chọn sử dụng các phương tiện biểu hiện tuỳ thuộc vào
tổng hợp các nhân tố ngoài ngôn ngữ như: hoàn cảnh giao tiếp, đề tài và mục
đích giao tiếp, đối tượng tham gia giao tiếp [13,45].
Có thể nói, khái niệm này không những chỉ rõ được đặc điểm nội dung
phong cách chức năng ngôn ngữ mà còn xác định rõ các nhân tố cấu thành của
phong cách chức năng ngôn ngữ và mối quan hệ giữa chúng.
1.2. Các phong cách chức năng ngôn ngữ
Trong lịch sử nghiên cứu các phong cách chức năng ngôn ngữ, cho đến
nay, các nhà Ngôn ngữ học hiện đại đã đưa ra rất nhiều loại phong cách chức
năng ngôn ngữ. Tiêu biểu phải kể đến các hướng phân chia sau:
Cùng một tác giả Đinh Trọng Lạc, nhưng ở thời kỳ khác nhau lại có
hướng phân loại phong cách chức năng ngôn ngữ khác nhau. Cụ thể, trong

Nguyễn Thị Thu Hiền

29G - Ngữ văn


Khoá luận tốt nghiệp

cuốn Giáo trình Việt ngữ. (Tập III). Tu từ học [6,285 298]. Theo tác giả:
phong cách chức năng tiếng Việt được chia thành hai bậc. Bậc một chia ra hai
phong cách lớn, là phong cách khẩu ngữ và phong cách văn học. Còn bậc hai
chia thành năm phong cách nhỏ: Phong cách văn học được chia ra: Phong

cách ngôn ngữ thư từ; Phong cách ngôn ngữ khoa học; Phong cách ngôn ngữ
hành chính; Phong cách ngôn ngữ chính luận; Phong cách ngôn ngữ nghệ
thuật. Trong cách phân loại này, chúng ta thấy rõ xu hướng muốn đồng nhất
phong cách chức năng với dạng lời nói.
Cũng tác giả Đinh Trọng Lạc, nhưng trong cuốn Phong cách học, [8,
66] lại đưa ra cách phân loại Phong cách tiếng Việt ra năm phong cách. Với
quan điểm này phong cách khẩu ngữ được Đinh Trọng Lạc đổi là phong cách
hội thoại, và phong cách ngôn ngữ nghệ thuật không được coi là phong cách
chức năng ngôn ngữ mà chỉ là kiểu chức năng ngôn ngữ. Vì vậy phong cách
chức năng tiếng Việt có năm phong cách: phong cách ngôn ngữ hội thoại;
phong cách ngôn ngữ hành chính; phong cách ngôn ngữ khoa học; phong cách
ngôn ngữ báo công vụ; phong cách ngôn ngữ chính luận.
Không đồng nhất quan điểm với Đinh Trọng Lạc, tác giả Cù Đình Tú
[13] (trong cuốn Tu từ học tiếng Việt hiện đại, ĐHSP Việt Bắc. 1975), lại
chia ngôn ngữ toàn dân thành: phong cách ngôn ngữ nghệ thuật, thực hiện
chức năng biểu hiện và phong cách ngôn ngữ trình bày thực hiện chức năng
trình bày. Phong cách ngôn ngữ trình bày lại được chia thành phong cách
ngôn ngữ khẩu ngữ tự do và phong cách ngôn ngữ gọt giũa (phong cách ngôn
ngữ gọt giũa bao gồm: Phong cách ngôn ngữ hành chính và phong cách ngôn
ngữ khoa học). Trong hướng phân chia này tác giả đã khi thì dựa vào chức
năng, khi thì dựa vào phạm vi giao tiếp để phân loại.
Nhìn chung với nhiều quan điểm phân chia khác nhau, nhưng hầu hết
các kiểu phân chia đều chỉ rõ được các chức năng và phạm vi sử dụng của
ngôn ngữ. Theo chúng tôi hiện nay trong SGK phổ thông có sự phối hợp giữa

Nguyễn Thị Thu Hiền

29G - Ngữ văn



Khoá luận tốt nghiệp

các quan niệm trên phân chia phong cách chức năng ngôn ngữ thành sáu kiểu:
Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt (Phong cách ngôn ngữ hội thoại); Phong cách
ngôn ngữ khoa học; Phong cách ngôn ngữ hành chính công vụ; Phong cách
ngôn ngữ báo; Phong cách ngôn ngữ chính luận và Phong cách ngôn ngữ nghệ
thuật là phù hợp và nó thể hiện rõ tính khoa học.
Tuy nhiên, do phạm vi của đề tài nên trong khóa luận này, chúng tôi tập
trung tìm hiểu trình bày hai phong cách chức năng ngôn ngữ: Phong cách
ngôn ngữ sinh hoạt và Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật .
1.3. Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt và Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật
1.3.1. Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt
1.3.1.1. Khái niệm Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt
Ngôn ngữ được coi là công cụ giao tiếp quan trọng nhất của con người.
Cũng vì vậy khi phân chia các phong cách chức năng ngôn ngữ, các nhà khoa
học đã không quên chức năng này. Bởi thế mà phong cách ngôn ngữ sinh hoạt
là phong cách luôn được các nhà nghiên cứu đề cập tới. Có thể nói, phong
cách ngôn ngữ sinh hoạt là phong cách ngôn ngữ được sử dụng rộng rãi và
phổ biến nhất. Để xem xét phong cách ngôn ngữ sinh hoạt, chúng ta xét ngữ
liệu dưới đây:
Câu chuyện tâm sự giữa đôi bạn thân tại công viên X.
- Cái Nhím xinh lắm mày ạ! Bố nó không cho nó đi đội thuỷ lợi đâu.
- Tại sao thế nhỉ?
- Biết đầu đấy. Con chim đẹp người ta muốn nhốt trong lồng thì sao?
Đoạn đối thoại trên đây thuộc phong cách ngôn ngữ sinh hoạt. Nó thuộc
phong cách ngôn ngữ sinh hoạt vì nó thể hiện một nội dung giao tiếp hàng
ngày, một nhu cầu sinh hoạt xã hội của con người. Ngôn ngữ của ngữ liệu
giàu sắc thái biểu cảm, cảm xúc. Đoạn hội thoại có một bối cảnh cụ thể là
công viên X. Ngôn ngữ thể hiện rõ phong cách ngôn ngữ sinh hoạt ở các
phương diện sau: dùng tiểu từ ạ biểu thị thái độ của người nói mày ạ ( bày


Nguyễn Thị Thu Hiền

29G - Ngữ văn


Khoá luận tốt nghiệp

tỏ sự thân mật), dùng đại từ chỉ định đấy làm tiểu từ tình thái trong câu nghi
vấn phủ định biết đâu đấy (nhấn mạnh sự phủ định). Dùng tiểu từ nhỉ để
tạo dạng câu nghi vấn tại sao thế nhỉ? (bày tỏ sự thân mật). Dùng tiểu từ
đâu (bày tỏ sự phân trần giải thích). Dùng danh từ chỉ loại cái, cái
Nhím(chỉ người con gái thân mật, gần gũi). Dùng ẩn dụ tu từ trong câu nghi
vấn khẳng định: con chim đẹp người ta muốn nhốt trong lồng thì sao?
(bày tỏ ý châm biến),
Như vậy, chúng ta có thể hiểu: Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt hàng
ngày là khuôn mẫu thích hợp để xây dựng lớp phát ngôn (văn bản) trong đó
thể hiện vai của người tham gia giao tiếp trong sinh hoạt hàng ngày. Nói cụ
thể hơn, đó là vai của người ông, người bà, bố, mẹ , con, anh chị em, đồng
nghiệp, bạn bè , và tất cả những ai với tư cách cá nhân có nhu cầu trao đổi
tư tưởng, tình cảm của mình với người khác.[7,22].
Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt hàng ngày được chia ra làm hai kiểu
nhỏ là phong cách sinh hoạt hàng ngày tự nhiên và phong cách sinh hoạt hàng
ngày văn hoá. Khác với ngôn ngữ sinh hoạt hằng ngày tự nhiên (tự nhiên,
thoải mái) ngôn ngữ sinh hoạt hằng ngày văn hoá, được trình bày do yêu cầu
xã hội có trình độ văn hoá cao, được dùng trong hoàn cảnh nghi thức, trong
tình thế vai bằng nhau và vai không bằng nhau của người tham gia giao
tiếp. Đối với kiểu ngôn ngữ sinh hoạt hàng ngày văn hoá người giao tiếp phải
tuân theo những quy tắc xã giao của xã hội. Vì vậy, ngôn ngữ sinh hoạt hàng
ngày văn hoá chủ yếu được dùng trong kiểu ngôn ngữ viết và nói nghệ thuật

(ví dụ: Lời chúc mừng năm mới của Chủ tịch nước).
Ngôn ngữ được sử dụng trong phong cách ngôn ngữ sinh hoạt tồn tại cả
hai dạng nói và viết trong đó dạng nói là chủ yếu. Tồn tại dưới dạng nói là
những lời trò chuyện, tâm sự, thăm hỏi, đánh giá tồn tại dưới dạng viết là
những dòng thư, tin nhắn, những dòng lưu niệm, nhật kí

Nguyễn Thị Thu Hiền

29G - Ngữ văn


Khoá luận tốt nghiệp

Cũng như những phong cách chức năng ngôn ngữ khác, phong cách
ngôn ngữ sinh hoạt cũng mang những chức năng riêng như: chức năng giao
tiếp lí trí (cụ thể là trao đổi thông tin, tình cảm), chức năng cảm xúc và chức
năng tạo tiếp (biểu hiện sự chú ý của người nói đến sự hiện diện của người thứ
hai). Khi xã hội ngày càng phát triển, con người ngày càng có nhiều nhu cầu
trao đổi với nhau về những vấn đề phức tạp, trừu tượng của xã hội, của cuộc
sống thì ngôn ngữ sinh hoạt ngày càng phát huy được sức mạnh của mình.
1.3.1.2. Đặc trưng của phong cách ngôn ngữ sinh hoạt
Muốn thực hiện được chức năng trao đổi cảm xúc giao tiếp trong
cuộc sống hàng ngày, phong cách ngôn ngữ sinh hoạt hàng ngày phải có được
những đặc trưng riêng của nó. Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt hàng ngày với
đặc điểm thiên về những chi tiết riêng, cụ thể, sinh động luôn hướng về việc
bộc lộ rõ rệt những tư tưởng tình cảm, thái độ của con người trong xã hội,
trong cuộc sống hàng ngày. Vì vậy, những lời nói chung chung, trừu tượng,
khô khan không thể coi là lời nói hay trong phong cách sinh hoạt. Vậy phong
cách ngôn ngữ sinh hoạt có những đặc trưng nào?
a) Tính cụ thể

Đây là đặc trưng nổi bật nhất của phong cách ngôn ngữ sinh hoạt. Phong
cách ngôn ngữ sinh hoạt không dùng những lối nói chung chung trừu tượng
mà ưa dùng những lối nói sinh động, cụ thể. Đó là lối nói giàu âm thanh, giàu
màu sắc mang dấu ấn rõ rệt của những tình huống giao tiếp hàng ngày để gây
ấn tượng. Nói cách khác đặc điểm nổi bật trong sử dụng từ ngữ của phong
cách ngôn ngữ sinh hoạt là ưa dùng những từ ngữ mang tính cụ thể, giàu hình
ảnh, và màu sắc cảm xúc. Đáng lẽ nói: đánh đau thì nói: xé xác, chẻ xác, lột
xác, thượng cẳng chân hạ cẳng tay, đánh sặc tiết,Hay một ví dụ khác:
nóng quá, bồ hôi mẹ bồ hôi con bò ra khắp người (Tô Hoài) (so với: nhiều
bồ hôi chảy ra khắp người). Cách nói và ví dụ của Tô Hoài đã chỉ rõ sự xuất

Nguyễn Thị Thu Hiền

29G - Ngữ văn


Khoá luận tốt nghiệp

hiện nhiều mồ hôi. Về câu, phong cách ngôn ngữ sinh hoạt sử dụng nhiều câu
hỏi, câu nói trực tiếp, cụ thể (ví dụ: Bác ăn cơm chưa?).
Nhờ có tính cụ thể mà việc giao tiếp trong sinh hoạt hằng ngày trở nên
dễ dàng, nhanh chóng ngay trong trường hợp đề cập đến những vấn đề trừu
tượng, những vấn đề tế nhị, khó nói,
Có thể nói, không trong phong cách ngôn ngữ nào mà số lượng các biệt
ngữ xã hội, những cách diễn đạt theo lối thời thượng lại xuất hiện và thay
thế nhau nhanh chóng như ở phong cách ngôn ngữ sinh hoạt. Ví dụ: Trong
những năm gần đây xuất hiện những lối nói có vẻ ngược đời kiểu như: hơi bị
đẹp, đẹp kinh khủng, đẹp dã man,
Như vậy, tính cụ thể của ngôn ngữ sinh hoạt là cơ sở tạo ra sự chính xác
về hoàn cảnh, về nhân vật giao tiếp, lời nói, từ ngữ, cách diễn dạt,

b) Tính cảm xúc
Bên cạnh tính cụ thể trong ngôn ngữ, ngôn ngữ trong sinh hoạt giao
tiếp hàng ngày còn có tính cảm xúc. Có thể nói, tính cảm xúc gắn chặt với
tính cụ thể. Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt trong đời sống được sử dụng vô
cùng cụ thể, sinh động, truyền đạt những tư tưởng, tình cảm hết sức phong phú
đa dạng của con người gắn với những tình huống giao tiếp cụ thể, muôn hình
muôn vẻ. Đó là, tình cảm, thái độ của người nói, người viết đối với đối tượng
được đề cập, với người nghe, người đọc. Chính thái độ và cảm xúc làm thành
nội dung biểu hiện, bổ sung của người nói giúp người nghe có thể hiểu nhanh
chóng, hiểu sâu sắc nội dung cơ bản và nhất là mục đích, ý nghĩa của lời nói.
Chính nó đem lại cho phong cách ngôn ngữ sinh hoạt sự ý nhị, duyên dáng,
sâu xa, hấp dẫn, thể hiện cách cảm, cách nghĩ của những con người cụ thể.
Chẳng hạn, một bà mẹ mắng con: Mày còn về đây làm gì? Sao không đi nữa
đi. Con với chả cái.
Tính cảm xúc của ngôn ngữ sinh hoạt còn được thể hiện qua việc sử
dụng nhiều ngữ khí từ với nhiều màu sắc tình cảm khác nhau để thực hiện

Nguyễn Thị Thu Hiền

29G - Ngữ văn


Khoá luận tốt nghiệp

chức năng tạo tiếp (đấy, nhỉ, nhé, nào, thôi,), ví dụ: Anh đi đâu đấy? (hỏi
người đang ở trước mặt), hoặc : Tôi chết mất thôi! (với ý than vãn). Mặt khác,
phong cách ngôn ngữ sinh hoạt sử dụng nhiều từ cảm thán biểu thị những sắc
thái, tình cảm, cảm xúc, thái độ khác nhau vốn làm thành nội dung biểu hiện
bổ sung ý nghĩa của lời nói. Nó mang lại cho phong cách này cái ý nhị, duyên
dáng, sâu xa, hấp dẫn. Ví dụ: A! Mẹ đã về kia rồi! (dùng khi reo mừng) để tạo

ra tính cảm xúc. Trong phong cách ngôn ngữ sinh hoạt từ láy giàu sắc thái cụ
thể, gợi hình, gợi cảm (loanh quanh, luẩn quẩn, hấp tấp, hớt hơ hớt hải,)
được sử dụng nhiều. Ví dụ: Đi đâu mà hớt hơ hớt hải thế?. Và để thể hiện tính
cảm xúc người nói sử dụng câu cảm thán (ví dụ: Ôi mừng quá!).
Như vậy, tính cảm xúc trong ngôn ngữ sinh hoạt là việc sử dụng từ ngữ,
âm thanh, cách diễn đạtgiàu sắc thái tình cảm để biểu thị thái độ tình cảm
của mỗi người khi giao tiếp.
c) Tính cá thể
Không chỉ có tính truyền cảm xúc của nhân vật trong giao tiếp, ngôn
ngữ trong phong cách ngôn ngữ sinh hoạt còn thể hiện đậm nét tính cá thể.
Tính cá thể của ngôn ngữ sinh hoạt thể hiện ở vẻ riêng của mỗi người khi trao
đổi, trò chuyện, tâm sự với người khác. Người này thường nói từ tốn, khoan
thai, nghiêm túc, chính xác, người kia hay nói hấp tấp, qua loa, đại khái,Xét
về khía cạnh này, lời ăn tiếng nói thể hiện nết người, thể hiện những suy nghĩ,
tâm lí, trạng thái cảm xúc, thái độ của các nhân vật giao tiếp. Ví dụ: có người
hay sử dụng cách nói ví von so sánh, để lời nói có hình ảnh gây ấn tượng.
Chẳng hạn: Trông nó như Thị Nở ấy. Hay nhiều người lại hay thích dùng
thành ngữ, tục ngữ, quán ngữ (Vẽ dường cho hươu chạy; Mượn gió bẻ măng;
Cá lớn nuốt cá bé,). Ta thấy ở một số địa phương có những cách nói biến
thể ngữ âm, từ địa phương ( không nói nhưng mà mà nói dưng mà, cái
chổi gọi là cái chủi, bảo nói là bẩu). Đó cũng là tính cá thể ở mỗi
địa phương.

Nguyễn Thị Thu Hiền

29G - Ngữ văn


Khoá luận tốt nghiệp


Trong phong cách ngôn ngữ sinh hoạt, lời nói đẹp là lời nói tự nhiên,
sinh động. Trong thực tế giao tiếp hàng ngày, không ai nói giống ai, mỗi
người có một đặc điểm riêng trong lời nói, trong cách diễn đạt. Những nét
riêng tinh tuý ấy dần trở thành cái tinh tuý của phong cách ngôn ngữ sinh
hoạt. Bởi vậy, các nhà văn thường dùng lời nói như một phương tiện để khắc
họa tính cách nhân vật. Chẳng hạn: lời Chí Phèo và lời Bá Kiến trong truyện
ngắn Chí Phèo (Nam Cao) thể hiện rõ tính cách, bản chất của mỗi nhân vật.
- Anh Chí ơi! Sao anh lại làm ra thế?
Chí Phèo lim dim mắt rên lên:
- Tao chỉ liều chết với bố con mày thôi. Nhưng tao mà chết có khối
thằng sạt nghiệp mà còn rũ tù chưa biết chừng.
Cụ Bá cười nhạt nhưng tiếng cười giòn lắm. Người ta bảo cụ chỉ hơn
người ta ở tiếng cười.
- Cái anh này mới hay!
Ba đặc trưng trên đây của phong cách ngôn ngữ sinh hoạt biểu hiện rõ
rệt trong đặc điểm ngôn ngữ của phong cách này. Sự biểu hiện này có những
mức độ khác nhau trong từng hoàn cảnh giao tiếp khác nhau.
1.3.2. Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật
1.3.2.1.Khái niệm Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật
Không giống như phong cách ngôn ngữ sinh hoạt, phong cách ngôn ngữ
nghệ thuật thường được sử dụng trong lĩnh vực nghệ thuật. Đó là, thứ ngôn
ngữ được nghệ sĩ gọt giũa, trau chuốt nhằm tạo nên những hình tượng nghệ
thuật. Để làm rõ phong cách ngôn ngữ nghệ thuật, ta xét ngữ liệu sau:
Trong bài thơ Tràng giang (Huy Cận) có đoạn:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.

Nguyễn Thị Thu Hiền


29G - Ngữ văn


Khoá luận tốt nghiệp

Nhà thơ Huy Cận cho biết, để có câu thơ cuối đoạn, tác giả đã trải qua
bảy lần lựa chọn, biến đổi và cuối cùng đã chọn:
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Đoạn thơ trên tác giả sử dụng nhiều biện pháp tu từ như đảo một cành
củi khô thành Củi một cành khô. Cùng với các biện pháp nghệ thuật tu từ
khác được sử dụng như nhân hoá sóng buồn, thuyền buồn, nước sầu,
củi lạc. Những điều trên cho ta thấy tác giả hết sức quan tâm tới cấu trúc nội
tại của đoạn thơ, làm cho đoạn thơ mang tính đa nghĩa, hàm súc: đoạn thơ
không chỉ nói về cảnh sắc thiên nhiên (có sóng gợn, có nước, có thuyền) mà
còn mang nặng nỗi buồn cô đơn vô định của thân phận con người giữa cuộc
đời trôi nổi.
Như vậy, Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật (ngôn ngữ văn chương, ngôn
ngữ văn học) là phong cách ngôn ngữ được dùng trong các văn bản thuộc lĩnh
vực văn chương (văn xuôi nghệ thuật, thơ, kịch).
Giữa phong cách ngôn ngữ nghệ thuật và phong cách ngôn ngữ phi
nghệ thuật có sự khác nhau ở những phương diện sau:
Thứ nhất là về hệ thống tín hiệu: Nếu ngôn ngữ phi nghệ thuật là hệ
thống tín hiệu đầu tiên mà con người sử dụng để vật chất hoá những ý nghĩ,
tình cảm của mình, tức là diễn đạt ý nghĩ, tình cảm này trong một hình thức
tri giác một cách cảm tính (từ ngữ, phát ngôn). Thì ngôn ngữ nghệ thuật lại
là mã phức tạp hơn. Đó là hệ thống tín hiệu thứ hai được cấu tạo nên từ hệ
thống tín hiệu thứ nhất. Nói như Đinh Trọng Lạc trong cuốn Về sự phân tích
ngôn ngữ: Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu thứ nhất của văn học, ngôn ngữ
là vật liệu xây dựng những hình tượng diễn đạt tư tưởng nghệ thuật (Tr4849). Mỗi yếu tố ngôn ngữ trong tác phẩm văn học là một phương tiện biểu

hiện, và nó nhất thiết phải tham gia vào việc bộc lộ nội dung tư tưởng nghệ
thuật của tác phẩm.

Nguyễn Thị Thu Hiền

29G - Ngữ văn


Khoá luận tốt nghiệp

Thứ hai là về chức năng: các ngôn ngữ phi nghệ thuật chủ yếu có chức
năng giao tiếp, những phẩm chất thẩm mĩ nếu có cũng chỉ đóng vai trò phụ
thuộc thứ yếu. Còn trong ngôn ngữ nghệ thuật thì chức năng thẩm mĩ xuất
hiện ở bình diện thứ nhất, ngoài ra nó còn có chức năng thông báo, chức năng
trao đổi và chức năng tác động.
Thứ ba là về tính hệ thống : Cả ngôn ngữ nghệ thuật và ngôn ngữ phi
nghệ thuật đều có tính hệ thống. Song tính hệ thống ở mỗi kiểu phong cách
ngôn ngữ lại khác nhau. Trong ngôn ngữ nghệ thuật, tính hệ thống thể hiện ở
chỗ chức năng thẩm mỹ với những thông số và thước đo gắn với phong cách
của mỗi cá nhân, của từng đặc trưng thể loại tác phẩm, của khuynh hướng
sáng tác. Còn phong cách chức năng của ngôn ngữ phi nghệ thuật dựa trên
tính hệ thống của cấu trúc bên trong ngôn ngữ. Tính hệ thống bị quy định bởi
cấu trúc của trạng thái hiện đại của ngôn ngữ, tính hệ thống gắn bó với sự khu
biệt của xã hội đối với ngôn ngữ.
Thứ tư là về bình diện nghĩa: Ngôn ngữ phi nghệ thuật chỉ có một bình
diện nghĩa. Ngôn ngữ nghệ thuật có hai bình diện nghĩa. Nó có khả năng một
mặt hướng vào hệ thống ngôn ngữ văn hoá với ý nghĩa của các từ, của các
hình thức ngữ pháp và mặt khác hướng vào hệ thống các hình tượng của các
tác phẩm nghệ thuật. Bởi sự phản ánh thế giới trong tác phẩm văn học đi đôi
với kết cấu nghệ thuật, cho nên từ đó nảy sinh thông tin đôi vừa về khách thể

được mô tả vừa về tác giả, về những đặc điểm trong cách cảm thụ thế giới,
trong thế giới quan của tác giả vốn được diễn đạt trong tác phẩm, trong những
hạ văn bản
Thứ năm là về có sự mặt của các loại phương tiện ngôn ngữ, ngôn ngữ
nghệ thuật hiểu theo một nghĩa nào đó là giàu hơn ngôn ngữ toàn dân. Nó là
sự biểu hiện đầy đủ nhất, nổi bật nhất của ngôn ngữ văn hoá và rộng hơn là
của ngôn ngữ toàn dân. Ngôn ngữ nghệ thuật trong phạm vi nhất định sử dụng

Nguyễn Thị Thu Hiền

29G - Ngữ văn


Khoá luận tốt nghiệp

cả những phương tiện ngôn ngữ ngoài ngôn ngữ văn hoá như những từ địa
phương, những từ lóng, những từ tục,
Thứ sáu là về vai trò trong ngôn ngữ dân tộc ngôn ngữ nghệ thuật
xứng đáng giữ vai trò trung tâm của ngôn ngữ dân tộc. Vai trò của nó trong sự
phát triển của ngôn ngữ dân tộc to lớn đến mức chính ngôn ngữ dân tộc luôn
luôn gắn với tên tuổi của các nhà văn lớn.
1.3.2.2. Đặc trưng của phong cách ngôn ngữ nghệ thuật
Như vậy, thông qua những sự khác biệt giữa ngôn ngữ nghệ thuật và
ngôn ngữ phi nghệ thuật, chúng ta có cơ sở để xác định những đặc trưng của
ngôn ngữ nghệ thuật.
Ngôn ngữ nghệ thuật là một mã phức tạp được cấu tạo nên từ hệ thống
tín hiệu thứ nhất (từ ngôn ngữ tự nhiên). Chức năng thẩm mỹ của ngôn ngữ
trong tác phẩm nghệ thuật được thể hiện ở chỗ tín hiệu ngôn ngữ trở thành
hình tượng nghệ thuật. Muốn thực hiện được chức năng thẩm mỹ, ngôn ngữ
nghệ thuật phải có những đặc trưng chung như tính cấu trúc, tính hình tượng,

tính cá thể hoá, tính cụ thể hoá.
a) Tính cấu trúc
Tính cấu trúc của ngôn ngữ nghệ thuật được thể hiện ở chỗ: Mỗi văn
bản nghệ thuật tự bản thân nó là thành tố hình thức ngôn ngữ diễn đạt chúng
không những phụ thuộc lẫn nhau mà còn phụ thuộc vào hệ thống chung. Biểu
hiện của tính cấu trúc trong ngôn ngữ nghệ thuật là tính chất theo đó Các yếu
tố ngôn ngữ trong tác phẩm phải gắn bó qua lại với nhau cùng thực hiện
nhiệm vụ chung, phải phù hợp với nhau để giải thích cho nhau nhằm đạt đến
tính nghệ thuật.
Tính cấu trúc trong tác phẩm nghệ thuật đòi hỏi phải liên kết tất cả các
phương tiện ngôn ngữ hết sức đa dạng tác phẩm thành một chỉnh thể lời nói
nghệ thuật. Cái phạm trù đó theo viện sĩ V.V.Vinôgôrađôp là phạm trù hình
tượng tác giả. Thuật ngữ hình tượng tác giả diễn đạt hai khái niệm gắn bó

Nguyễn Thị Thu Hiền

29G - Ngữ văn


Khoá luận tốt nghiệp

với nhau: thứ nhất đó là người sáng tạo ra thế giới nghệ thuật nhất định được
thể hiện trong tác phẩm. Thứ hai, đó là cấu trúc lời nói yếu tố vốn là trung
tâm tổ chức của tác phẩm nghệ thuật.
Như vậy, tính cấu trúc của ngôn ngữ nghệ thuật là thể hiện ở sự gắn bó
trong một hệ thống của các yếu tố trong ngôn ngữ.
b) Tính hình tượng.
Bên cạnh tính cấu trúc trong ngôn ngữ, ngôn ngữ nghệ thuật còn có tính
hình tượng. Tính hình tượng là đặc trưng cơ bản của phong cách ngôn ngữ
nghệ thuật. Trong ngôn ngữ học, đặc biệt là trong phong cách học, tính hình

tượng theo nghĩa rộng nhất có thể xác định là thuộc tính của lời nói thơ,
truyền đạt không chỉ thông tin logic mà còn cả thông tin được tri giác một
cách cảm tính nhờ hệ thống những hình tượng ngôn từ.
Ví dụ : từ vũng trong câu thơ của Nguyễn Đình Thi là như vậy:
Buổi chiều ứa máu
Ngổn ngang những vũng bom
Trong câu thơ trên, nhà thơ Nguyễn Định Thi viết làvũng bom chứ không
phải hố bom. Trong vũng có nét nghĩa thường trực nước mà từ hố
không nhất thiết phải có. Nét nghĩa này tạo sự cộng hưởng giữa từ vũng và
từ máu tạo ra sức tố cáo mạnh mẽ: những bom đạn Mỹ trút xuống làng quê
ta chính là những vũng máu.
Có thể nói bất kì một từ nào của ngôn ngữ phi nghệ thuật trong điều
kiện của một ngữ cảnh nhất định đều có thể chuyển thành một từ nghệ thuật
nếu thêm nét nghĩa bổ sung nào đó.
Ví dụ: Trong câu thơ của Nguyễn Đình Thi
Ôi những cánh đông quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều.

Nguyễn Thị Thu Hiền

29G - Ngữ văn


Khoá luận tốt nghiệp

Các từ ngữ chảy máu, đâm nát, bên cạnh các nghĩa đen nghĩa đầu tiên
còn mang nghĩa bổ sung xây dựng hình tượng văn học, phác hoạ hình tượng tổ
quốc Việt Nam thân thương bị kẻ thù tàn phá, huỷ diệt.
Tuy nhiên, không phải là mỗi từ của ngôn ngữ phi nghệ thuật xuất hiện
trong văn bản nghệ thuật đều bắt buộc được cải tạo thành từ thi ca. Trong văn

bản nghệ thuật bao giờ cũng có những yếu tố có giá trị nghệ thuật bên cạnh
những yếu tố không có giá trị nghệ thuật đó.
Như vậy, tính hình tượng của ngôn ngữ nghệ thuật được biểu hiện trước
hết ở từ. Hơn nữa, nó còn có trong những đơn vị lớn hơn của ngôn ngữ. Đó là
một thể thống nhất của tạo hình và biểu đạt. Hình tượng là một tín hiệu phức
tạp trong đó xuất hiện với tư cách là bình diện nội dung, có sự biểu đạt mới,
không bị rút gọn lại ở các biểu đạt trước đó.
Ngôn ngữ của tác phẩm nghệ thuật không phải là cái vỏ ngoài của hình
tượng mà là hình thức duy nhất trong đó hình tượng có thể tồn tại được. Trong
việc biểu đạt hình tượng nghệ thuật có hai loại đơn vị: đơn vị ngôn ngữ có sự
biến đổi nội dung khái niệm và đơn vị ngôn ngữ diễn đạt cái đặc trưng chung
được thực tại hoá trong ngữ cảnh. Sự biến đổi nội dung khái niệm và sự thực
tại hoá đặc trưng ngữ nghĩa chung là giai đoạn của một quá trình cải tiến chức
năng thẩm mỹ của các đơn vị ngôn ngữ trong tác phẩm nghệ thuật.
Như vậy, tính hình tượng của ngôn ngữ nghệ thuật không chỉ được thể
hiện qua từ ngữ, qua những phương tiện tu từ, qua biện pháp tu từ, qua ngữ
cảnh hay nói cách khác là qua hình thức ngôn từ mà, còn qua nội dung biểu
đạt của hình thức ngôn từ đó. Nói rộng hơn, tính hình tượng là tính có lí do
nghệ thuật của các tác phẩm
c) Tính cá thể hoá
Nói đến đặc trưng của ngôn ngữ nghệ thuật không thể không nói đến
tính cá thể hoá. Tính cá thể hoá của ngôn ngữ nghệ thuật được hiểu là dấu ấn
phong cách tác giả trong phong cách ngôn ngữ nghệ thuật. Dấu ấn phong cách

Nguyễn Thị Thu Hiền

29G - Ngữ văn


Khoá luận tốt nghiệp


tác giả là cái thuộc về bản chất, thuộc về điều kiện bắt buộc của ngôn ngữ
nghệ thuật. Dấu ấn tác giả không có trong ngôn ngữ phi nghệ thuật và cả trong
văn học dân gian truyền miệng. Dấu ấn phong cách tác giả chỉ có thể có trong
tác phẩm nghệ thuật với tư cách là một thể thống nhất của cấu trúc tu từ học,
trong đó gồm một hệ thống tu từ học hoàn chỉnh được liên kết lại bởi hình
tượng tác giả, bởi ý định thẩm mỹ, bởi chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Chẳng
hạn: Nam Cao là nhà văn được biết đến là cây bút hiện thực phê phán, các tác
phẩm của ông thể hiện một ngòi bút sắc lạnh, dửng dưng, nhưng bên trong là
một trái tim ấm nóng tràn đầy tình thương.
Tính cá thể hoá của ngôn ngữ tác phẩm nghệ thuật thể hiện tính cá thể
hoá của ngôn ngữ tác giả. Ngôn ngữ là chung nhưng sự vận dụng ngôn ngữ là
tuỳ thuộc vào cá nhân. Mỗi nhà văn do xu hướng, sở trường thị hiếu, tập quán,
tâm lí xã hội, cá tính mà hình thành giọng diệu riêng, cái vẻ riêng của ngôn
ngữ khi tác giả kể, dẫn chuyện hoặc nói về mình. Đối với nhà văn, cái giọng
nói riêng đó có giá trị quyết định. Nói như T.Sêkhôp nếu tác giả nào không
có lối nói riêng của mình thì người đó sẽ không bao giờ là nhà văn cả. Mỗi
tác giả lớn đều có một thứ ngôn ngữ riêng không thể lặp lại trong lịch sử văn
học. Chẳng hạn, chúng ta thấy Hồ Xuân Hương và Tú Xương đều là những
nhà thơ trào phúng của văn học Việt Nam nhưng mỗi nhà thơ lại có sở trường
riêng có giọng điệu riêng, nếu ngôn ngữ thơ Hồ Xuân Hương độc đáo, dị kì vì
biết khai thác những từ tượng thanh, tượng hình lắt léo, những cách nói lái,
chơi chữ tài tình thì thơ Tú Xương lại giản dị, hồn nhiên mà sắc cạnh vì biết
khai thác nghĩa đen, nghĩa chính xác nhất của ngôn ngữ sinh hoạt hàng ngày.
Tính cá thể của ngôn ngữ nghệ thuật còn thể hiện ở từng sự vật, từng
cảnh, từng nhân vật của tác phẩm. Trong tác phẩm vật, cảnh, người không
trùng nhau thì ngôn ngữ thể hiện chúng cũng không trùng nhau. Ví dụ trong
Truyện Kiều Nguyễn Du, đã miêu tả Thuý Kiều và Thuý Vân đều là những

Nguyễn Thị Thu Hiền


29G - Ngữ văn


Khoá luận tốt nghiệp

người con gái đẹp, nhưng nếu như vẻ đẹp của Thuý Vân được tác giả tả trực
tiếp, toàn diện khuôn mặt:
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang.
thì khi tả Thuý Kiều, tác giả chủ yếu tập trung vào đôi mắt :
Làn thu thuỷ nét xuân sơn.
Như vậy, Nguyễn Du đã cá thể hoá Thuý Kiều và Thuý Vân.
Như vậy, tính cá thể trong phong cách ngôn ngữ nghệ thuật chính là cái
độc đáo, đặc sắc không lặp lại, cái riêng của tất cả các yếu tố trong sáng tác,
lối nghĩ, ngữ pháp, kết cấu đoạn mạch, thủ pháp tu từ.
d) Ngôn ngữ nghệ thuật có một nét chung nhất, một thuộc tính rộng
nhất là sự cụ thể hoá nghệ thuật hình tượng mà ngôn ngữ phi nghệ thuật
không có nét này, thuộc tính này. Sự cụ thể hoá tác động đến trí tưởng tượng
của người đọc, kích thích người đọc. Tính cụ thể hoá ngôn ngữ nghệ thuật tạo
ra trước mắt người đọc bức tranh vô cùng phong phú, sinh động, các biến cố
hiện lên trong từng giai đoạn, từng vấn đề, từng trạng thái trong sự biến đổi
liên tục. Để làm rõ tính cụ thể hoá của phong cách ngôn ngữ nghệ thuật chúng
ta xét ngữ liệu dưới đây:
Xập xè én liệng lầu không
Có lan mặt đất rêu phong dấu giầy
Nguyễn Du
Trong câu thơ của Nguyễn Du, từ Xập xè vừa gợi ra hình ảnh thị giác
vừa gợi ra biểu tượng âm thanh, không chỉ miêu tả dáng bay của con chim và
tiếng lè xè của đôi cánh, còn gợi ra sự vắng lặng của ngôi nhà cũ trong tâm
trạng chơ vơ của chàng Kim. Như vậy, ta nói ngôn ngữ có tính cụ thể hoá.

Có thể nói, sự cụ thể hoá nghệ thuật là thuộc tính rộng lớn nhất của lời
nói nghệ thuật. Nó giải thích bản chất sự tác động của từ ngữ nghệ thuật đến
người đọc, giải thích đặc trưng của lời nói nghệ thuật như là đặc trưng của
hoạt động sáng tạo nghệ thuật.

Nguyễn Thị Thu Hiền

29G - Ngữ văn


Khoá luận tốt nghiệp

Sự cụ thể hoá nghệ thuật được thực hiện nhờ cách lựa chọn và tổ chức
phương tiện ngôn ngữ. Và sự cụ thể hoá nghệ thuật còn có thể đạt được bằng
một phương thức đặc biệt khác. Đó là Sự dẫn dắt bằng động từ, tức là cách
nhà văn gọi tên từng động tác cụ thể để tạo sự tưởng tượng của người đọc.
Ngoài ra sự cụ thể hoá ngôn ngữ nghệ thuật đến từng chi tiết tinh tế, chi li đến
từng đường nét tỉ mỉ, sinh động không chỉ hạn chế trong việc sử dụng từ ngữ,
kết cấu mà còn mở rộng ra hình thức độc thoại, đối thoại, các hình thức diễn
đạt, tường thuật, miêu tả, biện luận, trữ tình
Cũng như ba đặc trưng đầu tính cấu trúc, tính hình tượng và tính cá thể
hoá, tính cụ thể hoá là một đặc trưng chung của ngôn ngữ nghệ thuật. Bởi lẽ,
cụ thể hoá hình tượng là thuộc tính chung nhất, khái quát nhất, giải thích bản
chất sáng tạo của nghệ thuật ngôn từ, bản chất của sự tác động, bản chất sáng
tạo của nghệ thuật ngôn từ, bản chất của sự tác động thẩm mỹ của lời nói nghệ
thuật.
Tóm lại, phong cách ngôn ngữ nghệ thuật có bốn đặc trưng chung là
tính cấu trúc, tính hình tượng, tính cá thể hoá và tính cụ thể hoá hình tượng
nghệ thuật. Bốn đặc trưng cùng tồn tại, hỗ trợ làm phong phú cho ngôn ngữ
nghệ thuật. Nếu hiểu các khái niệm như trên đã trình bày thì có thể nói đây là

những đặc trưng phân biệt lời nói nghệ thuật với lời nói phi nghệ thuật.

Nguyễn Thị Thu Hiền

29G - Ngữ văn


×