Tải bản đầy đủ (.doc) (84 trang)

Nghiên cứu dạy học bài tập chương Mắt. Các dụng cụ quang vật lý 11 THPT, ban cơ bản theo lý thuyết phát triển bài tập vật lý

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (572.78 KB, 84 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
....................

NGUYỄN KIM TUYẾN

NGHIÊN CỨU DẠY HỌC BÀI TẬP CHƯƠNG
“MẮT. CÁC DỤNG CỤ QUANG” VẬT LÝ 11
THPT, BAN CƠ BẢN THEO LÝ THUYẾT PHÁT
TRIỂN BÀI TẬP VẬT LÝ

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Chuyên ngành: Lý luận và phương pháp dạy học Vật lý
Mã số: 60.14.01.11

CÁN BỘ HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS PHẠM THỊ PHÚ

Nghệ An, năm 2013

1


Lời cảm ơn

Trong quá trình hoàn thành luận văn, tác giả đã nhận được sự giúp đỡ tận
tình của các thầy cô, bạn bè, đồng nghiệp và người thân. Tác giả xin được gửi lời
cảm ơn chân thành tới những người đã giúp đỡ tác giả hoàn thành luận văn.
Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với cô PGS.TS. Phạm Thị Phú ,
người đã dành nhiều thời gian và tâm huyết hướng dẫn nghiên cứu, động viên và
giúp đỡ tác giả trong suốt thời gian nghiên cứu và hoàn thành luận văn.


Tác giả gửi lời cảm ơn sâu sắc đến tới các Thầy Cô công tác tại khoa Vật lí,
phòng Sau đại học trường Đại học Vinh;cảm ơn Ban Giám Hiệu và các giáo viên
trường THPT Vĩnh Lộc- Quận Bình Tân- Thành Phố Hồ Chí Minh đã tạo điều
kiện để tác giả thực phạm đề tài và hoàn thành khóa học.

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 8 năm 2013
Tác giả

Nguyễn Kim Tuyến

PHẦN MỞ ĐẦU
2


1
Lý do chọn đề tài…………………………………………………….
2
Mục tiêu nghiên cứu…………………………………………………
3
Đối tượng, phạm vi nghiên cứu…………………………………….
4
Giả thuyết khoa học…………………………………………………
5
Nhiệm vụ nghiên cứu………………………………………………..
6
Phương pháp nghiên cứu……………………………………………
7
Đóng góp của đề tài…………………………………………………..
8
Cấu trúc luận văn……………………………………………………

PHẦN NỘI DUNG
9

1
2
3
3
3
3
4
4

Chương 1: Cơ sở lý luận của việc dạy học bài tập theo lý thuyết
phát triển bài tập vật lý nhằm phát huy hiệu quả các chức năng

10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20

lý luận dạy của bài tập trong dạy học vật lý………………………
1.1. Chức năng lý luận dạy học của bài tập Vật lý……………………
1.1.1. Khái niệm bài tập……………………………………………

1.1.2. Chức năng của bài tập trong dạy học vật lý ……………………
1.1.3. Phân loại bài tập vật lý…………………………………………
1.1.4. Phương pháp học sinh giải bài tập vật lý……………………
1.1.5. Hướng dẫn học sinh giải bài tập vật lý ………………………..
1.1.6. Các hình thức dạy học bài tập vật lý…………………………
1.1.7. Lựa chọn bài tập trong dạy học vật lý……………………….
1.2. Lý thuyết phát triển bài tập vật lý…………………………………
1.2.1.Khái niệm phát triển bài tập vật lý……………………………
1.2.2.Phát triển bài tập vật lý………………………………………….
1.2.3. Phát triển bài tập trong dạy học bài tập vật lý…………………..
1.3. Phát triển bài tập với việc phát huy các chức năng lý luận dạy
học của bài tập vật lý………………………………………………….

5
5
5
6
8
10
12
13
17
18
18
18
21
22
22

21

22

1.3.1. Phát triển bài tập với chức năng giáo dưỡng……………………
1.3.2. Phát triển bài tập với chức năng phát triển tư duy học sinh và

23
24

giáo dục kỹ thuật tổng hợp…………………………………………….
1.3.3. Lý thuyết phát triển bài tập với chức năng giáo dục…………..
1.4. Sử dụng bài tập trong dạy học vật lý theo lý thuyết phát triển bài

22
23

tập……………………………………………………………………
1.4.1. Xây dựng bài tập cơ bản………………………………………
1.4.2. Xây dựng bài tập mới từ bài tập cơ bản theo mục tiêu đã chọn..
1.4.3. Hướng dẫn học sinh tự lực xây dựng bài tập mới……………..
1.4.4. Cấu trúc bài học bài tập Vật lý theo lý thuyết phát triển bài tập.
Kết luận chương 1 ……………………………………………………
Chương 2. Dạy học bài tập chương “Mắt. Các dụng cụ quang”
theo lý thuyết phát triển BTVL……………………………………

23
23
23
24
24
26


25
26
27
28
29
30
31

2.1. Vị trí, đặc điểm của chương “Mắt. Các dụng cụ quang” Vật lý 11
3

27


32
33
34
35
36
37
38
39
40

THPT………………………………………………………………….
2.1.1. Vị trí của chương “Mắt. Các dụng cụ quang”…………………..
2.1.2. Đặc điểm của chương “ Mắt. Các dụng cụ quang”……………..
2.2. Mục tiêu dạy học …………………………………… ………….
2.2.1. Mục tiêu theo chuẩn……………………………………………

2.2.2. Mục tiêu nâng cao theo định hướng nghiên cứu……………….
2.3. Nội dung dạy học chương “Mắt. Các dụng cụ quang”……………
2.3.1. Các đơn vị kiến thức cơ bản……………………………………
2.3.2. Cấu trúc logic của chương “Mắt. Các dụng cụ quang”………
2.4. Tìm hiểu thực trạng dạy học bài tập vật lý chương “Mắt. Các

27
27
28
29
29
29
29
29
31

dụng cụ quang ” ở một số trường THPT thuộc Thành Phố Hồ Chí
Minh…………………………………………………………………..
2.5. Xây dựng hệ thống bài tập vật lý chương “Mắt. Các dụng cụ

32

41

quang” theo lý thuyết phát triển bài tập nhằm phát huy chức năng lý

42
43
44
45


luận dạy học của bài tập vật lý ……………………………………
2.5.1. Xây dựng bài tập cơ bản……………………………………
2.5.2. Phát triển bài tập cơ bản 1 theo 5 phương án…………………
2.5.3. Phát triển bài tập cơ bản 2 theo 5 phương án………………
2.5.4. Phân tích bài tập tổng hợp theo lý thuyết phát triển bài tập vật

33
33
36
40
44

46


2.6. Sử dụng hệ thống bài tập chương “Mắt. Các dụng cụ quang”

45

47
48
49
52
53
54
55
56
57
58

59
60
61

theo lý thuyết phát triển bài tập vật lý ………………………………
2.6.1. Bài học luyện tập giải bài tập vật lý ………………………….
2.6.2. Bài học tự chọn luyện tập giải bài tập vật lý ………………….
2.6.3. Bài kiểm tra …………………………………………………….
Kết luận chương 2……………………………………………………..
Chương 3. Thực nghiệm sư phạm…………………………………..
3.1. Mục đích thực nghiệm sư phạm………………………………
3.2. Đối tượng thực nghiệm sư phạm ………………………………..
3.3. Nội dung thực nghiệm sư phạm
3.4. Kết quả thực nghiệm
Kết luận chương 3
Kết luận chung
Tài liệu tham khảo
Phần phụ lục

45
53
57
62
63
63
63
63
64
71
73

75
77

4


CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
THUẬT NGỮ
Bài tập

VIẾT TẮT
BT

Bài tập cơ bản

BTCB

Bài tập tổng hợp

BTTH

Bài tập vật lý

BTVL

Dạy học vật lý

DHVL

Giáo viên


GV

Học sinh

HS

Kiến thức cơ bản

KTCB

Trung học cơ sở

THCS

Trung học phổ thông

THPT

5


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong dạy học, bài tập là một phương tiện có tầm quan trọng đặc biệt trong
việc rèn luyện tư duy, bồi dưỡng phương pháp nghiên cứu khoa học cho học sinh.
Bài tập vật lý có thể được sử dụng như là phương tiện nghiên cứu tài liệu mới, bài
tập tạo ra tình huống có vấn đề để bước vào dạy bài học mới. Hay bài tập vật lý là
một phương tiện củng cố, ôn tập kiến thức một cách sinh động có hiệu quả. Bài tập
vật lý còn là một phương tiện rèn luyện kĩ năng, kỹ xảo, vận dụng lý thuyết vào

thực tiễn, rèn luyện thói quen vận dụng kiến thức khái quát. Thông qua giải bài tập
có thể rèn luyện cho học sinh những đức tính tốt và tác phong làm việc khoa học.
Không những thế, bài tập vật lý là một phương tiện để kiểm tra đánh giá kiến thức
kĩ năng của học sinh một cách chính xác.
Bài tập vật lý là phương tiện phương pháp dạy học truyền thống có tác dụng
tích cực trong việc thực hiện các chức năng giáo dưỡng, giáo dục, giáo dục kỹ
thuật tổng hợp và đặc biệt là chức năng phát triển tư duy học sinh. Chính vì vậy
trong thực tiễn nhiều khi dạy vật lý còn bị tuyệt đối hóa là dạy bài tập vật lý (trong
các kỳ luyện thi tốt nghiệp, đại học hay luyện đội tuyển học sinh giỏi).
Thông qua giải bài tập vật lý làm cho học sinh hiểu sâu sắc hơn những quy
luật vật lý, biết phân tích và ứng dụng chúng vào thực tiễn để dần hình thành khả
năng tư duy, năng lực giải quyết vấn đề của học sinh, phát triển tính tích cực, tự
học của học sinh từ đó rèn luyện ý chí và tinh thần vượt khó của các em.
Tuy nhiên, thực tế dạy học hiện nay, sách bài tập có rất nhiều loại, có khi
cùng một nội dung vật lý có đến hàng chục cuốn sách bài tập của nhiều tác giả làm
cho phụ huynh và học sinh hoang mang trước thực trạng này. Làm thế nào để có
thể học hết được các bài tập và bài tập vật lý đã khai thác hết các chức năng lý
luận dạy học của bài tập vật lý chưa hay chỉ tập trung vào việc phân dạng,cho câu
trắc nghiệm và giải ra đáp án?
Trong trường, giáo viên hầu như chủ yếu quan tâm sử dụng các bài tập định
lượng, xem nặng việc tính toán, giải các bài tập. Giáo viên dành nhiều thời gian
dạy cho học sinh nhiều dạng bài tập khác nhau và cách thức vận dụng các công
6


thức cho từng loại đó mà không xem trọng ý nghĩa của việc giải toán vật lý là làm
sáng tỏ bản chất vật lý của hiện tượng mô tả, liên hệ vào trong đời sống, kỹ thuật.
Kết quả của việc dạy đó là học sinh chỉ hiểu những bài tập, những lý thuyết mà
giáo viên dạy cho học sinh và khi gặp một bài toán hỏi theo kiểu hay dạng khác,
một câu hỏi mà giáo viên chưa nói với học sinh thì các em sẽ lúng túng không trả

lời hoặc không thể giải quyết được.
Việc giải bài tập Vật lý không chỉ nhằm mục đích giải toán, ra được đáp số, mà
nó còn rèn luyện cho học sinh khả năng vận dụng kiến thức, kĩ năng tính toán, suy
luận logic để giải quyết những vấn đề trong thực tế cuộc sống và kết quả thu được
sẽ là kinh nghiệm để xây dựng lòng tin ở các em. Trong quá trình dạy học bài tập
vật lý, vai trò tự học, tự tạo ra đường đi để đạt đến những kiến thức mới của học
sinh là rất cần thiết.
Lý thuyết phát triển bài tập vật lý là một phương thức chỉ ra được từ một bài
tập cơ bản phát triển thành các bài tập tổng hợp khác nhau theo nhiều phương án
khác nhau. Khắc phục được khó khăn của tình trạng loạn sách tham khảo về bài
tập vật lý như hiện nay. Đồng thời, biến học sinh từ chỗ thụ động giải bài tập do
giáo viên yêu cầu thành chủ động đặt bài tập để giải; đó là một cách cụ thể thực
hiện chiến lược dạy học tập trung vào người học.
Chương “Mắt. Các dụng cụ quang ”, lớp 11 THPT là một chương có nhiều
thuận lợi cho việc vận dụng lý thuyết phát triển bài tập vật lý vì nó là sự kế thừa,
tiếp nối phần quang học của chương trình THCS.
Từ đó, tôi chọn đề tài luận văn Thạc sĩ là “Nghiên cứu dạy học bài tập
chương “Mắt. Các dụng cụ quang”, lớp 11 THPT, ban cơ bản theo lý thuyết
phát triển bài tập vật lý ”.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu vận dụng lý thuyết phát triển bài tập vật lý dạy học bài tập chương
“Mắt. Các dụng cụ quang ” (Vật lý lớp 11, ban cơ bản) theo hướng khai thác có
hiệu quả các chức năng của bài tập trong dạy học vật lý ở trường phổ thông.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
7


3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Bài tập vật lý, lý thuyết phát triển bài tập vật lý

- Quá trình dạy học vật lý
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Chương “Mắt. Các dụng cụ quang” vật lí lớp 11 THPT ban cơ bản
4. Giả thuyết khoa học
Nếu xây dựng và sử dụng hệ thống bài tập chương “Mắt. Các dụng cụ quang”
theo lý thuyết phát triển bài tập vật lý trong dạy học nhằm phát huy hiệu quả các
chức năng lý luận dạy học của bài tập thì sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy học
chương
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1.Nghiên cứu lý luận dạy học bài tập vật lý ở trường phổ thông
5.2.Nghiên cứu, tìm hiểu lý thuyết phát triển bài tập vật lý
5.3.Tìm hiểu thực trạng dạy học bài tập vật lý ở một số trường THPT ở Thành
Phố Hồ Chí Minh
5.4.Tìm hiểu mục tiêu, nội dung dạy học chương “Mắt. Các dụng cụ quang”
5.5.Xây dựng hệ thống bài tập chương “Mắt. Các dụng cụ quang” theo lý thuyết
phát triển bài tập vật lý
5.6. Đề xuất các phương án dạy học sử dụng hệ thống bài tập vật lý theo lý thuyết
phát triển bài tập
5.7.Tiến hành thực nghiệm sư phạm
6. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết:
Nghiên cứu tài liệu
Thực nghiệm sư phạm kiểm tra giả thuyết khoa học của đề tài
-Phương pháp điều tra thực tiễn: quan sát, phỏng vấn, test điều tra
- Phương pháp thống kê toán học

7. Đóng góp của đề tài
Về lý luận
8



- Chứng minh tính khả thi và hiệu quả của lý thuyết phát triển bài tập trong dạy
học bài tập vật lý ở trường phổ thông.
- Xây dựng được quy trình vận dụng lý thuyết phát triển bài tập để thiết kế bài
tập và dạy bài tập nhằm phát huy hiệu quả các chức năng lý luận dạy học của bài
tập trong dạy học vật lý.
Về thực tiễn
- Điều tra được thực trạng dạy học Vật lý chương “ Mắt. Các dụng cụ quang ”
ở một số trường THPT ở Thành Phố Hồ Chí Minh
- Xây dựng được hệ thống gồm 2 bài tập cơ bản, 30 bài tập điển hình minh hoạ
dùng cho dạy học chương “Mắt. Các dụng cụ quang” vật lí lớp 11 ban cơ bản theo
lý thuyết phát triển bài tập Vật lý.
- Xây dựng 6 tiến trình dạy học gồm: 2 bài học bài tập vật lý ; 1 bài học tổng
kết chương; 1 bài học kiểm tra đánh giá; 1 bài học giải bài tập vật lý ở nhà của học
sinh; 1 bài học tự chọn học sinh khá giỏi theo lý thuyết phát triển bài tập phát huy
chức năng lý luận dạy học của bài tập vật lý
8. Cấu trúc luận văn
Mở đầu
Chương 1 : Dạy học bài tập theo lý thuyết phát triển bài tập vật lý nhằm phát
huy hiệu quả các chức năng lý luận dạy học của bài tập trong dạy học vật lý
Chương 2. Dạy học bài tập chương “Mắt. Các dụng cụ quang” theo lý thuyết
phát triển BTVL
Chương 3. Thực nghiệm sư phạm
Kết luận chung

CHƯƠNG 1. DẠY HỌC BÀI TẬP THEO LÝ THUYẾT PHÁT TRIỂN
BÀI TẬP VẬT LÝ
9



Phương pháp dạy học vật lý là một chuyên ngành của khoa học giáo dục, nó
nghiên cứu quá trình dạy học môn Vật lý. Ngày nay, bên cạnh người hướng dẫn là
GV, người HS với vai trò vừa là đối tượng, vừa là chủ thể của quá trình dạy học
nên việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tăng cường hoạt động tích cực
của học sinh phải được giáo viên quán triệt trong các hình thức dạy học khác nhau,
cho các nội dung dạy học khác nhau. Để thực hiện được điều này, GV phải nắm
được những đặc điểm, bản chất, quy luật vận động của quá trình dạy học, hiểu
được bản chất hoạt động nhận thức của HS trong học tập vật lí, các hành động
nhận thức phổ biến của HS trong học tập vật lý, các biện pháp tích cực hóa hoạt
động nhận thức của HS trong dạy học vật lý. Các nội dung này đã được khoa học
chuyên ngành lý luận và phương pháp dạy học vật lý nghiên cứu và trình bày
trong các giáo trình về lý luận dạy học vật lý. Trong dạy học vật lý, phương tiện,
phương pháp dạy học đặc thù là bài tập vật lý; khoa học lý luận và phương pháp
dạy học vật lý đã tổng kết và nêu ra các cơ sở lý luận về DH BTVL.
Dưới đây trình bày các nội dung cốt lõi là cơ sở lý luận của dạy học bài tập Vật
lý mà mỗi GV Vật lý đều quán triệt trong hoạt động dạy học.
1.1. Chức năng lý luận dạy học của bài tập vật lý
1.1.1.Khái niệm bài tập
BTVL được hiểu là một vấn đề đặt ra đòi hỏi phải giải quyết nhờ những suy
luận logic, những phép toán và thí nghiệm trên cơ sở định luật và các phương
pháp vật lý hay đôi khi là câu hỏi yêu cầu mà người học huy động kiến thức và kỹ
năng đã có về Vật lý, sự nổ lực của tư duy để giải quyết[14;43].
Bài tập là một phương tiện có tầm quan trọng đặc biệt trong việc rèn luyện tư
duy, bồi dưỡng phương pháp nghiên cứu khoa học cho học sinh. Trong dạy học
môn Vật lý, bài tập là phương tiện giáo dưỡng có hiệu quả đặc biệt. Bài tập được
sử dụng trong tất cả các giai đoạn của quá trình dạy học, nhất là giai đoạn củng
cố, vận dụng, khắc sâu, mở rộng kiến thức. Sau đây phân tích kỹ các chức năng
của bài tập trong DHVL.

1.1.2. Chức năng của bài tập trong dạy học vật lý

Bài tập Vật lý là phương tiện, phương pháp dạy học đặc thù, đặc biệt quan
trọng của môn Vật lý ở mọi bậc học, cấp học. BTVL phát huy các chức năng giáo
10


dưỡng, phát triển tư duy và năng lực sáng tạo, giáo dục nhân cách, đạo đức HS và
giáo dục kỹ thuật tổng hợp. BTVL được sử dụng hiệu quả trong tất cả các yếu tố
cấu trúc của quá trình dạy học từ tạo tình huống có vấn đề, xây dựng biểu thức
mới, vận dụng kiến thức cho đến ôn tập, tổng kết hệ thống hóa kiến thức, kiểm tra
đánh giá kiến thức, kỹ năng cho HS. Sau đây phân tích chi tiết các chức năng của
BTVL.
BTVL có thể là phương tiện nghiên cứu tài liệu mới, hay là phương tiện ôn
tập, đào sâu, củng cố và mở rộng kiến thức mới,... BTVL giúp cho HS thấy được
những ứng dụng muôn hình, muôn vẻ trong thực tiễn của các kiến thức đã học. Và
sản phẩm của hoạt động học của HS là những biến đổi của chính bản thân chủ thể
trong quá trình thực hiện hoạt động. Những tri thức, kỹ năng, kinh nghiệm mà
người học tái tạo lại không có gì mới đối với nhân loại, nhưng những biến đổi
trong bản thân người học, sự hình thành phẩm chất và năng lực ở người học thực
sự là những thành tựu mới, chúng sẽ giúp cho người học sau này sáng tạo ra được
những giá trị mới và thông qua hoạt động tái tạo kiến thức đó mà HS trưởng thành
lên.
Bài tập giúp cho việc ôn tập đào sâu, mở rộng kiến thức. Trong giai đoạn xây
dựng kiến thức, HS đã nắm được cái chung, cái khái quát của các khái niệm, định
luật và cũng là cái trừu tượng. Trong các bài tập, HS phải sử dụng các kiến thức
khái quát, trừu tượng đó vào những trường hợp cụ thể rất đa dạng, nhờ thế mà Hs
nắm được những biểu hiện cụ thể của chúng trong thực tế, phát hiện ngày càng
nhiều những hiện tượng thuộc ngoại diên của các khái niệm hoặc chịu sự chi phối
của các định luật hay thuộc phạm vi ứng dụng của chúng. Quá trình nhận thức các
khái niệm, định luật vật lý không kết thúc ở việc xây dựng nội hàm của các khái
niệm, định luật vật lý mà còn tiếp tục ở giai đoạn ứng dụng vào thực tế. Ngoài

những ứng dụng quan trọng trong kỹ thuật, BTVL sẽ giúp HS thấy được những
ứng dụng muôn hình, muôn vẻ trong thực tiễn của các kiến thức đã học.
Vật lý học không chỉ tồn tại trong óc chúng ta dưới dạng mô hình trừu tượng do
ta nghĩ ra, mà là sự phản ánh vào trong óc chúng ta thực tế phong phú, sinh động.
Tuy nhiên, các khái niệm, định luật vật lý thì rất đơn giản, còn biểu hiện thực tế
của nó thì rất phức tạp, vì các sự vật, hiện tượng có thể bị chi phối bởi nhiều định
11


luật, nhiều nguyên nhân đồng thời hay liên tiếp chồng chéo lên nhau. BT sẽ giúp
cho HS phân tích để nhận biết được những trường hợp đặc biệt đó.
BTVL là phương tiện củng cố, ôn tập kiến thức sinh động. Khi giải BT, HS
phải nhớ lại các kiến thức đã học, có khi phải sử dụng tổng hợp những kiến thức
thuộc nhiều chương, nhiều phần của chương trình.
BT có thể là điểm khởi đầu để dẫn dắt đến kiến thức mới. Bậc THPT, với trình
độ toán học đã khá phát triển, nhiều khi các bài tập được sử dụng khéo léo có thể
dẫn HS đến những suy nghĩ về một hiện tượng mới hoặc xây dựng một khái niệm
mới để giải thích hiện tượng do bài tập phát hiện ra.
Giải BTVL rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo vận dụng lý thuyết vào thực tiễn, rèn
luyện thói quen vận dụng kiến thức khái quát. BTVL là một trong những phương
tiện rất quý báu để rèn luyện kỹ năng, ky xảo vận dụng lý thuyết vào thực tiễn, rèn
luyện thói quen vận dụng kiến thức khái quát đã thu nhận được để giải quyết các
vấn đề của thực tiễn. Có thể xây dựng rất nhiều bài tập có nội dung thực tiễn, trong
đó yêu cầu HS phải vận dụng kiến thức lý thuyết để giải thích các hiện tượng thực
tiễn hoặc dự đoán các hiện tượng có thể xảy ra trong thực tiễn ở những điều kiện
cho trước.
Giải BT là một trong những hình thức làm việc tự lực cao của HS. Khi làm BT,
do phải tự mình phân tích các điều kiện của đầu bài, tự xây dựng những lập luận,
kiểm tra và phê phán những kết luận mà HS rút ra được nên tư duy HS được phát
triển, năng lực làm việc tự lực của Hs được nâng cao, tính kiên trì được phát triển.

Việc rèn luyện cho HS giải BTVL không phải là mục đích của dạy học. Mục đích
cơ bản đặt ra khi giải BTVL là làm sao cho HS hiểu sâu sắc hơn những quy luật
vật lý, biết phân tích và ứng dụng chúng vào những vấn đề thực tiễn, vào tính toán
kỹ thuật và cuối cùng phát triển được năng lực tư duy, năng lực giải quyết vấn đề.
Giải BTVL góp phần làm phát triển tư duy sáng tạo của HS. Có nhiều BTVL
không chỉ dừng lại trong phạm vi vận dụng những kiến thức đã học mà còn giúp
bồi dưỡng cho HS tư duy sáng tạo. Đặc biệt là các BT giải thích hiện tượng, BT
thí nghiệm, BT thiết kế dụng cụ.

12


Giải BTVL để kiểm tra mức độ nắm vững kiến thức của HS. Tùy theo cách đặt
câu hỏi kiểm tra, ta có thể phân loại được các mức độ nắm vững kiến thức của HS,
khiến cho việc đánh giá chất lượng kiến thức của HS được chính xác[12;337-339]
1.1.3. Phân loại bài tập vật lý
Có nhiều cách phân loại BTVL. Nếu dựa vào các phương tiện giải, có thể
chia BTVL thành BT định tính, BT tính toán, BT thí nghiệm, BT đồ thị. Nếu dựa
vào mức độ khó khăn của BT đối với HS, có thể chia BTVL thành BT tập dượt,
BT tổng hợp, BT sáng tạo.
1.1.3.1. Bài tập định tính
Bài tập định tính là những bài tập khi giải, HS không cần thực hiện
những phép tính phức tạp hay chỉ phải làm những phép tính đơn giản, có thể tính
nhẩm được. Muốn giải các bài tập định tính, HS phải thực hiện những phép suy
luận logic, do đó phải hiểu rõ bản chất ( nội hàm) của các khái niệm, định luật vật
lý và nhận biết được những biểu hiện của chúng trong những trường hợp cụ thể.
Đa số các bài tập định tính yêu cầu HS giải thích hoặc dự đoán một hiện tượng xảy
ra trong những điều kiện xác định.[12;341]
Bài tập định tính có rất nhiều ưu điểm về phương pháp học. Đưa lý thuyết
vừa học lại gần với đời sống, thực tiễn xung quanh, các bài tập định tính làm tăng

thêm ở HS hứng thú môn học, tạo điều kiện phát triển óc quan sát của HS. Cho HS
suy luận phát triển ngôn ngữ vật lý. Phương pháp giải những bài tập định tính bao
gồm việc xây dựng suy lí logic dựa trên những định luật vật lý nên bài tập định
tính là phương tiện rất tốt để phát triển tư duy logic của HS. Qua đó, HS hiểu được
bản chất của các hiện tượng vật lý và những quy luật của chúng, dạy cho HS biết
áp dụng kiến thức vào thực tiễn. Với những ưu điểm nổi bật đó, bài tập định tính
được sử dụng ưu tiên hàng đầu sau khi học xong lý thuyết, trong khi luyện tập, ôn
tập vật lý để giải thích hiện tượng hay dự đoán hiện tượng.
Bài tập định tính có thể là BT đơn giản, trong đó chỉ áp dụng một định luật, một
quy tắc, một phép suy luận logic. Rất nhiều BT định tính có thể sử dụng một hình
vẽ đơn giản[12;341]
Một số BT định tính có thể chuyển thành một dạng của BT thí nghiệm, vì ta có
thể yêu cầu HS dùng thí nghiệm để kiểm tra sự đúng đắn của lời giải thu được
bằng con đường suy luận logic.
1.1.3.2. Bài tập tính toán

13


Bài tập tính toán là những bài tập muốn giải chúng, ta phải thực hiện
một loạt phép tính và kết quả thu được là đáp số định lượng, tìm giá trị một số đại
lượng vật lý.[12;342]
Bài tập tính toán có hai loại: Bài tập tính toán tập dượt và bài tập tính toán
tổng hợp.
Bài tập tính toán tập dượt là những bài tập cơ bản, đơn giản, trong đó chỉ đề
cập đến một hiện tượng, một định luật và sử dụng một vài phép toán đơn giản.
Loại bài tập này có tác dụng củng cố kiến thức vừa học, giúp HS hiểu rõ ý nghĩa
định luật và công thức biểu diễn, sử dụng các đơn vị vật lý tương ứng, tạo thói
quen cần thiết để giải bài tập phức tạp.
Bài tập tính toán tổng hợp là loại bài tập muốn giải nó thì phải vận dụng

nhiều khái niệm, định luật, nhiều công thức. Kiến thức tích hợp nhiều nội dung
kiến thức trong một chương, một phần hay các phần của tài liệu vật lý. Thông qua
loại bài tập này, HS có thể mở rộng, đào sâu kiến thức, thấy được mối liên hệ giữa
các kiến thức vật lý với nhau. Từ đó, HS có thể phân tích các hiện tượng phức tạp
ra thành những phần đơn giản hơn, tuân theo một định luật xác định[12;343].
Bài tập tính toán tổng hợp thực chất cũng nhằm mục đích làm sáng tỏ nội dung
vật lý của các định luật, quy tắc biểu hiện dưới dạng công thức. Khi giải BT này,
HS thường không chú ý đến ý nghĩa vật lý mà chỉ áp dụng máy móc các công
thức. Bởi vậy, GV cần lưu ý Hs làm nổi bật yếu tố định tính của BT này trước khi
đi vào lựa chọn các công thức và thực hiện các phép toán[12;344].
1.1.3.3. Bài tập thí nghiệm
Bài tập thí nghiệm là loại bài tập yêu cầu xác định một đại lượng vật lý,
cho biết dụng cụ và vật liệu để sử dụng, yêu cầu học sinh giải bài tập hoàn toàn
theo con đường thực nghiệm hoặc là bài tập đòi hỏi phải làm thí nghiệm để kiểm
chứng lời giải lý thuyết.[12;344]
Bài tập thí nghiệm là bài tập đòi hỏi phải làm nhiều thí nghiệm để kiểm
chứng lời giải giả thuyết hay tìm những số liệu cần thiết cho việc giải bài tập.
Những thí nghiệm này thường là những thí nghiệm đơn giản, có thể làm ở nhà, với
những dụng cụ đơn giản dễ tìm hoặc tự làm được. Để giải các bài tập thí nghiệm
có thể có dạng định tính và định lượng.
Bài tập thí nghiệm có tác dụng tốt cả về mặt giáo dưỡng, giáo dục và giáo dục
kỹ thuật tổng hợp, đặc biệt làm sáng tỏ mối quan hệ giữa lý thuyết và thực tiễn.

14


Cần lưu ý trong các bài tập thí nghiệm thường không giải thích tại sao hiện
tượng lại xảy ra như thế nên phần vận dụng các định luật vật lý để giải các hiện
tượng mới là nội dung chính của bài tập thí nghiệm[12;345].
1.1.3.4. Bài tập đồ thị

Bài tập đồ thị là bài tập trong đó các số liệu được dùng làm dữ kiện để
giải tìm các đồ thị cho trước hay ngược lại, đòi hỏi HS phải biểu diễn quá trình
diễn biến của hiện tượng nêu trong bài tập bằng đồ thị.
Đồ thị là hình thức để biểu đại mối quan hệ giữa hai đại lượng vật lý,
tương đương với cách biểu đạt bằng công thức hay bằng lời. Nhiều khi nhờ vẽ
được chính xác đồ thị biểu diễn các số liệu thực nghiệm mà ta có thể tìm được
định luật vật lý mới. Vì thế, các BT luyện tập sử dụng đồ thị hoặc xây dựng đồ thị
có vị trí ngày càng quan trọng trong dạy học vật lý[12;345].
1.1.4. Phương pháp giải bài tập vật lý
Theo tác giả Paul Zitzewitz và Robert Neff thì chiến lược tổng quát giải một
bài toán vật lý có 6 bước sau:
Bước 1: Diễn đạt thành lời bài toán
Diễn đạt tóm tắt thông tin của bài toán và tự tin giải được bài toán đó.
Bước 2: Định rõ tính chất của bài toán: Xác định thông tin của bài toán: cái
gì biết, cái gì chưa biết, cái gì cần biết để giải toán.
Bước 3: Khám phá
HS suy nghĩ tìm chiến lược tổ chức thông tin đã cho và tìm cho được cái cần
biết. Muốn thực hiện được điều này, HS phải học cách đối chiếu các thông tin đã
cho và các thông tin đề yêu cầu tìm để đạt được lời giải của bài toán. Qua đó, HS
phải học cách vận dụng chúng dần trong từng bước vào giải toán vật lý để nắm
vững nội dung khoa học vật lý cũng như các phương pháp nghiên cứu vật lý học
để có thể sử dụng một cách thành thạo và sáng tạo tri thức vật lý trong cuộc sống
lao động sau khi rời ghế nhà trường.
Bước 4: Kế hoạch
Giai đoạn này HS phải lựa chọn một hay nhiều chiến lược và lập các bước
hoặc các bước phụ cho kế hoạch hành động dự kiến giải bài toán.
Bước 5: Thực thi kế hoạch
Đây là bước quan trọng về chất lượng của việc giải toán. Ở đây, HS có thể
kiểm tra cách thức vận dụng kiến thức, phát hiện sai lầm trong việc giải toán. Bên
cạnh đó, HS còn được rèn kỹ năng tính toán cụ thể, chính xác bao gồm kỹ năng

ước lượng các kết quả của các phép tính và phương pháp tính toán gần đúng.
15


Với kế hoạch giải bài tập đồ thị, bài tập thí nghiệm,….thì kỹ năng thực
nghiệm, thực hành có vai trò quan trọng trong việc thực thi kế hoạch.
Bước 6: Đánh giá việc tính toán
Bước này HS khẳng định điều đã làm được và nêu được tại sao giải được bài
toán hoặc tại sao không giải được, bài toán trong điều kiện, môi trường khác, hệ
quy chiếu khác sẽ thế nào? (biện luận về giải toán).
Nhìn chung, các bài tập vật lí có nội dung rất phong phú, đa dạng. Vì vậy,
phương pháp giải cũng muôn hình, muôn vẻ. Có thể khái quát hóa bốn bước chung
giải BTVL sau đây để vận dụng trong hướng dẫn HS giải BTVL. Cụ thể:
a) Bước thứ nhất. Tìm hiểu đề bài
-

Đọc, tóm tắt các dữ kiện đề cho và các cái phải tìm.

-

Mô tả lại tình huống được nêu trong bài tập, vẽ hình minh họa.

b) Bước thứ hai. Xác lập mối liên hệ của các dữ kiện đề cho với cái phải tìm.
- Đối chiếu các dữ kiện đề cho và cái phải tìm, xem xét bản chất vật lí của tình
huống đã cho để nhận ra các định luật, công thức lí thuyết có liên quan.
- Xác lập các mối liên hệ cụ thể giữa chúng.
- Lựa chọn các mối liên hệ cơ bản, cho thấy sự liên hệ của cái cần tìm với các
dữ kiện đề cho và từ đó có thể rút ra cái phải tìm.
c) Bước thứ ba. Xây dựng lập luận, tính toán tìm ẩn số.
Từ các mối liên hệ đã xác lập, tính toán rút ra kết quả cần tìm.

d) Bước thứ tư. Kiểm tra kết quả, biện luận, trả lời.
Để có thể xác nhận kết quả vừa tìm được cần kiểm tra lại việc giải theo một
hoặc một số cách sau đây:
- Kiểm tra xem đã trả lời hết các câu hỏi chưa, đã xem xét hết các trường hợp
chưa.
-

Kiểm tra thứ nguyên xem có phù hợp không

-

Kiểm tra lại tính chính xác của việc tính toán

-

Xem kết quả về ý nghĩa thực tế có phù hợp không

-

Kiểm tra bằng thực nghiệm xem có phù hợp không

-

Giải bài tập theo cách khác có thể cho cùng kết quả không

Cần chú ý việc dạy cho HS giải BTVL là một công việc khó khăn và ở đó bộc
lộ rõ nhất trình độ của người GV vật lý trong việc hướng dẫn hoạt động trí tuệ của
HS. Trong việc giải BTVL, GV phải dạy cho HS biết vận dụng kiến thức để giải
quyết vấn đề đặt ra, phải rèn luyện cho HS kĩ năng giải những loại bài tập cơ bản
16



thuộc những phần khác nhau của giáo trình vật lý phổ thông. Mặt khác, GV phải
đặc biệt coi trọng việc rèn luyện tư duy và bảo đảm tính độc lập của HS, việc giải
bài tập không chỉ giúp cho HS củng cố kiến thức, luyện tập áp dụng những định
luật đã học mà quan trọng hơn còn là hình thành chính phong cách nghiên cứu của
hoạt động trí tuệ, phương pháp tiếp cận các hiện tượng nghiên cứu.
1.1.5. Hướng dẫn HS giải bài tập vật lý
Để phát huy các chức năng lý luận dạy học của BTVL, GV cần quán triệt
phương châm: Dạy học BTVL không phải là chữa BT mà là hướng dẫn Hs giải
BT. GV không làm thay những gì mà HS có thể làm. Hướng dẫn HS giải BT cần
lựa chọn một trong ba kiểu hướng dẫn sau tùy thuộc vào mục đích của hoạt động
giải BT của HS[16]
1.1.5.1. Hướng dẫn giải theo mẫu (hướng dẫn Algorit)
Sự hướng dẫn hành động theo mẫu được gọi là hướng dẫn Algorit. Hướng
dẫn này được dùng với ý nghĩa là một quy tắc hành động hay một chương trình
hành động được xác định một cách rõ ràng, chính xác và chặt chẽ. Chỉ cần thực
hiện theo trình tự mà quy tắc đã chỉ ra thì chắc chắn sẽ đến kết quả.
Hướng dẫn Algorit chỉ rõ cho HS những hành động cụ thể cần thực hiện,
trình tự thực hiện các hành động để đạt kết quả mong muốn. Đây là hành động sơ
cấp phải được HS hiểu và nắm vững.
Kiểu hướng dẫn này không đòi hỏi HS tự tìm tòi xác định các hành động để
giải quyết vấn đề đặt ra mà chỉ đòi hỏi HS chấp hành các hành động mà GV đã chỉ
ra. Để thực hiện được điều này, GV phải phân tích một cách khoa học trình tự giải
bài toán chính xác, chặt chẽ.
Kiểu hướng dẫn Algorit được sử dụng cho từng loại bài toán cơ bản, điển hình
và luyện tập cho HS kỹ năng giải các bài toán đó.
Tuy nhiên, kiểu hướng dẫn này ít có tác dụng rèn luyện cho HS khả năng tìm
tòi, sáng tạo và sự phát triển tư duy bị hạn chế.


1.1.5.2. Hướng dẫn tìm tòi (orixtic)
Đây là kiểu hướng dẫn mang tính chất gợi ý cho HS suy nghĩ, tìm tòi, phát
hiện cách giải quyết vấn đề. GV gợi mở để HS tự tìm cách giải quyết, tự xác định
các hành động cần thiết để đạt kết quả.
Ưu điểm của kiểu hướng dẫn này là tránh được tình trạng GV làm thay cho
HS. Tuy nhiên, vì kiểu hướng dẫn này đòi hỏi HS phải tự lực tìm cách giải quyết
17


bài toán, không chấp hành theo một mẫu nhất định đã chỉ ra nên không phải bao
giờ HS cũng giải được bài toán một cách chắc chắn. Theo kiểu này thì gặp khó
khăn ở chỗ GV phải làm sao không đưa HS đến chỗ thừa, chỉ định hướng cho HS
suy nghĩ vào phạm vi tìm tòi.
1.1.5.3. Định hướng khái quát chương trình hóa
Đây là sự hướng dẫn HS tư tìm cách giải quyết vấn đề. Điều đặc trưng của
kiểu hướng dẫn này là GV hướng dẫn hoạt động tư duy của HS theo đường lối
khái quát. Trong trường hợp HS không thể tìm ra hướng giải quyết vấn đề thì GV
giúp đỡ bằng sự định hướng khái quát ban đầu, GV gợi ý cho HS để có thể thu hẹp
phạm vi tìm tòi, giải quyết cho vừa sức đối với HS. Nếu HS vẫn không đủ khả
năng tự lực tìm tòi giải quyết thì GV có thể hướng dẫn để các em hoàn thành được
yêu cầu của một bước, sau đó yêu cầu HS tự lực tìm và giải quyết các bước tiếp
theo. Trong quá trình thực hiện, nếu HS gặp khó khăn thì GV giúp đỡ đến khi giải
quyết xong vấn đề đặt ra.
Kiểu hướng dẫn này được áp dụng khi có điều kiện hướng dẫn tiến trình giải
toán của HS, nhằm giúp các em tự lực giải bài toán đã cho, đồng thời dạy cho HS
cách suy nghĩ trong quá trình giải toán.
Ưu điểm của kiểu hướng dẫn này là rèn luyện tư duy cho HS trong quá trình
giải toán, GV theo sát tiến trình hoạt động giải toán của HS và có sự điều chỉnh
thích hợp với từng đối tượng HS để đảm bảo cho từng HS giải được bài toán đã
cho.

1.1.6. Các hình thức dạy học BTVL
Theo tác giả Phạm Thị Phú, BTVL có thể được sử dụng trong tất cả các loại
bài học vật lý. Mỗi loại bài học vật lý, BTVL có chức năng nhiệm vụ riêng, do đó
loại BTVL được huy động cũng cần phải được lựa chọn sao cho phát huy được
chức năng tương ứng. Sau đây là nội dung chi tiết.
a. BTVL trong bài học xây dựng kiến thức mới. Trong bài học xây dựng kiến
thức mới, nhiệm vụ chủ yếu là xây dựng kiến thức mới nhưng như thế không có
nghĩa là BTVL không được sử dụng; ngược lại BTVL là cần thiết trong các giai
đoạn:
- Củng cố kiến thức xuất phát, tạo tình huống nhận thức (ở đầu tiết học)
- Vận dụng kiến thức mới (ở cuối tiết học)
Các BT dùng trong hai giai đoạn này thường là BT định tính hoặc định lượng
đơn giản ( thời gian không quá mười phút)
18


Trong trường hợp đặc biệt có thể xây dựng một BT vấn đề dùng cho xây dựng
kiến thức mới.
Có thể nhận thấy vị trí BTVL trong mô hình cầu trúc bài học xây dựng kiến
thức mới (sơ đồ 1)
BT (trắc nghiệm), định tính đơn giản,
củng cố kiến thức, xuất phát Bt tạo
tình huống nhận thức

Xây dựng kiến thức mới
(có thể giải BT vấn đề)

BT vận dụng kiến thức mới
BT định tính.
BT định lượng đơn giản

sơ đồ 1
b. BTVL trong bài học luyện tập BTVL. Đây là bài học mà 100% thời gian tiết
học dành cho hoạt động giải BTVL của HS.
Mục tiêu: HS rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức lý thuyết giải BTVL, qua
đó củng cố, khắc sâu kiến thức và hình thành kỹ năng giải BTVL theo phương
pháp chung hay phương pháp đặc thù.
Trong tiết học này phải huy động được đa dạng các BTVL:
1. BT trắc nghiệm khách quan (từ 5-7 phút đầu tiết học): củng cố kiến thức lý
thuyết, làm quen.
2. BT định tính (từ 10-15 phút): vận dụng kiến thức lý thuyết giải thích hiện
tượng vật lý và rèn luyện tư duy logic.
3. BT định lượng điển hình về nội dung và phương pháp (từ 10-15 phút): trang
bị phương pháp giải BT.
4. BT định lượng đơn giản tổng hợp (từ 10-15 phút): hình thành kỹ năng giải
BT theo phương pháp mới.
5. BT sáng tạo (10 phút): rèn luyện tư duy sáng tạo.
19


c. BTVL trong bài học ôn tập, tổng kết hệ thống hóa kiến thức. Loại bài học này
không có trong phân phối chương trình, song trong thực tế triển khai không thể
không thực hiện vì tính chất và tầm quan trọng của vấn đề ôn tập và hệ thống hóa
kiến thức. Mục đích của bài học này là hướng dẫn HS ôn tập, xâu chuỗi kiến thức
thành hệ thống giúp cho việc nắm vững kiến thức không phải bằng cách ghi nhớ
từng sự kiện, hiện tượng rời rạc mà ghi nhớ một cách có hệ thống theo tư duy
logic; qua đó ren luyện cho HS tư duy khái quát hóa, hệ thống hóa, tư duy logic.
Thông thường, tiết học gồm 2 giai đoạn:
+ Giai đoạn 1: Hệ thống hóa lý thuyết (từ 15-20 phút)
+ Giai đoạn 2: Giải BT tổng hợp (từ 30-25 phút)
Ở giai đoạn 1 có thể hệ thống hóa lý thuyết bằng 3 cách:

- Cách 1: Lập sơ đồ cấu trúc logic nội dung các kiến thức ôn tập
- Cách 2: Lập bảng so sánh, hệ thống hóa các kiến thức ôn tập
- Cách 3: Giải BT trắc nghiệm khách quan (mang tính định tính) để hệ
thống hóa.
Ở giai đoạn 2: HS gải BT tổng hợp huy động các kiến thức ôn tập qua đó củng
cố khắc sâu kiến thức ở mức độ vận dụng, khai thác tính ứng dụng của kiến thức.
d. BTVL trong bài học kiểm tra đánh giá kiến thức kỹ năng HS:
Kiểm tra đánh giá kiến thức là hoạt động biểu thị sự nỗ lực hoạt động trí tuệ,
sự huy động với mức độ cao các chức năng tâm lí (như chú ý, ý chí…) nhằm đạt
được mục đích đặt ra với chất lượng cao.
Cho tới nay, trong các sách về phương pháp giảng dạy chưa có tiêu chuẩn có cơ
sở khoa học cho sự lựa chọn BT định tính và BT định lượng, áp dụng cho từng
mối quan hệ phụ thuộc vật lý và cho những mối quan hệ đặc trưng nhất.
Hệ thống BTVL trong bài học kiểm tra đánh giá kiến thức kỹ năng HS cần có
tính hệ thống, chặt chẽ trong việc lựa chọn nội dung, trong áp dụng các thủ thuật
giải, BT phải đi từ đơn giản đến phức tạp. Trong hệ thống BT, BT sau phải đem lại
cho HS một điều mới lạ nhất định và một khó khăn vừa sức, HS thấy được sự khác
nhau của BT này và BT giải trước đó.
Việc xây dựng hệ thống BTVL trong bài học kiểm tra đánh giá kiến thức kỹ năng
HS cần có:
- Hướng tới phổ năng lực tư duy rộng.
- Bài tập có tính phân hóa cao (độ phân tán rộng)

20


- Dựa vào kinh nghiệm giải BT của GV và bám vào 6 mức độ Bloom để
có thể giải BT bằng nhiều cách khác nhau.
- Đa dạng hình thức BT, ưu tiên BT mở so với BT đóng.
- Nội dung, hình thức BT phù hợp với đối tượng HS.

- Có sự liên kết với sự phản hồi quá trình học tập của HS.
- Gắn kết với chủ đề thực thuộc chương trình, gần gũi với đời sống
- Cố gắng gắn với thí nghiệm cũng như phương pháp tư duy và phong
cách làm việc khoa học.
Ngoài ra, chất lượng BT phải tốt về nội dung (thường được kiểm định thông
qua tổ chuyên môn ở đầu mỗi học kì) và có sự liên kết giữa các BT trong hệ thống
BT
Để thực hiện được điều này thì trong quá trình dạy học giáo viên phải quan tâm
đến việc nâng cao tính tích cực nhận thức của học sinh bằng cách:
a) Xây dựng tình huống có vấn đề: Tạo mâu thuẫn nhận thức, gợi động cơ, để tạo
ra hứng thú ban đầu, hứng thú đi tìm cái mới, kích thích học sinh hăng hái, tự giác
hoạt động, tạo ra không khí lớp học thuận lợi, ủng hộ những cuộc phát biểu trao
đổi ý kiến, thảo luận về những kết quả thực hiện hành động học tập của học sinh.
b) Lựa chọn một lôgic nội dung bài học thích hợp: Phân chia bài học thành những
vấn đề nhỏ, phù hợp với trình độ xuất phát của học sinh, xác định hệ thống những
hành động học tập mà học sinh có thể thực hiện được với sự cố gắng vừa sức.
c) Rèn luyện cho học sinh kĩ năng thực hiện một số thao tác cơ bản, một số hành
động nhận thức phổ biến, duy trì được hứng thú, tính tích cực, tự giác. Trong suốt
quá trình hoạt động cần phải giúp đỡ học sinh sao cho họ có thể thành công trong
khi thực hiện các hành động. Càng thành công, học sinh càng cố gắng vươn lên
thực hiện các nhiệm vụ khó khăn phức tạp hơn.
Giáo viên có thể rèn luyện cho học sinh thực hiện một số thao tác cơ bản, một
số hành động nhận thức phổ biến theo hai cách: một là làm mẫu nhiều lần theo
một algorit, hai là, rèn luyện theo những cơ sở định hướng (đó là những sơ đồ, kế
hoạch tổng quát)
d) Hướng dẫn, tạo điều kiện để học sinh phát biểu, trao đổi, tranh luận về các kết
quả hành động của mình, động viên khuyến khích kịp thời.
e) Lựa chọn và cung cấp cho học sinh những phương tiện, công cụ cần thiết để
thực hiện các hành động.
1.1.7. Lựa chọn BT trong dạy học vật lý

21


Trong dạy học bất cứ một đề tài nào, GV cần phải lựa chọn một hệ thống BT thỏa
các yêu cầu sau:
1. Các BT phải đi từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp (phạm vi và số
lượng các kiến thức, kỹ năng cần vận dụng từ một đề tài đến nhiều đề tài, số lượng
các đại lượng cho biết và các đại lượng phải tìm…) giúp HS nắm được phương
pháp giải các loại BT điển hình.
2. Mỗi BT phải là một mắt xích trong hệ thống Bt, đóng góp một phần nào đó
vào việc củng cố, hoàn thiện và mở rộng kiến thức.
3. Hệ thống BT cần bao gồm nhiều thể loại BT: BT giả tao, BT có nội dung
thực tế, BT luyện tập và BT sáng tạo, BT cho thừa và cho thiếu dữ kiện, BT mang
tính chất ngụy biện và nghịch lý, BT có nhiều cách giải khác nhau và BT có nhiều
lời giải tùy theo những điều kiện cụ thể của BT mà GV không nêu lên hoặc chỉ
nêu lên trong một điều kiện nào đó mà thôi.
Trong dạy học từng đề tài cụ thể, GV phải dự kiến chi tiết kế hoạch sử dụng hệ
thống BT đã lựa chọn:
a) Các BT đã lựa chọn có thể sử dụng ở các khâu khác nhau của quá trình dạy
học: nêu vấn đề, hình thành kiến thức mới, củng cố, hệ thống hóa, kiểm tra và
đánh giá kiến thức, kỹ năng của HS.
b) Trong tiến trình dạy học một đề tài cụ thể, việc giải hệ thống BT mà GV đã
lựa chọn của HS thường bắt đầu bằng những BT định tínhhay những BT tập dượt.
Sau đó HS sẽ giải những BT tính toán, BT đồ thị, BT thí nghiệm có nội dung phức
tạp hơn. Việc giải những BT tính toán tổng hợp, những BT có nội dung kỹ thuật
với dữ kiện không đầy đủ, những BT sáng tạo có thể coi là sự kết thúc việc giải hệ
thống BT đã được lựa chọn cho đề tài.
c) Cần chú ý cá biệt hóa HS trong việc giải BTVL, thông qua các biện pháp
sau: Biến đổi mức độ yêu cầu của BT ra cho từng đối tượng HS khác nhau, thể
hiện ở mức độ trừu tượng của đầu bài, loại vấn đề cần giải quyết, phạm vi và tính

phức hợp của các số liệu cần xử lý, loại và số lượng thao tác tư duy logic và các
phép biến đổi toán học cần sử dụng, phạm vi và mức độ các kiến thức, kỹ năng
cần huy động; Biến đổi mức độ yêu cầu về số lượng BT cần giải, về mức độ tự lực
của HS trong quá trình giải BT.
1.2. Lý thuyết phát triển bài tập vật lí
1.2.1. Khái niệm phát triển bài tập vật lý
Vấn đề phát triển BTVL liên quan đến hai khái niệm:
22


- BTCB: là bài tập mà khi giải chỉ sử dụng một đơn vị kiến thức cơ bản (một
khái niệm hoặc một định luật vật lí), có sơ đồ cấu trúc như sau: (sơ đồ 2)
Dữ kiện a,b,c

1 KTCB

Ẩn số x

Kết luận

Giả thiết
Sơ đồ 2

-

BTTH: là bài tập mà khi giải cần phải sử dụng từ hai đơn vị kiến thức
trở lên. Như vậy, BTTH là tổ hợp các BTCB. Thực chất của việc giải BTTH là
việc nhận ra các BTCB trong BTTH đó.

- Phát triển bài tập là biến đổi một BTCB thành các BTTH theo các phương án

khác nhạu. Trong dạy học Vật lý, GV cần phát triển (mở rộng) vì:
- Số lượng BT rất nhiều, đa dạng trong khi số tiết luyện tập giải BT rất hạn
chế. Vì vậy, trong tiết luyện tập, GV cần chọn BT điển hình về nội dung và
phương pháp. Từ BT đó, phân tích dưới nhiều góc độ khác nhau để rút ra kết luận
cho hàng loạt các BT khác (thông qua một BT mà hướng dẫn HS phương pháp
giải hành loạt các BT có nội dung liên quan)
- HS làm quen với việc phát triển BT của GV và tập cho Hs tự phát triển
BT, từ đó các em dễ dàng nhận ra các BTCB trong một BTTH, tức là giải được BT
đó. Đây cũng là một hướng tự học của HS.
- Việc phát triển BTVL trong dạy học vật lý có tác dụng bồi dưỡng tư duy
linh hoạt, nhạy bén, mềm dẻo; hạn chế lối tư duy áp đặt một chiều từ phía GV.
1.2.2. Phát triển BTVL
Việc phát triển BTVL cần phải trải qua các hoạt động: Chọn BTCB, phân tích
các cấu trúc của BTCB, mô hình hóa BTCB.Từ đó phát triển BTCB theo các
phương án khác nhau.
Chọn BTCB là hành động có tính quyết định cho việc củng cố kiến thức, kỹ
năng nào? Hành động này bao gồm việc:
+ Xác định mục tiêu: cần củng cố kiến thức cơ bản nào? Nội dung của kiến thức
đó, phương trình liên hệ các đại lượng, công thức biểu diễn…
+ Chọn hoặc đặt đề bài tập.
+ Xác định dữ kiện, ẩn số.
+ Mô hình hóa đề bài và hướng dẫn giải.
23


Từ BTCB, có thể phát triển thành những BTTH muôn hình muôn vẻ. Về mặt lý
luận có thể khái quát thành 5 phương án phát triển bài tập như sau:
Phương án 1: Hoán vị giả thiết và kết luận của BTCB để được BTCB khác có độ
khó tương đương.
Sơ đồ minh họa: (sơ đồ 3)

BTCB cũ:

Giả thiết a, b, c

BTCB mới:

f(a,b,c,x)

Kết luận x

Cho a, b, x

Tìm c

Cho a, c, x

Tìm b

Cho b, c, x

Tìm a
sơ đồ 3

Phương án 2: Phát triển giả thiết BTCB:
Dữ kiện bài toán không liên hệ trực tiếp với ẩn số bằng phương trình biểu diễn
kiến thức cơ bản mà liên hệ gián tiếp thông qua cái chưa biết trung gian a, b… nhờ
phương trình biểu diễn kiến thức cơ bản khác. Phát triển giả thiết BTCB là thay
giả thiết của bài tập đó bằng một số BTCB khác buộc phải tìm các đại lượng trung
gian là cái chưa biết liên hệ dữ kiện với ẩn số.
Sơ đồ minh họa: (sơ đồ 4)


Cho a1, a2
KTCB a

a
KTCB a, b,x

b
KTCB b

Cho b1, b2

24

sơ đồ 4

Tìm x


Mức độ phức tạp phụ thuộc vào số bài toán trung gian (số cái chưa biết). Tùy
thuộc vào đối tượng học sinh mà tăng hoặc giảm số bài toán trung gian.
Phương án 3: Phát triển kết luận BTCB
Cái cần tìm (ẩn số) không liên hệ trực tiếp với dữ kiện bằng một kiến thức
cơ bản mà thông qua các ẩn số trung gian. Phát triển kết luận là thay kết luận của
BTCB bằng một số BTCB trung gian để tìm ẩn số trung gian X,Y…liên kết dữ
liệu a,b,c… và các ẩn số x1,y1…
Sơ đồ mô hình hóa phát triển kết luận: (sơ đồ 5)
Ẩn số trung gian X

f1(X,x1)

KTCB x1

Ẩn số x1

Dữ kiện a, b, c
Ẩn số trung gian Y

f1(Y,y1)

KTCB x2

Ẩn số x2

sơ đồ 5
Mức độ phức tạp phụ thuộc số bài toán trung gian (số ẩn số trong bài toán trung
gian)
Phương án 4: Đồng thời phát triển giả thiết và kết luận của BTCB (kết hợp
Phương án 2 và Phương án 3). Sơ đồ mô hình hóa vừa phát triển giả thiết vừa phát
triển kết luận: với chiều mũi tên là hướng phát triển bài toán (sơ đồ 6)

ax1 ,ax2

b x1, bx2

b1, b2

Chưa biết bx

Chưa biết b


Ẩn số x1

x=
Chưa biết a x

Chưa biết a

G. thiết a,b,c

a1, a2
Chưa biết cx
cx1, cx2

f(a, b,c,x)

Kết luận

Ẩn số x3
Chưa biết c
25

c1, c2

Ẩn
số
x2


×