Tải bản đầy đủ (.pdf) (55 trang)

Nghệ thuật trào phúng trong thơ nguyễn khuyến

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (507.67 KB, 55 trang )

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình triển khai đề tài khoá luận “Nghệ thuật
trào phúng trong thơ Nguyễn Khuyến” tôi đã nhận được sự giúp
đỡ của Th.S An Thị Thuý, Th.S Vũ Văn Ký và các thầy cô giáo
trong Khoa Ngữ Văn.
Tôi xin gửi tới thầy, cô lời cảm ơn chân thành, sâu sắc.
Do thời gian có hạn, khả năng nghiên cứu khoa học còn
hạn chế, chắc chắn khoá luận không tránh khỏi những thiếu sót,
tôi mong tiếp tục nhận được sự giúp đỡ, góp ý của thầy cô để
khoá luận hoàn thiện hơn.

Hà Nội, ngày 05 tháng 05 năm 2009
Tác giả

Nguyễn Thị Tuyền

Nguyễn Thị Tuyền

5

K31B- Khoa Ngữ Văn


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan:
Khoá luận “Nghệ thuật trào phúng trong thơ Nguyễn
Khuyến” là công trình nghiên cứu của riêng tôi, có tham khảo ý
kiến của những người đi trước, dưới sự hướng dẫn của Th.S An
Thị Thuý, Th.S Vũ Văn Ký.
Khoá luận không sao chép từ một công trình hay tài liệu
có sẵn nào.
Nếu những lời cam đoan trên là sai, tôi xin hoàn toàn chịu
trách nhiệm.

Hà Nội, ngày 05 tháng 05 năm 2009
Tác giả

Nguyễn Thị Tuyền

Nguyễn Thị Tuyền

6

K31B- Khoa Ngữ Văn


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU

5

1. Lí do chọn đề tài

5

2. Lịch sử vấn đề

5

3. Mục đích nghiên cứu

7

4. Nhiệm vụ nghiên cứu

8

5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

8

6. Phương pháp nghiên cứu

8

7. Đóng góp của khoá luận


8

8. Cấu trúc khoá luận

9

NỘI DUNG

10

Chương 1: Khái quát chung

10

1.1. Khái niệm trào phúng

10

1.2. Cơ sở nảy sinh tiếng cười trào phúng trong thơ Nguyễn Khuyến

10

1.2.1 Thực tiễn lịch sử

10

1.2.2 Hoàn cảnh cuộc đời

12


Chương 2: Nghệ thuật trào phúng trong thơ Nguyễn Khuyến

15

2.1 Nghệ thuật xây dựng hình tượng trào phúng

15

2.1.1 Nghệ thuật xây dựng hình tượng khách thể

15

2.1.1.1 Hình tượng thực dân Pháp

16

2.1.1.2 Hình tượng vua quan phong kiến

17

2.1.1.3 Hình tượng các bậc khoa bảng

18

2.1.1.4 Hình tượng các nhân vật khác

21

2.1.2 Nghệ thuật xây dựng hình tượng chủ thể


Nguyễn Thị Tuyền

7

23

K31B- Khoa Ngữ Văn


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

2.2 Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ trào phúng

26

2.2.1 Sử dụng ngôn ngữ đời sống

26

2.2.1.1 Đại từ nhân xưng

26

2.2.1.2 Khẩu ngữ, trợ từ

30


2.2.1.3 Từ láy

32

2.2.2 Sử dụng ngôn ngữ dân gian (thành ngữ, tục ngữ, ca dao)

36

2.3 Các thủ pháp nghệ thuật khác

41

2.3.1 Đối lập, tương phản

41

2.3.2 Ẩn dụ

46

2.3.3 Chơi chữ

47

2.3.4 Nói ngược

50

KẾT LUẬN


52

TÀI LIỆU THAM KHẢO

54

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Lịch sử Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỉ
XIX với những biến cố lớn lao đã sản sinh ra nhiều nhà thơ mà sáng tác của
họ đã phản ánh chân thực, sinh động bức tranh đời sống xã hội. Nguyễn
Khuyến là một trong những đại biểu xuất sắc, cuối cùng của văn học trung đại
Việt Nam. Mặc dù sáng tác không nhiều, nhưng Nguyễn Khuyến đã có vị trí
vinh quang trong đời sống văn học dân tộc.

Nguyễn Thị Tuyền

8

K31B- Khoa Ngữ Văn


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

Bên cạnh “Nhà thơ của quê hương làng cảnh Việt Nam”, “nhà thơ của
dân tình” (Xuân Diệu), Nguyễn Khuyến còn là nhà thơ hiện thực trào phúng
xuất sắc. Các tác phẩm của ông đã bày tỏ thái độ chế giễu sâu cay tất cả

những gì diễn ra của cái xã hội đang biến đổi dữ dội lúc bấy giờ. Thể hiện tư
tưởng và thái độ đó, Nguyễn Khuyến đã sử dụng sáng tạo, linh hoạt các thủ
pháp nghệ thuật trào phúng khiến tiếng cười trong thơ ông mang sắc điệu
thẩm mĩ mới, góp phần quan trọng vào dòng thơ trào phúng Việt Nam.
Thơ Nguyễn Khuyến nói chung, thơ trào phúng Nguyến Khuyến nói
riêng có vai trò rất quan trọng trong chương trình phổ thông, cao đẳng, đại
học. Nghiên cứu và tìm hiểu thơ trào phúng của tác gia này là công việc thiết
thực, hữu ích đối với một giáo viên Ngữ Văn sau này.
Đó là lí do khiến chúng tôi chọn đề tài “Nghệ thuật trào phúng trong
thơ Nguyễn Khuyến”.

2. Lịch sử vấn đề
Thơ Nguyễn Khuyến có vai trò rất quan trọng trong quá trình phát triển
văn học dân tộc. Tìm hiểu tác gia này đã có nhiều công trình nghiên cứu với
những ý kiến, quan điểm đánh giá khác nhau. Vấn đề “Nghệ thuật trào phúng
trong thơ Nguyễn Khuyến” là một trong số đó.
Qua thống kê, khảo sát, có thể kể ra những ý kiến đánh giá, những công
trình nghiên cứu ở các cấp độ khác nhau:
Nguyễn Lộc với bài Một phong cách lớn trong văn học đã chỉ ra nét
đặc sắc trong thơ Nguyễn Khuyến và nhấn mạnh: “Yêu thương kín đáo, mà
đả kích, nhà thơ cũng kín đáo. Lúc cần thì phải cay độc, nhưng nói chung ông
không thích bốp chát”. “Thơ Nguyễn Khuyến càng nghĩ càng thấy thâm,thấy
thấm” [15, 381]; “Nguyễn Khuyến tiếp tục học tập ca dao, tục ngữ của các
nhà thơ thế kỉ trước, nhưng ông có cách phát triển riêng của mình” [15, 386].

Nguyễn Thị Tuyền

9

K31B- Khoa Ngữ Văn



Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

Nguyễn Phương Chi trong Ngòi bút tả thực đột xuất đi sâu vào khai
thác các yếu tố hiện thực trong thơ Nguyễn Khuyến: “Ông đã mạnh dạn đưa
vào lời ăn tiếng nói, đưa khẩu ngữ hàng ngày vào thơ. Ông miêu tả cuộc đời
như nó vốn có. Nhiều chỗ nhà thơ đạt đến cái người ta gọi là tả thực” [12,
325].
Đã có một số công trình nghiên cứu so sánh giữa Nguyễn Khuyến với
Tú Xương như bài viết Đọc thơ Nguyễn Khuyến của Xuân Diệu: “Nhà thơ
này chỉ cười chế nhẹ nhàng, hóm hỉnh, không cấu xé vào nhân vật, sự vật như
Tú Xương [12, 185]; Nguyễn Đình Chú trong bài Nguyễn Khuyến với thời
gian: “Nguyễn Khuyến đã đóng góp vào thơ ca trào phúng dân tộc một tiếng
cười đặc sắc. Tiếng cười đó không dữ dội, sâu cay như tiếng cười của cụ Tú
Xương mà nói chung là rất thâm thuý nhưng cũng hóm nhẹ, trong lành” [15,
335].
Tính tích cực và tầm quan trọng của thơ trào phúng Nguyễn Khuyến
còn được đánh giá cao qua nhận xét của tác giả Trần Ngọc Vượng trong Thơ
Nôm Nguyễn Khuyến: “Thơ Nôm trào phúng đến Nguyễn Khuyến mới thật sự
ra đời. Ông đã đưa thể loại này sang môi trường hoạt động mới. Với sáng tác
trào phúng, Nguyễn Khuyến không còn là tác giả của văn học nhà Nho truyền
thống. Và ngay từ đầu, ngay lập tức, với Nguyễn Khuyến văn chương trào
phúng đạt tới đỉnh cao” [12, 314].
Một số bài viết khác như: Bản lĩnh nhà thơ và bản sắc thơ của Xuân
Diệu; Tài chơi chữ của Đào Thản; Vũ Thanh với Nguyễn Khuyến qua thơ tự
trào… đã đi vào tìm hiểu một vài khía cạnh làm nên thành công của thơ trào
phúng Nguyễn Khuyến.

Có thể nói, nghiên cứu, tìm hiểu về thơ Nguyễn Khuyến nói chung, thơ
trào phúng Nguyễn Khuyến nói riêng không phải là vấn đề mới. Những bài
viết, công trình mà chúng tôi dẫn trên đây đã đi vào một số khía cạnh trong

Nguyễn Thị Tuyền

10

K31B- Khoa Ngữ Văn


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

sáng tác của tác gia này. Tuy nhiên, trong khuôn khổ một bài báo hay một
chương mục nào đó, các nhà nghiên cứu mới chỉ nhận xét khái quát mà chưa
chứng minh cụ thể, chi tiết.
Tiếp thu thành tựu của các nhà nghiên cứu đi trước, coi đó là khám phá
có tính chất định hướng, chúng tôi đi vào tìm hiểu “Nghệ thuật trào phúng
trong thơ Nguyễn Khuyến” với mong muốn đưa ra những kiến giải có tính
chất hệ thống, chi tiết hơn về đóng góp của ông với thơ ca dân tộc.

3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở thống kê, phân loại, so sánh, đề tài hướng đến các mục đích sau:
Góp phần tìm hiểu đặc sắc nghệ thuật trong thơ trào phúng Nguyễn
Khuyến, qua đó thấy được sự kế tục có chọn lọc, sáng tạo của ông với văn
học truyền thống và văn học nước nhà.
Góp phần phục vụ cho việc giảng dạy các bài thơ, đặc biệt là thơ
Nguyễn Khuyến trong chương trình phổ thông, cao đẳng, đại học có hiệu quả

hơn.

Nguyễn Thị Tuyền

11

K31B- Khoa Ngữ Văn


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tìm hiểu những đặc điểm thực tiễn lịch sử, hoàn cảnh cuộc đời là cơ sở
để người viết thực hiện những nhiệm vụ tiếp theo - tìm hiểu nghệ thuật trào
phúng trong thơ Nguyễn Khuyến.

5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1 Đối tượng nghiên cứu
Khoá luận tập trung nghiên cứu, khảo sát các bài thơ trong cuốn Thơ
văn Nguyễn Khuyến do Xuân Diệu tuyển chọn, giới thiệu.
5.2 Phạm vi nghiên cứu
Khoá luận tập trung nghiên cứu vấn đề “Nghệ thuật trào phúng trong
thơ Nguyễn Khuyến”. Tuy nhiên, để có cái nhìn toàn dân, khách quan, khi
cần thiết chúng tôi mở rộng liên hệ, so sánh với thơ ca phúng dân gian, thơ ca
trào phúng của các tác giả trước, cùng thời và sau Nguyễn Khuyến.

6. Phương pháp nghiên cứu
Khoá luận sử dụng các biện pháp nghiên cứu chính sau:

Phương pháp thống kê, phân loại.
Phương pháp phân tích.
Phương pháp so sánh.

7. Đóng góp của khoá luận
Khoá luận là công trình khoa học tìm hiểu một cách hệ thống nghệ
thuật trào phúng trong thơ Nguyễn Khuyến. Từ việc tìm hiểu tư liệu tham
khảo và đi sâu vào nghiên cứu vấn đề này ta sẽ hiểu sâu sắc về nghệ thuật trào

Nguyễn Thị Tuyền

12

K31B- Khoa Ngữ Văn


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

phúng trong thơ Nguyễn Khuyến. Từ đó phục vụ hữu ích cho việc học tập và
giảng dạy thơ Nguyễn Khuyến trong trường phổ thông, đại học, cao đẳng.

8. Cấu trúc của khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Nội dung chính của
khoá luận chia làm hai chương:
Chương 1: Khái quát chung
Chương 2: Nghệ thuật trào phúng trong thơ Nguyễn Khuyến

Nguyễn Thị Tuyền


13

K31B- Khoa Ngữ Văn


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

NỘI DUNG
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG

1.1 Khái niệm trào phúng
Có khá nhiều cách định nghĩa trào phúng:
Từ điển Tiếng Việt giải thích ngắn gọn: “Trào phúng: có tính chất gây
cười để châm biếm, phê phán” [10, 1270].
Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Trào phúng là một loại đặc biệt của
sáng tác văn học và đồng thời cũng là một nguyên tắc phản ánh nghệ thuật,
trong đó có các yếu tố của tiếng cười, mỉa mai, châm biếm, phóng đại, khoa
trương, hài hước… những cái xấu xa, tiêu cực, lỗi thời, lạc hậu trong xã hội.
Trào phúng theo nghĩa từ nguyên là dùng lời lẽ bóng bẩy để cười nhạo, mỉa
mai kẻ khác. Song trong lĩnh vực văn học, trào phúng gắn liền với phạm trù
mĩ học và cái hài hước với các cung bậc u - mua, hài hước, châm biếm” [9,
321].
Dù có nhiều cách hiểu, cách định nghĩa xung quanh khái niệm trào
phúng nhưng tựu trung lại có thể hiểu trào phúng là yếu tố hạt nhân, là một
thủ pháp sáng tác dùng tiếng cười để thể hiện tư tưởng, tình cảm, thái độ của
người nghệ sĩ trong tác phẩm văn học.


1.2 Cơ sở nảy sinh tiếng cười trào phúng trong thơ Nguyễn Khuyến
1.2.1 Thực tiễn lịch sử
Hoàn cảnh lịch sử có vai trò rất quan trọng trong việc hình thành tư
tưởng, cách nhìn nhận, phản ánh xã hội và tạo nên những dấu ấn văn học.
Nguyễn Khuyến là người chiu tác động mạnh mẽ cửa giai đoạn lịch sử cuối

Nguyễn Thị Tuyền

14

K31B- Khoa Ngữ Văn


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX với hàng loạt biến cố làm thay đổi sơn hà và
hình thái ý thức xã hội.
Thời đại mà Nguyễn Khuyến sống là một thời đại khủng hoảng toàn
diện. Vương triều nhà Nguyễn thi hành chính sách quân chủ chuyên chế cực
đoan, phản động. Song song với khủng hoảng toàn diện thì tiếng súng của
thực dân Pháp nổ ra năm 1858 đánh dấu hàng loạt các cuộc tấn công xâm
lược trên đất nước Việt Nam. Trước tình hình đó, triều đình nhà Nguyễn mục
nát, liên tiếp kí các hiệp ước đầu hàng dâng đất cho giặc. Năm 1862 kí hiệp
ước nhường ba tỉnh miền Đông Nam Kì. Năm 1867 kí hiệp ước nhường ba
tỉnh miền Tây. Vậy là, chỉ trong một thời gian ngắn, cuộc chiến tranh coi như
đã kết thúc ở Nam Kì thì chúng tấn công ra miền Bắc. Năm 1873, Phơrăngxi
Gácniê cho 170 quân Pháp đánh thành Hà Nội. Hà Nội thất thủ, Nguyễn Tri

Phương bị thương. Năm 1882, Hăngri Rivie cho đánh thành Hà Nội lần hai,
tổng đốc Hoàng Diệu tự tử. Năm 1883, hiệp ước Hác măng được kí kết. Năm
1885, thực dân Pháp nổ súng tấn công kinh thành Huế, sào huyệt cuối cùng
của chế độ phong kiến nhà Nguyễn. Kinh thành Huế thất thủ, vua Hàm Nghi
chạy ra Quảng Trị xuống chiếu Cần Vương, kêu gọi nhân dân giúp vua cứu
nước. Sau ba mươi năm nổ tiếng súng xâm lược đầu tiên (31.8.1858), về cơ
bản, thực dân Pháp đã hoàn thành công cuộc bình định toàn cõi Việt Nam.
Năm 1891, toàn quyền Lanétxăng bắt đầu thi hành chính sách khai thác Việt
Nam lần thứ nhất.
Mặc dù vua tôi nhà Nguyễn hèn nhát đầu hàng, song nhân dân nhiều
nơi không chịu khuất phục, cam tâm làm nô lệ. Nhiều sĩ phu tham gia các
cuộc khởi nghĩa như: Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Trương Định, Tôn
Thất Thuyết, Nguyễn Xuân Ôn… Bộ phận trí thức yêu nước không đủ dũng
khí tham gia đấu tranh thì kiên quyết giữ khí tiết trong sạch và lui về ở ẩn.
Không trực tiếp cầm súng, họ dùng ngòi bút của mình làm vũ khí chiến đấu,
Nguyễn Thị Tuyền

15

K31B- Khoa Ngữ Văn


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

bày tỏ lòng yêu nước thương dân và thái độ bất hợp tác với kẻ thù. Đặc biệt,
giai đoạn lịch sử này không chỉ mang nỗi đau mất nước bởi cuộc xâm lăng
của thực dân mà là “sự biến loạn trong lòng dân tộc”. Nguyễn Khuyến là
người nhận thức một cách đau xót nhất sự đổ vỡ của hệ tư tưởng tồn tại hàng

ngàn năm và sự bất lực đến hài hước của bộ phận trí thức. Trước hoàn cảnh
ấy, ông không chỉ sáng tác những bài thơ biểu lộ tâm sự thời thế, tấm lòng đối
với quê hương đất nước mà còn viết những bài thơ trào phúng bộc lộ thái độ
của mình trước hoàn cảnh thực tại bấy giờ. Tiếng cười đa sắc điệu hóm nhẹ
trong lành mà thâm thuý, nhức nhối sâu cay trước mọi hiện tượng đang trên
đà tha hoá mạnh mẽ, mang phong cách riêng Nguyễn Khuyến.
1.2.2 Hoàn cảnh cuộc đời
Nguyễn Khuyến sinh năm Ất Mùi (1835) ban đầu có tên là Thắng, sau
năm 1864 đổi sang là Khuyến (nghĩa là “gắng lên”).
Ông sinh ra ở quê mẹ (Hoàng Xá,Ý Yên, Nam Định) nhưng lớn lên và
chủ yếu sống ở quê cha (Yên Đổ, Bình Lục, Hà Nam). Cụ thân sinh là
Nguyễn Liễn, một nhà Nho nghèo chuyên nghề dạy học, sống thanh bạch, hào
phóng và đặc biệt ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng nhà thơ. Mẹ là bà Trần Thị
Thoan, một bậc nữ lưu mẫu mực trong xã hội, hết lòng thương yêu chồng con,
luôn động viên Nguyễn Khuyến vượt qua mọi khó khăn để thi cử, đỗ đạt
thành tài.
Thủa bé, Nguyễn Khuyến nổi tiếng học giỏi. Năm 17 tuổi thi Hương
với cha nhưng không đỗ. Sau đó cha mất, cảnh nhà lạ nghèo nên phải kiếm
sống. Bấy giờ có ông nghè Vũ Văn Lý, trước là học trò cũ của bác Nguyễn
Khuyến đem về nuôi cho ăn học. Năm 1864, Nguyễn Khuyến đỗ đầu Cử nhân
trường Hà Nội, song trong các khoa thi tiếp theo 1865, 1868, 1869 đều trượt.
Năm 1871 ông thi Hội lần thứ hai, đỗ Hội nguyên và sau đó đỗ Đình nguyên.
Cả ba lần thi Hương, thi Hội, thi Đình ông đều đỗ đầu nên người ta thường
Nguyễn Thị Tuyền

16

K31B- Khoa Ngữ Văn



Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

gọi là “Tam nguyên Yên Đổ”, vua Tự Đức ban cờ biển và viết vào hai chữ
“Tam Nguyên”.
Để có được thành công đó Nguyễn Khuyến đã trải qua một chặng
đường gian nan, lận đận gần 30 năm trời với 9 khoa lều chõng, có lúc tâm
trạng bi quan, chán nản phải thốt lên “Bốn khoa hương thí không đâu cả” là
một quá trình cố gắng bền bỉ, phi thường.
Mang hoài bão theo con đường khoa cử để giúp nước nhưng sự nghiệp
công danh của ông không thuận buồm xuôi gió. Trong thời gian đèn sách,
tiếng súng thực dân Pháp nổ khắp trong Nam ngoài Bắc, triều đình nhà
Nguyễn mục nát từng bước thoả hiệp đầu hàng. Trước hoàn cảnh ấy, Nguyễn
Khuyến bước vào hoạn lộ - con đường duy nhất của một trí thức phong kiến
muốn đem thân phò đời giúp nước. Ông được bổ vào làm Sử quán trong triều.
Năm 1873 làm Đốc học Thanh Hoá rồi thăng nhanh lên Án sát tỉnh ấy. Nhưng
mấy tháng sau mẹ mất nên phải về quê chịu tang. Hết tang, ông vào kinh giữ
chức Biện lí bộ hộ. Năm 1877 giữ chức Bố chánh Quảng Ngãi. Dạo đó, tỉnh
này luôn đại hạn, quan đầu tỉnh Hà Quý Bình bất tài, một mình Nguyễn
Khuyến không xoay xở được, năm sau bị giáng chức điều về Sử quán và
trong bốn năm (1879 - 1883) ông sống trong thanh bần, chán nản chốn quan
trường.
Năm 1883, Nguyễn Khuyến được cử làm Phó sứ sang nhà Thanh
nhưng tình hình biến đổi, triều đình Huế kí hiệp ước Hácmăng đầu hàng chấp
nhận ách thống trị của thực dân Pháp trên toàn cõi Việt Nam. Chưa kịp qua
biên giới thì chuyến đi sứ bị bãi. Cuối năm đó quân Pháp đánh Sơn Tây,
Nguyễn Hữu Độ đang làm tổng đốc Hà - Ninh cử Nguyễn Khuyến làm tổng
đốc Sơn Tây song ông dứt khoát từ chối, lấy cớ ốm nặng xin cáo quan về nhà.
Vậy là, tiếng làm quan dưới triều Nguyễn nhưng thực chất ông chỉ làm

khoảng 11 năm, thời gian còn lại đều sống ở quê nhà trong cảnh thanh bần,
Nguyễn Thị Tuyền

17

K31B- Khoa Ngữ Văn


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

giữ khí tiết trong sạch. Từ quan, bất hợp tác với kẻ thù, dùng ngòi bút để phơi
bày những tội ác của bọn thực dân và quan lại xấu xa, nhưng giả trá, đen bạc
của xã hội lúc bấy giờ, giữ tấm lòng trong sạch, ngay thẳng đến cuối đời, đó
là một nhân cách lớn. Các tác phẩm của ông đã sống, đã thành một phần tâm
thức dân tộc.
Sống trong giai đoạn đầy bi thương của lịch sử dân tộc, thơ văn
Nguyễn Khuyến chứa đựng tâm sự thiết tha đượm buồn, ưu thời mẫn thế. Vui
vầy với bà con làng xóm, cuộc sống nơi thôn dã nhưng thân nhàn mà tâm
không nhàn bởi những thay đổi đột ngột của xã hội, bao cảnh chướng tai gai
mắt diễn ra, tác động mạnh mẽ đến nhà thơ. Bi kịch sự nghiệp, ước mơ hoài
bão không thành lại thêm cảnh ngang trái phải chứng kiến hàng ngày, ông
sáng tác những bài thơ trào phúng bày tỏ thái độ châm biếm, đả kích sâu cay.
Không chỉ là nỗi đau, giọng trào lộng chính là cái cười ra nước mắt trước thực
tế đảo điên của xã hội. Trào phúng trong thơ Nguyễn Khuyến không giống Hồ
Xuân Hương, Tú Xương mà kín đáo, thâm trầm, sâu sắc, thể hiện lối đi riêng.

Nguyễn Thị Tuyền


18

K31B- Khoa Ngữ Văn


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

Chương 2
NGHỆ THUẬT TRÀO PHÚNG TRONG THƠ NGUYỄN KHUYẾN

2.1 Nghệ thuật xây dựng hình tượng trào phúng trong thơ Nguyễn
Khuyến
“Hình tượng nghệ thuật là sản phẩm của phương thức chiếm lĩnh, thể
hiện và tái tạo hiện thực theo quy luật của tưởng tượng, hư cấu nghệ thuật.
Tức là làm sống lại một cách cụ thể và gợi cảm những sự việc, hiện tượng
đáng làm người ta suy nghĩ về tính cách và số phận, tình đời và tình người
qua một chất liệu cụ thể” [9, 147].
Hình tượng có vai trò quan trọng góp phần làm nên tính đa dạng, đặc
sắc của nghệ thuật trào phúng trong thơ Nguyễn Khuyến. Thơ ông nhằm đả
kích tất cả các đối tượng như: vua quan, thầy đồ, học trò, me Tây và ngay cả
chính bản thân mình. Song mỗi đối tượng có phương thức xây dựng khác
nhau, bởi cách biểu hiện và giọng điệu riêng.
Phần này của khoá luận không có tham vọng tìm hiểu nghệ thuật xây
dựng hình tượng dưới góc độ lí luận văn học mà đi sâu vào giọng điệu biểu
hiện. Mỗi đối tượng lại mang cung bậc khác nhau của cái cười Nguyễn
Khuyến.
2.1.1 Nghệ thuật xây dựng hình tượng khách thể
Hình tượng trào phúng khách thể bao gồm các đối tượng ngoài tác giả,

chiếm số lượng khá lớn (75%). Mỗi đối tượng kèm theo đó thái độ, giọng
cười khác nhau, khi mỉa mai mai cay độc, chửi thẳng hay đơn thuần chỉ trào
lộng, khoan dung. Sự đa dạng của hình tượng trào phúng khách thể tạo nên
thế giới nhân vật phong phú.

Nguyễn Thị Tuyền

19

K31B- Khoa Ngữ Văn


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

2.1.1.1 Hình tượng thực dân Pháp
Không có nét vẽ, từ ngữ miêu tả trực tiếp ngoại hình, tính cách cụ thể
hình tượng thực dân Pháp song ta có thể cảm nhận được bản chất tàn ác, đê
tiện của chúng với ngòi bút châm biếm kín đáo, có khi chua chát.
Sau khi đặt ách thống trị lên đất nước ta, chúng thi hành các cuộc khai
thác thuộc địa. Xã hội Việt Nam biến đổi sang hình thái khác. Là một nhà nho
yêu nước, chứng kiến bao cảnh tiêu điều xơ xác chấn động nhân tâm, Nguyễn
Khuyến xót xa trước những tai biến không gì thay đổi được:
Nghĩ chuyện đời xưa cũng nực cười
Sự đời đến thế, thế thì thôi.
(Hoài cổ)
“Chuyện nực cười” ở đây là “ rừng xanh núi đỏ” bị khai thác đến cạn
kiệt, con người lâm vào cảnh “nước độc ma thiêng”. Đất nước tan hoang ấy
bởi đâu? Tất cả đều do bọn cướp nước gây nên.

Giọng mỉa mai chua xót khi phải tận mắt chứng kiến nỗi đau dân tộc bị
giày xéo. Bọn thực dân mang tội ác xâm lược giở trò bỉ ổi, nhằm đẩy nhân
dân vào vòng ngu muội, quên đi nhiệm vụ cứu nước. Mừng ngày Cách mạng
tư sản Pháp thắng lợi, chúng mở hội hè linh đình khắp các tỉnh lị, nhất là ở Hà
Nội, chúng bày các trò như liếm chảo, chọc thùng, leo cột mỡ…để hạ nhục
lòng tự tôn dân tộc. Lễ thăng bình mừng ngày thái bình của thực dân Pháp trớ
trêu thay cũng là lúc đất nước ta oằn mình dưới gót giày xâm lược. Tác giả
buông một câu uất ức, mỉa mai:
Khen ai khéo vẽ trò vui thế!
Vui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu!
(Hội Tây)

Nguyễn Thị Tuyền

20

K31B- Khoa Ngữ Văn


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

Nói “khen ai” nghe nhẹ nhàng nhưng chính là tiếng chửi thẳng mặt lũ
cướp nước, cũng là tiếng cười lặng lẽ chua chát trong một con người luôn
canh cánh lòng yêu nước, ý thức độc lập dân tộc.
Đúng là Nguyễn Khuyến chưa xây dựng được hình tượng thực dân
Pháp một cách trực tiếp, nhưng không phải vì thế mà chúng vắng bóng trong
thơ ông. Nhà thơ đã kín đáo đem cái cờ tam tài đối với cái váy của người đàn
bà:

Ba vuông phấp phới cờ bay dọc,
Một bức tung hoành váy xắn ngang.
( Lấy Tây)
Không trực tiếp tham gia phong trào đấu tranh như các chí sĩ yêu nước
lúc bấy giờ nhưng Nguyễn Khuyến luôn khinh bỉ, căm thù và cười chua chát
khi nói về thực dân Pháp. Giọng điệu có vẻ bình tĩnh. Bình tĩnh nên càng xót
xa cay đắng.
2.1.1.2 Hình tượng vua quan phong kiến
Trong hoàn cảnh lịch sử lúc này, bọn vua quan phong kiến chỉ là một lũ
bạc nhược, hèn yếu, rặt một phường đáng khinh. Tú Xương đã chửi trực diện,
miệt thị “Liếm gót giày Tây béo mượt đầu” khiến chúng không thể ngóc đầu
lên được. Còn Nguyễn Khuyến cười khá nhẹ nhàng, thâm thuý, phê phán mà
vẫn khoan dung, mong muốn làm trong sạch đội ngũ quan lại. Giọng điệu
thâm trầm, lặng lẽ, ngấm sâu. Chúng hiện lên khá đầy đủ, sinh động.
Mượn lời người vợ hát chèo, nhà thơ tước đi vẻ uy nghi vốn có của vị
vua thường mang sứ mệnh “ trị quốc an dân”:
Vua chèo còn chẳng ra gì,
Quan chèo vai nhọ khác chi thằng hề.
( Lời vợ người hát chèo)

Nguyễn Thị Tuyền

21

K31B- Khoa Ngữ Văn


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp


Thì ra vua quan thực chất chỉ là những tên rối, vai hề không hơn không
kém!
Trong cuộc thi vịnh Kiều do Lê Hoan tổ chức, y đòi mời bằng được
Nguyễn Khuyến ra làm chủ khảo. Không thể từ chối, nhà thơ tham gia và
mượn chuyện nàng Kiều để chế giễu, mát mẻ:
Thằng bán tơ kia giở mối ra,
Làm cho vương đến cụ viên già.

Có tiền việc ấy mà xong nhỉ
Ngày trước làm quan cũng thế a?
( Kiều bán mình)
Không phê phán chung chung, tác giả vạch mặt, chỉ tên từng đối tượng
cụ thể để có cái nhìn rõ ràng, đích danh. Khi đả kích tên đốc học Hà Nam nghề truyền bá đạo thánh hiền, một nghề đáng lẽ phải hết sức mô phạm, đằng
này lại ăn của đút của học trò không thấy xấu hổ:
Chỉ cốt túi mình cho nặng chặt,
Trăm năm mặc kệ tiếng chê khen!
(Tặng đốc học Hà Nam)
Cười tên quan huyện Thanh Liêm, nhờ thế của bố chạy chọt với Tây
được bổ làm tri huyện, ăn hối lộ khét tiếng mà ra vẻ trong sạch:
Bồ chứa miệng dân chừng bật cạp
Tiên là ý chú muốn vòi xu!
(Bồ tiên thi)
Thăng tiến đồng nghĩa với việc luồn cúi, đem thân làm dê chó, kiếm
miếng ăn từ kẻ thù:

Nguyễn Thị Tuyền

22


K31B- Khoa Ngữ Văn


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

Bổng lộc như ông không mấy nhỉ?
Ăn tiêu nhờ được chiếc lương Tây.
(Mừng đốc học Hà Nam)
Ngay cả với những người bạn, nhà thơ cũng không ngần ngại bày tỏ thái
độ chê bai, chế giễu. Tác giả không đứng ngang hàng mà tách ra theo chiều
hướng đứng trên đối tượng về phẩm chất và nhân cách.Vì vậy, tiếng cười ban
tưởng như cảm thông, an ủi chân tình không giấu được giọng phê phán:
Tôi nghe kẻ cướp nó lèn ông,
Nó lại lôi ông đến giữa đồng.
Lấy của đánh người quân tệ nhỉ!
Thân già da cóc có đau không?
(Hỏi thăm quan tuần mất cướp)
Cay độc nhất là nhà thơ đả kích bọn quan lại được đặt ngang hàng “vợ
bợm chồng quan” trong câu “vợ bợm chồng quan danh phận đó” đã hạ bệ,
đánh gục đối tượng được coi là nghiêm túc, mẫu mực của xã hội.
Những tên bù nhìn bán nước mục nát từ trên xuống dưới mang danh
đấng bậc bề trên thực tế là một lũ vô tích sự làm hại dân chúng, vơ vét đầy túi
vì tư lợi riêng. Chúng hiện ra dưới ngòi bút Nguyễn Khuyến vừa đáng khinh,
vừa đáng ghét. Song với nhà thơ Yên Đổ, đối tượng quan lại vẫn được cười
chê nhẹ nhàng, khoan dung, mong muốn một lần nghĩ lại mà làm việc đạo lí,
có ích cho dân.
2.1.1.3 Hình tượng các bậc khoa bảng
Cùng những chuyển biến dữ dội của lịch sử thì nền Hán học cũng bị

biến dạng. Chế độ khoa cử cuối mùa lâm vào tình trạng bấp bênh. Đó là hiện
tượng được Tú Xương phản ánh:

Nguyễn Thị Tuyền

23

K31B- Khoa Ngữ Văn


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

Đạo học ngay nay đã chán rồi,
Mười người đi học chín người thôi.

Sĩ khí rụt rè gà thấy cáo,
Văn trường liều lĩnh đấm ăn xôi.
(Than đạo học)
Các bậc nho sĩ cuối mùa không bị phê phán bằng giọng ác hiểm nhưng
vô cùng sâu cay. Bởi lẽ trong hoàn cảnh lúc này, nền Hán học đã dần đi vào
con đường bế tắc, địa vị ông nghè, ông cống chỉ là hư danh. Nhất là khi đạo
học cùng mọi nề nếp, kỉ cương bị phá vỡ:
Anh mừng cho chú đỗ ông nghè,
Chẳng đỗ thì trời cũng chẳng nghe!
Ân tứ dám đâu coi rẻ rúng,
Vinh quy ắt hẳn rước tùng xoè.
(Mừng ông nghè mới đỗ)
Khoa bảng thành rẻ mạt, vô nghĩa. Ông nghè được chúc mừng sau ẩn ý

sâu cay “rước tùng xoè” - thứ đám rước trẻ con. Ân tứ vinh quy chỉ là thứ
đám rước trẻ con! Thứ trào lộng u - mua mà lý thú, mạnh bằng mấy đả kích.
Triều đình nhà Nguyễn thế kỉ XIX cố giữ cho được những kì thi
Hương, thi Hội, thi Đình để có các ông nghè, ông cống. Nhưng cái mẽ bên
ngoài phù phiếm ấy không che giấu được thực chất bên trong:
Ghế chéo lọng xanh ngồi bảnh choẹ,
Tưởng rằng đồ thật hoá đồ chơi.
(Vịnh tiến sĩ giấy)
Cụm từ “ghế chéo lọng xanh” khi buông ra ban đầu vẫn cho người đọc
ấn tượng về dáng vẻ oai vệ vốn có của nhân vật có học vấn cao nhất đương
thời. Nhưng lần nâng lên cuối cùng này là lần Nguyễn Khuyến giáng cho đối
Nguyễn Thị Tuyền

24

K31B- Khoa Ngữ Văn


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

tượng đòn chí mạng. Giọng điệu mỉa mai, hài hước đã giết chết, vạch rõ cái
oai phong của vị tiến sĩ kia thực chất chỉ là giả dối bên ngoài.
Đằng sau những câu thơ nhẹ nhàng, thanh thoát, trong lành là tâm trạng
thất vọng, xót xa của chế độ khoa cử trong những ngày kết thúc. Nền nho học
giả dối, hư danh đang trượt trên đà suy vong không thể tránh khỏi. Xây dựng
hình tượng về các bậc khoa bảng của Nguyễn Khuyến đã tổng kết nền thi cử
hàng ngàn năm, kèm theo nụ cười xót xa, buồn nản.
2.1.1.4 Hình tượngcác nhân vật khác

Ở nội dung này, tiếng cười bộc lộ sự phong phú và đa dạng nhất. Tuỳ
từng đối tượng mà nhà thơ có thái độ đồng cảm, không ác ý hoặc châm biếm,
đả kích cay độc. Hoàn cảnh xã hội đã sản sinh ra một loạt hạng người tha hoá,
biến chất (đĩ điếm, me Tây); kể cả các nhân vật từng giữ nề nếp, kỉ cương
(thầy đồ, học trò, nhà sư) cũng đổi khác. Đây là hình ảnh thầy đồ ve gái:
Yêu thầy cũng muốn cho thầy dạy
Dạy cháu nên rồi mẹ cháu ngây
(Thầy đồ ve ve gái goá)
Chân dung thầy đồ - một người bạn cũ của Nguyễn Khuyến:
Vẻ thầy như vẻ con tôm
Vẻ tay ngoáy cám, vẻ mồm húp tương
(Chế ông đồ Cự Lộc)
Nhắc đến thầy đồ là nhắc đến nền Khổng học lâu đời ở nước ta. Nhưng
thầy đồ hiện ra trong dáng điệu nhếch nhác, khó coi, không giống một người
truyền đạo đức, lũ học trò không coi trọng bút nghiên, đèn sách, đi học mà chỉ
say, ngủ gật bởi “ma men”. Hơn nữa, đạo thánh hiền, nghĩa thầy trò đang bị
phủ định, nghi ngờ: “Bảo chúng nên rồi chúng phụ công” (Chế học trò ngủ
gật). Tình nghĩa thầy trò “nhạt như nước ốc”, sự cố gắng của thầy biết đâu rút

Nguyễn Thị Tuyền

25

K31B- Khoa Ngữ Văn


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp


cuộc chỉ là “nuôi ong tay áo”? Tiếng cười trách móc, hờn giận, chữ nghĩa
thánh hiền bị coi rẻ đã đành mà đạo đức thầy trò cũng bị mai một.
Hình tượng nhà sư đã trở thành đề tài “đàm tiếu” sâu sắc trong thơ Hồ
Xuân Hương trước đó. Nguyễn Khuyến xây dựng hình tượng này cũng rất
thâm thuý, dường như “biết tỏng mọi việc”. Sư trong thơ ông thật nực cười,
những “trọc lốc bình vôi”, “nhảy tót lên chùa ngồi”, “y a kinh một bộ”, “lóc
cóc khua mõ”, hoàn toàn đối ngược tư cách một vị chân tu.
Nổi bật nhất là hình tượng các nhân vật đĩ điếm, đó là sản phẩm do xã
hội thực dân sản sinh ra. Tiếng cười được đẩy lên mức cao nhất, giọng khinh
bỉ, chua ngoa, có khi độc địa. Thơ Nguyễn Khuyến vắng bóng những tài tử
giai nhân nhưng lại xuất hiện đủ loại con gái xấu xa, bao gồm đĩ diếm nổi
tiếng như cô Tư Hồng, mụ Hậu Cẩm… đầy đủ các loại đĩ bao tử, đĩ gặp thời,
được gọi đích danh hoặc chửi bằng những câu rất độc: “Cha đời con đĩ Cầu
Nôm”.
Đối tượng đĩ điếm không xuất hiện ở nhiều bài thơ nhưng qua một số
bài, Nguyễn Khuyến đã thể hiện giọng điệu trào phúng đặc biệt sâu cay:
Thiên hạ bao giờ cho hết đĩ
Trời sinh ra cũng để mà chơi
Dễ mấy khi làm đĩ gặp thời
Chơi thủng trống, long dùi âu mới thích
Rồi kết luận bằng một câu: Khá khen hay làm đĩ có tông!
(Đĩ Cầu Nôm)
Đặc biệt ông khinh ghét bọn me Tây, ông gom những lời chửi chua
ngoa nhất để vạch rõ bản chất bọn ấy. Chúng không được coi là người An
Nam nữa mà biến thành lũ đàn bà xấu xa, đáng khinh bỉ khi sống chung với
bọn quan Tây:

Nguyễn Thị Tuyền

26


K31B- Khoa Ngữ Văn


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

Cái gái đời này gái mới ngoan,
Quyết lòng ẩu chiến với Tây quan.
(Lấy Tây)
Hình tượng các nhân vật trên mang tính chất bổ sung, hoàn thiện bức
tranh xã hội Việt Nam trong buổi giao thời đã thay đổi về tính chất. Từ đối
tượng được cả xã hội coi trọng đến đối tượng bị coi thường đều hiện lên sắc
nét, bản chất phơi bày rõ ràng. Đồng thời là sự chuyển hoá cung bậc trào
phúng trong thơ Nguyễn Khuyến
Hình tượng nghệ thuật khách thể phản ánh thực chất tính phức tạp, hỗn
độn của xã hội Việt Nam cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX. Đó là những năm
tháng văn hoá suy đồi, kỉ cương đổ nát, luân thường đạo lí không còn theo
khuôn vàng thước ngọc, đất nước tàn lụi ánh hào quang và phai nhạt đạo
thánh hiền. Với giọng điệu đa dạng, lúc nhẹ nhàng, khi khinh bỉ, chửi thẳng,
chế giễu sâu cay hay đả kích độc địa, chua ngoa, Nguyễn Khuyến tái hiện thế
giới hình tượng hết sức sinh động có những con người cũ nhân cách biến
dạng và cả những con người mới do xã hội sản sinh ra.
2.1.2 Nghệ thuật xây dựng hình tượng chủ thể
Bên cạnh các nhân vật khách thể, Nguyễn Khuyến còn chế giễu chính
bản thân mình. Có những bài thể hiện trực tiếp ngay ở đầu đề như: Than nợ,
Than nghèo, Tự trào, Tự thuật, hoặc qua các hình ảnh ẩn dụ: Mẹ Mốc, Anh
giả điếc, Ông phỗng đá. Tính chất trào lộng lúc mờ lúc nhạt qua tất cả các tác
phẩm. Nguyễn Khuyến viết khá nhiều và tự cười mình cũng nhiều. Có khi

ông thấy mình đáng chê, đáng cười từ ngoại hình đến tính cách, thói quen.
Nghệ thuật xây dựng hình tượng chủ thể đem dến cái nhìn toàn diện, cụ thể về
nhà thơ Tam nguyên Yên Đổ.
Trước tiên, thông qua các hình ảnh ẩn dụ, nhà thơ bộc lộ chính con
người mình. Đó là mẹ Mốc nhọ nhem, xấu xí kiên quyết giữ tiết sạch giá
Nguyễn Thị Tuyền

27

K31B- Khoa Ngữ Văn


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

trong: “Sạch như nước, trắng như ngà, trong như tuyết”. Rồi lại tự ví mình
như một ông phỗng đá, thờ ơ trước mọi chuyện đời:
Người đâu tên họ là gì?
Hỏi ra chích chích chi chi nực cười!
Vắt tay ngoảnh mặt trông trời
Còn toan lo tính sự đời chi đây?
(Ông phỗng đá)
Chân dung ẩn dụ gắn liền nỗi đau mất nước, ý thức bất hợp tác với kẻ
thù, Nguyễn Khuyến khẳng định tấm lòng mình sống giữa bầy lang sói vẫn
giữ nguyên phẩm cách.
Xây dựng hình tượng chủ thể mang tính trực tiếp phần nào thoải mái
hơn xây dựng hình tượng gián tiếp. Nguyễn Khuyến sáng tác những bài thơ tả
rõ bản thân mình từ ngoại hình đến tính cách. Có khi biểu lộ tâm trạng nhức
nhối từ bỏ chốn quan trường như một con bạc chạy làng, không dám tiếp tục

sự nghiệp của mình:
Cờ đang dở cuộc, không còn nước,
Bạc chửa thâu canh đã chạy làng.
(Tự trào)
Rồi tự bộc bạch, cười cợt, phê phán chính bản thân:
Nghĩ tôi tôi gớm cái mình tôi
Tuổi có ba mươi kém một thôi.
Cơm cứ lệ thường ngày có một,
Vợ quen thói cũ ba năm đôi.
Bốn khoa hương thí không đâu cả,
Một mảnh vươn hoang bán sạch rồi.
(Vị đệ tự trào)

Nguyễn Thị Tuyền

28

K31B- Khoa Ngữ Văn


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

Tuổi già đến chính mình không ngờ tới: “tóc bạc bao giờ không biết
nhỉ?”. Chân dung tác giả hiện lên như một lão già lẩm cẩm “dở tỉnh say” rồi
tự cười mình, chán mình. Ta bắt gặp một ông già chân quê, yêu đời nhưng
đằng sau là Tam nguyên Yên Đổ ưu thời mẫn thế. Hai con người hoà nhập tạo
nên Nguyễn Khuyễn đáng trọng, đối lập hình tượng hình tượng khách thể.
Hình tượng tác giả gắn liền với ý thức tác giả về vai trò vã hội của

mình. Cơ sở của nó là tâm lí thể hiện cái “tôi”. Tuy có sự đối lập về nhân cách
với hình tượng trào phúng khách thể song có mối quan hệ chặt chẽ làm nên
tính chỉnh thể, toàn diện của hình tượng nghệ thuật trong thơ Nguyễn
Khuyến. Bằng tài năng và sự tinh tế, ông tái hiện một cách xuất sắc chính con
người mình, qua đó người đọc có cái nhìn toàn diện về nhà thơ.
Không còn nữa hình tượng con người sánh ngang tầm vũ trụ, con người
trong thơ trào phúng Nguyễn Khuyến bị chi phối mạnh mẽ bởi hoàn cảnh xã
hội, ý thức bất lực của một hệ tư tưởng, trở nên trống rỗng mất hết giá trị, ý
nghĩa cao siêu. Con người trở thành đối tượng trào phúng.
Văn học dùng hình tượng để miêu tả sinh hoạt. Đó là nơi người nghệ sĩ
gửi gắm những quan điểm tư tưởng thẩm mĩ, cách nhìn nhận về cuộc đời.
Hình tượng càng sinh động bao nhiêu thì giá trị văn học càng lớn bấy nhiêu.
Nguyễn Khuyến là một nhà nho chân chính luôn quan tâm đến vận mệnh Tổ
quốc và đời sống nhân dân. Do đó, hình tượng trào phúng mà ông xây dựng
hết sức sinh động: lũ cướp nước, bọn quan lại mục nát, lớp nho sĩ tàn tạ cuối
mùa, thầy đồ, học trò, nhà sư… Tất cả đều “xộc xệch” trong hoàn cảnh văn
hoá đạo đức truyền thống xuống dốc nghiêm trọng. Hình tượng chủ thể chính bản thân tác giả được xây dựng trong thế đối lập về nhân cách ít nhiều
mang ý thức bất lực, vô nghĩa của cá nhân mình.

Nguyễn Thị Tuyền

29

K31B- Khoa Ngữ Văn


×