Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

Khảo sát trường nghĩa gió trong thơ tố hữu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (718.7 KB, 75 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
*****

TRẦN THỊ NGUYỆT

KHẢO SÁT TRƯỜNG NGHĨA GIÓ
TRONG THƠ TỐ HỮU
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Ngôn Ngữ học

Người hướng dẫn khoa học
TS. GVC PHẠM THỊ HÒA

HÀ NỘI - 2010


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Những năm gần đây, tiếp cận văn chương từ góc độ ngôn ngữ là vấn đề
thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Trong đó, từ và sự vận động của
từ trong trường nghĩa đang là điểm trọng được chú ý từ nhiều chiều.
Trường nghĩa gió đã trở thành đối tượng xem xét của một số tác giả. Tuy
nhiên, họ mới chỉ quan tâm đến đối tượng này trong phạm vi kho từ vựng chứ
chưa đi sâu vào khảo sát nó ở tác phẩm văn chương cụ thể. Luận văn của chúng
tôi sẽ khảo sát trường nghĩa gió trong những sáng tác tiêu biểu của kho tàng văn
học dân tộc với mong muốn đóng góp phần nào vào sự phát triển của khuynh
hướng đọc hiểu tác phẩm từ góc độ ngôn ngữ.
Tố Hữu là cây bút xuất sắc của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông được
độc giả biết đến và tôn vinh như là lá cờ đầu của dòng văn học cách mạng. Rất
nhiều sáng tác của ông đã ăn sâu vào tâm trí độc giả, đặc biệt là những người


từng đi qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Những đặc sắc
trong thơ ca Tố Hữu làm tốn không ít giấy mực của các thế hệ bạn đọc. Trong
quá trình tìm hiểu tác phẩm của đại thi hào này, chúng tôi nhận thấy việc đặt
phạm vi khảo sát tường nghĩa gió ở đây không chỉ tôn vinh nghệ thuật sử dụng
ngôn từ điêu luyện của thi nhân mà còn góp phần khẳng định sự độc đáo của
tiếng Việt trong ngôn ngữ văn chương.
2. Lịch sử vấn đề
Khi tìm hiểu đề tài, chúng tôi thấy nhiều trường từ vựng - ngữ nghĩa thuộc
các phạm trù chỉ người, chỉ sự vật, động vật, thực vật… đã được nghiên cứu.


Nhiều công trình cũng đã xem xét sự hoạt động của trường nghĩa trong môi
trường xã hội, lịch sử, văn hóa… Một số tác giả còn đối sánh trường nghĩa trong
tiếng Việt với các trường nghĩa tương ứng trong những ngôn ngữ khác. Nhưng,
họ chủ yếu nghiên cứu trong phạm vi ngôn ngữ, trong mối quan hệ với sử học,
văn hóa học, xã hội học, phong tục học… chứ chưa đi vào tác phẩm văn học cụ
thể. Việc khảo sát hoạt động của trường nghĩa trong tác phẩm văn chương là vấn
đề còn mới mẻ. Nghiên cứu về vấn đề này đã có một số ít công trình như: Các
tính từ chỉ màu sắc trong thơ Tố Hữu, các từ chỉ không gian trong ca dao, trường
nghĩa của từ yêu trong thơ Xuân Diệu và thơ Nguyễn Bính 1932 - 1945…
3. Mục đích nghiên cứu
Vận dụng một số lý thuyết và phương pháp nghiên cứu của ngôn ngữ học
để bước đầu đánh giá hiệu quả sử dụng và tìm hiểu hoạt động của trường nghĩa
gió trong môi trường tác phẩm văn chương, cụ thể là trong thơ ca Tố Hữu suốt
chặng đường 1937 - 1992. Với việc nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa
ngôn ngữ với văn chương như thế, chúng tôi mong muốn được đóng góp một
phần nhỏ vào xây dựng con đường tiếp cận tác phẩm văn học từ góc độ ngôn
ngữ, đồng thời xem xét sự vận dụng, chuyển hóa của ngôn ngữ ở “miền đất hứa”
của nó.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu

Ứng với mục đích nêu trên, đề tài cần thực hiện những nhiệm vụ sau:
- Khảo sát các vấn đề lý thuyết liên quan.
- Khảo sát trường nghĩa gió và các biến thể của nó trong thơ Tố Hữu.
- Bước đầu phân tích, đánh giá hiệu quả sử dụng và nhận xét sự vận động
của trường nghĩa gió trong thơ Tố Hữu.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu


Từ ngữ thuộc trường nghĩa gió trong thơ Tố Hữu chặng đường 1937 1992.
Tố Hữu là cây bút viết nhiều, viết không mệt mỏi về hiện thực cách mạng
cũng như hiện thực cuộc sống. Con đường thơ của ông kéo dài từ những năm 30
của thế kỷ 19 đến những năm đầu thế kỷ 20. Do hạn chế về mặt thời gian và
dung lượng đề tài, chúng tôi chỉ xin đặt phạm vi nghiên cứu vào những tập thơ
gắn liền với tên tuổi tác giả, những tập được đông đảo bạn đọc biết đến và có
nhiều thi phẩm được đưa vào giảng dạy trong nhà trường, đó là các tập: Từ ấy,
Việt Bắc, Gió lộng, Ra trận, Máu và hoa, Một tiếng đờn.
6. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết những nhiệm vụ đề ra, luận văn được tiến hành với sự kết
hợp của các phương pháp là:
- Tổng hợp, khái quát các vấn đề lý thuyết liên quan.
- Khảo sát, thống kê, phân loại trường nghĩa gió trong hệ thống từ vựng
tiếng Việt và trong thơ Tố Hữu.
- Phân tích, tổng hợp các kết quả đã thống kê để khái quát lên ý nghĩa
cũng như hiệu quả sử dụng và sự vận động của trường nghĩa gió trong phạm vi
nghiên cứu.
7. Đóng góp của luận văn
- Hệ thống các vấn đề lý thuyết về trường nghĩa, ngữ cảnh, biến thể, tín
hiệu thẩm mĩ.
- Khai thác những đặc sắc trong thơ ca Tố Hữu ở khía cạnh sử dụng
trường từ vựng đồng thời chỉ ra sự độc đáo của trường nghĩa khi đi vào tác phẩm

văn chương.


Kết quả đạt được của luận văn có thể giúp ích cho các công trình tiếp theo
nếu có cùng đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
8. Cấu trúc của luận văn
Luận văn gồm 4 phần: Mục lục; Chính văn; Tài liệu tham khảo và Phụ
lục.
Phần chính văn, ngoài mở đầu và kết luận là nội dung với 55 trang chia
thành hai chương: Chương 1: Cơ sở lý thuyết (22 trang); Chương 2: Trường
nghĩa gió trong thơ Tố Hữu (30 trang).

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1. Lý thuyết về trường nghĩa


Trường nghĩa còn được gọi là trường ngữ nghĩa là cách gọi tắt của trường
từ vựng - ngữ nghĩa, một lĩnh vực nghiên cứu từ vựng học mới được giới thiệu
vào Việt Nam mấy chục năm gần đây. Từ khi ra đời đến nay, lý thuyết này đã
được vận dụng vào nghiên cứu nhiều kiểu trường nghĩa.
Kiểu trường nghĩa được nghiên cứu nhiều nhất là “nhóm từ vựng - ngữ
nghĩa”. Đó là kiểu trường nghĩa được xác lập dựa trên từ khái quát biểu thị các
khái niệm chung nhất, trừu tượng nhất và trung hoà. Ví dụ: trường nghĩa thời
gian, trường nghĩa không gian, trường nghĩa động vật, trường nghĩa thực vật…
Tiếp đến là kiểu trường được xác lập theo một khái niệm chung nhất cho
tất cả các từ của nhóm: nhóm các từ ngữ chỉ sự di chuyển trong không gian,
nhóm các từ ngữ chỉ quan hệ thân tộc, hay nhóm các từ ngữ chỉ sự tác động qua
lại… Những kết cấu ngữ nghĩa của các từ đa nghĩa cũng được coi là trường
nghĩa và được nghiên cứu dựa trên lý thuyết về trường nghĩa bởi lẽ giữa các

nghĩa khác nhau của một từ đa nghĩa bao giờ cũng có một yếu tố chung, tạo nên
trung tâm ngữ nghĩa để thu hút các từ có quan hệ với nó. Ví dụ: trường nghĩa
của từ chân, trường nghĩa của từ tay, trường nghĩa của từ tai, từ mắt, từ mũi…
Lý thuyết trường nghĩa còn được vận dụng vào nghiên cứu đối chiếu các
ngôn ngữ. Trong những năm gần đây, lĩnh vực này đã có nhiều công trình điều
tra các hệ thống từ vựng trong vốn từ của các ngôn ngữ khác nhau, liên quan tới
các khu vực như: họ hàng, màu sắc, trọng lượng, cấp bậc trong quân đội…
1.1.1. Khái niệm trường nghĩa
Hệ thống là tính chất hàn lâm về ngữ nghĩa của từ vựng đã được nhiều
nhà nghiên cứu khẳng định. Tuy nhiên do quá lớn và phức tạp nên những liên hệ
ngữ nghĩa trong từ vựng không thể hiện ra một cách trực tiếp giữa các từ được


lựa chọn ngẫu nhiên. Chẳng hạn với hai từ “mặt trời” và “đôi dép” người ta khó
có thể tìm thấy mối liên hệ gì về ngữ nghĩa.
Do thế giới phản ánh vào ngôn ngữ mang tính tổng thể, liên tục nên để
hiểu được nó, chúng ta buộc phải “chia cắt” tổng thể thành những bộ phận nhỏ
hơn. Chia hệ thống từ vựng thành những bộ phận nhỏ hơn dựa trên ngữ nghĩa
của nó, ta sẽ thu được những tiểu hệ thống ngữ nghĩa trong lòng từ vựng và quan
hệ ngữ nghĩa giữa các từ riêng lẻ thể hiện qua quan hệ trong tiểu hệ thống ngữ
nghĩa chứa chúng.
Quan niệm về trường nghĩa mà chúng tôi trình bày trong luận văn này
chủ yếu dựa trên định nghĩa: “Mỗi tiểu hệ thống ngữ nghĩa được gọi là
một trường nghĩa. Đó là những tập hợp từ đồng nhất với nhau về ngữ nghĩa” [6,
172]; và định nghĩa: “Trường nghĩa là một tổ chức các từ và các biến thể sử
dụng từ có quan hệ với nhau làm thành một hệ thống. Hệ thống này cho thấy
mối liên kết của chúng dựa theo một cái gì đó” [dẫn theo 1, 9]. Theo các định
nghĩa này, có thể hiểu, trường nghĩa là một tập hợp, một tổ chức, một nhóm…
các từ có mối quan hệ nào đó với nhau về ngữ nghĩa. Chúng làm thành một tiểu
hệ thống trong hệ thống từ vựng của một ngôn ngữ. Việc xác lập trường nghĩa

do đó phải dựa trên những tiêu chí ngôn ngữ nhất định.
1.1.2. Các loại trường nghĩa
Việc phân loại trường nghĩa nên dựa vào sự hiểu biết về hai loại quan hệ
chủ yếu trong ngôn ngữ là: quan hệ ngữ đoạn (quan hệ ngang) và quan hệ hệ
hình (quan hệ dọc). Theo đó, trường nghĩa được chia thanh hai loại: trường
nghĩa ngang, trường nghĩa dọc và một trường có quan hệ chi phối cả hai trường
trên, đó là trường liên tưởng.


Phân định và xác lập một trường nghĩa về cơ bản dựa trên bảy tiêu chí
sau:
Thứ nhất: do các trường nghĩa là các sự kiện thuộc phạm trù ngôn ngữ
nên việc phân lập chúng trước tiên phải dựa vào các tiêu chí ngôn ngữ - những ý
nghĩa ngôn ngữ. Ý nghĩa ngôn ngữ chính là ý nghĩa của từ, cơ sở để xác lập từ
thành trường.
Thứ hai: phải tìm được các trường hợp điển hình - từ điển hình. Nó sẽ
tạo ra một lực nghĩa “thu hút, hấp dẫn” các từ khác vào cùng trường. Theo tiêu
chí này, các trường nghĩa có ranh giới tương đối có thể độc lập hoặc giao nhau
hay thậm chí là bao hàm lẫn nhau.
Thứ ba: dựa vào các lớp ý nghĩa biểu vật và biểu niệm, có thể phân biệt
trường biểu vật và trường biểu niệm.
Thứ tư: với trường biểu vật tiêu chí xác lập chỉ là sự đồng nhất ở một nét
nghĩa biểu vật.
Thứ năm: với trường nghĩa biểu niệm, tiêu chí xác lập chỉ là sự đồng
nhất ở một nét nghĩa biểu niệm.
Thứ sáu: với trường tuyến tính tiêu chí xác lập là dựa hẳn vào ngữ nghĩa
từ trung tâm. Từ này phải đáp ứng được yêu cầu về quan hệ ngữ nghĩa - ngữ
pháp của các từ trong trường [4, 250-260].
Thứ bảy: với trường liên tưởng, cơ sở để tạo lập trường là các nghĩa ngữ
dụng của từ trung tâm. Đó là những nghĩa mới được tạo ra trong quá trình từ

hành chức, chưa đi vào hệ thống. Từ trung tâm khi cùng xuất hiện với loạt các từ
nào đấy trong nhiều ngữ cảnh trùng lặp sẽ có hiện tượng đẳng cấu ngữ nghĩa.
Khi đó chúng sẽ tạo thành một trường nghĩa liên tưởng mà ở đó, các từ có quan
hệ với nhau nhờ mối liên tưởng ngữ nghĩa nào đó.


Theo các tiêu chí trên hệ thống từ vựng ngữ nghĩa của một ngôn ngữ có
thể được phân lập ra các loại trường nghĩa:
1.1.2.1. Trường nghĩa biểu vật (trường biểu vật)
Trường biểu vật là một tập hợp những từ đồng nghĩa về ý nghĩa biểu vật.
Từ điển hình của trường thường là các danh từ có tính khái quát cao, gần như là
tên gọi của các phạm trù biểu vật. Với trường nghĩa về gió thì từ trung tâm khái
quát sẽ là từ gió. Từ từ này mà tập hợp được các từ có cùng hạt nhân ý nghĩa với
gió như: không khí, lốc, dông, tố, dông tố, bão…
Các trường biểu vật khác nhau về số lượng, cách thức tổ chức các đơn vị,
miền phân bố. Vì từ có tính nhiều nghĩa biểu vật nên một từ có thể nằm trong
nhiều trường khác nhau, từ đó dẫn đến hiện tượng “thẩm thấu”, “giao thoa” giữa
các trường. Hai trường biểu vật “giao thoa” với nhau khi một hoặc một số từ của
trường này nằm trong trường kia. Số lượng các từ chung của hai trường càng ít
thì tính độc lập của chúng càng cao. Tính độc lập của hai trường “cây” và
“người” sẽ cao hơn tính độc lập của hai trường “cây” và “hoa”.
Trong một trường biểu vật, quan hệ của các từ ngữ đối với trường là
không giống nhau. Những từ có nghĩa biểu vật gần với từ trung tâm sẽ gắn chặt
với trường tạo thành “lõi” của trường. Ngoài “lõi” là các lớp từ gắn bó với
trường theo chiều hướng lỏng lẻo dần.
1.1.2.2. Trường nghĩa biểu niệm (trường biểu niệm)
Trường biểu niệm là một tập hợp từ có chung một cấu trúc biểu niệm.
Cũng như các trường biểu vật, các trường biểu niệm lớn có thể được phân
thành các trường nhỏ hơn với những miền, những mật độ khác nhau. Các trường
biểu niệm cũng “giao thoa”, “thẩm thấu” vào nhau, cũng có lõi trung tâm là các

từ điển hình và các lớp ngoại vi là những từ kém điển hình. Có thể lấy ví dụ một


số trường biểu niệm sự vật: 1- (đồ dùng sinh hoạt), (dụng cụ nấu ăn): bếp,
xoong, chảo, thìa, đũa…;2- (đồ dùng sinh hoạt), (dùng để đặt để): bàn, tủ, kệ,
ghế, giá…;3- (đồ dùng sinh hoạt), (dùng đẻ đựng, chứa): hòm, thúng, thau,
thùng, chậu…
1.1.2.3. Trường nghĩa tuyến tính (trường nghĩa ngang)
Như đã nói ở trên, tiêu chí để phân loại trường tuyến tính là dựa hẳn vào
ngữ nghĩa từ trung tâm. Để lập các trường tuyến tính, chúng ta chọn một từ làm
gốc rồi tìm tất cả các từ có thể kết hợp với nó thành những chuỗi tuyến tính chấp
nhận được trong ngôn ngữ. Chẳng hạn, trường tuyến tính của từ gió là: gió thổi,
gió lùa, gió lướt…, nổi gió, lặng gió…, quạt gió, bơm gió…
Vậy, các từ trong một trường tuyến tính là những từ thường xuất hiện với
từ trung tâm trong các loại ngôn bản. Bằng việc phân tích ý nghĩa của chúng, ta
có thể phát hiện được những nội dung ngữ nghĩa của các quan hệ cú pháp và
tính chất của các quan hệ đó. Cùng với các trường nghĩa dọc, trường nghĩa tuyến
tính góp phần làm sáng tỏ những quan hệ và cấu trúc ngữ nghĩa của từ vựng,
phát hiện những đặc điểm nội tại và những đặc điểm hoạt động của từ.
1.1.2.4. Trường nghĩa liên tưởng (trường liên tưởng)
Sự phân lập ra các trường biểu vật và biểu niệm như trên là cần thiết để
tìm hiểu những quan hệ và cấu trúc ngữ nghĩa - ngữ pháp, phát hiện những đặc
điểm nội tại và đặc điểm hoạt động của từ. Nhưng đó mới chỉ là sự phân tích
“cấu trúc bề mặt” của ngôn ngữ, trong ngôn ngữ còn có “cấu trúc bề sâu”. Đó là
lý do để xác lập trường liên tưởng.
Nhà ngôn ngữ học Pháp Ch.Bally là tác giả đầu tiên của khái niệm trường
liên tưởng. Theo ông, mỗi từ có thể là trung tâm của một trường liên tưởng [ dẫn


theo 6]. Ví dụ với từ gió có thể gợi ra liên tưởng: 1. lạnh, mát, rét… 2. mưa,

nắng, bão…3. sự nhẹ nhàng , lả lướt…
Như thế, các từ trong một trường liên tưởng là sự hiện thực hóa, sự cố
định bằng các ý nghĩa liên hội có thể có của từ trung tâm.
Ý nghĩa liên hội là ý nghĩa được hình thành do liên tưởng, do sử dụng. Vì
vậy, nó có tính lâm thời, chưa đi vào hệ thống cấu trúc của từng đơn vị ngôn
ngữ. Các từ trong một trường liên tưởng trước hết là những từ cùng nằm trong
trường biểu vật, trường biểu niệm và trường tuyến tính, tức là có quan hệ cấu
trúc đồng nhất và đối lập về ngữ nghĩa với từ trung tâm. Song trong trường liên
tưởng còn nhiều từ khác được liên tưởng tới do xuất hiện đồng thời với từ trung
tâm trong những ngữ cảnh có chủ đề tương đối đồng nhất. Điều này khiến cho
các trường liên tưởng có tính dân tộc, tính thời đại và tính cá nhân. Trường liên
tưởng về từ thuyền trong ca dao, trong văn học trung đại và văn học hiện đại;
trường liên tưởng về từ xuân trong thơ Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Tố Hữu là
những minh chứng cho điều đó.
Tính không ổn định của trường liên tưởng chính là hệ quả tất yếu của
những tính chất trên. Xuất phát từ tính không ổn định nên trường liên tưởng ít có
tác dụng phát hiện những quan hệ cấu trúc về ngữ nghĩa của các từ và từ vựng
nhưng nó có hiệu lực lớn trong giải thích việc dùng từ, nhất là các từ trong tác
phẩm văn học. Có nhiều trường hợp phải dùng đến trường liên tưởng thì một
chuỗi kết hợp bất thường, mơ hồ về nghĩa… trong ngôn phẩm mới được làm
sáng tỏ.
1.1.3. Ngữ nghĩa của trường nghĩa
Ngữ nghĩa của trường nghĩa, trước hết là ngữ nghĩa chung, khái quát của
các từ trong trường. Đó là sự thống nhất, hòa hợp giữa ngôn ngữ, hiện thực


khách quan và tư duy phản ánh quá trình đồng hóa thực tiễn vào trong ngữ nghĩa
của trường nghĩa.
Ở phần trên, chúng tôi đã phân loại trường nghĩa dựa vào các nghĩa khái
quát, các quan hệ dọc, ngang… của trường. Việc xác lập đó chủ yếu dựa vào

nghĩa của từ trung tâm, điển hình trong trường. Qua khảo sát các trường nghĩa,
chúng tôi thấy rằng nghĩa của các từ trung tâm đều chi phối nghĩa của các từ
thành viên. Điều này đúng với nguyên tắc về cách tổ chức nội bộ trường rằng từ
trung tâm phải thể hiện những đặc tính phổ quát của trường, là tâm điểm để tập
hợp các từ vào một trường.
Xem xét về ngữ nghĩa của từ trung tâm, ta thấy nó là một hệ thống được
tạo nên bởi các nghĩa khác nhau có quan hệ chăt chẽ. Nói chính xác hơn đó là
tập hợp các nghĩa vị thuộc những cấu trúc nhất định quy định vị trí của từ trong
trường, làm cơ sở cho hoạt động tạo nghĩa, hoạt động thông báo của từ trong lời
nói.
Trong hệ thống ngữ vị đó lại có một nghĩa hạt nhân chi phối nghĩa của từ
trung tâm và chi phối cả các từ cùng trường với nó. Dựa vào nghĩa hạt nhân ta sẽ
biết từ được xét thuộc về trường nghĩa nào, biết chiều chuyển nghĩa của nó và
hướng chuyển nghĩa của cả trường chứa nó. Các từ trong một trường vì thế mà
đẳng cấu về nghĩa hạt nhân - đặc hữu. Vậy, ngữ nghĩa của trường nghĩa thực
chất là cấu trúc nghĩa vị và đặc điểm ngữ pháp đặc hữu của trường, tất cả đều do
từ trung tâm, điển hình do trường đại diện [dẫn theo 1]. Do đó, từ đây trở đi,
chúng tôi quan niệm, ngữ nghĩa của trường nghĩa chính là ngữ nghĩa của từ
trung tâm, điển hình trong trường. Ngữ nghĩa của từ trung tâm gió được coi là
ngữ nghĩa của trường nghĩa gió.


Bên cạnh nghĩa chung, ngữ nghĩa của trường nghĩa còn được xét ở quan
hệ ngữ nghĩa trong một trường, tức là sự phân hóa nó thành những tiểu trường
và những nhóm nhỏ hơn theo kiểu quan hệ bậc 1, bậc 2, bậc 3... khi phân tích
cấu trúc. Sự phân chia ấy sẽ tạo ra những tiểu trường đồng cấp và biệt loại với
những tiểu trường khác. Việc xem xét cấu trúc ngữ nghĩa trong nội bộ trường
như vậy sẽ định vị được các từ trong trường và xác định tương đối đầy đủ ý
nghĩa từng từ trong trường.
1.1.4. Quan hệ ngữ nghĩa giữa các từ trong trường nghĩa

1.1.4.1. Quan hệ bao gồm - nằm trong
Quan hệ bao gồm - nằm trong là quan hệ ngữ nghĩa giữa các từ có nghĩa
rộng hẹp khác nhau cùng thuộc một trường biểu vật hoặc có nét nghĩa đầu tiên
chỉ cùng một loại. Từ có nghĩa chỉ loại lớn bao gồm nghĩa của các từ chỉ những
loại nhỏ trong loại lớn đó.
Các từ có quan hệ cấp loại, về nguyên tắc chia thành từng cấp, có những
từ trên cấp, những từ dưới cấp và những từ đồng cấp. Từ có nghĩa rộng, khái
quát bao gồm là từ trên cấp so với từ nằm trong nó. Những từ nằm trong một từ
trên cấp nào đó là từ dưới cấp của từ trên cấp bao gồm nó. Các từ trong một cấp
với nhau là những từ đồng cấp. Những từ này bình đẳng với nhau, tách biệt
nhau, giữa chúng không có quan hệ bao gồm và nằm trong. Từ gió là từ trên cấp
của các từ đồng cấp là: gió nam, gió bắc, gió tây, gió đông.
Quan hệ cấp loại mang tính tương đối. Sự phân loại trong tiếng Việt cũng
như trong các ngôn ngữ khác đều mang đặc trưng văn hóa riêng.
1.1.4.2. Quan hệ toàn bộ - bộ phận


Quan hệ toàn bộ - bộ phận là quan hệ giữa chỉnh thể thống nhất với các bộ
phận cấu thành nên nó. Trong một trường nghĩa, kiểu quan hệ này cũng có trật
tự phân bậc, từ bậc 1, bâc 2, bậc 3…
Trong toàn bộ có bộ phận bất khả li và bộ phận khả li. Bộ phận bất khả li
là bộ phận cấu thành toàn bộ một cách tự nhiên, thiếu chúng thì toàn bộ không
còn hoàn chỉnh. Bộ phận khả li là bộ phận thường có mặt trong toàn bộ nhưng
thiếu chúng toàn bộ vẫn đảm bảo được tính hoàn chỉnh. Trong trường nghĩa, ngữ
nghĩa của từ trung tâm chính là cơ sở để xác định bộ phận bất khả li và khả li.
1.1.4.3. Quan hệ đồng nghĩa
Quan hệ đồng nghĩa là quan hệ giữa các đơn vị từ vựng trong một trường
nghĩa khi chúng có những nét nghĩa đồng nhất.
Quan hệ này chỉ xuất hiện khi các nét nghĩa đầu trong trường nghĩa biểu
niệm đồng nhất với nhau. Những nét nghĩa kế tiếp phải được sắp xếp theo cùng

một trật tự. Các nét nghĩa đồng nhất càng nhiều thì mức độ đồng nghĩa càng cao.
Cấu trúc biểu niệm của các từ đồng nghĩa không chứa những nét nghĩa trái
ngược nhau.
Căn cứ vào mức độ đồng nghĩa, các dãy đồng nghĩa được chia thành hai
loại: đồng nghĩa hoàn toàn và đồng nghĩa không hoàn toàn. Đồng nghĩa hoàn
toàn là đồng nghĩa giữa các từ ngữ không khác nhau về nghĩa biểu vật hay biểu
niệm mặc dù chúng có thể khác nhau về phương ngữ. Đó là trường hợp của các
từ mẹ, u, bầm, bủ, má, mế… Đồng nghĩa không hoàn toàn là đồng nghĩa giữa
các từ khác nhau về sắc thái ý nghĩa, sắc thái biểu vật, sắc thái biểu niệm, sắc
thái biểu thái, hay phong cách chức năng. Trường hợp này ứng với các biến thể
từ vựng của gió: không khí, lốc, dông, tố, dông tố, bão.


Trong ngôn ngữ văn chương, hệ thống từ đồng nghĩa lá kho tàng quý giá
để đáp ứng những đòi hỏi về dùng từ: linh hoạt, chính xác, gợi hình, biểu cảm
và hàm súc.
1.1.4.4. Quan hệ trái nghĩa
Trái nghĩa là hiện tượng ngữ nghĩa trái ngược với hiện tượng đồng nghĩa.
Tức là quan hệ giữa các đơn vị từ vựng trong một trường có những nét nghĩa đối
lập nhau.
Để xác định hiện tượng trái nghĩa, ta phải đặt các đơn vị từ trên một nét
nghĩa đồng nhất nào đó. Dài và ngắn được xác định trái nghĩa với nhau trên cơ
sở nét nghĩa chung chỉ kích thước.
Tóm lại, từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt là một hệ thống chứa những phần
tử có quan hệ nhất định với nhau. Quan hệ trường nghĩa là quan hệ chung nhất,
trong quan hệ ấy lại nảy sinh những mối quan hệ khác. Những quan hệ ngữ
nghĩa trong trường nghĩa nói trên là cơ sở giúp chúng tôi phân lập các từ thuộc
trường nghĩa gió vào các tiểu trường với tầng bậc lớn nhỏ khác nhau.
1.2. Một số vấn đề về ngữ cảnh
Trường nghĩa vừa là một thực thể ngôn ngữ, vừa là một thực thể xã hội.

Trong ngữ nghĩa của trường nghĩa, ngoài những thông tin ngôn ngữ nó còn biểu
thị những thông tin lịch sử, văn hóa… Những thông tin này bổ sung nét nghĩa
“làm đầy” là những liên tưởng, những hạn chế… ngữ nghĩa khác nhau của
trường nghĩa. Bởi thế, việc miêu tả thông tin cấu trúc không đối lập mà trái lại,
là cơ sở để tiến hành miêu tả thông tin ngoài cấu trúc của trường. Như vậy là có
một bộ phận ngữ nghĩa của trường nghĩa nằm ngoài hệ thống cấu trúc nhưng vẫn
liên hệ mật thiết với hệ thống cấu trúc, giúp lý giải ngữ nghĩa các yếu tố trong
cấu trúc và ngược lại. Cái giúp lý giải ấy chính là ngữ cảnh.


Ngữ cảnh là vấn đề được giới nghiên cứu ngôn ngữ đặc biệt quan tâm. Ở
Việt Nam, ngay từ năm 1975, Hoàng Phê đã thấy được vấn đề khi ông viết:
“Nghiên cứu ngữ nghĩa của từ… việc cần thiết, quan trọng là phải đặt nghĩa của
từ vào trong việc sử dụng, gắn liền với những quan hệ ngữ nghĩa sinh động, đa
dạng, cụ thể. Đó là việc tìm hiểu nghĩa của từ trong tổ hợp từ, trong câu, trong
văn bản và cả liên văn bản” [22]. Sau này, không một công trình nghiên cứu về
ngữ nghĩa, ngữ dụng nào lại không đề cập đến ngữ cảnh.
Nghiên cứu về ngữ cảnh có rất nhiều tác giả với nhiều ý kiến khác nhau.
Trong luận văn này, chúng tôi tiếp thu, kế thừa kết quả nghiên cứu cho rằng:
Chúng tôi quan niệm ngữ cảnh là toàn bộ cái thế giới môi trường chi phối
đến hoạt động bên ngoài lẫn bên trong của hệ thống tín hiệu ngôn ngữ. Ngữ
cảnh là cái không hạn định, liên tục mở ra về không gian và thời gian. Tùy
thuộc vào biên độ lớn nhỏ của môi trường được xét mà nó có thể là rất rộng,
bao gồm các đối ngôn và các hợp phần hiện thực ngoài diễn ngôn như quan
niệm của Đỗ Hữu Châu. Nó có thể là rất hẹp theo cách hiểu của Nguyễn Thiện
Giáp, Vũ Đức Nghiệu là những từ bao quanh hay đi kèm theo một từ tạo cho nó
tính xác định về nghĩa [1, 17].
Chúng tôi đang xem xét loại diễn ngôn thơ. Ngữ cảnh của nó ở trạng thái
động và có tính liên văn bản. Như đã nói ở trên, ngữ cảnh là yếu tố chi phối, hạn
định ý nghĩa tất cả các nhân tố trong ngôn bản mà phạm vi của ngữ cảnh quá

rộng, ta không thể nào nắm hết được nên không bao giờ có thể hiểu hết mọi
cung bậc ý nghĩa của hình tượng thơ. Ngay cả các nhà thơ, người sáng tạo ra văn
bản cũng khó lường hết được ý nghĩa tác phẩm của mình trong mọi ngữ cảnh.
Bởi vậy mới nói, văn chương khó có ý nghĩa tận cùng, cạn kiệt.


Nghiên cứu ngữ nghĩa trong ngữ cảnh, cần thiết phải nghiên cứu những
nét đặc thù văn hóa, xã hội; nghiên cứu khả năng thực hiện chức năng xã hội của
ngôn ngữ. Đó chính là một nhiệm vụ quan trọng của chuyên ngành ngôn ngữ xã
hội học.
Việc vận dụng lí luận này vào nghiên cứu trường nghĩa là việc nghiên cứu
mối quan hệ, tác động từ môi trường xã hội vào trường nghĩa và ngược lại. Đó là
việc nghiên cứu các diễn ngôn chứa các đơn vị của trường nghĩa dưới nhãn quan
tổng hợp từ nhiều góc độ, nhiều cấp độ khác nhau để thấy những liên hệ tương
tác đa chiều giữa các yếu tố bên trong và bên ngoài trường nghĩa.
Trường từ vựng - ngữ nghĩa gió trong thơ Tố Hữu dưới nhãn quan đó,
được coi là một tập hợp các từ văn hóa thể hiện những đặc trưng văn hóa Việt
trong cấu trúc ngữ nghĩa của chúng. Những đặc trưng ấy trong tiến trình vận
động thường xuyên bị tác động, bị biến đổi dưới áp lực của các nhân tố văn hóa,
xã hội. Trong đó có những đặc trưng dần được định hình, được “khuôn” vào các
biểu tượng văn hóa buộc người sử dụng chúng phải am hiểu.
Cần nói thêm, các công trình nghiên cứu về ngữ cảnh từ trước tới nay mới
chỉ đề cập đến ngữ cảnh của từ, của diễn ngôn chứ chưa đề cập đến ngữ cảnh
của trường nghĩa. Song khi hành chức, từ nào cũng thuộc về một trường ngữ
nghĩa nhất định, được xét theo một phương diện nhất định. Cho nên lý thuyết về
ngữ cảnh của từ, của diễn ngôn theo chúng tôi cũng có thể tạm được xem như là
lý thuyết về ngữ cảnh của trường nghĩa. Việc tìm hiểu ngữ cảnh của trường
nghĩa gió chủ yếu được tiến hành theo định hướng ấy.
Đặt từ vào các trường liên tưởng tức là vào các ngữ cảnh, xét từ với tư
cách là một thực thể lịch sử - giao tiếp nghệ thuật, tư cách tín hiệu thẩm mĩ có

thể minh định được lịch sử phát triển tâm lý xã hội luôn gắn liền với hoạt động


tạo nghĩa, luận nghĩa các tín hiệu thẩm mĩ. Đó là gợi dẫn cần thiết phải tìm hiểu
lí luận về tín hiệu thẩm mĩ.

1.3. Vấn đề về biến thể từ vựng, biến thể kết hợp, biến thể quan hệ
Một tín hiệu hằng thể khi tham gia vào hoạt động hành chức sẽ có vô số
các dạng thức tồn tại hiện hữu, cụ thể. Đó chính là các biến thể của chính tín
hiệu hằng thể ấy. Cái mà ta có được về tín hiệu ấy chỉ là một trong số những
biến thể đó của nó. Bởi vậy nghiên cứu một tín hiệu chính là nghiên cứu các
biến thể trong hiện trạng hành chức của nó, chúng được gọi chung là những biến
thể sử dụng. Trường hợp bàn với chân bàn, mặt bàn, ngăn bàn… là có quan hệ
hằng thể - biến thể. Dạng hằng thể là tín hiệu bàn, dạng biến thể là các biểu thức
tên gọi cụ thể chân bàn, mặt bàn, ngăn bàn… (được hình thành theo lối liên
tưởng toàn thể - bộ phận) giúp cụ thể hóa những phương diện nào đó của bàn .
Căn cứ vào đặc điểm ngữ nghĩa, cấu tạo của các biến thể ấy, tác giả đã
phân lập chúng thành ba loại biến thể để việc miêu tả các bình diện của tín hiệu
được rõ ràng, thuận lợi hơn.
1.3.1. Biến thể từ vựng (BTTV)
BTTV là những biến thể - tên gọi khác nhau của cùng một sự vật, trạng
thái, tính chất… nảy sinh trong quá trình sử dụng một tín hiệu ngôn ngữ. Khi đi
vào sử dụng, một tên gọi này có thể được dùng để thay thế cho tên gọi kia tùy
theo điều kiện khách quan hay dụng ý chủ quan của người sử dụng. Tiếng Việt
có nhiều từ có hình thức ngữ âm khác nhau để chỉ người đàn bà sinh ra mình:
mẹ, u, bầm, bủ, má, mế… Trong đó, mẹ là từ phổ biến nhất, được dùng trong
phạm vi toàn dân, các từ còn lại có phạm vi sử dụng hẹp hơn. Những từ này
chính là những BTTV của một từ đóng vai trò hằng thể - nguyên mẫu - mẹ. Các



từ chân, mặt, ngăn… cũng có thể dùng thay thế cho từ bàn dựa trên quan hệ
chuyển nghĩa theo cơ chế hoán dụ lấy bộ phận gọi tên cho toàn thể.
Khái niệm về BTTV này sẽ được chung tôi vận dụng khảo sát các tên gọi
khác nhau của gió như không khí, dông, tố, lốc…
1.3.2. Biến thể kết hợp (BTKH)
BTKH còn được gọi là biến thể miêu tả, là những biến thể nảy sinh trong
khi sử dụng một tín hiệu ngôn ngữ. Một từ (một tín hiệu) nào đó khi đi vào sử
dụng sẽ được kết hợp thêm một số yếu tố phụ trợ, cụ thể là với các từ khác để
được làm rõ nghĩa, được cụ thể hóa về nghĩa. Những từ này được gọi là các
BTKH của tín hiệu, của từ đang xét. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi thấy
có hai loại từ, cụm từ đi kèm phụ trợ về nghĩa phổ biến nhất là: động từ/ cụm
động từ và tính từ/ cụm tính từ. Với từ gió, trong ca dao, ta đã thấy: “Gió đưa
cành trúc la đà”, gió được làm rõ nghĩa bằng cụm động từ đưa cành trúc la đà BTKH của nó. Trong thơ Xuân Diệu, ta cũng từng gặp: “Con gió xinh thì thào
trong lá biếc” (Vội vàng), gió đã được cụ thể, được làm rõ nghĩa bằng BTKH là
tính từ xinh và cụm tính từ thì thào trong lá biếc…
Kiến thức về hai loại biến thể trên chính là cơ sở để tìm hiểu các vận
động, tính chất, trạng thái… cụ thể của gió ở trạng thái tĩnh (trong hệ thống)
cũng như trạng thái động (trong hoạt động hành chức).
1.3.3. Biến thể quan hệ (BTQH)
Đây cũng là biến thể nảy sinh trong quá trình sử dụng một tín hiệu. Đó là
những dạng thức kết hợp của tín hiệu này với tín hiệu khác tạo thành các mô típ
quan hệ cặp đôi, cặp ba tín hiệu có thể đồng hiện trong một câu, một đoạn, một
văn bản hay nhiều văn bản. Trong quan hệ của sự đồng hiện giữa tín hiệu trung
tâm được xét với các tín hiệu khác thì các tín hiệu khác ấy giữ vai trò bổ sung,


“làm đầy” ý nghĩa cho tín hiệu trung tâm, tạo nên sự đẳng cấu với nó trong một
khung ngữ nghĩa chung phản ánh sự tương hợp, hòa kết lẫn nhau giữa các sự
vật, hiện tượng trong thực tế khách quan. Trong thực tế, ta thường hay thấy các
mô típ quan hệ như: gió - trăng, gió - mưa, gió - bụi … Khi có sự đồng hiện của

các cặp sự vật, hiện tượng này, người ta thường liên tưởng tới những loại ý
nghĩa nào đó. Gió trăng thường gợi sự lả lướt, không đứng đắn trong quan hệ
yêu đương nam nữ; gió mưa, gió và mưa, thường chỉ hiện tượng thời tiết; gió
bụi thường dùng để ví nỗi gian nan vất vả trên đường đời.
Hiểu biết về các loại biến thể quan hệ như trên sẽ giúp ích cho việc tìm
hiểu mối quan hệ tương hỗ về ngữ nghĩa giữa các tên gọi khác nhau chỉ các sự
vật, hiện tượng liên quan đến gió, những biểu hiện cụ thể của nó và nhất là nắm
được những chiều hướng liên tưởng ngữ nghĩa thường xuất hiện ở người sử
dụng.
1.4. Một số vấn đề về tín hiệu thẩm mĩ
1.4.1. Khái quát về tín hiệu thẩm mĩ (THTM)
THTM là vấn đề đã được nhiều tác giả trong và ngoài nước bàn đến. Ở
luận văn này, chúng tôi xin tiếp thu những thành tựu nghiên cứu của E.Cassirer,
S.Langer, M.Bakhtin, M.B.Khrapchenco, Đỗ Hữu Châu, Trần Ngọc Thêm, Trần
Đình Sử, Phan Ngọc, Lại Nguyên Ân, Phương Lựu…
Trước hết, THTM là một loại tín hiệu nên nó mang đầy đủ những đặc
trưng của tín hiệu nói chung. Theo Sausure, tín hiệu có hai mặt (tín hiệu nhị
diện) là: cái biểu đạt và cái được biểu đạt, “hai mặt này gắn bó khăng khít với
nhau và đã có cái này là có cái kia”. Theo Ch.W.Moris, tín hiệu có ba mặt (tín
hiệu tam diện) là: kết học - quan hệ giữa các tín hiệu, nghĩa học - quan hệ giữa
tín hiệu với cái được biểu đạt và dụng học - quan hệ giữa tín hiệu với người sử


dụng (người lý giải). Cái mới trong lý thuyết của Morris là cần phải thấy được
tính thống nhất biện chứng giữa hai mặt nội tại và ngoại tại của một tín hiệu.
Đỗ Hữu Châu đã tổng hợp các ý kiến trên và đưa ra việc xác định 4 nhân
tố cần phải có đối với một tín hiệu: 1, phải có một hình thức cảm tính; 2, phải có
một nội dung ý nghĩa (cái được biểu đạt); 3, phải được nhận thức bởi một chủ
thể nào đó (đối tượng của thông tin); 4, phải nằm trong một quan hệ nhất định.
Một tín hiệu thông thường khi bước vào thế giới nghệ thuật sẽ chuyển hóa

thành THTM, mang những đặc thù nghệ thuật nhất định. Kiến giải cụ thể hơn về
THTM ngôn ngữ, Đỗ Hữu Châu nhấn mạnh: THTM là phương tiện sơ cấp của
văn học. Ngôn ngữ thực sự của văn học là ngôn ngữ - THTM, cú pháp - THTM.
Tín hiệu ngôn ngữ tự nhiên trong văn học chỉ là hình thức - cái biểu đạt của
THTM [6].
1.4.2. Đặc tính của tín hiệu thẩm mĩ
THTM có 9 đặc tính cơ bản sau:
1.4.2.1. Đặc tính về nguồn gốc
Việc chỉ ra nguồn gốc của THTM là bước đầu xác định hai phương diện
rất quan trọng của nó, phương diện thể chất và phương diện tinh thần.
THTM trước hết có nguồn gốc từ thế giới hiện thực, thế giới tâm trạng,
bao gồm toàn bộ những chi tiết, sự vật, trạng thái, cảm xúc… có trong đời sống
thực tế khách quan, trong đời sống tinh thần được nghệ sĩ lựa chọn và sáng tạo
trong tác phẩm vì mục đích thẩm mĩ.
THTM còn có nguồn gốc từ tưởng tượng logic hoặc phi logic của người
sáng tạo. Nhiều khi nó là sản phẩm sáng tạo của “tư duy” tiền lý tính, của trực
giác, vô thức… Chỉ với hiểu biết về thế giới thực tại thông thường sẽ khó lý giải
được những THTM loại này. Bởi vậy, trước tiên, ta phải xác định nó được quy


chiếu từ nguồn gốc - hiện thực nào, từ thế giới thực tại hay thế giới ảo. Những
thế giới này được Đỗ Hữu Châu gọi là thế giới khả hữu, Nguyễn Hòa gọi là thế
giới thực hữu.
Ngoài những nguồn gốc trên, tín hiệu văn chương còn có nguồn gốc từ
các sự kiện ngôn ngữ như từ địa phương, đoạn đối thoại… hay những yếu tố
ngôn ngữ như tiếng, âm, vần, thanh… cấu trúc cú pháp (trật tự đảo, tỉnh lược,
lặp bộ phận…), cách trình bày ngôn bản…trong tác phẩm là những THTM - văn
chương với điều kiện chúng đều phục vụ cho một tư tưởng thẩm mĩ, được nhận
thức bởi một chủ thể thẩm mĩ nhất định.
1.4.2.2. Đặc tính về cấp độ

Đỗ Hữu Châu phân biệt THTM ở hai cấp độ cơ bản:
Cấp độ cơ sở (tín hiệu đơn): là những THTM ứng với một chi tiết, một sự
vật, hiện tượng thuộc thế giới khách quan: mặt trời, mặt trăng, mưa, nắng… Đó
là các tín hiệu cơ sở có chức năng tham gia cấu tạo nên THTM ở cấp độ cao
hơn. Cái biểu đạt - tín hiệu ở cấp cơ sở này có thể ứng với đơn vị từ trong tín
hiệu ngôn ngữ.
Cấp độ xây dựng (tín hiệu phức): là những tín hiệu ứng với nhiều sự vật,
hiện tượng được xây dựng từ những tín hiệu đơn nhưng ý nghĩa của nó không
đơn giản là phép cộng của các tín hiệu đơn. Cái biểu đạt của tín hiệu văn chương
- tín hiệu ở cấp độ xây dựng này có thể tương ứng với các đơn vị câu, đoạn văn,
văn bản trong hệ thống các tín hiệu ngôn ngữ.
THTM được xét trong đề tài của chúng tôi là những tín hiệu đơn. Mỗi tín
hiệu ứng với một yếu tố hiện thực (yếu tố gió, yếu tố liên quan đến gió) được cụ
thể, đa dạng, phức tạp hóa bằng các hình thức ngôn ngữ nhất định. Nghiên cứu


các hình thức biểu đạt này sẽ là cách thức để phát hiện ra các ý nghĩa thẩm mĩ
của các tín hiệu văn chương được xem xét về sau.
1.4.2.3. Đặc tính tác động
Đặc tính này thể hiện ngay trong bản chất của tín hiệu, là một kích thích
vật chất tác động vào ký ức hình thành nên những hình tượng nghệ thuật có sức
mở rộng, lan tỏa đến vô cùng. Hình tượng nghệ thuật do đó là sản phẩm của thế
giới tinh thần được THTM làm dấy lên trong thế giới tiếp nhận.
Đặc tính tác động còn thể hiện ở sự thực hiện chức năng giao tiếp nghệ
thuật mang tính đối thoại đặc thù của THTM cũng nhằm hướng tới một hoặc
nhiều chủ thể tiếp nhận dù có hay không có mặt. Sự tác động của tín hiệu đem
lại hiệu quả cho giao tiếp, giúp các bên đối tác tự bộc lộ, tự biến đổi nhận thức,
tình cảm, hành vi, thái độ… Lý giải một THTM là vừa lý giải thế giới tạo ngôn,
vừa lý giải thế giới tiếp nhận.
1.4.2.4. Đặc tính biểu hiện (tính thông tin - miêu tả)

Chức năng quan trọng của nghệ thuật là phản ánh hiện thực gắn liền với
thuộc tính thông tin, biểu hiện. Nếu không có thuộc tính này thì tín hiệu sẽ
không có giá trị. Casirer nhấn mạnh hình thức trong THTM là “hình thức có ý
nghĩa”, nó dường như “chỉ dừng lại ở bề mặt của hiện tượng tự nhiên” nhưng kỳ
thực “có thể bao hàm, hơn nữa, có thể thâm nhập vào toàn bộ lĩnh vực kinh
nghiệm của con người” [20, 446 - 448]. Nó “làm cho chúng ta nhìn thấy được sự
vận động sâu sắc và đa dạng nhất của linh hồn con người”.
Sự biểu hiện của THTM nói chung đều dựa trên khả năng miêu tả, thay
thế, “dẫn nhập” các sự vật, hiện tượng, các phạm vi khác nhau của đời sống vào
tác phẩm, vào phương tiện sử dụng. Trong văn học, đó là những từ ngữ, những
kết cấu mang nội dung biểu vật, biểu niệm gắn với hiện thực… phản ánh trình


độ nhận thức, năng lực cảm xúc của con người. Trình độ nhận thức, năng lực
cảm xúc lại vận động, thay đổi không ngừng nên lượng thông tin biểu hiện trong
THTM cũng không phải nhất thành bất biến.
1.4.2.5. Đặc tính biểu cảm
THTM là sản phẩm lao động nghệ thuật trong trạng thái cảm hứng - thẩm
mĩ cao độ. Bởi vậy, trong nội dung ý nghĩa của nó luôn bao hàm những thông
tin về cảm xúc, thái độ sự đánh giá, tư tưởng thẩm mĩ… Khi xét cội nguồn từ
“sinh mệnh bên trong” của bản năng gốc, Langer cho rằng “nghệ thuật là hình
thức điển hình của ký hiệu biểu tượng, ký hiệu tình cảm phi logic”. Những ký
hiệu này “làm cho chúng ta nhận thức được hiện thực của những tâm trạng và
tình cảm chủ quan”. Do vậy trong THTM, cảm xúc vốn là cái chủ quan của chủ
thể sáng tạo đã được khách quan hóa thành một phần quan trọng của cơ cấu ngữ
nghĩa THTM. Cái cảm xúc ấy có khả năng khơi gợi sự đồng cảm cao độ ở người
tiếp nhận, bởi chỉ có THTM mới là “hình thức có thể đem bản chất tình cảm
nhân loại biểu hiện ra một cách rõ ràng”. Thành phần nghĩa biểu cảm này là kết
quả của sự hòa quyện đồng điệu giữa tình cảm chủ thể cá nhân tác giả với tình
cảm khách thể mang tính nhân loại đã được hình thức hóa, nghệ thuật hóa. Nhờ

đó, nhân loại mới lý giải và cảm thụ được THTM, THTM mới hoàn tất được chu
trình sinh tồn của mình. Nhấn mạnh đặc trưng biểu cảm này, Langer đưa ra
mệnh đề nổi tiếng: “Nghệ thuật là sự sáng tạo hình thức ký hiệu tình cảm nhân
loại” [20, 456 - 457].
1.4.2.6. Tính biểu trưng
Đây là đặc tính của THTM xét trong mối quan hệ hai mặt cái biểu đạt và
cái được biểu đạt. Đó là mối quan hệ “có lý do” liên quan đến năng lực “biểu
trưng hóa”, đến khả năng của THTM là nó vừa có tính chất biểu thị, chỉ ra, nói


lên một cái gì, vừa có tính chất hàm nghĩa - sự thêm nghĩa trên một nghĩa có
sẵn. Cái được biểu đạt của nó có ít nhất hai thành phần nghĩa liên thông nhau: bề
nổi được bộc lộ, bề chìm luôn tiềm ẩn gắn với những dự cảm, những vô thức cá
nhân, vô thức tập thể như quan niệm của C.G.Jung.
Pierce cho rằng: “Biểu trưng có tính chất ước lệ mà người ta “gán” cho nó
trong một hoàn cảnh nào đó… Nghĩa đó là do con người trong cộng đồng đặt ra
mà thôi”. Tính chất ước lệ này chỉ ra những lý do về mặt lịch sử xã hội trong
việc sử dụng các biểu trưng, chỉ ra việc lựa chọn chất liệu - cái biểu đạt nào làm
biểu trưng đều có lý do. Biểu trưng, một mặt, có tính hình tượng cụ thể, cái biểu
đạt nó là một đối tượng nào đó được quy chiếu từ hiện thực. Mặt khác, là ý
nghĩa xã hội nào đó được cả cộng đồng chấp nhận.
Cũng do tính biểu trưng, hiệu lực giá trị của THTM phụ thuộc vào cách tri
nhận, cách giải thích theo một thiên hướng nào đấy, một “mật ước” nào đấy của
một cộng đồng mà có khi là trái ngược với quan niệm của một cộng đồng khác.
Biểu trưng con rồng trong hội họa Trung Cổ và Phục Hưng tượng trưng cho cái
ác và hận thù, nhưng đối với người Trung Hoa và người Việt Nam, nó lại là biểu
tượng của hoàng đế với vương quyền tối thượng, là biểu tượng của sự cao quý,
thiêng liêng.
1.4.2.7. Tính truyền thống và tính cách tân
Tính truyền thống thể hiện ở chỗ thông tin - ngữ nghĩa của tín hiệu thẩm

mĩ đã được “ký mã sẵn” trong tâm lý nghệ thuật dân tộc. Có những thông tin
còn bắt nguồn từ cổ mẫu của vô thức nhân loại. Theo Jung, cổ mẫu hay mẫu gốc
“là một hình tượng được lặp đi lặp lại trong quá trình lịch sử ở khắp nơi mà
tưởng tượng sáng tạo có mặt. Nó là kết quả của vô vàn cảm xúc cùng một kiểu
được định hình từ kinh nghiệm điển hình của nhiều triệu thế hệ” [20]. Tính


×