MỘT SỐ KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP VỀ ĐỔI MỚI CƠ CHẾ QUẢN LÝ CÁC TỔ
CHỨC SỰ NGHIỆP CÔNG TRONG LĨNH VỰC
GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
3.1. Một số mục tiêu cụ thể phát triển giáo dục đến năm 2010
Nâng tỷ lệ lao động đã qua đào tạo ở các trình độ vào năm 2010 đạt 40%, trong đó từ cao
đẳng trở lên 6%, trung học chuyên nghiệp 8%, công nhân kỹ thuật 26%. Thực hiện phổ cập trung học
cơ sở trong cả nước. Cụ thể:
- Giáo dục mầm non: đến năm 2010 hầu hết trẻ em đều được chăm sóc, giáo dục bằng
những hình thức thích hợp. Tăng tỷ lệ trẻ dưới 3 tuổi đến nhà trẻ từ 15% năm 2005 và 18% năm 2010.
Đối với trẻ 3-5 tuổi tăng tỷ lệ đến trường, lớp mẫu giáo từ 58% năm 2005 lên 67% vào năm 2010; riêng
trẻ em 5 tuổi tăng tỷ lệ huy động đến mẫu giáo để chuẩn bị vào lớp 1 từ 85% năm 2005 lên 95% vào
năm 2010.
- Giáo dục phổ thông: thực hiện giáo dục toàn diện về đức, trí , thể, mỹ. Cung cấp học vấn
phổ thông cơ bản, hệ thống và có tính hướng nghiệp; tiếp cận trình độ các nước phát triển trong khu
vực. Tăng tỷ lệ huy động học sinh trong độ tuổi đến trường từ 97% năm 2005 lên 99% năm 2010.
- Trung học cơ sở: Cung cấp cho học sinh học vấn phổ thông cơ sở và những hiểu biết ban
đầu về kỹ thuật và hướng nghiệp để thực hiện phân luồng sau trung học cơ sở , tạo điều kiện để học
sinh tiếp tục học tập hoặc đi vào cuộc sống lao động. Đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở ở trong cả
nước 2010. Tăng tỷ lệ học sinh trung học cơ sở trong độ tuổi lên 90% vào năm 2010.
- Trung học phổ thông: Tăng tỷ lệ học sinh trong độ tuổi vào trung học phổ thông từ 45%
năm 2005 lên 50% vào năm 2010.
- Giáo dục nghề nghiệp: nâng cao chất lượng dạy nghề gắn với nâng cao ý thức kỷ luật lao
động và tác phong lao động hiện đại. Gắn đào tạo vói nhu cầu sử dụng, với việc làm trong quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động...
- Trung học chuyên nghiệp: thu hút học sinh trong độ tuổi vào các trường trung học chuyên
nghiệp đạt 15% vào năm 2010. Dạy nghề : thu hút học sinh sau trung học cơ sở vào học các trường
dạy nghề từ 10% năm 2005 lên 15% năm 2010. Dạy nghề bậc cao: thu hút học sinh sau trung học phổ
thông, trung học chuyên nghiệp vào học các chương trình này từ 5% năm 2005 lên 10% năm2010.
- Giáo dục cao đẳng, đại học và sau đại học: Nâng tỷ lệ sinh viên trên một vạn dân từ 118
năm học 2000-2001 lên 200 vào năm 2010. Tăng quy mô đào tạo thạc sỹ từ 11.727 học viên năm 2000
lên 38.000 , nghiên cứu sinh từ 3.870 năm2000lên15.000vàonăm2010.
- Giáo dục không chính quy: củng cố và nâng cao kết quả xoá mù chữ cho người lớn, đặc
biệt ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa. Thực hiện có hiệu quả các chương trình sau xoá mù chữ, bổ túc
trên tiểu học để góp phần thực hiện chủ trương phổ cập giáo dục trung học cơ sở vào năm 2010.
- Giáo dục trẻ khuyết tật: Tạo cơ hội cho trẻ khuyết tật được học tập ở một trong các loại
hình lớp hoà nhập, bán hoà nhập hoặc chuyên biệt, đạt tỷ lệ 70% vào năm 2010
3.2. Định hướng đổi mới cơ chế quản lý
3.1.1. Quan điểm đổi mới
Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý các tổ chức sự nghiệp công trong lĩnh
vực giáo dục và đào tạo là nhiệm vụ cấp thiết hiện nay, việc đổi mới đó cần phải
dựa trên cơ sở các quan điểm có tính nguyên tắc sau:
- Việc đổi mới cơ chế tổ quản lý các TCSN công trong lĩnh vực giáo dục, phải được thực hiện đồng thời với việc
đổi mới vai trò của nhà nước trong cung ứng dịch vụ giáo dục tại nền kinh tế thị trường theo hướng chuyển dần
vai trò "nhà nước trực tiếp cung ứng" sang vai trò "nhà nước đảm bảo sao cho dịch vụ giáo dục và đào tạo được
cung ứng". Hiện không còn chính sách như thời bao cấp do vậy nhà nước cần phải tập trung vào việc tạo khuân
khổ luật pháp và ban hành chính sách sao cho các dịch vụ giáo dục và đào tạo được cung cấp đầy đủ cho người
dân. Khi đó nhà nước không nên can thiệp sâu và trực tiếp vào hoạt động tác nghiệp của các tổ chức mà cần trao
quyền tự chủ, tự quyết định và tự chịu trách nhiệm của các tổ chức này.
- Đưa mạnh hơn nữa cơ chế thị trường vào hoạt động của các cơ sở này nhằm phân bổ nguồn lực hợp lý hơn và
góp phần tăng năng suất lao động và tăng hiệu quả hoạt động.
- Phải thống nhất loại hình tổ chức cho các trường công lập và việc thành lập, tổ chức và hoạt động cần được thể
chế hóa bằng một bộ Luật riêng. Đồng thời phải tạo môi trường cạnh tranh giữa các cơ sở đào
tạo công và giữa cơ sở công với các cơ sở ngoài công lập.
- Tăng quyền tự chủ hoạt động thực sự cho các cơ sở công về các vấn đề tổ chức nội bộ, nhân sự, cơ chế trả lương
và cơ chế tài chính. Cần phải tháo dỡ các rào cản về cơ chế đang cản trở hoạt động của các đơn vị này. Một mặt
tăng quyền tự chủ cho các tổ chức này thì phải đi đôi với tăng cường giám sát, kiểm tra và đánh giá hoạt động
của các trường.
- Đổi mới cơ chế quản lý các tổ chức công cung ứng dịch vụ giáo dục cần đi đôi với việc mở rộng và tăng cơ hội
tiếp cận giáo dục của người dân nói chung và đối với người nghèo, những đối tượng dễ bị tổn thương nói riêng,
Nhà nước cần ưu tiên cho các vùng nghèo và đảm bảo cho người nghèo được hưởng các dịch vụ giáo dục cơ
bản. Bện cạnh đó nhà nước cần phải đầu tư vào giáo dục cơ bản mà tư nhân không muốn
tham gia nhưng lại có lợi ích xã hội lớn
- Giáo dục cấp phổ thông Nhà nước vẫn đóng vai trò chủ chốt trong cung ứng dịch vụ giáo dục phổ thông. Nhưng
cũng cần đẩy mạnh mở cửa cho khu vực tư nhân tham gia vào cung cấp dịch vụ giáo dục phổ thông nhằm bổ
sung cho cung về dịch vụ do nhà nước cung cấp.
- Đối với giáo dục đại học và cao đẳng Nhà nước nên giảm dần qui mô cung cấp dịch vụ giáo dục đại học và cao
đẳng về tương đối, tiến tới Nhà nước ưu tiên, tập trung nhiều hơn vào một số lĩnh vực giáo dục mang lại lợi ích
chung cho xã hội. Cần mở cửa mạnh hơn lữa cho khu vực tư nhân tham gia cung ứng và khi đó nhà nước thực
hiện chức năng quản lý vĩ mô.
- Riêng đối với các trường đại học công lập nhất thiết phải thực hiện chức năng nghiên cứu và phải thiết lập quan
hệ hợp tác với bên ngoài.
- Nhà nước nên chuyển phương thức quản lý theo đầu vào sang phương thức quản lý dựa vào kết quả đầu ra đối
với tất cả các trường công lập, xóa bỏ cơ chế quản lý tài chính theo phương thức cấp theo đầu vào trước đây, mà
phân bổ ngân sách theo đầu ra, dựa vào số học sinh tốt nghiệp, kết quả đào tạo và quá trình hoạt động của
trường.
- Phải xóa bỏ cơ chế quản lý tài chính theo mô hình “hành chính, bao cấp” trước đây đối với các trường công
sang mô hình quản lý tài chính “tự chủ, linh hoạt như một doanh nghiệp”. Đổi mới cơ chế cấp ngân sách cho các
trường công lập theo hướng này, nhưng vẫn cần có chính sách ưu tiên ngân sách cho các vùng sâu vùng xa,
vùng kinh tế còn khó khăn.
- Cần phải có cơ chế cho nguồn thu sự nghiệp hợp lý hơn, để tạo điều kiện các trường có thể đầu tư vào cơ sở hạ
tầng, nhằm đáp ứng được những yếu cầu tình hình hiện nay. Nhà nước cần tách việc hỗ trợ cho học sinh nghèo
ra khỏi tài chính của trường. Đồng thời, thành lập quỹ học bổng hỗ trợ cho học sinh, sinh viên nghèo và cấp học
bổng theo một qui trình xét duyệt thống nhất.
3.2.2. Mục tiêu.
- Tăng số lượng và chất lượng dịch vụ giáo dục ở tất cả các
bậc học, đồng thời cải cách phải làm tăng cơ hội tiếp cận dịch vụ của
người nghèo.
- Tạo môi trường cạnh tranh và buộc các tổ chức công lập,
trước hết là các trường đại học công lập, hoạt động phải cạnh tranh lẫn
nhau, đồng thời cạnh tranh với các trường đại học ngoài công lập
khác.
- Đối với các trường công cung cấp dịch vụ giáo dục phổ
thông, mục tiêu là tăng chất lượng dạy và học và tăng hiệu quả sử
dụng nguồn ngân sách nhà nước.
- Đối với các trường đại học, mục tiêu trung và dài hạn là: (1)
tăng chất lượng dạy và học, (2) tăng hiệu quả sử dụng nguồn ngân
sách nhà nước và giảm sự phụ thuộc vào ngân sách nhà nước, (3) phát
huy tính sáng tạo của đội ngũ giáo viên, (4) đẩy mạnh nghiên cứu cơ
bản và nghiên cứu ứng dụng ở các trường đại học công lập và tạo
dựng mối quan hệ hợp tác nghiên cứu giữa: trường-trường, trường-
viện và trường-doanh nghiệp.
- Tạo điều kiện để các TCSN công trong lĩnh vực giáo dục
sớm thích nghi với môi trường cạnh tranh và hội nhập quốc tế.
3.2.3. Một số giải pháp chủ yếu
1. Chuyển đổi trường công lập sang hình thức tổ chức một pháp nhân độc lập, hoạt
động không vì mục tiêu lợi nhuận và đưa cơ chế quản lý doanh nghiệp vào
trường công lập.
Quá trình chuyển đổi này đòi hỏi nhà nước phải xác định rõ đối tượng
chuyển đổi, tạo cơ sở pháp lý, có lộ trình thực hiện và theo dõi, kiểm tra và đánh
giá.
Xác định đối tượng chuyển đổi
Xác định đối tượng chuyển đổi là một nhiệm vụ quan trọng để có thể tiến
hành quá trình chuyển đổi. Nhà nước cần phải rà soát lại toàn bộ các cơ sở đào
tạo công lập của mình, cần phải xác định rõ các đơn vị công lập cung cấp các
dịch vụ giáo dục cơ bản và mang tính xã hội vẫn phải hoạt động bằng 100% tài
trợ Ngân sách, các đơn vị sự nghiệp có thu do Nhà nước tài trợ kinh phí một
phần và các đơn vị công lập cung cấp các dịch vụ mà không nhất thiết phải do
nhà nước đứng ra cung ứng. Để từ đó Nhà nước xác định vai trò của mình trong
việc đảm bảo dịch vụ giáo dục được cung cấp và đảm bảo cơ hội tiếp cận giáo
dục phổ thông đối với người nghèo, ở đây chia các trường công lập làm hai loại
theo tiêu chí bậc học, gồm: (1) các trường tiểu học và trường phổ thông và (2)
các trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp.
Tạo cơ sở pháp lý
Để chuyển sang hình thức một pháp nhân và hoạt động không vì mục tiêu
lợi nhuận thì các trường tiểu học và phổ thông công lập cần phải được điều
chỉnh bởi một văn bản pháp luật riêng và các trường đại học, cao đẳng và trung
học chuyên nghiệp công lập cũng phải được điều chỉnh bởi một văn bản pháp
luật riêng.
Để mỗi cấp học có được một văn bản pháp luật điều chỉnh thì trước hết
cần rà soát lại toàn bộ các văn bản điều chỉnh hoạt động của các tổ chức công
trong lĩnh vực giáo dục hiện hành. Từ đó tìm ra những điểm bất cập, mâu thuẫn,
chồng chéo nhau, không phù hợp hoặc không có tác động, thậm chí kìm hãm
quyền tự chủ của các tổ chức này. Đồng thời cần nghiên cứu và xây dựng một
mô hình tổ chức thống nhất cho các trường phổ thông và các trường đại học phù
hợp với điều kiện của Việt Nam.
Lộ trình thực hiện
Trong điều kiện hiện nay thì việc chuyển đổi đồng loạt toàn bộ các tổ
chức sự nghiệp công trong lĩnh vực giáo dục là khó khả thi. Vì vậy, cùng với
quá trình xây dựng mô hình tổ chức và hình thành cơ sở pháp lý để chuyển đổi,
Nhà nước cần tiến hành nghiên cứu xây dựng một lộ trình chuyển đổi từng bước
một và theo một số tiêu chí sau: thứ nhất là theo vùng, thứ hai là theo lĩnh vực
đào tạo và thứ ba là thời điểm và thời hạn của quá trình chuyển đổi.
Theo dõi, kiểm tra và đánh giá
Nhà nước có thể thành lập một cơ quan chuyên trách về cải cách các
trường công lập và giao nhiệm vụ này cho cơ quan đó hoặc có thể giao nhiệm
vụ này cho một cơ quan hiện có. Khí đó cơ quan này có trách nhiệm theo dõi,
giám sát việc thực hiện, đánh giá, báo cáo lên Chính phủ với các đề xuất cụ thể.
2. Chỉ giữ rất ít số biên chế nhà nước cho một số vị trí cần thiết ở mỗi tổ chức,
chuyển sang hình thức ký hợp đồng lao động. Đối với những người thuộc diện
biên chế cần trao những nhiệm vụ, trách nhiệm cụ thể và được hưởng quyền lợi
tương ứng. Nên thực hiện cơ chế bổ nhiệm theo nhiệm kỳ, đi đôi với cơ chế
miễn nhiệm trong từng trường hợp rõ ràng đối với một số chức vụ quan trọng.
Đối với các trường đại học công lập, nên qui định tối đa số nhiệm kỳ cho
một số chức danh quan trọng, ví dụ hiệu trưởng. Đối với nhân sự, các trường