Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

Một số giải pháp đổi mới công tác bồi dưỡng cán bộ quản lý trường Trung học phổ thông tỉnh Vĩnh Long giai đoạn 20122020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.76 MB, 93 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cán bộ quản lý giáo dục giữ một vai trò to lớn và hết sức quan trọng
trong sự nghiệp phát triển giáo dục; làm cho mọi hoạt động của nhà trường đi
vào kỷ cương, nền nếp, ổn định, góp phần thắng lợi sự nghiệp nâng cao dân
trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Hiện nay, nước ta đang
tiến hành sự nghiệp đổi mới và phát triển giáo dục, hội nhập kinh tế quốc tế,
đòi hỏi CBQLGD phải đổi mới tư duy, biết kết hợp nhuần nhuyễn giữa kinh
nghiệm thực tiễn với việc vận dụng sáng tạo tri thức hiện đại vào công tác
quản lý ở đơn vị nhằm đào tạo những học sinh tự chủ, năng động, sáng tạo
đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước, đưa nền giáo dục nước ta ngang tầm với
nền giáo dục của khu vực và thế giới.
Quan điểm xuyên suốt của Đảng, Nhà nước ta luôn khẳng định tầm
quan trọng của đội ngũ CBQLGD nói chung, CBQL trường THPT nói riêng
trong việc điều hành một hệ thống giáo dục đang ngày càng mở rộng và phát
triển. Đặc biệt là hiện nay, ngành giáo dục đang tiếp tục thực hiện đổi mới
giáo dục phổ thông thì vai trò và trách nhiệm của CBQLGD nói chung,
CBQL trường THPT nói riêng lại càng quan trọng. Chính vì vậy, Ban Bí thư
Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị số 40-CT/TW ngày 15 tháng 6 năm
2004 về việc xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và CBQLGD,
trong đó nêu rõ: “Phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là một
trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, là điều kiện để phát huy nguồn nhân lực con người. Đây là
trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, trong đó nhà giáo và cán bộ quản lý
giáo dục là lực lượng nòng cốt, có vai trò quan trọng”. [1, tr.1]
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định: “Đổi
mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện


2


đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế
quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục là
khâu then chốt” và “Giáo dục và Đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát
triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng xây dựng đất
nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam”.
Ngày 25 tháng 4 năm 2006 Chính phủ ban hành Nghị định số
43/2006/NĐ-CP quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện
nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp
công lập. Việc phân cấp nhiệm vụ và quyền hạn nhiều cho cơ sở đòi hỏi
người CBQL phải đủ năng lực để tính toán, điều hành mọi hoạt động của đơn
vị một cách có hiệu quả nhất.
Nhằm quán triệt và cụ thể hóa các chủ trương, định hướng đổi mới giáo
dục và đào tạo, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ XI và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 của đất
nước, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 711/QĐ-TTg, ngày
13/6/2012 về việc phê duyệt Chiến lược Phát triển giáo dục 2011-2020, trong
đó nêu rõ: “Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục theo hướng chuẩn hóa,
hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa, hội nhập quốc tế, thích ứng với nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển giáo dục gắn với
phát triển khoa học và công nghệ, tập trung vào nâng cao chất lượng, đặc biệt
chất lượng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành
để một mặt đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, đảm bảo an ninh quốc phòng” [6, tr.8].
Trong thời kỳ hội nhập, nền giáo dục chúng ta cần thực hiện đổi mới
toàn diện GD&ĐT, đặc biệt là công tác đào tạo đội ngũ CBQL nhằm nâng
cao chất lượng giáo dục toàn diện.


3


Trong những năm qua, giáo dục trung học phổ thông tỉnh Vĩnh Long có
những bước phát triển đáng kể cả về quy mô và chất lượng. Bên cạnh những
thành tựu đạt được, giáo dục THPT tỉnh Vĩnh Long vẫn còn một số hạn chế:
chất lượng giáo dục đại trà còn thấp, cơ sở vật chất, kỹ thuật trường học còn
thiếu; trình độ chuyên môn của đội ngũ chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo
dục phổ thông, hiệu quả quản lý ở các trường THPT trong Tỉnh chưa cao,...
Một trong những nguyên nhân quan trọng của những hạn chế trên là: trình độ
chuyên môn, tính chuyên nghiệp (năng lực quản lý) của CBQL các trường
THPT chưa đáp ứng yêu cầu phát triển của GD&ĐT. Vì thế cần có những giải
pháp bồi dưỡng có hiệu quả nhằm nâng cao năng lực quản lý cho CBQL các
trường THPT, góp phần giải quyết những bất cập trên.
Với mục đích nâng cao năng lực quản lý cho CBQL các trường THPT
trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long và với công việc được phân công phụ trách,
chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu là: “Một số giải pháp đổi mới công tác bồi
dưỡng cán bộ quản lý trường trung học phổ thông tỉnh Vĩnh Long giai
đoạn 2012-2020 ”.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đề xuất một số giải pháp đổi
mới công tác bồi dưỡng nâng cao năng lực quản lý cho CBQL trường THPT
tỉnh Vĩnh Long giai đoạn 2012-2020.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Công tác bồi dưỡng CBQL trường THPT giai đoạn hiện nay.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Một số giải pháp đổi mới công tác bồi dưỡng CBQL trường THPT tỉnh
Vĩnh Long giai đoạn 2012-2020.


4


4. Giả thuyết khoa học
Nếu đề xuất được một số giải pháp bồi dưỡng CBQLGD hợp lý và có
tính khả thi thì sẽ nâng cao được năng lực quản lý cho CBQL các trường
THPT tỉnh Vĩnh Long giai đoạn 2012-2020.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của vấn đề bồi dưỡng nâng cao năng lực
quản lý cho CBQL trường THPT.
- Phân tích thực trạng công tác bồi dưỡng nâng cao năng lực quản lý
cho CBQL các trường THPT tỉnh Vĩnh Long.
- Đề xuất một số giải pháp đổi mới công tác bồi dưỡng nâng cao năng
lực quản lý cho CBQL các trường THPT tỉnh Vĩnh Long giai đoạn 20122020.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Các phương pháp nghiên cứu lý luận: Phương pháp nghiên cứu tài
liệu để tìm hiểu, phân tích, tổng hợp, phân loại nhằm tìm cơ sở lý luận cho đề
tài, kinh nghiệm quản lý trường học.
6.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Phương pháp thống kê, lập
bảng biểu, điều tra để khảo sát, đánh giá thực trạng, trưng cầu ý kiến bằng
phiếu hỏi đáp đến lãnh đạo, chuyên viên các phòng chuyên môn, nghiệp vụ
thuộc Sở GD&ĐT; CBQL, GV các trường THPT trong Tỉnh nhằm tìm ra một
số giải pháp đổi mới công tác bồi dưỡng nâng cao năng lực quản lý cho
CBQL các trường THPT tỉnh Vĩnh Long giai đoạn 2012-2020.
6.3. Phương pháp thống kê toán học: nhằm xử lý các kết quả điều tra
nghiên cứu để làm cứ liệu, các chỉ số đánh giá.
7. Đóng góp của luận văn
7.1. Lý luận


5

- Luận văn nhằm hệ thống hóa các cơ sở lý luận về công tác quản lý

của CBQL trường THPT.
- Bổ sung một số lý luận mới về công tác quản lý giáo dục giúp CBQL
trường THPT thực hiện công tác quản lý có chất lượng, hiệu quả hơn.
7.2. Thực tiễn
- Phát hiện một số khó khăn, một số hạn chế phải giải quyết trong công
tác quản lý của CBQL các trường THPT tỉnh Vĩnh Long.
- Đề ra một số giải pháp đổi mới công tác bồi dưỡng nâng cao năng lực
quản lý cho CBQL các trường THPT tỉnh Vĩnh Long.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về việc bồi dưỡng CBQL trường THPT.
Chương 2: Thực trạng công tác bồi dưỡng nâng cao năng lực quản lý
cho CBQL các trường THPT tỉnh Vĩnh Long.
Chương 3. Một số giải pháp đổi mới công tác bồi dưỡng CBQL trường
THPT tỉnh Vĩnh Long giai đoạn 2012-2020.


6

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VIỆC BỒI DƯỠNG CBQL TRƯỜNG THPT
1.1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Quản lý là một chức năng lao động xã hội bắt nguồn từ tính chất xã hội
của lao động. Hoạt động quản lý bắt nguồn từ sự phân công, hợp tác lao động.
Chính sự phân công, hợp tác trong lao động đòi hỏi phải có người chỉ huy,
điều hành, kiểm tra, chỉnh lý nhằm nâng cao hiệu quả và năng suất trong lao
động. Đây là hoạt động giúp người đứng đầu đơn vị phối hợp có hiệu quả
hoạt động của các thành viên trong đơn vị, trong nhóm, trong cộng đồng thực
hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ của đơn vị đã đề ra.

Ngày nay trong sự nghiệp đổi mới của đất nước, quản lý nói chung,
quản lý giáo dục nói riêng luôn thu hút sự quan tâm của các nhà lãnh đạo, các
nhà khoa học và các nhà quản lý.
Đã có những công trình nghiên cứu lý luận của nhiều tác giả bàn về lý
luận quản lý trường học và các hoạt động quản lý nhà trường cũng như đề ra
những giải pháp quản lý có hiệu quả trong phát triển GD&ĐT như: “Giáo
trình khoa học quản lý của Phạm Trọng Mạnh, năm 2001; “Khoa học tổ chức
và quản lý - một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của Trung tâm nghiên cứu
khoa học tổ chức quản lý, năm 1999; “Tâm lý xã hội trong quản lý” của Ngô
Công Hoàn, năm 2002; “Tập bài giảng lý luận đại cương về quản lý” của
Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc, năm 1998; Các bài viết: Đổi mới
QLGD là khâu đột phá” của Quế Hương, năm 2002; “CBQL GD&ĐT trước
yêu cầu của sự nghiệp CNH-HĐH đất nước” của Cố Thứ trưởng Bộ GD&ĐT
Lê Vũ Hùng, năm 2003; “Đánh giá người hiệu trưởng nhà trường phổ thông
theo hướng chuẩn hóa” của Đặng Thanh Hải, năm 2005; “Xây dựng đội ngũ
lãnh đạo, quản lý nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH-HĐH đất nước”


7

của Chu Văn Khánh, năm 2007; Tài liệu “Quản lý nhà nước về giáo dục” của
Dự án SREM, năm 2009,…
Trên đây là những công trình khoa học nghiên cứu rất công phu, có tính
lý luận và thực tiễn cao, đã góp phần vào việc nâng cao chất lượng giáo dục.
Trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long đến nay chưa có tác giả nào nghiên cứu sâu về
những giải pháp đổi mới công tác bồi dưỡng nâng cao năng lực quản lý cho
CBQL các trường THPT trong Tỉnh. Ý thức được tầm quan trọng của vấn đề
lý luận và thực tiễn công tác bồi dưỡng đội ngũ CBQL, chúng tôi chọn nghiên
cứu đề tài: “Một số giải pháp đổi mới công tác bồi dưỡng cán bộ quản lý
trường trung học phổ thông tỉnh Vĩnh Long giai đoạn 2012-2020” làm luận

văn tốt nghiệp cao học. Hy vọng kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần
vào việc đổi mới công tác bồi dưỡng nâng cao năng lực quản lý cho CBQL
các trường THPT trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Cán bộ
Cán bộ là một khái niệm được du nhập từ Trung Quốc và được dùng
phổ biến trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, Ở Trung Quốc, từ cán bộ để
chỉ chung những nhân viên, công chức để phân biệt với những nhân viên tạp
vụ, binh lính, công nhân, lãnh đạo các đoàn thể. Dần dần, từ cán bộ dùng để
chỉ tất cả những người hoạt động kháng chiến thoát ly, để phân biệt với nhân
dân.
Trong từ điển Nhật - Việt, từ cán bộ cũng được dùng để chỉ lãnh đạo
của các đoàn thể. Hiện nay ở Nhật, từ cán bộ phần lớn được dùng trong quân
đội để chỉ những người đóng vai trò bộ khung, còn để chỉ công chức hay viên
chức người ta dùng từ quan liêu, theo nghĩa phổ biến là những người làm việc
trong bộ máy nhà nước. Nghĩa của từ cán bộ ở Nhật trung thành nhiều hơn
với từ gốc mà nó được dịch ra (Cadre). Trong tiếng Anh cũng như trong tiếng


8

Pháp, từ này có nghĩa là người nòng cốt, những người chỉ huy trong quân đội,
trong một tổ chức làm thành một nòng cốt.
Ở nước ta, theo cách hiểu thông thường, trước đây: Cán bộ được coi là
tất cả những người thoát ly, làm việc trong bộ máy chính quyền, đảng, đoàn
thể, quân đội. Trong quan niệm hành chính, cán bộ được coi như những người
có mức lương cán sự một.
Trong Từ điển tiếng Việt, cán bộ được định nghĩa là:
- Người làm công tác nghiệp vụ, chuyên môn trong cơ quan, nhà nước,
đảng và đoàn thể;

- Người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức, phân
biệt với người không có chức vụ.
Trong tổ chức Đảng và Đoàn thể, từ cán bộ được dùng với nghĩa:
- Chỉ những người được bầu vào lớp các cấp lãnh đạo, chỉ huy từ cơ sở
đến trung ương (cán bộ lãnh đạo) để phân biệt với đảng viên, đoàn viên, hội
viên thường (không giữ chức vụ trong tổ chức).
- Những người làm công tác chuyên trách có hưởng lương trong các tổ
chức Đảng và Đoàn thể.
Trong quân đội cán bộ thường được chỉ các đối tượng:
- Là những người chỉ huy từ tiểu đội trở lên.
- Là sỹ quan từ cấp úy trở lên.
Trong hệ thống Nhà nước, từ cán bộ được hiểu cơ bản là trùng với từ
công chức, được chỉ:
- Những người làm việc trong các cơ quan nhà nước thuộc ngành hành
chính, tư pháp, kinh tế, văn hóa và xã hội.
- Những người có chức vụ chỉ huy, phụ trách, lãnh đạo.
Như vậy, từ những vấn đề ở trên, chúng ta có thể đi đến một quan niệm
đầy đủ hơn: Cán bộ là khái niệm chỉ những người có chức vụ, vai trò và


9

cương vị nòng cốt trong một tổ chức, có tác động ảnh hưởng đến hoạt động
của tổ chức và các quan hệ trong lãnh đạo, chỉ huy, quản lý, điều hành, góp
phần định hướng sự phát triển của tổ chức.
Từ nghĩa gốc của từ cán bộ có yếu tố là “bộ khung”, là “nòng cốt”, là
“chỉ huy”, cho nên khi bàn về chất lượng, về đào tạo đội ngũ cán bộ phải tính
đến những yếu tố “cần” và “đủ” để đội ngũ cán bộ này thể hiện rõ vai trò và
chức trách là bộ khung, là nòng cốt, là chỉ huy, điều khiển, người quản lý.
Điều này càng có ý nghĩa quan trọng trong giai đoạn hiện nay - thời kỳ đẩy

mạnh CNH-HĐH đất nước. Xét về loại hình có thể phân thành: Cán bộ đảng
và đoàn thể; Cán bộ nhà nước; Cán bộ kinh tế và quản lý kinh tế; khoa học kỹ thuật, văn hóa, giáo dục, y tế, thể thao, xã hội; Cán bộ lực lượng vũ trang.
Từ trước, để cho đơn giản, người ta đã xếp nhóm cán bộ khoa học - kỹ
thuật, văn hóa, giáo dục, y tế, thể thao, xã hội…(thường gọi là cán bộ trong
các đơn vị sự nghiệp) vào cùng với cán bộ hành chính nhà nước, gọi chung là
cán bộ hành chính sự nghiệp. Cũng có cách phân loại cán bộ theo “chiều
dọc”, nghĩa là theo thành phần cốt yếu cấu trúc tạo nên đội ngũ cán bộ ở từng
loại tổ chức. Việc phân loại này sẽ giúp cho từng tổ chức thấy rõ hơn những
yêu cầu chất lượng của cán bộ. Chẳng hạn như, trong hệ thống đảng thì có
đảng viên và cán bộ. Cán bộ trong hệ thống này là tất cả những người được
bầu vào cấp ủy từ chi ủy đến BCHTW. Trong đó có: Loại không hưởng lương
theo ngân sách; hưởng lương theo ngân sách (được xác định là cán bộ, công
chức); một bộ phận là chuyên gia công tác Đảng và các lĩnh vực; cán bộ quản
lý (các Vụ trưởng, Trưởng ban, Phó ban, Viện trưởng, Tổng biên tập,…); cán
bộ lãnh đạo.
Nước ta khi bước vào thời kỳ mới vừa đẩy mạnh CNH-HĐH vừa xây
dựng và hoàn chỉnh nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, vừa tiến hành xây
dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, không thể không hoàn


10

chỉnh chính sách để có một đội ngũ cán bộ có chất lượng đồng bộ, phù hợp
với những yêu cầu mới đang đặt ra.
- Khoản 1 Điều 4 Luật cán bộ, công chức năm 2008 quy định rõ như
sau: “Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ
chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương (gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh (gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân

sách nhà nước” [23, tr.1].
Theo đó, bao gồm cán bộ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện.
Cơ quan có thẩm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam căn cứ vào điều
lệ của Đảng Cộng sản Việt Nam, của tổ chức chính trị - xã hội và quy định
của Luật cán bộ, công chức quy định cụ thể chức vụ, chức danh cán bộ làm
việc trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, của tổ chức chính trị - xã
hội.
Chức vụ, chức danh cán bộ làm việc trong cơ quan nhà nước được xác
định theo quy định của Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ,
Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân, Luật
Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, Luật Kiểm toán nhà nước và
các quy định khác của pháp luật có liên quan.
- Khoản 3 Điều 4 Luật cán bộ, công chức năm 2008 quy định rõ như
sau: “Cán bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công dân
Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội
đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng
đầu tổ chức chính trị - xã hội” [23, tr.2].


11

1.2.2. Cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý
Theo các tác giả Nguyễn Phú Trọng - Trần Xuân Sâm : Khái niệm cán
bộ lãnh đạo được chia làm 2 phần:
- Thành phần thứ nhất được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm những ai
giữ chức vụ và trách nhiệm cao trong một tổ chức, có ảnh hưởng lớn đến hoạt
động của tổ chức, của bộ máy, có vai trò tham gia định hướng, điều khiển
hoạt động của bộ máy.
- Thành phần thứ hai trong khái niệm cán bộ lãnh đạo là người cầm đầu

trong các tổ chức quốc gia. Họ là nhóm lãnh đạo tầm vĩ mô. Thế giới gọi đây
là nhóm lãnh đạo chính trị quốc gia. Ở nước ta nhóm lãnh đạo chính trị ở tầm
quốc gia này còn gọi là lãnh đạo cấp cao, chủ chốt.
Khái niệm cán bộ quản lý và cán bộ lãnh đạo là hai khái niệm gắn liền
với nhau, đều được hiểu là những người có chức vụ, có trách nhiệm điều hành
và cầm đầu trong một tổ chức. Cả hai đều có vai trò định hướng, điều khiển
hoạt động của bộ máy và là chủ thể ra quyết định điều khiển hoạt động của
một tổ chức. Người cán bộ lãnh đạo phải thực hiện chức năng lãnh đạo, đồng
thời cũng phải thực hiện chức năng của người quản lý. Tuy nhiên hai khái
niệm trên không hoàn toàn đồng nhất với nhau.
- Quản lý bao gồm việc tổ chức các nguồn lực, việc kế hoạch hóa, việc
tạo ra các hoạt động để đạt mục tiêu phát triển.
- Lãnh đạo ngoài việc tổ chức hoạt động còn là việc làm thế nào để tập
hợp được lực lượng tiến hành hoạt động có hiệu quả.
Như vậy, trong quá trình lãnh đạo, hoạt động chủ yếu là định hướng
cho khách thể thông qua hệ thống cơ chế, đường lối, chủ trương, chính sách.
Còn hoạt động quản lý mang tính điều khiển, vận hành thông qua những thiết
chế có tính pháp lệnh được quy định trước.
1.2.3. Cán bộ quản lý giáo dục và cán bộ quản lý trường học


12

CBQLGD là những người có chức vụ, có vai trò và cương vị nòng cốt
trong một tổ chức thuộc hệ thống giáo dục. Người CBQLGD là người có
trách nhiệm phân bổ nhân lực và các nguồn lực khác, chỉ dẫn sự vận hành của
một bộ máy hay toàn bộ tổ chức giáo dục, để tổ chức hoạt động có hiệu quả
và đạt đến mục đích.
CBQL trường học là những người đứng đầu nhà trường (hiệu trưởng và
phó hiệu trưởng) của các nhà trường ở tất cả các cấp học, bậc học trong hệ

thống giáo dục quốc dân.
1.2.4. Cán bộ quản lý trường THPT
CBQL trường THPT là người đại diện cho Nhà nước về mặt pháp lý,
có trách nhiệm và thẩm quyền về mặt hành chính và chuyên môn, chịu trách
nhiệm trước các cơ quan quản lý cấp trên về tổ chức và các hoạt động giáo
dục của nhà trường, có vai trò ra quyết định quản lý, tác động điều khiển các
thành tố trong các hệ thống nhà trường nhằm thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ
GD&ĐT được quy định bằng pháp luật hoặc bằng các văn bản, hướng dẫn do
các cấp có thẩm quyền ban hành.
CBQL trường THPT bao gồm hiệu trưởng và phó hiệu trưởng. Mỗi
trường THPT có hiệu trưởng và một số phó hiệu trưởng.
- Hiệu trưởng trường THPT là người chịu trách nhiệm tổ chức, quản lý
các hoạt động và chất lượng giáo dục của nhà trường. Hiệu trưởng do Giám
đốc Sở GD&ĐT ra quyết định bổ nhiệm sau khi thực hiện các quy trình bổ
nhiệm cán bộ theo quy định hiện hành của Nhà nước. Nhiệm kỳ của hiệu
trưởng là 5 năm, thời gian đảm nhận chức vụ hiệu trưởng không quá 2 nhiệm
kỳ ở một trường THPT.
- Phó hiệu trưởng là người giúp việc cho hiệu trưởng tổ chức, quản lý
các hoạt động và chất lượng giáo dục của nhà trường. Phó hiệu trưởng do


13

Giám đốc Sở GD&ĐT ra quyết định bổ nhiệm trên cơ sở giới thiệu của hội
đồng trường.
1.2.5. Bồi dưỡng
Có nhiều quan niệm về bồi dưỡng:
- Chủ thể bồi dưỡng là những người đã được đào tạo và có trình độ
chuyên môn nhất định.
- Bồi dưỡng là một trong ba quá trình giáo dục nối tiếp và xen kẽ nhau

gồm đào tạo, bồi dưỡng và đào tạo lại.
- Mục đích của bồi dưỡng là nhằm nâng cao phẩm chất và năng lực
chuyên môn để người lao động có cơ hội củng cố, mở mang nâng cao chất
lượng và hiệu quả công việc đang làm.
- Bồi dưỡng thực chất là quá trình bổ sung tri thức, kĩ năng nhằm nâng
cao trình độ trong lĩnh vực hoạt động chuyên môn nào đó mà người ta đã có
một trình độ chuyên môn nhất định. Bồi dưỡng được coi là quá trình cập nhật
hóa kiến thức còn thiếu hoặc đã lạc hậu, bổ túc văn hóa hoặc bổ túc nghề
nghiệp, đào tạo thêm hoặc củng cố những kĩ năng về chuyên môn hay nghiệp
vụ sư phạm theo các chuyên đề. Đối với GV và CBQLGD, hoạt động bồi
dưỡng nhằm tạo điều kiện cho người GV và CBQLGD có cơ hội củng cố và
mở rộng một cách có hệ thống những tri thức, kĩ năng chuyên môn và nghiệp
vụ sư phạm hoặc QLGD sẵn có để lao động nghề nghiệp một cách có hiệu
quả hơn; mặt khác cũng qua bồi dưỡng người học biết chọn lọc, tiếp thu phát
huy các mặt mạnh, khắc phục bổ sung những mặt còn hạn chế, bồi dưỡng kịp
thời, động viên họ làm việc tự giác với tinh thần trách nhiệm đạt hiệu suất
cao.
- Bồi dưỡng mang ý nghĩ thường xuyên và liên tục, đồng thời cũng
mang ý nghĩa nâng cao năng lực cá nhân đối với công việc.


14

Như vậy có thể khái quát, bồi dưỡng được xác định: “Là quá trình cập
nhật, bổ sung kiến thức, thái độ để nâng cao trình độ, năng lực phẩm chất của
người lao động về một lĩnh vực nhất định nào đó trong quá trình hoạt động”.
Bồi dưỡng thường diễn ra sau đào tạo, nghĩa là sau khi người lao động
đã có một nghề về một lĩnh vực chuyên môn để có thể lập nghiệp.
Luật cán bộ, công chức năm 2008 nêu: Bồi dưỡng là hoạt động trang
bị, cập nhật, nâng cao kiến thức, kĩ năng làm việc. Bồi dưỡng theo tiêu chuẩn

ngạch là trang bị kiến thức, kĩ năng hoạt động theo chương trình quy định
theo ngạch công chức. Bồi dưỡng theo vị trí việc làm là trang bị, cập nhật
kiến thức, kĩ năng, phương pháp cần thiết để làm tốt công việc được giao.
1.2.6. Bồi dưỡng cán bộ quản lý trường THPT
- Công tác bồi dưỡng CBQL có tác dụng cập nhật, hoàn thiện và nâng
cao trình độ cho từng CBQL và cả đội ngũ CBQL. Bản chất của công tác bồi
dưỡng CBQL là nâng cao phẩm chất và năng lực cho CBQL để họ có đủ các
điều kiện hoàn thành tốt nhiệm vụ, chức năng và quyền hạn của mình. Bồi
dưỡng CBQL theo 02 nội dung cơ bản là bồi dưỡng trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ và bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý giáo dục.
- Công tác bồi dưỡng đội ngũ CBQL nói chung và bồi dưỡng đội ngũ
CBQL trường THPT nói riêng là nhiệm vụ quan trọng không thể thiếu được
trong quá trình quản lý của các cấp QLGD. Việc tổ chức bồi dưỡng phải tiến
hành thường xuyên, liên tục, lấy việc tự học, tự bồi dưỡng nhằm phát huy khả
năng của từng cá nhân CBQL. Công tác bồi dưỡng đội ngũ CBQL phải được
tiến hành khoa học, công khai, dân chủ, có kế hoạch trước mắt cũng như lâu
dài, thực hiện bồi dưỡng phải được sắp xếp một cách phù hợp với điều kiện
thực tế nhà trường, với khả năng cá nhân,…Khi tổ chức bồi dưỡng phải có
những chính sách đãi ngộ, hỗ trợ kịp thời. Kết quả bồi dưỡng cần đạt phải


15

được kiểm chứng, trải nghiệm thực tế từ đó có hướng xây dựng các điển hình
và nhân rộng điển hình.
1.2.7. Đổi mới
Theo Từ điển Tiếng Việt thì “Đổi mới là thay đổi hoặc làm cho thay
đổi tốt hơn, tiến bộ hơn so với trước”. Điều này cho thấy nội hàm của khái
niệm đổi mới nhằm chỉ những hoạt động của con người làm thay đổi những
cái cũ, lạc hậu bằng cái mới tiến bộ hơn.

Đổi mới là cái vốn có của mọi vận động và phát triển trong tự nhiên, xã
hội cũng như trong tư duy. Bất kỳ sinh vật nào cũng luôn luôn tự đổi mới để
thích nghi với những sự thay đổi của môi trường sống. Đối với xã hội, đổi
mới là một phản ứng mang tính tự nhiên của xã hội để bảo đảm sự thích nghi
của nó trước những biến đổi môi trường tự nhiên, môi trường quốc tế, để
thích ứng với tình thế. Đổi mới là quá trình vận động tự nhiên của mọi hiện
tượng xã hội.
Ngay từ năm 1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sử dụng khái niệm “Đổi
mới” trong sự vận dụng cụ thể vào đổi mới đất nước. Người viết: “Công cuộc
đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân”. Khi nhấn mạnh sự cần thiết phải
không ngừng đổi mới nhận thức để phản ánh đúng tình hình thế giới, tình
hình trong nước vốn không ngừng biến đổi, ngày 21/7/1956, nói chuyện tại
lớp nghiên cứu chính trị khóa I, Trường Đại học Nhân dân Việt Nam, Bác
dặn: “Học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời. Suốt đời phải gắn liền lý luận
với công tác thực tế. Không ai có thể tự cho mình đã biết đủ rồi, biết hết rồi.
Thế giới ngày ngày đổi mới, nhân dân ta ngày càng tiến bộ, cho nên chúng ta
phải tiếp tục học và hành để tiến bộ kịp nhân dân”. Đổi mới, theo Chủ tịch Hồ
Chí Minh, còn là để thắng sức ỳ của thói quen, của tập quán cũ. Dù đó là việc
khó khăn, nhưng chẳng có việc gì là không thể đổi mới.


16

Đổi mới còn là cách để thay đổi một phương thức sống, tạo lập một
phương thức sống mới, đáp ứng nhu cầu của sự phát triển. Về vấn đề này,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Khi trước nhà nào lo làm nhà nấy, làm thế
nào cũng được. Nhưng bây giờ không phải như thế. Bây giờ mình phải đổi
mới nông thôn”.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đổi mới và phát triển là những khái niệm
rất gần gũi, đôi khi được hiểu như nhau. Trong Báo cáo tại Hội nghị chính trị

đặc biệt năm 1964, Người viết: “Trong 10 năm qua, miền Bắc nước ta đã tiến
những bước dài chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc. Đất nước, xã hội và con
người đều đổi mới”.
Vận dụng vào vấn đề mà chúng ta nghiên cứu, “đổi mới’ là thay cách
nghĩ, cách làm cũ lạc hậu, lỗi thời, không đáp ứng được nhu cầu phát triển,
bằng cách nghĩ, cách làm khác, tiến bộ hơn, hợp với quy luật của sự phát
triển.
1.2.8. Đổi mới công tác bồi dưỡng cán bộ quản lý trường THPT
Chủ trương của Đảng và Nhà nước về bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo và
CBQLGD được nêu rõ trong Chỉ thị số 40-CT/TW ngày 15/6/2004 như sau:
Mục tiêu là xây dựng đội ngũ nhà giáo và CBQLGD được chuẩn hóa, đảm
bảo chất lượng, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đặc biệt chú trọng nâng
cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất, lối sống, lương tâm, tay nghề của nhà giáo;
thông qua việc quản lý, phát triển đúng định hướng và có hiệu quả sự nghiệp
giáo dục để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, đáp ứng những đòi
hỏi ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Nghị quyết Đại hội lần thứ XI, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đặt ra mục
tiêu tổng quát cho GD&ĐT như sau: “Phát triển giáo dục là quốc sách hàng
đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn
hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi


17

mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ GV và CBQL là khâu then
chốt. Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, coi trọng giáo dục đạo
đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kĩ năng thực hành, khả năng lập nghiệp. Đổi
mới cơ chế tài chính giáo dục. Thực hiện kiểm định chất lượng giáo dục, đào
tạo ở tất cả các bậc học. Xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, kết hợp
chặt chẽ giữa nhà trường với gia đình và xã hội,...”

Đứng trước yêu cầu mới mà Đảng và Nhà nước giao phó, Ngành
GD&ĐT cần phải đổi mới công tác bồi dưỡng đội ngũ những người làm giáo
dục, đặc biệt là đối với đội ngũ CBQLGD để đáp ứng yêu cầu trong giai đoạn
mới.
Về cơ bản đội ngũ CBQLGD trường THPT phải đạt đủ 3 tiêu chuẩn, 23
tiêu chí trong yêu cầu của Bộ GD&ĐT về Chuẩn hiệu trưởng trường trung
học. Để đạt được các tiêu chuẩn, tiêu chí nói trên, đội ngũ này phải được tham
dự các kỳ bồi dưỡng về nghiệp vụ quản lý, nghiệp vụ chuyên môn cùng các
nghiệp vụ công tác khác (công tác xã hội, an ninh quốc phòng, phòng chống
tệ nạn xã hội...).
1.2.9. Giải pháp
Theo Từ điển Tiếng Việt, giải pháp là: “Phương pháp giải quyết một
vấn đề cụ thể nào đó”. Như vậy nói đến giải pháp là nói đến những cách thức
tác động nhằm thay đổi, chuyển biến một hệ thống, một quá trình, một trạng
thái nhất định…, tựu trung lại, nhằm đạt được mục đích hoạt động. Giải pháp
càng thích hợp, càng tối ưu, càng giúp con người nhanh chóng giải quyết
những vấn đề đặt ra. Tuy nhiên, để có được những giải pháp như vậy, cần
phải dựa trên những cơ sở lý luận và thực tiễn đáng tin cậy.
1.2.10. Giải pháp đổi mới công tác bồi dưỡng CBQL trường THPT
Để đổi mới công tác bồi dưỡng CBQL trường THPT, thực hiện thắng
lợi chiến lược phát triển Giáo dục 2011 - 2020 và Kết luận số 51-KL/TW về


18

Đề án “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” ngày 29/10/2012 của Ban Chấp hành Trung
ương (Khóa XI) và góp phần biến Chỉ thị 40-CT/TU của Ban Bí thư ngày
15/6/2004 về việc xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và

CBQLGD thành hiện thực; đáp ứng với yêu cầu đổi mới công tác đào tạo và
bồi dưỡng CBQLGD theo xu thế hội nhập, phát triển; các cấp quản lý, các cơ
sở tham gia bồi dưỡng CBQLGD cần có những giải pháp đổi mới công tác bồi
dưỡng để nâng cao chất lượng CBQLGD trường THPT.
Đại hội XI của Đảng đã đề ra quan điểm: “Đổi mới căn bản, toàn diện nền
Giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa và hội nhập
quốc tế, trong đó đổi mới cơ chế quản lý giáo dục và đào tạo, phát triển đội ngũ
GV và CBQLGD là khâu then chốt...”. Nếu như công cuộc đổi mới GD&ĐT
nói chung là một việc làm rất khó, phức tạp và lâu dài, thì việc đổi mới công
tác bồi dưỡng CBQLGD trường THPT sẽ còn khó khăn hơn nhiều. Chúng ta
đã biết ảnh hưởng của công tác giáo dục đã là rất lớn và ảnh hưởng của công
tác QLGD còn lớn hơn nhiều.
Trong sự hình thành và phát triển của xã hội loài người đã chứng minh:
- Ảnh hưởng của người thợ: là sản phẩm được làm ra tốt hay xấu;
- Ảnh hưởng của người thầy: là một thế hệ người học được đào tạo ra
tốt hay xấu;
- Ảnh hưởng của người CBQLGD: là nhiều thế hệ người học được đào
tạo ra tốt hay xấu.
Với triết lý đó trong GD&ĐT chúng ta thấy:
- Đào tạo người phụ nữ biết cách làm mẹ sẽ được những đứa con
ngoan.


19

- Đào tạo người nam giới biết cách làm cha sẽ được những gia đình thịnh
vượng.
- Đào tạo người thầy giỏi sẽ được cả một thế hệ người học tốt.
- Đào tạo người CBQLGD giỏi sẽ được nhiều thế hệ người học tốt.
Thực tế này đòi hỏi chúng ta phải có những quan niệm nghiêm túc,

đúng đắn hơn về bồi dưỡng đội ngũ CBQLGD; phải có những đầu tư cụ thể
hơn cả về lực lượng tham gia giảng dạy CBQLGD cũng như cơ sở vật chất và
môi trường tham gia GD&ĐT. Cụ thể:
- Bồi dưỡng đội ngũ CBQLGD phải được tiến hành một cách đồng bộ,
khoa học, cơ bản và hệ thống theo hướng dẫn chung (chương trình của Bộ
GD&ĐT). Những người được xét bổ nhiệm làm CBQL các nhà trường nhất
thiết phải được đào tạo và phải có chứng chỉ (bằng) hành nghề. Ở thời điểm
hiện nay, thời điểm mà khoa học quản lý, nghề quản lý đang được xã hội tôn
vinh, không thể chọn CBQL nhà trường theo kiểu “bó đũa chọn cột cờ”, “đến
hẹn lại lên” và càng không thể làm CBQL nhà trường nếu chỉ mò mẫm, dựa
trên kinh nhiệm, thiếu cơ sở lý luận, thiếu cơ sở khoa học…
- Chương trình đào tạo CBQL của các trường bồi dưỡng CBQLGD cần
được thiết kế chính quy nhưng mềm dẻo, giảm kiến thức hàn lâm, tăng cường
thảo luận, giao lưu, cập nhật thông tin và nghiên cứu thực tế, hiện tại Bộ
GD&ĐT đã ban hành và áp dụng thí điểm chương trình bồi dưỡng CBQLGD
các cấp, theo Quyết định số 382/QĐ-BGD&ĐT ngày 20/01/2012.
- Quản lý là một nghề, muốn thành thạo nghề thì phải được đào tạo, bồi
dưỡng. Về lý thuyết nếu một người lần đầu đi học nghề phải được gọi là “đào
tạo nghề”, sau khi được đào tạo nếu được đi học thêm tùy tính chất, nội dung
của chương trình khóa học sẽ được gọi là “đào tạo lại” hoặc “bồi dưỡng”...
- Cần tăng cường tổ chức nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ
về QLGD như :


20

+ Xây dựng cơ chế ưu tiên tổ chức triển khai các hoạt động nghiên cứu
khoa học QLGD tại địa phương ; tăng cường áp dụng khoa học công nghệ tiên
tiến trong QLGD và bồi dưỡng CBQLGD.
+ Thường xuyên tổ chức Hội thảo về khoa học QLGD trên quy mô lớn,

tạo điều kiện cho cán bộ, giảng viên làm công tác bồi dưỡng CBQLGD ở các
tỉnh được tham gia nghiên cứu khoa học, tham gia hội thảo, học tập các kinh
nghiệm điển hình trong và ngoài nước về lĩnh vực khoa học QLGD; tiếp cận với
khoa học công nghệ tiên tiến và thực tiễn công tác QLGD đang diễn ra trong khu
vực để học hỏi và đúc rút kinh nghiệm.
Chăm lo phát triển đội ngũ CBQLGD vừa là một tất yếu khách quan
theo xu thế hội nhập, vừa nhằm thực hiện tốt đường lối, quan điểm của Đảng,
của Nhà nước và đây cũng là nhiệm vụ quan trọng, nhiệm vụ chính trị của
ngành GD&ĐT.
1.3. Công tác bồi dưỡng CBQL trường THPT
Công tác bồi dưỡng CBQLGD, đặc biệt là giáo dục phổ thông đã được
sự quan tâm chỉ đạo thường xuyên của Đảng, Chính phủ, Ngành Giáo dục và
Đào tạo cũng như của các tỉnh trong cả nước từ đầu những năm 1990. Năm
1997, Bộ GD&ĐT đã ban hành Quyết định 3481/QĐ-BGD&ĐT ngày
20/11/1997 về chương trình bồi dưỡng CBQLGD, trong đó có khung chương
trình bồi dưỡng CBQL các trường tiểu học, THCS và THPT. Trên cơ sở
Quyết định 3481/QĐ-BGD&ĐT, các cơ sở bồi dưỡng CBQLGD đã thực hiện
bồi dưỡng hàng chục ngàn CBQLGD các cấp và đã có những đóng góp đáng
kể vào công tác quản lý giáo dục của đất nước.
Bộ GD&ĐT cũng đã ban hành Chỉ thị số 22/2003/CT-BGDĐT, ngày
05/6/2003 về việc bồi dưỡng nhà giáo và CBQLGD hàng năm cho tất cả nhà
giáo và CBQLGD đang hoạt động trong lĩnh vực GD&ĐT phải được cử đi
học tập nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ nghề nghiệp hàng năm.


21

Đặc biệt, năm 2012 Bộ GD&ĐT đã ban hành và áp dụng thí điểm
chương trình bồi dưỡng CBQLGD các cấp, theo Quyết định số 382/QĐBGD&ĐT ngày 20/01/2012.
Các cơ sở bồi dưỡng CBQLGD đã thường xuyên cập nhật và bổ sung

vào chương trình bồi dưỡng các nội dung mới về đường lối, chính sách giáo
dục, các chuyên đề nâng cao năng lực quản lý chuyên môn, quản lý nhân sự,
quản lý tài chính và công tác giáo dục toàn diện học sinh.
Thực tế trong thời gian qua, việc bồi dưỡng nâng cao năng lực cho
CBQL trường THPT được chú trọng thực hiện và đạt được một số kết quả
như: Chương trình bồi dưỡng hiệu trưởng trường phổ thông theo hình thức
liên kết Việt Nam – Singapore; bồi dưỡng quản trị hiệu quả trường học của
Dự án Hỗ trợ Đổi mới Quản lý Giáo dục (SREM); bồi dưỡng nâng cao năng
lực quản lý tài chính, tài sản trong trường học; bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý
trường học,…
1.3.1. Mục tiêu
Bồi dưỡng CBQL trường THPT nâng cao nhận thức về chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, quan điểm của Đảng; chủ trương,
chính sách của Nhà nước và của ngành; nâng cao năng lực chuyên môn,
nghiệp vụ theo hướng cập nhật, hiện đại hóa phù hợp với thực tiễn phát triển
giáo dục Việt Nam để đáp ứng các yêu cầu đổi mới về mục tiêu, nội dung,
phương pháp giáo dục cho CBQLGD.
1.3.2. Nội dung
- Một số vấn đề về chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh;
các nghị quyết của Đảng, Quốc hội, các văn bản về đường lối chính sách của
Nhà nước và chủ trương của ngành; nhiệm vụ và kế hoạch GD&ĐT năm học
mới; tình hình chính trị, kinh tế, xã hội ở địa phương, trong nước và quốc tế.


22

- Các vấn đề về chuyên môn, nghiệp vụ, theo hướng cập nhật hóa, hiện
đại hóa tri thức bộ môn và đổi mới phương pháp giảng dạy.
- Kinh nghiệm hoạt động giáo dục, kinh nghiệm dạy học, các phương
pháp dạy học mới; các biện pháp cần thiết để đổi mới phương thức đào tạo,
phương pháp dạy học.

1.3.3. Phương pháp
Sử dụng nhiều phương pháp bồi dưỡng phù hợp với nội dung, bảo đảm
yêu cầu nghiêm túc, hấp dẫn, thiết thực, hiệu quả. Ngoài việc tổ chức nghe
giảng, còn phát triển các hình thức: thảo luận, đối thoại, thực hành, thao
giảng, tham quan thực tế,…
1.4. Vấn đề đổi mới công tác bồi dưỡng CBQL trường THPT
Chưa bao giờ chất lượng nguồn nhân lực được coi trọng như hiện nay.
Điều đó cũng có thể dễ dàng hiểu được khi mà bối cảnh của cuộc sống và
công việc đã có quá nhiều thay đổi khác xa so với những gì diễn ra 10 hay 20
năm trước. Chất lượng nguồn nhân lực phụ thuộc vào chất lượng nền giáo
dục, mà chất lượng nền giáo dục thì được quyết định bởi chất lượng của đội
ngũ GV và các nhà QLGD, chất lượng của đội ngũ CBQLGD lại phụ thuộc
vào chất lượng đào tạo, bồi dưỡng và kinh nghiệm thực tiễn.
Trong bối cảnh KT-XH trong nước và quốc tế có nhiều biến động, giáo
dục Việt Nam đang đối diện với nhiều cơ hội và thách thức. Toàn cầu hóa,
nền kinh tế tri thức và cách mạng khoa học công nghệ có những tác động lớn
làm thay đổi vai trò của người CBQL trường THPT. Vai trò của người
CBQLGD đã có xu hướng chuyển từ nhà quản lý thụ động sang một nhà lãnh
đạo và quản lý năng động, thích ứng với mọi sự thay đổi và đòi hỏi ngày càng
cao của xã hội.


23

Quan điểm xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta là khẳng định vai trò
quyết định và tầm quan trọng đặc biệt của đội ngũ nhà giáo và CBQL trong
việc điều hành hệ thống giáo dục đang ngày càng mở rộng và phát triển.
1.4.1. Sự cần thiết phải đổi mới công tác bồi dưỡng CBQL trường
THPT tỉnh Vĩnh Long, giai đoạn 2012-2020
Trong bối cảnh của thế kỉ 21 với 04 đặc điểm lớn: toàn cầu hóa; quốc tế

hóa; tốc độ phát triển nhanh của công nghệ thông tin; kinh tế thị trường, kinh
tế tri thức và vấn đề dân tộc, quốc gia thì nguồn nhân lực mà GD&ĐT tạo ra
cần phải có khả năng đáp ứng những yêu cầu của thời đại. Nhà trường và
quản lý nhà trường ở thế kỉ 21 đòi hỏi những kiến thức, kĩ năng và phẩm chất
đạo đức mới ở người CBQLGD.
Hiện nay trình độ và năng lực của đội ngũ CBQLGD chưa ngang tầm
với yêu cầu nhiệm vụ, tính chuyên nghiệp chưa cao; nhận thức về nội dung và
phương pháp quản lý nhà nước, quản lý chuyên môn nghiệp vụ GD&ĐT còn
hạn chế. Đa số CBQLGD chưa được đào tạo có hệ thống về quản lý, làm việc
dựa vào kinh nghiệm cá nhân, tính chuyên nghiệp thấp. Năng lực điều hành,
quản lý của một bộ phận CBQLGD còn bất cập trong công tác tham mưu, xây
dựng chính sách, chỉ đạo, tổ chức thực hiện và thực thi công vụ. Kiến thức về
pháp luật, về tổ chức bộ máy, về quản lý nhân sự, nhất là về quản lý tài chính
còn nhiều hạn chế dẫn đến lúng túng trong thực thi trách nhiệm và thẩm
quyền, đặc biệt khi được nhà nước phân quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm.
Phần lớn CBQLGD còn bị hạn chế về trình độ ngoại ngữ, kĩ năng sử dụng và
ứng dụng công nghệ thông tin.
Từ những nguyên nhân chủ quan và khách quan nêu trên thì việc đổi
mới công tác bồi dưỡng để nâng cao năng lực quản lý cho đội ngũ CBQL
trường THPT đáp ứng yêu cầu của thời đại là cần thiết.


24

1.4.2. Nội dung, phương pháp đổi mới công tác bồi dưỡng CBQL
trường THPT tỉnh Vĩnh Long, giai đoạn 2012-2020
Thực hiện Chiến lược phát triển GD&ĐT 2011-2020, trong đó đổi mới
QLGD là khâu đột phá, Bộ GD&ĐT đã chỉ đạo các cơ sở bồi dưỡng
CBQLGD, các địa phương chú trọng công tác bồi dưỡng CBQLGD. Đặc biệt,
là một số chương trình quan trọng được triển khai gần đây như: Bồi dưỡng

hiệu trưởng trường phổ thông theo hình thức liên kết Việt Nam - Singapore;
Bồi dưỡng quản trị hiệu quả trường học của Dự án Hỗ trợ Đổi mới Quản lý
Giáo dục (SREM),…
Ngày 20/01/2012, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT đã ban hành Quyết định số
382/QĐ-BGDĐT về việc ban hành các chương trình bồi dưỡng CBQLGD.
Chương trình mới được thiết kế theo định hướng tập trung giải quyết những
vấn đề cấp bách nhất về lãnh đạo và quản lý GD&ĐT. Bên cạnh nội dung lý
thuyết và kinh nghiệm thực tiễn được khái quát hóa cho từng đối tượng người
học, cho từng vùng miền, người học còn được yêu cầu phải hoàn thành một
đề án đổi mới cho cơ quan, trường học nơi mình đang công tác, dưới sự hỗ
trợ, tư vấn, giám sát và đánh giá của các cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp
của người học. Với chương trình này, học viên sẽ có 08 tuần học tập trung tại
cơ sở đào tạo và 03 tuần thực tế, viết thu hoạch/tiểu luận tại địa phương cùng
01 tuần đánh giá và tổng kết khóa học tại cơ sở đào tạo. Chương trình mới
chính là yếu tố vô cùng quan trọng góp phần phát triển năng lực lãnh đạo và
quản lý GD&ĐT cho đội ngũ CBQLGD trong thời kỳ mới.
Với nội dung chương trình bồi dưỡng của Bộ GD&ĐT hiện nay thay
đổi phù hợp với yêu cầu trong giai đoạn mới, các địa phương cần xây dựng kế
hoạch bồi dưỡng CBQLGD các cấp học theo từng giai đoạn với những nội
dung thiết thực, phù hợp.


25

1.4.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến đổi mới công tác bồi dưỡng CBQL
trường THPT tỉnh Vĩnh Long, giai đoạn 2012-2020
- Nhóm nhân tố chủ quan: Đó là trình độ, năng lực của đội ngũ CBQL
trường THPT, bao gồm phẩm chất chính trị, trình độ chuyên môn, trình độ
nhận thức, tinh thần vượt khó, trình độ tiếp nhận và vận dụng các kiến thức
hiểu biết vào thực tiễn quản lý tại đơn vị.

- Nhóm nhân tố khách quan: Đó là những yếu tố bên ngoài tác động
vào việc đổi mới công tác bồi dưỡng cho CBQL trường THPT.
- Chủ trương của Đảng, Nhà nước và Ngành về đổi mới công tác bồi
dưỡng nhằm nâng cao năng lực đội ngũ CBQL trường THPT như: Chỉ thị 40CT/TW ngày 15/6/2004 của Ban Bí thư về việc xây dựng, nâng cao chất
lượng đội ngũ nhà giáo và CBQL giáo dục; Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của
Đảng về phát triển GD&ĐT; Chiến lược phát triển giáo dục 2011-2020 ban
hành kèm theo Quyết định số 711/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ;
Chương trình hành động của ngành giáo dục thực hiện chiến lược phát triển
giáo dục Việt Nam 2012-2020, Kết luận số 51-KL/TW ngày 29/10/2012 của
Hội nghị lần thứ 6 BCHTW Đảng khóa XI và Chỉ thị số 02/CT-TTg ngày
22/01/2013 của Thủ tướng Chính phủ về đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT
ban hành kèm theo Quyết định số 1215/QĐ-BGDĐT ngày 04/4/2013 của Bộ
trưởng Bộ GD&ĐT,… Đây là những cơ sở pháp lý quan trọng để thực hiện
công tác bồi dưỡng nâng cao năng lực cho CBQL trường THPT.
- Các điều kiện phục vụ cho việc đổi mới công tác bồi dưỡng CBQL
trường THPT bao gồm: cơ sở vật chất, tài chính, chế độ chính sách, môi
trường xã hội,…là điều kiện quan trọng giúp cho việc đổi mới công tác bồi
dưỡng CBQL trường THPT đạt hiệu quả.


×