Tải bản đầy đủ (.doc) (147 trang)

Một số giải pháp đổi mới cơ chế quản lý các trường Đại học công lập trực thuộc Bộ Giáo dục và đào tạo tại Thành phố Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (919.68 KB, 147 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

ĐỖ HỮU TUYẾT

MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI CƠ CHẾ QUẢN LÝ CÁC
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP TRỰC THUỘC
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Nghệ An, tháng 8/ 2013


2

LỜI CẢM ƠN

Với tình cảm chân thành, xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu, Phòng
Đào tạo Sau đại học, Khoa Quản lý Giáo dục, Phòng Quản lý Khoa học-Thiết
bị trường Đại học Vinh, Ban Giám hiệu trường Đại học Sài gịn, q thầy
giáo, cơ giáo đã tận tình giảng dạy, giúp đỡ, cung cấp tài liệu và hướng dẫn
tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu, các đồng nghiệp đã tạo mọi điều kiện
hỗ trợ giúp đỡ; lãnh đạo cùng cán bộ quản lý Phòng ban chức năng các trường
Đại học Sư phạm, Đại học Kinh tế, Đại học Sư phạm Kỹ thuật, Đại học Luật,
Đại Sư phạm TDTT, Đại học Mở, Đại học Nông Lâm, Cao đẳng Sư phạm
Trung ương tại Tp.Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện cho tơi được điều tra, khảo
sát để có dữ liệu viết luận văn. Đặc biệt, tơi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc


nhất đến PGS.TS.Thái Văn Thành, người hướng dẫn khoa học đã quan tâm,
tận tình giúp đỡ hướng dẫn tơi trong suốt q trình học tập, nghiên cứu và
hoàn thành luận văn.
Tuy bản thân đã rất cố gắng nhưng chắc chắn luận văn vẫn cịn những
khiếm khuyết. Kính mong nhận được sự góp ý kiến chân tình của quý thầy
giáo, cô giáo, các bạn đồng nghiệp và những ai quan tâm.
Xin trân trọng cảm ơn!
Nghệ An, tháng 8 năm 2013
Tác giả

Đỗ Hữu Tuyết
BẢNG KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT


3

GDĐH

:

Giáo dục đại học

CĐ, ĐH

:

Cao đẳng, đại học

ĐHCL


:

Đại học công lập

GD – ĐT

:

Giáo dục và đào tạo

SV

:

Sinh viên

GV

:

Giảng viên

CBVC

:

Cán bộ, viên chức

QLNN


:

Quản lý nhà nước

QLNNGDĐH :

Quản lý nhà nước giáo dục đại học

QLHCNN

:

Quản lý hành chính nhà nước

KT – XH

:

Kinh tế - xã hội

LĐ-TB-XH

:

Lao động - Thương binh-Xã hội

UBND

:


Ủy ban nhân dân

CNH

:

Cơng nghiệp hóa

KĐCLĐH

:

Kiểm định chất lượng đại học



:

Lãnh đạo

WTO

:

Tổ chức thương mại thế giới (World
Trade Oganization)

MỤC LỤC

Chương


Mục

Nội dung

Trang


4

MỞ ĐẦU
1
Lý do chọn đề tài
2
Mục đích nghiên cứu
3
Khách thể và đối tượng nghiên cứu
4
Giả thuyết khoa học
5
Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
6
Phương pháp nghiên cứu
7
Đóng góp của luận văn
8
Cấu trúc của luận văn
NỘI DUNG
Cơ sở lý luận về đổi mới cơ chế quản lý các trường đại
Chương 1

học công lập
1.1
Lịch nghiên cứu nghiên cứu vấn đề
1.1.1
Các nghiên cứu ngoài nước
1.1.2
Các nghiên cứu ở trong nước
1.2
Một số khái niệm cơ bản
1.2.1
Trường đại học công lập
Quản lý, quản lý giáo dục; cơ chế quản lý và giải
1.2.2
pháp đổi mới cơ chế quản lý giáo dục đại học
Một số vấn đề lý luận của cơ chế quản lý các
1.3
trường đại học công lập.
Sự cần thiết phải đổi mới cơ chế quản lý các
1.3.1
trường đại học
Nội dung đổi mới cơ chế quản lý các trường đại
1.3.2
học công lập
Các yếu tố ảnh hưởng đến việc đổi mới cơ chế
1.3.3
quản lý trường đại học
Thực trạng công tác quản lý và đổi mới cơ chế quản lý
Chương 2 các trường đại học công lập trực thuộc Bộ GD-ĐT tại
THCM
Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội

2.1
và giáo dục đại học tại TP. HCM
2.1.1
Điều kiện tự nhiên

1
3
3
4
4
4
5
6
7
7
7
14
20
20
21
29
29
31
31
36
36
36


5


2.1.2

Kinh tế - xã hội
Toàn cảnh hệ thống các trường đại học, cao
2.2
đẳng tại thành phố Hồ Chí Minh
Hệ thống các trường đại học, cao đẳng tại Tp.Hồ
2.2.1
Chí Minh
Các trường đại học công lập trực thuộc Bộ GD-ĐT
2.2.2
tại thành phố Hồ Chí Minh
Thực trạng cơng tác quản lý các trường đại học
2.3
công lập trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo tại
TP. HCM qua số liệu khảo sát
2.3.1
Khái quát về khảo sát thực trạng
2.3.2
Chọn mẫu và kết quả khảo sát
Kết quả khảo sát công tác quản lý giáo dục
thông qua ý kiến của Ban giám hiệu nhà
2.4
trường, Ban chủ nhiệm khoa, Trưởng, phó
phịng ban
Thực trạng đổi mới cơ chế quản lý các trường
2.5
đại học công lập trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào
tạo tại thành phố Hồ Chí Minh

2.5.1
Về quản lý tuyển sinh
2.5.2
Về quản lý đào tạo
Về liên kết đào tạo, nghiên cứu khoa học, công tác
2.5.3
bồi dưỡng CB-GV
2.5.4
Về thực hiện 3 công khai
2.5.5
Về quản lý tổ chức bộ máy
Đánh giá chung về đổi mới cơ chế quản lý của
2.6
các trường ĐH, CĐ trực thuộc Bộ GD-ĐT tại
thành phố Hồ Chí Minh
2.6.1
Những kết quả đạt được
2.6.2
Một số hạn chế
Một số giải pháp đổi mới cơ chế quản lý các trường đại
Chương 3
học công lập trực thuộc Bộ tại TP. Hồ Chí Minh
3.1
Nguyên tắc đề xuất giải pháp
3.2
Các giải pháp đổi mới cơ chế quản lý các
trường đại học công lập trực thuộc Bộ GD-ĐT

37
40

40
43
47
47
48
49

68
68
70
71
72
73
74
74
77
81
81
82


6

3.2.1
3.2.2
3.2.3
3.2.4
3.2.5
3.2.6
3.2.7

3.3

tại Tp.Hồ Chí Minh
Giải pháp hồn thiện, ban hành các văn bản pháp
luật quản lý giáo dục đại học
Giải pháp tăng cường giao quyền tự chủ, từng
bước phân cấp quản lý cho các trường đại học
Giải pháp tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra,
giám sát của Bộ Giáo dục và Đào tạo
Giải pháp đổi mới cơ chế quản lý tài chính, giao
ngân sách cho các trường đại học
Giải pháp đẩy mạnh 3 công khai trong giáo dục
đại học
Giải pháp xây dựng cơ chế cho các trường đại học
chủ động trong hợp tác quốc tế về đào tạo, nghiên
cứu khoa học và chuyển giao công nghệ
Giải pháp đổi mới công tác đánh giá trường đại
học
Thăm dị tính cần thiết và tính khả thi của các
giải pháp đề xuất.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

82
86
91

93
96
97
101
102
108
111


7

Sau gần 30 năm thực hiện đổi mới, đất nước ta đã và đang thu được
những thành tựu to lớn, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị,
văn hố xã hội và giáo dục đào tạo. Thực hiện chủ trương đường lối của đảng
và nhà nước, hiện nay cả nước và toàn ngành giáo dục và đào tạo đang tiếp
tục thực hiện đổi mới căn bản và tồn diện giáo dục và đào tạo nói chung
cũng như giáo dục đại học nói riêng. Những năm gần đây, công tác đổi mới
giáo dục mà trọng tâm là đổi mới quản lý về giáo dục đại học được đề cập rất
nhiều thông qua các văn bản quản lý nhà nước như: Nghị quyết số
50/2010/QH12 ngày 19/6/2010 của Quốc hội khóa XII về việc thực hiện chính
sách, pháp luật về thành lập trường, đầu tư và bảo đảm chất lượng đào tạo đối với giáo dục
đại học; Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP ngày 02/11/2005 của Chính phủ về đổi

mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006 - 2020;
Chỉ thị số 296/CT - TTg ngày 27/2/2010 của Thủ tướng Chính phủ về đổi mới
quản lý giáo dục đại học giai đoạn 2010 - 2012; Chương trình hành động của
Bộ Giáo dục và Đào tạo thực hiện Nghị quyết số 05 - NQ/BCSĐ ngày
06/01/2010 của Ban cán sự Bộ Giáo dục - Đào tạo về đổi mới quản lý giáo
dục đại học giai đoạn 2010 – 2012 … đã cho thấy giáo dục đại học đang là
một nội dung ưu tiên trong sự nghiệp đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo

dục của nước nhà.
Mục tiêu của đổi mới quản lý giáo dục đại học là nhằm nâng cao hơn
nữa chất lượng giáo dục đại học, cung cấp cho xã hội nguồn nhân lực đủ cả
chất và lượng phục vụ cho q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
cũng như cơng cuộc đi lên chủ nghĩa xã hội. Chất lượng và hiệu quả hoạt
động giáo dục đại học phụ thuộc rất lớn vào công tác quản lý về giáo dục đại
học. Giáo dục đại học trong gần 30 năm qua đã đóng vai trò quan trọng là
cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho nền kinh tế. Từ khi ra đời, giáo
dục đại học đã giữ vai trò chủ đạo trong toàn bộ hệ thống giáo dục, trực tiếp


8

tác động đến trình độ phát triển của khoa học và cơng nghệ, góp phần quan
trọng vào sự tăng trưởng kinh tế, ổn định xã hội, đảm bảo an ninh quốc gia,
quốc phòng và hội nhập quốc tế thắng lợi. Rõ ràng là sau khi Chiến lược phát
triển giáo dục được triển khai thực hiện từ năm 2001 đến năm 2010, giáo dục
đại học nước ta đã có sự khởi sắc, phát triển, huy động nhiều hơn các nguồn
lực xã hội và đạt được nhiều kết quả tích cực.
Tuy vậy, trong quá trình phát triển giáo dục đại học cũng đã bộc lộ
nhiều hạn chế và yếu kém như hệ thống văn bản pháp quy phục vụ quản lý
giáo dục đại học vừa thiếu vừa không đồng bộ và không theo kịp thực tiễn.
Đặc biệt, kỷ cương trong quản lý chưa nghiêm. Việc quản lý giáo dục đại học
bị phân tán, có quá nhiều đầu mối. Việc phân cấp, phân công lại chậm trễ; vấn
đề xử lý công việc hành chính đối với các cơ sở giáo dục đại học, những đánh
giá chỉ mang tính định tính, bình qn và thiếu tính khuyến khích … Nguyên
nhân căn bản, sâu xa của các yếu kém của hệ thống giáo dục đại học chính là
sự yếu kém trong quản lý nhà nước về giáo dục đại học và yếu kém trong
quản lý của bản thân các trường đại học, cao đẳng. Đây là hai nguyên nhân cơ
bản làm cho công tác quản lý nhà nước về giáo dục chưa được như mong

muốn, dẫn đến chất lượng đào tạo đại học còn thấp và chưa theo kịp với thực
tiễn phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Hiện nay giáo dục đại học đang
đứng trước mâu thuẫn lớn giữa yêu cầu phát triển tồn diện về quy mơ, đa
dạng về loại hình với việc nâng cao chất lượng giáo dục tồn diện. Việc đổi
mới cơ chế quản lý, nâng cao chất lượng hiệu quả quản lý đối với giáo dục đại
học là một yêu cầu cấp thiết nhằm góp phần đổi mới căn bản, toàn diện sự
nghiệp giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực cho sự
nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước. Đúng như Nghị quyết Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định: “Phát triển giáo dục là quốc sách
hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng


9

chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong
đó đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ
quản lý là khâu then chốt” [24; tr.130 ].
Thực hiện chủ trương về đổi mới quản lý giáo dục đại học như đã nói ở
trên, những năm qua cùng với các trường ĐH-CĐ trong cả nước, các trường
ĐH-CĐ cơng lập trực thuộc Bộ GD-ĐT tại Tp.Hồ Chí Minh cũng đã không
ngừng được đổi mới về mọi mặt: Quản lý, đào tạo, nghiên cứu khoa học, xây
dựng cơ sở vật chất… Tuy nhiên, để có thể góp phần cung ứng nguồn nhân
lực chất lượng cao cho cả nước cũng như cho Tp.Hồ Chí Minh và xa hơn nữa
là cho nhu cầu xuất khẩu về dịch vụ giáo dục đào tạo trong khu vực và thế
giới địi hỏi cơng tác quản lý các trường ĐH-CĐ nói chung, cũng như công
tác quản lý các trường ĐH-CĐ công lập trực thuộc Bộ GD-ĐT tại Tp.Hồ Chí
Minh nói riêng cần phải tiếp tục được đổi mới tích cực và tồn diện hơn nữa,
trong đó then chốt nhất vẫn là vấn đề đổi mới về cơ chế quản lý.
Với lý do trên tác giả chọn đề tài: “ Một số giải pháp đổi mới cơ chế
quản lý các trường đại học công lập trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo tại

thành phố Hồ Chí Minh” .
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đề xuất một số giải pháp
nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý các trường đại học công lập trực
thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo tại thành phố Hồ Chí Minh.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Vấn đề đổi mới cơ chế quản lý các trường đại học công lập trực thuộc
Bộ GD-ĐT.


10

3.2. Đối tượng nghiên cứu
Giải pháp đổi mới cơ chế quản lý các trường đại học công lập trực
thuộc Bộ trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
4. Giả thuyết khoa học
Nếu xây dựng được các giải pháp đổi mới cơ chế quản lý có cơ sở khoa
học và có tính khả thi thì có thể nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý các
trường đại học công lập trực thuộc Bộ GD-ĐT tại thành phố Hồ Chí Minh
5. Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
5.1. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của đề tài.
- Nghiên cứu cơ sở thực tiễn của đề tài.
- Đề xuất một số giải pháp đổi mới cơ chế quản lý các trường đại học công
lập trực thuộc Bộ GD-ĐT tại thành phố Hồ Chí Minh.
5.2. Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu được giới hạn trong phạm vi các trường cao đẳng và
đại học công lập trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo tại thành phố Hồ Chí
Minh.

6. Phương pháp nghiên cứu:
6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Nhóm phương pháp này nhằm thu tập các thơng tin lý luận để xây dựng
cơ sở lý luận của Đề tài. Trong nhóm này có các phương pháp cụ thể sau đây:
- Phương pháp phân tích-tổng hợp tài liệu;
- Phương pháp khái quát hóa các nhận định độc lập.


11

6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Nhóm phương pháp này nhằm thu thập các thông tin từ thực tiễn để
xây dựng cơ sở lý luận thực tiễn của Đề tài. Trong nhóm này có các phương
pháp cụ thể sau đây:
- Phương pháp điều tra;
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm thực tiễn;
- Phương pháp nghiên cứu các sản phẩm hoạt động;
- Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia;
6.3. Phương pháp thống kê tốn học
Để xử lý số liệu, thơng tin thu được.
7. Đóng góp của luận văn
7.1. Về mặt lý luận
Luận văn hệ thống hóa các vấn đề lý luận về đổi mới cơ chế quản lý
các trường đại học công lập trực thuộc Bộ GD-ĐT; làm rõ những đặc trưng
trong đổi mới cơ chế quản lý các trường đại học cơng lập đó.
7.2. Về mặt thực tiễn
Luận văn khảo sát tương đối toàn diện cơ chế quản lý các trường đại
học công lập trực thuộc Bộ GD-ĐT tại thành phố Hồ Chí Minh, từ đó đề xuất
các giải pháp có cơ sở khoa học và có tính khả thi để nâng cao hiệu lực, hiệu
quả cơ chế quản lý các trường đại học công lập trực thuộc Bộ GD-ĐT tại

TPHCM.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, Luận văn
gồm 3 chương:


12

Chương 1. Cơ sở lý luận về đổi mới cơ chế quản lý các trường đại học
công lập.
Chương 2. Thực trạng quản lý và đổi mới cơ chế quản lý các trường đại
học công lập trực thộc Bộ Giáo dục - Đào tạo tại thành phố Hồ Chí Minh
Chương 3. Một số giải pháp đổi mới cơ chế quản lý các trường đại học
công lập trực thuộc Bộ Giáo dục - Đào tạo tại thành phố Hồ Chí Minh

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐỔI MỚI CƠ CHẾ QUẢN LÝ CÁC TRƯỜNG
ĐẠI HỌC CÔNG LẬP


13

1.1. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
1.1.1. Các nghiên cứu ngoài nước
1.1.1.1. GDĐH ở Hoa Kỳ
GDĐH Hoa Kỳ là một hệ thống GDĐH đồ sộ, đa dạng và phức tạp
nhất thế giới. Nếu chưa thâm nhập lâu dài vào nền GDĐH nước này, người ta
sẽ khó hiểu biết sâu sắc về nó. Để có thể học tập những gì từ hệ thống này
nhằm áp dụng vào phục vụ quản lý GDĐH Việt Nam cần phải hiểu được
những đặc trưng quan trọng nhất, bản chất nhất của nền GDĐH Hoa Kỳ qua

lịch sử phát triển và hiện trạng của nó.
Đặc điểm cơ bản nhất và rất riêng biệt của nền đại học Hoa Kỳ là vai
trò quản lý trực tiếp mờ nhạt của nhà nước và quyền tự chủ các trường được
đề cao.
Định hướng thị trường mạnh, tự do cạnh tranh giữa các trường đại học
cũng là đặc điểm cơ bản của GDĐH Hoa Kỳ.
Nền đại học Hoa Kỳ có sự phân hố lớn về trình độ và chất lượng giữa
các trường.
Một số bài học kinh nghiệm từ mơ hình GDĐH Hoa Kỳ:
- Vai trò của Nhà nước trong điều hành hệ thống GDĐH: Vận hành của
hệ thống GDĐH nước ta còn kém năng động so với hệ thống GDĐH Hoa Kỳ.
Điều này được lý giải là do ở Hoa Kỳ, tính thị trường tác động mạnh mẽ lên
mọi khía cạnh vận hành của hệ thống. Sự điều chỉnh của Nhà nước, nếu có,
thường chỉ là gián tiếp. Cịn ở nước ta, thói quen theo cơ chế kế hoạch hóa tập
trung và bao cấp vẫn còn khá nặng nề, và tác động của Nhà nước trong điều
hành GDĐH vẫn thường là áp đặt trực tiếp.


14

- Đại chúng hóa GDĐH nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về đời
sống văn hoá và nguồn nhân lực trình độ cao, điều này đặc biệt cần thiết trong
điều kiện hiện nay ở nước ta.
Việc tăng quy mô GDĐH ở Việt Nam là một chủ đề gây nhiều tranh
luận vì nhiều học giả cho rằng tăng quy mơ GDĐH là nguyên nhân của tình
trạng “thừa thầy thiếu thợ”. Tuy nhiên, GDĐH Hoa Kỳ cho thấy sự tăng
nhanh quy mô phải đồng thời với đảm bảo chất lượng GDĐH. Và không phải
bao giờ chất lượng cũng tỷ lệ nghịch với quy mơ.
- Có cơ chế tăng cường mở rộng việc áp dụng học chế tín chỉ:
GDĐH ở nước ta hiện đã có nhiều thay đổi. Học chế “học phần” đã ra

đời và được triển khai trong toàn bộ hệ thống các trường ĐH, CĐ từ năm
1988 đến nay. Học chế học phần được xây dựng trên tinh thần tích lũy dần
kiến thức theo các mơđun trong q trình học tập, tức là cùng theo ý tưởng
của học chế tín chỉ xuất phát từ Mỹ. Tuy nhiên, về một số phương diện, học
chế học phần chưa thật sự mềm dẻo như học chế tín chỉ của Mỹ. Nói cách
khác chúng ta chưa tận dụng triệt để các ý tưởng làm mềm dẻo quy trình đào
tạo của học chế tín chỉ của Mỹ.
- Chính sách thu hút nhân tài: Các đại học ở Hoa kỳ tuyển sinh rất chặt
chẽ, thu hút học sinh giỏi trên thế giới thông qua học bổng và sau khi học
xong nếu xuất sắc thì thu hút ở lại trường (khơng ít người được giải thưởng
Nobel tuy thuộc quốc tịch Hoa Kỳ nhưng vốn là người nhập cư). Đây là hiện
tượng mà người ta gọi là “chất xám của thế giới chảy về Hoa Kỳ”.

1.1.1.2. GDĐH ở Anh


15

Mơ hình giáo dục đại học ở xứ sở sương mù được nêu lên như một tấm
gương sáng về một hệ thống giáo dục bậc cao được hưởng sự tự trị về thể chế
rất rộng rãi. Trước năm 1992, Nhà nước quản lý các trường đại học thông qua
việc ban hành, kiểm soát thi hành điều lệ và cấp phát tài chính. Các trường đại
học ở đây thực hiện cơ chế quản lý dựa vào hai Hội đồng là, Hội đồng điều
hành và Hội đồng học thuật và hoàn toàn có quyền sử dụng kinh phí đã được
cấp mà khơng có sự can thiệp hay kiểm tra của nhà nước. Sinh viên ở đây bắt
buộc phải ở trong ký túc xá, hợp thành một cộng đồng sinh hoạt và học tập
dưới sự quản lý của nhà trường. Tuy nhiên, hạn chế của giáo dục đại học ở
Anh so với các nước khác chi phí trung bình 15.000 USD một năm đối với
một sinh viên là quá cao, chỉ có những gia đình khá giả mới có khả năng chi
trả khoản tiền khổng lồ này. Hiện nay, có thể thấy rằng, giáo dục đại học ở

Anh dường như chỉ mở cửa đối với tầng lớp giàu có ở trong và ngồi nước.
1.1.1.3. GDĐH ở Cộng hòa Pháp
Nền giáo dục đại học của Pháp đã có một lịch sử lâu đời, rất cởi mở. Ở
Pháp khơng hề có sự phân biệt giữa sinh viên nước ngoài với sinh viên Pháp,
cùng một tiêu chuẩn xét tuyển, cùng một loại bằng cấp. Luật pháp của Pháp
quy định như vậy. Là đất nước của quyền con người và quyền công dân, Pháp
không chấp nhận bất cứ hình thức phân biệt đối xử nào.
Đào tạo đại học của Pháp vừa hiện đại vừa năng động, nền giáo dục
này đào tạo ra đội ngũ các cán bộ thực thi của một quốc gia đi tiên phong
trong khoa học, quản lý và văn hóa. Ngày nay, Pháp là cường quốc kinh tế
lớn thứ tư và là nước xuất khẩu dịch vụ lớn thứ hai trên Thế giới.
Trong hệ thống giáo dục của Cộng hòa Pháp, Nhà nước sử dụng đại
học như một cơng cụ để hiện đại hố xã hội. Các trường đại học ở pháp có
quyền chủ động xây dựng chương trình, nội dung và phương pháp giảng dạy


16

cũng như nghiên cứu khoa học. Năm 1968, Pháp tiến hành cải cách giáo dục,
quyền tự trị của các trường đại học được mở rộng thêm về lĩnh vực tài chính,
nhân sự,…Mơ hình giáo dục đại học Pháp được hình thành trong cơ chế thị
trường, do đó có thể khuyến khích sự cạnh tranh về nhân lực và chất lượng
giữa các trường đại học. Giáo dục đại học Pháp được chia thành hai hệ là đào
tạo tổng quát và đào tạo nghề nghiệp. Hai hệ này không tách rời nhau-giữa
hai hệ thường có cầu nối để sinh viên có thể chuyển từ hệ này sang hệ kia.
1.1.1.4. GDĐH ở CHLB.Đức
Mô hình giáo dục đại học Đức do Uyn-hem Vơn Hăm-bơn sáng lập từ
thế kỷ XIX với mục đích xây dựng những trung tâm nghiên cứu đại học hiện
đại để “đẩy lùi những biên giới của kiến thức”. Mơ hình này khơng coi trọng
sự can thiệp của chính trị và quyền lực nhà nước đối với giáo dục đại học. Nó

đảm bảo tính độc lập, tự quyết của các trường đại học và quyền tự do của các
thành viên được theo đuổi việc nghiên cứu mà khơng có sự can thiệp của
chính quyền. Chính phủ liên bang và các bang chỉ có quyền hạn quản lý một
phần cơng việc của các trường đại học, thơng qua việc cấp phát tài chính và
qua Hội đồng đại học để bàn bạc đánh giá công việc của các trường. Các
trường đại học ở Đức có tồn quyền tuyển dụng, trả lương và thưởng-phạt
nhân sự của mình.
1.1.1.5. GDĐH ở Nhật Bản
Nhật Bản đã chú trọng xây dựng một nền GDĐH hiện đại ngay từ
những năm 1950. Hiện nay, Nhật bản đã bước vào giai đoạn đại chúng hóa
GDĐH với tỷ lệ học sinh tốt nghiệp trung học bậc cao vào các trường cao
đẳng, đại học khoảng 60% (2009). Trong các kỳ đánh giá của khối OECD về
chất lượng giáo dục đã phần nào cho thấy tính đúng đắn và hiệu quả của các
chính sách phát triển GDĐH của Nhật bản trong nhiều thập kỷ qua.


17

Hệ thống GDĐH mới, hiện đại của Nhật Bản được hình thành từ sau
khi kết thúc Thế chiến thứ II theo mơ hình Mỹ (America model) với hệ thống
đào tạo 4 cấp ở bậc đại học: Cao đẳng, cử nhân, thạc sĩ và tiến sĩ. Đến nay,
Nhật Bản đã có hơn một nghìn trường đại học và cao đẳng với hơn 3 triệu
sinh viên trong đó phần lớn là ở loại hình trường tư.
* Bài học kinh nghiệm:
Qua hơn nửa thế kỷ tái cấu trúc hệ thống GDĐH (1945) và đặc biệt là
các chính sách và biện pháp cải cách GDĐH từ 1984 cho đến nay, hệ thống
GDĐH Nhật Bản đã có những thay đổi cơ bản cả về cấu trúc hệ thống, loại
hình, quy mơ và trình độ đào tạo. Nhật Bản đã có một hệ thống GDĐH có quy
mô tương xứng với chất lượng và khả năng cạnh tranh quốc tế, đáp ứng nhu
cầu phát triển của xã hội. Những kinh nghiệm của Nhật Bản rất có giá trị và ý

nghĩa đối với Việt Nam, đó là:
- Cải cách GDĐH là một cơng việc khó khăn, lâu dài, do đó cần có tầm
nhìn xa, sáng suốt trong hoạch định chính sách và sự nỗ lực khơng ngừng
cũng như sự kiên quyết, tâm huyết trong tổ chức thực hiện.
- Từng bước bãi bỏ cơ chế bao cấp nhà nước cho GDĐH (cơng lập). Áp
dụng mơ hình và phương pháp quản lý doanh nghiệp phù hợp với đặc điểm
của đại học (doanh nghiệp tri thức) nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và chất
lượng đào tạo, nghiên cứu và hiệu quả đầu tư.
- Cân đối, hài hòa giữa chủ nghĩa quốc gia và chủ nghĩa quốc tế.
- Đề cao vai trò và thực quyền quyết định các vấn đề cốt lõi cải cách
GDĐH của Chính phủ và Bộ Giáo dục - Đào tạo. Bên cạnh đó, khơng nên
xem nhẹ các khuyến nghị của các tổ chức tư vấn, các chuyên gia, các nhà
khoa học, nhà quản lý, nói chung là đội ngũ trí thức.


18

- Đổi mới mơ hình quản lý GDĐH phải tiến hành song song với đổi
mới quản lý trên các ngành, lĩnh vực khác và của cả nền hành chính.
- Chú trọng phát triển các trường đại học đa ngành, đa lĩnh vực nhưng
phải tổ chức, sắp xếp lại hợp lý đồng thời tăng cường giao quyền tự chủ,
tự chịu trách nhiệm cho họ.
- Nâng cao vai trò của các tổ chức chuyên môn, tổ chức xã hội, tổ chức
xã hội - nghề nghiệp, các tổ chức đánh giá độc lập trong đánh giá và kiểm
định chất lượng GDĐH thông qua đánh giá 3 bên.
- Tăng cường liên kết với đại học quốc tế (mời giáo sư sang nghiên
cứu và giảng dạy, quốc tế hóa chương trình đào tạo, liên kết đào tạo... )
1.1.1.6. Quản lý giáo dục đại học Thái Lan
Chỉ trong vòng 50 năm phát triển, Thái Lan đã có một hệ thống GDĐH
tương đối hoàn chỉnh. Một số ĐH Thái Lan đã trở thành những trung tâm giáo

dục có uy tín ở châu Á, thu hút được nhiều sinh viên nước ngoài đến học.
Trong công cuộc cải cách GDĐH, Uỷ ban Điều hành Cải cách GDĐH
được thành lập với người đứng đầu là một Phó Thủ tướng. Uỷ ban chịu trách
nhiệm ra các quyết định liên quan đến định hướng của cải cách giáo dục, xây
dựng kế hoạch làm việc cũng như giám sát việc thực hiện các giải pháp cải
cách kể cả hình thành chiến lược cần thiết. Để tạo điều kiện cho sự hoạt động
của uỷ ban, 9 nhóm chuyên trách được thành lập. Trong số này, có 3 nhóm
chịu trách nhiệm về cải cách GDĐH là:
- Nhóm chun trách về Tài chính GDĐH
- Nhóm chun trách về Hành chính và Quản lý GDĐH
- Nhóm chun trách về Luật GDĐH của các chuyên gia, các học giả,
tổ chức


19

Bài học kinh nghiệm: Tổng quan về cách thức và nội dung chương
trình cải cách GDĐH ở Thái Lan như trên cho thấy quyết tâm và nỗ lực cũng
như sự táo bạo của Chính phủ trong việc tìm tịi, thử nghiệm và áp dụng các
phương pháp quản lý mới.
Thái Lan xây dựng một nền giáo dục tồn diện, tích cực cải cách chính
sách, thiết kế lại hệ thống giáo dục đại học quốc gia một cách bài bản, có hệ
thống, qua đó cho phép cơng dân của mình phát huy kiến thức, sức sáng tạo
và tiềm năng của họ.
Thái Lan đã áp dụng triết lý giáo dục đại học và học tập nhiều mơ hình
GDĐH từ một số quốc gia phương Tây. Tuy nhiên trong thực tế, các yếu tố
tinh hoa văn hóa dân tộc cũng ln được đề cao.
Tóm lại: học tập kinh nghiệm công cuộc cải cách GDĐH ở hai quốc
gia Á châu như Thái Lan, Nhật Bản và giáo dục đại học Hoa Kỳ sẽ đem lại
những giá trị không nhỏ đối với giáo dục đại học nước ta trong thời kỳ mới.

GDĐH các quốc gia này đã phát triển mạnh mẽ và đạt được nhiều thành quả.
Vậy Việt Nam có thể học tập được gì từ hệ thống này? Đây là câu hỏi không
dễ trả lời. Để có giải đáp đúng đắn, trước tiên chúng ta phải có những hiểu
biết sâu sắc về các hệ thống giáo dục này. So sánh với nền GDĐH nước nhà
để từ đó rút ra những điểm tương đồng và khác biệt, sau đó có những giải
pháp phù hợp.
Nhận xét: Qua một số thông tin về hệ thống giáo dục và giáo dục đại
học của một số nước, chúng ta thấy một số vấn đề cần quan tâm sau đây:
1. Tất cả chương trình giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói
riêng của các nước trên thế giới đều hướng đến mục tiêu đào tạo nguồn nhân
lực có chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu cụ thể của quá trình phát triển đất
nước.


20

2. Chính phủ ln có cơ chế, chính sách quản lý và quan tâm đến hoạt
động giáo dục đại học thơng qua chính sách đầu tư ngân sách, phân quyền
quản lý cho địa phương, giao quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm cho cơ sở,
đa dạng hóa hoạt động giáo dục đại học đáp ứng thiết thực mục tiêu đào tạo
nguồn nhân lực.
3. Giáo dục đại học luôn là nội dung chính trong các cuộc cải cách
giáo dục hoặc các chiến lược phát triển giáo dục của các nước, trong đó yếu tố
con người và yếu tố tài chính luôn luôn được đề cập.
1.1.2. Các nghiên cứu ở trong nước
1.1.2.1. Thời kỳ trước đổi mới
* Giai đoạn trước 1975 ở miền Bắc
Vào năm 1070 Vua Lý Thánh Tông đã thành lập Văn Miếu tại Thủ đô
Thăng Long (Hà Nội). Khoa thi đầu tiên được tổ chức vào năm 1075. Đến
thời Vua Lý Nhân Tông, “Quốc Tử Giám” được thành lập để con vua và con

các đại thần học. Đây là trường Đại học đầu tiên của Việt Nam với hơn 4000
năm văn hiến.
Vào năm 1902, hệ Đại học được thiết lập đầu tiên ở Việt Nam khi Pháp
thành lập trường đại học Y-Dược tại Hà Nội. Năm 1938, trường này có cả
thảy 208 sinh viên. Trong đó, tổng số sinh viên Việt Nam của 3 kỳ (BắcTrung-Nam) là 176 sinh viên, chiếm 85%. Số sinh viên còn lại là Pháp (25
SV), Lào (2 SV), Trung quốc (3 SV), Cămbốt (1 SV), và Ấn độ(1 SV).
Trải qua các thời kỳ Phong kiến, thời kỳ Pháp thuộc cho đến trước khi
Cách mạng tháng Tám thành công năm 1945, nền giáo dục cao đẳng và đại
học chuyên nghiệp do Pháp để lại vô cùng nghèo nàn và lạc hậu; cả Đông
Dương chỉ có một trường đại học duy nhất, với số sinh viên năm cao nhất


21

khoảng 800 sinh viên và đào tạo ra lực lượng chỉ để phục vụ cho mục đích cai
trị của thực dân Pháp. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, trên cơ sở
trường Đại học Đông Dương (Université Indochinoise) thời Pháp thuộc chúng
ta đã xây dựng lại thành trường Đại học Quốc gia Việt Nam , với hơn 1.100
sinh viên ghi danh. Lúc đó, trường có năm ban: Y khoa, Khoa học, Văn khoa,
Chính trị xã hội, và Mỹ thuật; Xây dựng Trường Đại học Luật thành Trường
Đại học Chính trị Xã hội, đến năm 1948 thì gọi là Trường Pháp chính. Hệ
Cao đẳng có trường Cao đẳng khoa học, Cao đẳng mỹ thuật, Cao đẳng cơng
chính, Cao đẳng canh nơng, Cao đẳng chuyên môn thú y.
Ngày 6 tháng 3 năm 1956 Chính phủ có Nghị định tổ chức lại cấp đại
học và lập ra năm trường đại học theo mô hình mới của các nước XHCN
gồm: Bách khoa, Nơng lâm, Sư phạm, Tổng hợp (Văn khoa và Khoa học), và
Y dược. Cũng kể từ đó giáo trình đại học bỏ mơ hình của Pháp và theo
chương trình học của Liên Xô (cũ) chú tâm đến mặt thực dụng. Học sinh phải
chọn một chuyên môn rất sớm và rẽ theo học trình đó. Cũng theo mơ hình của
Liên Xơ thì mỗi trường cũ đứng riêng thành trường độc lập, giao cho từng bộ

quản lý. Bộ Xây dựng nắm Đại học Kiến trúc, Bộ Nông lâm điều khiển Đại
học Nông lâm,… Hệ thống giáo dục đại học bị phân tán đơn lẻ. Bộ Giáo dục
khơng giữ vai trị quản lý mà chỉ là cơ quan liên lạc giữa các trường sở. Bậc
đại học của Việt Nam lúc đó khơng đào tạo tiến sĩ mà được gửi đi đào tạo ở
Liên Xô và Đông Âu.
Trường Đại học Y khoa Hà Nội: trước thuộc Viện Đại học Hà Nội
nhưng theo nghị định năm 1956 thì tách riêng. Trường Y khoa bị cắt khỏi Bộ
Giáo dục và chuyển sang Bộ Y tế và học trình rút bỏ từ bảy năm thành sáu
năm. Ngoài ra Bộ Y tế mở một chương trình hai năm học bắt đầu từ năm
1960 ở Thanh Hóa, Nghệ An (Vinh), Nam Định, Vĩnh Phúc, Thái Bình, Hà
Nam, Hà Đơng và Phú Thọ để đào tạo hàng ngàn y sĩ trung cấp trong khi học


22

trình bác sĩ y khoa rút xuống cịn bốn năm. Việc này diễn ra được hai năm
nhưng vì thấy khơng hiệu quả nên sau đó lại trở lại học trình sáu năm cho y
khoa.
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội: thành lập năm 1956, có 9 khoa với
khoảng 30-40 ngành học.
Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội: thành lập năm 1956, tập trung vào
các ngành khoa học cơ bản. Năm 1993, trường này sáp nhập với Trường Đại
học Sư phạm Hà Nội I và Trường Đại học Sư phạm Ngoại ngữ Hà Nội để
hình thành Đại học Quốc gia Hà Nội.
Trường Đại học Sư Phạm Hà Nội: thành lập năm 1951, ban đầu với tên
gọi Trường Đại học Sư phạm Khoa học (1951–1956), sau đó là Trường Đại
học Sư phạm Hà Nội (1956-1966), Trường Đại học Sư phạm Hà Nội I (1966–
1993), Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (1993–1999) thuộc Đại học Quốc gia
Hà Nội và trở lại tên Trường Đại học Sư phạm Hà Nội vào tháng 10 năm
1999.

Trường Đại học Nông Nghiệp Hà Nội: thành lập năm 1956. Các tên
gọi khác: Học viện Nông Lâm (từ 1958), Trường Đại học Nông nghiệp (từ
1963), Trường Đại học Nông nghiệp I (từ 1967), và Trường Đại học Nông
nghiệp Hà Nội (từ 2007).
Số sinh viên :Vào năm 1964 có khoảng 27.000 sinh viên cấp đại học,
trong số đó khoảng 20.000 theo học ở Hà Nội.
Từ sau khi hịa bình lập lại ở miền Bắc năm 1954, với kế hoạch 5 năm
lần thứ nhất, hệ thống trường đại học hình thành với tư cách là một bậc học
độc lập và phát triển nhanh chóng. Giáo dục đại học trở thành một phân hệ
khá hoàn chỉnh về cơ sở đào tạo và ngành nghề đào tạo trong hệ thống giáo


23

dục quốc dân, có nhiều nét tương đồng với mơ hình giáo dục đại học ở Liên
xơ cũ và các nước Đông Âu trước đây.
* Giai đoạn từ năm 1954 đến 1975 ở miền Nam
Nền giáo dục đại học lúc này chịu ảnh hưởng của mơ hình giáo dục
đại học Pháp sau đó là của Hoa Kỳ, quản lý theo kiểu tự trị, khơng bị kiểm
sốt về tài chính, nhân sự, chương trình và phục vụ cho mục đích kinh tế,
chính trị của chính quyền Sài Gịn (cũ). Hệ thống đại học gồm có, Viện đại
học Sài Gịn, Viện đại học Huế (1957), Viện đại học Cần Thơ (1966), Viện
đại học Đà Lạt của Công Giáo, Viện đại học Vạn Hạnh của Phật Giáo (1964),
Học viện Quốc Gia Hành Chính. Đầu thập niên 1970 có khoảng 167.000 sinh
viên đại học, với ngành nghề đào tạo đa dạng về Nông, Lâm, Ngư, Cơ khí, Y
dược, Luật, Văn khoa,…
* Thời kỳ 1975 – 1985
Trước ngày giải phóng, miền Nam có 18 viện đại học (trong đó có 7
viện đại học cơng, 11 viện đại học tư) với tổng số sinh viên là 166.475 sinh
viên.

Sau khi tiếp quản, chúng ta đã tiến hành giải thể các trường đại học tư
thục và đại học cộng đồng, tổ chức lại các trường đại học theo mơ hình nhà
trường XHCN. Hệ thống trường đại học miền Nam cũ được tổ chức lại thành
15 trường đại học đó là: Đại học Sư phạm TPHCM; Đại học Bách khoa
TPHCM; Đại học Kinh tế TPHCM; Đại học Sư phạm kỹ thuật TPHCM; Đại
học Tổng hợp Huế; Đại học Bách khoa Đà Nẵng; Đại học Cần Thơ; Đại học
Đà Lạt; Đại học Nông-Lâm TPHCM; Đại học Kiến trúc TPHCM; Đại học Sư
phạm Huế; Đại học Y Huế; Đại học Y-Dược TPHCM; Đại học Thuỷ sản Nha
Trang; Đại học Tây Nguyên.


24

Tính đến năm 1977-1978 cả nước có 50 trường đại học và 20 trường
cao đẳng. Mơ hình quản lý giáo dục theo mơ hình quản lý tập trung cao ở
Chính phủ và Bộ Giáo dục. Quy mô đào tạo các trường theo chỉ tiêu kế hoạch
Nhà nước giao. Tổ chức quá trình đào tạo từ kế hoạch học tập, tuyển sinh, chế
độ học bổng, phân công công tác đều do kế hoạch của Nhà nước. Mục tiêu
đào tạo chủ yếu là cung cấp cán bộ biên chế Nhà nước và cho biên chế của
hai thành phần kinh tế chủ yếu là kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể.
Việc tổ chức thi tuyển sinh cũng được tiến hành thống nhất theo kế
hoạch: Ngày thi được qui định chung trong tồn quốc, mỗi thí sinh được thi
một trường đại học và có ba khối thi A, B, C để thí sinh lựa chọn. Bộ Giáo
dục quản lý thống nhất các khâu ra đề thi, chỉ đạo chấm thi, thông báo kết
quả.
Năm 1976, lần đầu tiên một Luận án Phó Tiến sĩ đã được bảo vệ thành
công trong nước, đánh đấu một bước phát triển mới về chất của giáo dục đại
học Việt Nam. Hệ đào tạo sau đại học, đào tạo Phó tiến sĩ theo mơ hình của
Liên Xơ (cũ) chính thức được hình thành trong hệ thống giáo dục quốc dân
nước ta.

1.1.2.2. Thời kỳ sau đổi mới
* Từ 1986 - 1991
Vào giữa những năm 1980, trước sự xuất hiện và chuyển dịch mạnh
mẽ nền kinh tế sang cơ chế thị trường, trước sự sụp đổ của các nước xã hội
chủ nghĩa Đông Âu và Liên Xô đã làm cho mơ hình kinh tế xã hội biến động,
chao đảo, kéo theo mơ hình giáo dục cũng biến động theo, làm trầm trọng
thêm những yếu kém của hệ thống giáo dục đại học và các trường đại học.
Quy mô đào tạo của các trường liên tục giảm và thu hẹp lại; chất lượng đào
tạo thấp và giảm sút (có những trường khơng tuyển sinh); cơng tác quản lý trì


25

trệ; đời sống của cán bộ giáo viên và sinh viên rất khó khăn; cơ sở vật chất kỹ
thuật của các trường nghèo nàn và lạc hậu; giáo dục đại học đứng trước một
mâu thuẫn lớn giữa một bên là yêu cầu cao về mở rộng quy mô, nâng cao chất
lượng với một bên là khả năng rất hạn chế của Nhà nước về bảo đảm các điều
kiện để đáp ứng các yêu cầu trên. Nhiều trường đã phải rất cố gắng để khơng
bị tan rã trong hồn cảnh khó khăn đó.
* Từ 1992 đến nay
Cùng với cơng cuộc đổi mới của đất nước, ngành GDĐT nói chung và
giáo dục đại học nói riêng cũng đã triển khai 3 chương trình hành động và cụ
thể hố bằng những cải cách, đổi mới sau:
Cải cách, đổi mới công tác tuyển sinh: Giao quyền chủ động tuyển sinh
cho các trường đại học trong bốn khâu ra đề thi, tổ chức thi, chấm thi và xét
tuyển; mỗi thí sinh được quyền dự thi vào nhiều trường đại học khác nhau.
Chủ trương này được xã hội và phụ huynh học sinh rất hoan nghênh.
Thực hiện chính sách mới về đóng học phí. Năm học 1987-1988 lần
đầu tiên áp dụng việc thu học phí đối với hệ đào tạo khơng chính quy (tuyển
sinh ngồi chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước giao).

Tổ chức lại quy trình đào tạo, thực hiện quy trình đào tạo hai giai đoạn
đáp ứng mục tiêu đào tạo theo diện rộng (mở rộng kiến thức cơ bản). với chế
độ học phí mềm dẻo theo nguyên tắc người học tích luỹ kiến thức, tăng tính
chủ động và phát huy sở trường cá nhân.
Đổi mới việc lựa chọn cán bộ quản lý thông qua việc thăm dị tín
nhiệm, bầu cử chức danh hiệu trưởng trường đại học. Trong 3 năm 1987-1990
đã có 26 trường đại học tiến hành bầu hiệu trưởng.


×