Tải bản đầy đủ (.pdf) (65 trang)

Bước đầu nghiên cứu ảnh hưởng của đất bị nhiễm kim loại nặng (chì pb) đến thành phần loài và một số đặc điểm định lượng của bọ nhảy (insecta collembola) ở đồng mai, xã chỉ đạo, huyện văn lâm, tỉnh hưng yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.15 MB, 65 trang )

`Trường đại học sư phạm Hà Nội 2
Khoa: Sinh ktnn
============

Ngô Như Hải

Bước đầu nghiên cứu ảnh
hưởng của đất bị nhiễm kim
loại nặng (Chì: Pb) đến thành
phần loài và một số đặc điểm
định lượng của bọ nhảy
(Insecta: Collembola) ở Đông
Mai, xã chỉ đạo, huyện Văn Lâm,
tỉnh Hưng Yên

Khoá luận tốt nghiệp đại học
Chuyên ngành: Động vật học

Hà Nội - 2008


Trường đại học sư phạm Hà Nội 2
Khoa: Sinh ktnn
============
Ngô Như Hải

Bước đầu nghiên cứu ảnh
hưởng của đất bị nhiễm kim
loại nặng (Chì: Pb) đến thành
phần loài và một số đặc điểm
định lượng của bọ nhảy


(Insecta: Collembola) ở Đông
Mai, xã chỉ đạo, huyện Văn Lâm,
tỉnh Hưng Yên
Khoá luận tốt nghiệp đại học

Chuyên ngành: Động vật học
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Nguyễn Trí Tiến
Th.s Vương Thị Hoà

Hà Nội 2008


Lời cảm ơn
Trong quá trình thực hiên và hoàn thành luận văn tốt nghiệp, em đã
nhận được sự quan tâm, giúp đỡ, chỉ bảo tận tình của các đơn vị và cá nhân.
Nhân dịp này em xin bày tỏ sự biết ơn chân thành và sâu sắc tới:
- Ban Giám hiệu Trường ĐHSP Hà Nội 2, ban Chủ nhiệm Khoa cùng
các thầy cô giáo trong khoa và trong tổ bộ môn Động vật, Khoa Sinh
KTNN.
- Ban lãnh đạo viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, tập thể cán bộ
phòng Sinh thái môi trường đất đã giúp đỡ tạo điều kiện cho em trong quá
trình học tập và thực hiện luận văn.
Đặc biệt em xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS Nguyễn
Trí Tiến cán bộ phòng Sinh thái và môi trường đất, Viện Sinh Thái và Tài
nguyên sinh vật đất, Hà Nội cùng với Th.s Vương Thị Hòa cán bộ giảng
dạy môn Động vật học, khoa Sinh KTNN trường ĐHSP Hà Nội 2 là
những người trực tiếp hướng dẫn luận văn cho em trong thời gian qua.
Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn tất cả những người thân, bạn bè
luôn giúp đỡ, động viên và khích lệ để em vượt qua nhiều khó khăn, hoàn
thành bản luận văn này.

Hà Nội, tháng 5 năm 2008
Sinh viên

Ngô Như Hải


Lời cam đoan

Tôi xin cam đoan: Đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Tất cả
các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực và chưa
từng được ai công bố hay sử dụng để bảo vệ một học vị nào từ trước tới nay.
Tôi xin cam đoan: Các thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã được
ghi rõ nguồc gốc.
Sinh viên

Ngô Như Hải


Mục lục
lời cảm ơn
lời cam đoan
danh mục các bảng, các biểu đồ
Mở Đầu.

1

Mục đích của đề tài........

2


Nội dung của đề tài........

2

Chương 1: Tổng quan tài liệu...

3

1.1. Tình hình nghiên cứu bọ nhảy trên thế giới.

3

1.2. Tình hình nghiên cứu bọ nhảy ở Việt Nam..

6

Chương 2: Đối tượng, thời gian, địa điểm và phương
pháp nghiên cứu 12
2.1. Đối tượng nghiên cứu... 12
2.2. Thời gian nghiên cứu.... 12
2.3. Địa điểm nghiên cứu........

12

2.4. Phương pháp nghiên cứu.. 14
2.4.1. Vài nét khái quát về điều kiện tự nhiên khu vực nghiên
cứu 14
2.4.1.1. Điều kiện tự nhiên .... .. 14
2.4.1.2. Tình hình kinh tế xã hội tại làng Đông Mai


15

2.4.1.3. Quá trình phát triển của nghề tái chế ắc quy tại làng
Đông Mai. 15
2.4.1.4. Những nguy cơ đe dọa của hoạt động tái chế ắc quy... 16
2.4.2. Nghiên cứu ngoài thực địa..... 17
2.4.3. Nghiên cứu trong phòng thí nghiệm.. 17
2.4.4. Xử lý số liệu......

19


2.5. Thành phần lý hoá của đất ở khu vực nghiên cứu 21
Chương 3: Kết quả nghiên cứu..... 23
3.1. Thành phần loài và phân bố của bọ nhảy ở khu vực nghiên cứu.. 23
3.1.1. Danh sách các loài bọ nhảy ở Đông Mai, xã Chỉ Đạo, Văn
Lâm, Hưng Yên. .......................... 23
3.1.2. Thành phần phân loại học của bọ nhảy ở Đông Mai, xã Chỉ
Đạo, Văn Lâm, Hưng Yên. ......... 31
3.1.3. Đặc điểm phân bố cuả bọ nhảy ở Đông Mai.

32

3.1.3.1. Đặc điểm phân bố theo điểm thu mẫu..... 32
3.1.3.2. Phân bố theo sinh cảnh.....

33

3.1.3.3. Phân bố theo mùa 34
3.1.4. Sự tương đồng thành phần loài giữa các điểm nghiên cứu. 35

3.1.5. Các loài bọ nhảy ưu thế và phổ biến ở khu vực nghiên cứu... 37
3.2. ảnh hưởng của đất bị nhiễm kim loại nặng (Chì) đến một số chỉ
số định lượng của bọ nhảy........... 39
3.2.1. Một số chỉ số định lượng của bọ nhảy ở các điểm nghiên cứu.. 39
3.2.2. ảnh hưởng của đất bị nhiễm kim loại nặng (Chì) đến một số
chỉ số định lượng của bọ nhảy.............

41

3.2.2.1. ảnh hưởng đến số lượng loài............... 41
3.2.2.2. ảnh hưởng đến mật độ trung bình........... 41
3.2.2.3. ảnh hưởng đến độ đa dạng H.. 42
3.2.2.4. ảnh hưởng đến độ đồng đều J................ 43
3.2.3. Nhận xét chung........................................ 43
Kết luận. 45
Tài liệu tham khảo. 47
phụ lục


Danh mục các bảng, các biểu đồ
1. Các bảng
Bảng 1: Thành phần lý hoá của đất ở khu vực nghiên cứu
Bảng 2: Danh sách loài và phân bố của bọ nhảy ở Đông Mai, xã Chỉ
Đạo, Văn Lâm, Hưng Yên
Bảng 3: Thành phần phân loại học của bọ nhảy ở Đông Mai, xã Chỉ
Đạo, Văn Lâm, Hưng Yên
Bảng 4: Số lượng loài bọ nhảy phân bố theo điểm thu mẫu, theo mùa và
theo sinh cảnh
Bảng 5: Các loài bọ nhảy ưu thế
Bảng 6: Các loài bọ nhảy phổ biến

Bảng 7: Một số chỉ số định lượng của bọ nhảy ở khu vực nghiên cứu
2. Các biểu đồ
Biểu đồ 1: Số lượng loài bọ nhảy phân bố theo điểm thu mẫu
Biểu đồ 2: Số lượng loài bọ nhảy phân bố theo sinh cảnh
Biểu đồ 3: Số lượng loài bọ nhảy phân bố theo mùa
Biểu đồ 4: Chỉ số tương đồng thành phần loài Sorensen (q) giữa các
nhóm bọ nhảy ở khu vực Đông Mai, xã Chỉ Đạo, Văn Lâm,
Hưng Yên
Biểu đồ 5: Tương quan giữa hàm lượng chì trong đất với số lượng loài
bọ nhảy
Biểu đồ 6: Tương quan giữa hàm lượng chì trong đất với mật độ trung
bình
Biểu đồ 7: Tương quan giữa hàm lượng chì trong đất với độ đa dạng loài
H của bọ nhảy
Biểu đồ 8: Tương quan giữa hàm lượng chì trong đất với độ đồng đều J


Luận văn tốt nghiệp

Ngô Như Hải
mở đầu

Đất là một hệ sinh thái hoàn chỉnh, trong đất có chứa các nhân tố vô
sinh và hữu sinh. Nhân tố hữu sinh bao gồm: Sinh vật sản xuất là các loài thực
vật, sinh vật tiêu thụ và phân huỷ là các loài động vật đất, nấm và vi sinh vật.
Trong cấu trúc hệ động vật đất, nhóm chân khớp bé (Microarthropoda) với
kích thước cơ thể nhỏ bé (0,1 0,2 đến 2 -3 mm) thường chiếm ưu thế về số
lượng so với các nhóm khác. Hai đại diện chính của chúng là nhóm Ve bét
(Arachnida:Acarina) và bọ nhảy (Insecta: Collembola). Bọ nhảy là một trong
những nhóm chân khớp nguyên thuỷ sống ở đất.

Đã có nhiều công trình nghiên cứu về khu hệ và sinh thái, sinh học bọ
nhảy. Cho đến nay đã có hơn 7000 loài bọ nhảy được mô tả và hàng năm lại
có thêm hàng chục loài mới được công bố.
Bọ nhảy rất nhạy cảm với sự thay đổi của các yếu tố môi trường. Vì vậy
trên cơ sở phân tích cấu trúc định tính, định lượng, cấu trúc ưu thế của bọ
nhảy sẽ hình dung được sự thay đổi, diễn thế sinh thái ở khu vực nghiên cứu
và có thể sử dụng chúng như những chỉ thị sinh học tin cậy khi đánh giá tình
trạng, chất lượng đất hoặc đánh giá ảnh hưởng của các yếu tố nhân tác đến
môi trường đất.
Nhìn chung, trong vài chục năm trở lại đây, những kết quả nghiên cứu
về bọ nhảy và các nhóm động vật không xương sống ở đất, khai thác theo
hướng sử dụng chúng như những chỉ thị sinh học cập nhật trong vấn đề khôi
phục và bảo vệ độ phì nhiêu của đất, kiểm soát và bảo vệ môi trường đất, ngăn
chăn sự phá hoại bởi các hoạt động nhân tác dưới mọi hình thức khác nhau
hoặc sử dụng chúng như một trong tác nhân sinh học, cải tạo và nâng cao chất
lượng đất được công bố khá nhiều trong các tạp chí chuyên ngành hoặc hội
nghị khoa học khu vực hay quốc tế.
Việc nghiên cứu bọ nhảy ở Việt Nam đã bước đầu được quan tâm và
tiến hành trên nhiều phương diện, ở các kiểu sinh cảnh khác nhau và thường

K30A - Khoa Sinh - KTNN

1

Trường ĐHSP Hà Nội 2


Luận văn tốt nghiệp

Ngô Như Hải


tập trung vào các hướng: Nghiên cứu đa dạng sinh học và khu hệ, nghiên cứu
về các đặc điểm sinh thái, nghiên cứu về vai trò chỉ thị sinh học của bọ nhảy
trong môi trường đất, nghiên cứu về ảnh hưởng của một số tác nhân: nồng độ
axit (pH), chất độc hoá học (Dioxin), một số hoá chất bảo vệ thực vật, phân
bón hữu cơ, vô cơ, một số phương thức canh tác, sử dụng đất, lớp thảm phủ
thực vậtđến cấu trúc định tính, định lượng bọ nhảy.
Tuy nhiên, việc nghiên cứu mức độ ảnh hưởng của đất bị nhiễm kim
loại nặng đến sự tồn tại và phát triển của bọ nhảy còn là vấn đề mới. Vì vậy,
chúng tôi đã chọn đề tài Bước đầu nghiên cứu ảnh hưởng của đất bị
nhiễm kim loại nặng (Chì: Pb) đến thành phần loài và một số đặc điểm
định lượng của bọ nhảy (Insecta: Collembola) ở Đông Mai, xã Chỉ Đạo,
huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên.
Mục đích của đề tài:
Thăm dò mức độ ảnh hưởng của đất bị nhiễm kim loại nặng (Chì: Pb)
đến thành phần loài và một số đặc điểm định lượng của bọ nhảy ở Đông Mai,
huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên.
Nội dung của đề tài:
- Lập một danh sách thành phần loài bọ nhảy tương đối đầy đủ ở khu
vực nghiên cứu.
- Phân tích đặc điểm phân bố của bọ nhảy theo điểm thu mẫu, theo sinh
cảnh và theo mùa. Phát hiện các loài bọ nhảy ưu thế, phổ biến ở khu vực
nghiên cứu.
- Đánh giá mức độ ảnh hưởng của của đất bị nhiễm chì (Pb) đến một số
chỉ số định lượng của bọ nhảy: số lượng loài, mật độ trung bình, chỉ số đa
dạng, chỉ số đồng đều ở khu vực nghiên cứu.

K30A - Khoa Sinh - KTNN

2


Trường ĐHSP Hà Nội 2


Luận văn tốt nghiệp

Ngô Như Hải
chương 1
tổng quan tài liệu

1.1. Tình hình nghiên cứu bọ nhảy trên thế giới
Bọ nhảy (Collembola) - nhóm động vật chân khớp cỡ hiển vi thuộc lớp
sâu bọ (Insecta), ngành chân khớp (Arthropoda) đã được biết đến cách đây rất
lâu. Đa số chúng có kích thước khoảng 1 mm - 2 mm. Có một số đại diện với
chiều dài đến 5 9 mm (Morulina, Tomocerus) và một số loài khác có kích
thước rất nhỏ: 0,2 0,7 mm (Neelidae). Cơ thể bọ nhảy chia làm 3 phần:
Đầu, ngực gồm 3 đốt và bụng gồm 6 đốt . Đầu mang đôi râu (từ 4 - 6 đốt) có
cơ quan thụ cảm ở đốt râu thứ 3 và ở gốc râu, trước vết mắt. Ba đốt ngực
mang 3 đôi chân. Đốt bụng I mang phần phụ gọi là ống bụng. Phần phụ ở đốt
bụng III là quai móc (gồm một số răng và 1 lông ở gốc), đốt bụng IV mang
chạc nhảy (cơ quan giúp bọ nhảy vận động).
Để phân biệt bọ nhảy với các đại diện chân khớp khác, chủ yếu dựa vào
một số đặc điểm:
- Kích thước: thường từ 0,3 3 mm
- Hình dạng: gồm 3 phần đầu, ngực, bụng. Bụng gồm 6 đốt. Phần kết
thúc thân thường có lông dạng gai nhọn, chạc nhảy ngắn hoặc dài, có đủ 3 cặp
chân ở phần ngực. Thân thường phủ lông hay vảy, không có cánh. Giữa ngực
và bụng không thắt lại. Râu thẳng có từ 4 6 đốt [10, 20, 21, 35].
Loài bọ nhảy đầu tiên được miêu tả ở Thụy Điển năm 1758 là Podura
viridis, Linne. Vào những năm tiếp theo, có rất nhiều tác giả khác cũng quan

tâm tới bọ nhảy như các công trình nghiên cứu của Muller, 1776; Templeta,
1835; Brauer, 1869; Lubbock, 1870; Sheaffer, 1899nhưng các công trình
này mới dừng lại ở mức độ thống kê miêu tả loài mới [21].
Cho đến nay, hai công trình nghiên cứu về khu hệ bọ nhảy được coi là
cơ bản và đầy đủ nhất là Khu hệ bọ nhảy của Châu Âu của Gisin, 1960 và

K30A - Khoa Sinh - KTNN

3

Trường ĐHSP Hà Nội 2


Luận văn tốt nghiệp

Ngô Như Hải

Bọ nhảy Ba Lan trong mối liên hệ với khu hệ bọ nhảy thế giới của Stach
(1947 - 1963) [21, 35].
Về mặt sinh học bọ nhảy, có Butcher et al, 1971, Cassagnau, 1969b 1971a; Massousd, Pinot, 1973; Tamura; Mihara, 1977, 1981, Varshav, 1984
là các tác giả đã đi sâu nghiên cứu lĩnh vực này. Những nghiên cứu cho thấy
tính đặc trưng nguyên thuỷ của bọ nhảy thể hiện ở lối sinh sản mà sự thụ tinh
xảy ra không có sự giao phối bên trong cơ thể. Sự phát triển của bọ nhảy từ lúc
nở đến lúc chết đi thường chỉ phân biệt 2 giai đoạn: giai đoạn non (trước lúc
trưởng thành) và giai đoạn trưởng thành [10, 21].
Bọ nhảy cư trú rộng khắp bề mặt trái đất và liên quan đến tất cả các
kiểu đất, các kiểu thảm thực vật. Một trong những nơi sinh sống chủ yếu của
chúng là lớp thảm vụn thực vật trên bề mặt trái đất. Chúng thích ứng với chế
độ đất đa dạng nhất và nhiều loài có thể sống trong những điều kiện cực kì bất
lợi của môi trường. Khi nghiên cứu về ảnh hưởng của động vật đất tới quá

trình phân huỷ vụn hữu cơ, nhiều tác giả đã cho thấy bọ nhảy không chỉ là
nhân tố đầu tiên phân huỷ lớp thảm thực vật mà còn là nhân tố thứ hai phân
huỷ dựa trên sự phân huỷ của các nhóm động vật khác như giun đất, nhiều
chânlàm tăng lượng mùn được tạo thành (N. Chernova, 1988, S.Stebaeva,
1988) [10, 20].
Có nhiều công trình nghiên cứu lựa chọn nhóm động vật không xương
sống ở đất khác nhau làm sinh vật chỉ thị sinh học, phục vụ các mục đích bảo
vệ thiên nhiên và sự trong sạch của môi trường đất. Kết quả nghiên cứu có thể
tìm thấy trong các công trình của Vander Bund (1965), Ghilarov (1965, 1975,
1984), Vilkemaa et al. (1986), Tarashchuk (1995), Paoleti et al. (1995),
Kuznetsova (1994), Chidzicke et al. (1994) [17, 21, 31, 38, 41, 43].
Trong những năm gần đây, nhiều nhà khoa học thường tập trung vào
các hướng nghiên cứu động vật đất như những sinh vật chỉ thị cho mức độ ô
nhiễm đất bởi các hoá chất bảo vệ thực vật, thuốc trừ sâu, phân bón hữu cơ, vô

K30A - Khoa Sinh - KTNN

4

Trường ĐHSP Hà Nội 2


Luận văn tốt nghiệp

Ngô Như Hải

cơô nhiễm dầu, chất phóng xạ, kim loại nặng,nghiên cứu động vật đất chỉ
thị cho chất lượng đất trong điều kiện đô thị hoá, nghiên cứu động vật đất chỉ
thị cho mức độ tác động của con người vào môi trường đất rừng tự nhiên. Sử
dụng động vật đất như chỉ thị cho kiểu đất, kiểu cảnh quan[31, 32, 33, 34,

35, 40].
Các tác giả nước ngoài đều có nhân xét: Có thể sử dụng động vật đất
như những chỉ thị sinh học nhạy cảm, tin cậy khi đánh giá mức độ ô nhiễm đất
bởi các hoá chất bảo vệ thực vật, thuốc trừ sâu, phân bón các loại(Vander
Bund, 1965; Utrobina et al., 1984; Paoleti et al., 1995) [21, 41]. Cấu trúc quần
xã bọ nhảy phản ánh khá rõ nét sự nhiễm độc dầu và có thể sử dụng chúng
không chỉ cho mức độ và thời gian nhiễm độc mà còn cho cả giai đoạn của
quá trình phục hồi đất (Utrobina et al., 1984). Sự cư trú của bọ nhảy có thể là
chỉ thị sinh học chặt chẽ cho điều kiện của đất, đồng thời soi sáng hướng khởi
đầu của sự biến đổi rất lâu từ trước khi có lớp phủ thực vật có phản ứng
(Chernova, 1988, Taraschuk, 1995) [10, 43]; Những phản ứng của bọ nhảy ,
Acarina đối với hoá chất độc có thể sử dụng làm chỉ thị tốt, thậm chí chỉ với
các vết của chất này trong đất (Suberta, 1988, Chernova, 1988) [10]; đặc tính
phức tạp và động thái quần xã chân khớp bé có thể sử dụng như những chỉ thị
xa về hướng của quá trình phục hồi trên những vùng đất bị vi phạm
(Eijsackers, 1983) [34]. Đối với những thay đổi bất kì của điều kiện môi
trường sống dù là nhỏ bé cũng thường dẫn đến những phản ứng khá nhạy cảm
và khá rõ rệt của cấu trúc quần xã chân khớp bé ở đất (Cornabg, 1995;
Eijsackers, 1983) [32, 34]. Cấu trúc của nhóm bọ nhảy như chỉ thị sinh học
cho các điều kiện của cây trồng trong khu vực đô thị ( Kuznetzova, 1994,
Chidzicke et al., 1994). Bọ nhảy là các đại diện sống trong các khoang hốc ở
đất và ở lớp thảm trên bề mặt đất, là những đối tượng nhảy cảm với môi
trường ô nhiễm bởi kim loại nặng. Các nghiên cứu về ảnh hưởng của Cadimi,
kẽm, đồng đến nhóm đối tượng này đã được thực hiện trong những năm gần

K30A - Khoa Sinh - KTNN

5

Trường ĐHSP Hà Nội 2



Luận văn tốt nghiệp

Ngô Như Hải

đây. Kết quả các nghiên cứu cho thấy những ảnh hưởng thể hiện rõ hơn, thông
qua thức ăn chứa nồng độ kim loại cao hơn ở đất bị nhiễm độc bởi kim loại
nặng. Mặt khác, thức ăn chính của bọ nhảy là nấm, mà nấm lại có khả năng
tích lũy kim loại nặng ở nồng độ cao [39, 40]...
Có thể thấy lịch sử nghiên cứu bọ nhảy đã có từ rất lâu trên thế giới và
được nghiên cứu một cách có hệ thống cả về khu hệ, sinh học sinh thái và vai
trò chỉ thị. Nhưng ở Việt Nam thì hướng nghiên cứu về nhóm này mới chỉ bắt
đầu trong thời gian gần đây.
1.2. Tình hình nghiên cứu bọ nhảy ở Việt Nam
ở Việt Nam, công trình nghiên cứu về bọ nhảy đầu tiên là của các tác
giả nước ngoài đó là công trình của Denis và Delamare Deboutellvile công
bố năm 1948 . Denis đã đưa ra danh sách 17 loài bọ nhảy Việt Nam do
Dawydoff thu thập từ các địa phương như Vĩnh Phúc, Đắc Lắc, Đà Nẵng, Tây
Nguyên [21].
Năm 1965, riêng tại Sapa (Lào Cai), J. Stach Nhà động vật học người
Ba Lan đã đưa ra danh sách 30 loài bọ nhảy thuộc 22 giống, 9 họ. Trong đó có
20 loài mới cho khu hệ Việt Nam và 10 loài mới cho khoa học [21].
Từ năm 1975, các đề tài nghiên cứu về nhóm Microarthropoda (nhóm
chân khớp bé) và các nhóm động vật không xương sống khác ở đất mới bắt
đầu được các tác giả Việt Nam tiến hành khá đồng bộ trên các vùng miền đất
nước.
Từ năm 1979, đến nay đặc biệt là trong những năm gần đây, nhiều đợt
điều tra khảo sát về bọ nhảy đã được thực hiện, tập trung vào một số vườn
quốc gia (VQG), khu bảo tồn thiên nhiên (KBTTN) hoặc ở một số vùng, miền,

khu vực khác nhau, trải dài từ Bắc vào Nam như: VQG Tam Đảo, VQG Cát
Tiên (2002 - 2004), VQG Cát Bà (2005 - 2006), VQG Ba Bể (2002), KBTTN
Na Hang, Tuyên Quang (2002 -2003), KBTTN Đakrong, Quảng Trị (2002 -

K30A - Khoa Sinh - KTNN

6

Trường ĐHSP Hà Nội 2


Luận văn tốt nghiệp

Ngô Như Hải

2003), KBTTN Thượng Tiến, Hòa Bình (2005), khu vực miền Trung, Nam
Trung Bộ và Nam Bộ (2004 -2006), khu vực phía Tây Quảng Nam, Quảng Trị,
Thừa Thiên - Huế (2008)...Trong thời gian từ 1995 - 2005, đã miêu tả và công
bố 27 loài bọ nhảy mới cho khoa học và bổ sung thêm hơn 50 loài mới cho
khu hệ bọ nhảy Việt Nam [9, 15, 16, 19, 23, 24].
Về đặc điểm sinh thái học: Là một nội dung quan trọng được thực hiện
đồng thời với việc nghiên cứu khu hệ Bọ nhảy ở tất cả các điểm điều tra thực
địa. Các chỉ số: mật độ quần thể (độ phong phú), tỷ lệ phần trăm các nhóm
dạng sống, các nhóm sinh thái, các nhóm loài ưu thế, phổ biến và cấu trúc ưu
thế, độ tập trung loài (G), độ ưu thế (D), độ thường gặp (C), chỉ số đa dạng
Shannon - Weaner (H), chỉ số đồng đều Pielou (J'), chỉ số tương đồng thành
phần loài Jaccard (S), Sorensen (q)...đều được phân tích đánh giá. Kết quả
phân tích các chỉ số này cho phép hình dung được tương đối đầy đủ mối quan
hệ hữu cơ của bọ nhảy với các điều kiện sống của môi trường nơi nghiên cứu.
Từ đó, phát hiện các quy luật chi phối sự phân bố, sự hình thành cấu trúc

nhóm phản ánh mức độ ảnh hưởng của những nhân tố sinh thái đến mức độ đa
dạng loài, đến sự sinh trưởng và phát triển hay sự tiêu vong của quần xã sinh
vật.
Về vai trò chỉ thị sinh học: Bước đầu đã nghiên cứu ảnh hưởng của một
số nhân tố như nồng độ axit (pH), chất độc hóa học (Dioxin), một số hóa chất
bảo vệ thực vật sử dụng trong sản xuất nông nghiệp, phân bón hữu cơ, vô cơ,
một số phương thức canh tác, sử dụng đất, lớp thảm phủ thực vật...đến cấu trúc
định tính, định lượng bọ nhảy. Trên cơ sở phân tích các phản ứng của bọ nhảy,
thể hiện qua sự biến đổi các giá trị chỉ số định lượng: thành phần và số lượng
loài, tỷ lệ các nhóm ưu thế, độ phong phú và chỉ số đa dạng, chỉ số đồng đều,
chỉ số tương đồng về thành phần loài v.v. các tác giả đã đưa ra những nhận
xét, đánh giá về nguyên nhân và mức độ ảnh hưởng của yếu tố môi trường đến
bọ nhảy, đến chất lượng đất nơi nghiên cứu và đề xuất việc sử dụng bọ nhảy

K30A - Khoa Sinh - KTNN

7

Trường ĐHSP Hà Nội 2


Luận văn tốt nghiệp

Ngô Như Hải

như một công cụ kiểm tra sinh thái khi đánh giá chất lượng đất nơi nghiên
cứu và như chỉ thị sinh học nhạy cảm để đánh giá mức độ tác động của con
người đến môi trường đất và nước, tình trạng ô nhiễm, thoái hóa đất bởi các
yếu tố ngoại cảnh. Có thể tóm tắt một số kết quả nghiên cứu chính theo hướng
này:

- Tác động của hóa chất bảo vệ thực vật nói chung (trong đó có thuốc
trừ sâu, diệt cỏ), đặc biệt là thuốc thuộc nhóm lân hữu cơ, cacbonat đã làm
giảm số lượng loài, giảm tính đa dạng sinh học của hệ sinh vật đất. Thuốc trừ
sâu dù sử dụng ở nồng độ và chu kỳ nào cũng làm thay đổi cấu trúc quần xã
của hệ động vật đất và cấu trúc ưu thế của nhóm chân khớp. Việc phá vỡ và
thay đổi cấu trúc này dẫn đến sự gia tăng vượt trội số lượng cá thể của một
hay vài loài hạt nhân, mà mật độ của cả quần xã động vật đất được quy định
bởi chính các loài này. Trong nghiên cứu sinh thái học chỉ thị, việc xuất hiện
sự ưu thế bất thường trong cấu trúc quần xã động vật được xem xét nhự một
chỉ số xác định mức độ thoái hóa của môi trường đất (E. Chidzicke, E.
Shibinska, 1994)) [25, 26].
- Nghiên cứu thực địa ở khu vực công ty Suppephotphat và hóa chất
Lâm Thao (Phú Thọ) năm 2000-2001 cho thấy: Đất bị nhiễm độc axit dù ít
hay nhiều đều làm suy giảm số lượng loài, mật độ, sinh khối và chỉ số đa dạng
loài (H') của bọ nhảy và giun đất. Các tác giả đề xuất có thể sử dụng 2 tham số
là giá trị chỉ số đa dạng loài bọ nhảy (H)và sự có mặt hay vắng mặt của
Cyphoderus javanus (thuộc bọ nhảy), của Pheretima robusta (thuộc giun đất)
như công cụ đánh giá mức độ nhiễm độ đất bởi axit [25].
- Nghiên cứu ảnh hưởng của chất độc hóa học (Dioxin) đến bọ nhảy và
giun đất ở khu vực A Lưới (Thừa Thiên - Huế ) và Mã Đà (Đồng Nai) trong
thời gian 2000 -2004 cho thấy: Cấu trúc ưu thế của bọ nhảy ở sinh cảnh trảng
cỏ và rừng tự nhiên khu vực A Lưới, Mã Đà mang dạng đặc trưng cho kiểu

K30A - Khoa Sinh - KTNN

8

Trường ĐHSP Hà Nội 2



Luận văn tốt nghiệp

Ngô Như Hải

môi trường đất có chất lượng xấu hoặc thoái hóa so với môi trường đất của
điểm đối chứng (khu BTTN Đakrong và VQG Cát Tiên) [22, 25].
- Nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón với các công thức bón khác nhau
trên nền đất bạc màu tại Hiệp Hòa, Bắc Giang đến các nhóm chân khớp ở đất
đã cho thấy: khi đất được đầu tư các loại phân bón và sản phẩm phụ (thân, lá
ngô, đậu của vụ trước) nói chung đều làm tăng số lượng loài, mật độ và làm
thay đổi sự phân bố theo độ sâu thay đổi tỷ lệ các nhóm ưu thế và phổ biến
[18, 26].
- ảnh hưởng của phân bón vi sinh vật đến đa dạng động vật đất đã được
điều tra ở vùng trồng chuyên canh rau Gia Xuyên, Gia Lộc, Hải Dương (2004
-2006), ở vùng trồng chuyên trồng lúa của 5 huyện (Nam Định) (2005 2007), ở đất trồng đậu tương xã Bảo Hiệu, Yên Thủy (Hòa Bình) (2004 -2005)
cũng đi đến kết luận: phân bón vi sinh có tác động tích cực tới hệ sinh vật đất,
tới bọ nhảy, làm số lượng loài ưa thích với loại phân này và gia tăng số lượng
(Gia Xuyên, Bảo Hiệu), nhưng mặt khác, phân vi sinh và cách chăm sóc cây
trồng theo IBM cũng làm giảm một phần tính đa dạng loài, giảm tính đồng
đều của cả quần xã (Bảo Hiệu) [4, 5, 27, 28].
- Để đánh giá ảnh hưởng của các phương thưc khai thác, sử dụng đất
đến hệ động vật đất, nhiều đợt điều tra đã được thực hiện ở vùng đệm VQG
Tam Đảo (Phúc Yên, Vĩnh Phúc) với các dạng sinh cảnh: rừng tự nhiên
khoanh nuôi, nương rẫy bỏ hoang sau vài vụ trồng cây ngắn ngày, đồi trồng
cây ăn quả lâu năm, đất nông nghiệp thuần, vườn quanh nhà ở...Trong hệ sinh
thái nông nghiệp đất dốc miền núi phía Bắc đã điều tra thu mẫu tại Hòa Bình,
Yên Bái, Bắc Cạn, Sơn La, Hòa Bình là những điểm thí nghiệm trồng cây
lương thực ngắn ngày với các mô hình thí nghiệm khác nhau: đất có phủ xác
hữu cơ: thân, lá ngô + lá mía; thân ngô; thân, lá ngô...(Sơn Thịnh, Yên Bái; Na
Rì, Bắc Cạn; Cò Nòi, Sơn La); đất phủ lớp thảm thực vật tươi: cây lạc dại


K30A - Khoa Sinh - KTNN

9

Trường ĐHSP Hà Nội 2


Luận văn tốt nghiệp

Ngô Như Hải

(nông trường Sao Đỏ, xã Phiêng Luông, Mộc Châu, Sơn La); đất tạo tiểu bậc
thang (Na Rì, Bắc Cạn); đất trồng cây đơn loại: ngô, mía, sắn hay trồng xen 2,
3 loại cây với nhau (Yên Thủy, Hòa Bình; Chiềng Mai, Sơn La) v. v. Từ kết
quả phân tích dẫn liệu thu được, các tác giả đã nhận xét: Với kỹ thuật tạo tiểu
bậc thang và phủ xác hữu cơ, giá trị các chỉ số định lượng của bọ nhảy và giun
đất ở điểm thí nghiệm đều lớn hơn so với đối chứng. Với kỹ thuât trồng xen,
trồng phủ thảm thực vật tươi: giá trị các chỉ số định lượng của 2 nhóm động
vật đất nêu trên ở các lô thí nghiệm cũng lớn hơn so với đối chứng. Như vậy,
các biện pháp kỹ thuật tạo tiểu bậc thang, phủ xác thực vật khô hoặc tươi, kỹ
thuật trồng xen lạc, xen đậu hay kết hợp 2 - 3 loại cây với nhau ở đất bằng hay
đất dốc canh tác nông nghiệp đã có ảnh hưởng tích cực đến hoạt tính sinh học
đất hoặc bằng việc cung cấp, bổ sung thêm nguồn dinh dưỡng cho đất, tạo
thêm nhiều ổ sinh thái, nơi ẩn nấp mới hoặc bằng cách cải thiện điều kiện môi
trường sinh thái thuận lợi cho sự tồn tại và phát triển cả về số lượng loài, mật
độ, sinh khối và tính đa dạng loài của hệ sinh vật đất. Tuy nhiên, các biện
pháp kỹ thuật này cũng có mặt hạn chế, phần nào tác động tiêu cực đến độ
đồng đều của quần xã (chỉ số đồng đều J' có chiều hướng giảm ở đất phủ xác
hữu cơ), làm tính ổn định của quần xã không cao [4, 15, 28].

- ảnh hưởng của phân lân, kali bón với liều lượng khác nhau đến bọ
nhảy trên đất trồng mầu cũng đã được nhóm Nguyễn Thị Thu Anh và cộng sự
điều tra ở Gia Lâm (2006 - 2007)và đi đến nhận xét: với các liều lượng lân
bón khác nhau từ thấp đến cao, nhìn chung đều ảnh hưởng đến khu hệ sinh vật
đất, làm thay đổi cấu trúc ưu thế của động vật chân khớp bé ở đất. Bón lân với
liều lượng 60 kg P2O5/ 1 ha và bón kali với liều 90 kg/ 1 ha là thích hợp nhất,
vừa giữ được tính đa dạng sinh học cao của khu hệ động vật đất mà cây trồng
cũng cho năng suất cao [6, 7].

K30A - Khoa Sinh - KTNN

10

Trường ĐHSP Hà Nội 2


Luận văn tốt nghiệp

Ngô Như Hải

Năm 2005, Vũ Thị Liên và cộng sự nghiên cứu ảnh hưởng của kiểu
thảm thực vật đến đặc điểm định cư của bọ nhảy ở đất rừng Sơn La, đã thống
kê được 43 loài, thuộc 28 giống, 12 họ. Các tác giả cho rằng ba kiểu thảm
thực vật có ảnh hưởng nhất định đến đặc điểm định cư của bọ nhảy, thể hiện ở
sự thay đổi độ lớn giá trị các chỉ số sinh học như: số lượng loài, mật độ trung
bình, chỉ số đa dạng, đường cong ưu thế. Trong 3 kiểu thảm rừng ở tỉnh Sơn
La, rừng thứ sinh là kiểu thảm đảm bảo có điều kiện sống tốt hơn cho sự tồn
tại, phát triển của bọ nhảy so với 2 kiểu thảm còn lại: trảng cây bụi và trảng cỏ
[16].
Tuy nhiên, những kết quả nêu trên mới chỉ là những kết quả bước đầu,

còn hạn chế về nội dung và địa điểm nghiên cứu, mang tính chất thăm dò,
định hướng. Rất nhiều vấn đề về chỉ thị sinh học và sử dụng động vật đất nói
chung, bọ nhảy nói riêng làm sinh vật chỉ thị đòi hỏi phải được tiếp tục nghiên
cứu trong thời gian tới.

K30A - Khoa Sinh - KTNN

11

Trường ĐHSP Hà Nội 2


Luận văn tốt nghiệp

Ngô Như Hải
Chương 2

Đối tượng, thời gian, địa điểm và phương pháp
nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Bọ nhảy (Collembola) động vật chân khớp cỡ hiển vi, thuộc lớp côn
trùng (Insecta), ngành chân khớp (Arthropoda) sống trong môi trường đất.
2.2. Thời gian nghiên cứu
Từ tháng 3 năm 2006 đến tháng 8 năm 2007, với 4 đợt điều tra thực địa:
- Tháng 3 năm 2006: Thu mẫu đợt 1 (tương ứng với mùa khô).
- Tháng 8 năm 2006: Thu mẫu đợt 2 (tương ứng với mùa mưa).
- Tháng 3 năm 2007: Thu mẫu đợt 3 (tương ứng với mùa khô).
- Tháng 8 năm 2007: Thu mẫu đợt 4 (tương ứng với mùa mưa)
Các khoảng thời gian giữa các đợt thu mẫu chúng tôi tiến hành lọc và
phân tích mẫu, xử lý số liệu tại phòng Sinh thái môi trường đất, viện Sinh thái

và Tài nguyên sinh vật đất, Hà Nội.
2.3. Địa điểm nghiên cứu
Làng Đông Mai, xã Chỉ Đạo, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên -làng tái
chế chì với 4 lò tái chế chì quy mô lớn và một số xưởng sơ chế ắc quy đã qua
sử dụng.
Mẫu được thu thập tại 8 điểm khác nhau theo sơ đồ:

K30A - Khoa Sinh - KTNN

12

Trường ĐHSP Hà Nội 2


Luận văn tốt nghiệp

Ngô Như Hải

Sơ đồ thu mẫu

Đi Hà Nội

5
4

Làng Đông
Mai
N

Xóm Ngọc

W
3
Cầu vượt

E

2B
S

Đường liên tỉnh số 388 đi Hải Dương

Quốc lộ 5

6A

1

6B

Lò nấu chì

2A

Chú thích:
Điểm 1: Khu vực lò nấu chì.
Điểm 2A: Điểm lấy mẫu cách lò nấu chì 300m về hướng Nam.
Điểm 2B: Điểm lấy mẫu cách lò nấu chì 300m về hướng Bắc.
Điểm 3: Khu vực đất cỏ hoang tự nhiên thuộc xóm Ngọc, Lạc Đạo
(cách lò nấu chì 4 km về hướng Tây-điểm thu mẫu đối chứng, không có hoạt
động tái chế ắc quy)


K30A - Khoa Sinh - KTNN

13

Trường ĐHSP Hà Nội 2


Luận văn tốt nghiệp

Ngô Như Hải

Điểm 4: Vườn quanh nhà (cạnh điểm sơ chế ắc quy tại hộ gia đình).
Điểm 5: Vườn quanh nhà thuộc hộ gia đình không sơ chế ắc quy (cách
điểm 4 là 1000m).
Điểm 6A: Điểm lấy mẫu cách lò nấu chì 300m về hướng Tây.
Điểm 6B: Điểm lấy mẫu cách lò nấu chì 300m về hướng Đông.
2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Vài nét khái quát về điều kiện tự nhiên khu vực nghiên cứu
Làng Đông Mai thuộc xã Chỉ Đạo, huyện Văn Lâm, nằm ở phía Bắc
của tỉnh Hưng Yên, cách quốc lộ số 5 khoảng 7 8 km. Đây là làng tái chế
chì chủ yếu của xã Chỉ Đạo.
2.4.1.1. Điều kiện tự nhiên
- Địa hình: Không có rừng núi, biển, đảo, là khu vực đồng bằng thuần
nhất.
- Khí hậu: Nhìn chung khí hậu ở đây đồng nhất với khí hậu của vùng
đồng bằng Bắc Bộ, với lượng mưa trung bình trong năm 1500 1900mm và
thường tập trung vào các tháng 7, 8, 9.
- Độ ẩm: Độ ẩm trung bình là 80%, phân bố tương đối đều trong các
tháng của năm.

- Nhiệt độ: Nhiệt độ trung bình năm là 240C, khoảng 70 120 ngày
trong năm có nhiệt độ thấp hơn 200C, khoảng 245 175 ngày trong năm có
nhiệt độ cao hơn 200C.
Nhiệt độ trung bình cao nhất đạt 32,20C vào các tháng 6, 7. Nhiệt độ
trung bình thấp nhất là 13,90C vào các tháng 1, 2.
- Đặc điểm thổ nhưỡng: Đất của khu vực nghiên cứu thuộc nhóm đất
phù sa không được bồi đắp hàng năm do sông Đuống tạo thành. Loại đất này
có đặc điểm là:

K30A - Khoa Sinh - KTNN

14

Trường ĐHSP Hà Nội 2


Luận văn tốt nghiệp

Ngô Như Hải

+ Đất có phản ứng trung tính do tính chất phù sa hoá và quá trình
thâm canh trồng lúa nước.
+ Đất có hàm lượng mùn cao.
+ Đất có thành phần cơ giới là thịt nặng, giàu sét, hàm lượng mùn
cao nên đất này có dung tích hấp phụ cao (bảng 1) [19, 29].
2.4.1.2. Tình hình kinh tế xã hội tại làng Đông Mai
Làng Đông Mai hiện có 600 hộ, 2300 nhân khẩu, số lao động nông
nghiệp khoảng 800 người. Nhìn chung, đời sống của người dân hiện nay vẫn
chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp. Sản xuất nông nghiệp đã đi vào thâm
canh khá cao, thường một năm có 2 vụ lúa và khoảng 30% diện tích đất canh

tác có thể làm thêm một vụ đông chủ yếu là trồng ngô, khoai và các loại rau.
Ngoài ra, làng cũng có một số nghề phụ rất phát triển như nghề tái chế
chì từ ắc quy cũ hỏng. Tái chế chì đem lại cho nhiều hộ dân làng Đông Mai
đời sống kinh tế khá giả. Song ẩn dưới tất cả điều đó, không chỉ riêng Đông
Mai mà còn nhiều thôn khác trong xã, trong huyện đang tiềm ẩn nhiều hiểm
họa đe doạ đến môi trường và sức khoẻ con người [29].
2.4.1.3. Quá trình phát triển của nghề tái chế ắc quy tại làng Đông Mai
Nghề nấu chì ở Đông Mai phát triển mạnh nhất vào đầu những năm
1990, sản phẩm làm ra được cung cấp cho các nhà máy sản xuất ắc quy.
Trước năm 1998, những lò nấu chì nằm xen lẫn giữa các hộ trong thôn.
Nước thải, chất thải trong quá trình sản xuất được thải trực tiếp vào đất, ao và
nguồn nước tại địa phương. Từ năm 1998 trở lại đây, do có sự quản lý của xã,
một số hộ làm nghề trong làng bỏ vốn đầu tư xây dựng một lò tái chế tập
trung gồm 4 lò nấu chì lớn tại một khu đất ven đường, sát cánh đồng lúa cách
xa làng. Cũng đã khắc phục được những hạn chế của lò nấu chì thông thường,
đồng thời khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường ở làng nghề Đông Mai.
Mặc dù đã được cơ giới hoá nhưng hầu hết các công đoạn trong quá
trình tái chế ắc quy vẫn sử dụng phương pháp thủ công là chủ yếu, với quy

K30A - Khoa Sinh - KTNN

15

Trường ĐHSP Hà Nội 2


Luận văn tốt nghiệp

Ngô Như Hải


trình tái chế ắc quy gần như không có gì thay đổi trong những năm qua với
hiệu suất tái chế đạt khoảng từ 20% 60% [29].
2.4.1.4. Những nguy cơ đe doạ của hoạt động tái chế ắc quy
Theo tác giả Lê Đức thì sự phát thải chì từ quá trình tái chế chì từ ắc
quy là nguyên nhân chính gây ô nhiễm chì đối với môi trường đất tại làng
Đông Mai. Số liệu phân tích 21 mẫu đất tại làng Đông Mai của tác giả Lê Đức
và cộng sự đã cho thấy cả 21 mẫu đất này đều có hàm lượng chì vượt quá tiêu
chuẩn cho phép từ 3 48 lần [11, 12].
Trên cơ sở đó, tác giả Lê Đức và cộng sự kết luận việc nấu tái chế chì
đã có ảnh hưởng xấu đến chất lượng môi trường đất ở đây. Tại một số điểm
của khu vực làng nghề Đông Mai hàm lượng chì dao động trong khoảng
659,83 mg/ kg đất đến 96,456 mg/ kg đất, đặc biệt mẫu trầm tích lên đến
196,362 mg/kg.
Sự ô nhiễm kim loại nặng ở môi trường sẽ dẫn đến hàm lượng các kim
loại này được tích tụ trong các thực vật sống lân cận, gây nguy cơ khuếch đại
sinh học theo các mắt xích của chuỗi dinh dưỡng, làm tổn hại sức khoẻ con
người.
Tác giả Đặng Thị An và cộng sự (2005, 2007), Chu Thị Hà và cs (2007)
nghiên cứu các hoạt động chế biến mỏ kẽm chì ở Thái Nguyên và tái chế chì
ở Hưng Yên đã đưa ra kết luận: Đất ở các khu vực trên đã bị nhiễm chì và
Cadimi ở mức rất cao. Hàm lượng chì rất cao trong đất vườn của các gia đình
tái chế chì ở Văn Lâm Hưng Yên ( Pb: 7.103 15.103 ppm) và đất cách khu
lò nấu chì khoảng 20 m (Pb: 2.103 104 ppm).Chỉ số ô nhiễm đất bởi chì ở
các khu ruộng trong vòng bán kính 300 m so với lò cao hơn mức an toàn từ
hơn 3,5 lần tới 100 lần [2, 3]. Hàm lượng Pb trong đất trồng trọt từ 964 ppm
đến 7070 ppm (ruộng lúa), từ 700 ppm đến 3500 ppm (ruộng rau muống),
vượt xa mức ở đất đối chứng (đất lúa = 85 ppm, đất rau = 90 ppm). Gạo và rau

K30A - Khoa Sinh - KTNN


16

Trường ĐHSP Hà Nội 2


Luận văn tốt nghiệp

Ngô Như Hải

ở khu vực trên đã bị nhiễm chì ở mức cao, có thể gây ảnh hưởng xấu tới sức
khoẻ của người sử dụng [1, 2, 3, 14].
Mặc dù nghề này tác động xấu đến môi trường và sức khoẻ con người
nhưng trong tình hình hiện nay, tái chế ở xã Chỉ Đạo là công việc mang tính
tích cực góp phần nâng cao thu nhập cho người dân, thu hút một lượng tương
đối lớn lao động lúc nông nhàn và tận dụng được các chất phế thải. Hơn nữa,
đây là một nghề đã được thừa nhận là một nghề truyền thống. Tuy nhiên,
không thể tiếp tục kéo dài mãi tình trạng sản xuất như hiện nay.
2.4.2. Nghiên cứu ngoài thực địa
Mẫu định lượng thu theo phương pháp của Ghilarov, 1975 [13]. Các hố
định lượng được đào với kích thước 5cmx5cmx10cm thu ở tầng A1 (0 10cm)
tại 8 điểm với khoảng cách khác nhau tính từ khu vực lò nấu và tái chế chì ra
xung quanh.Từng mẫu đất được cho vào túi nilon riêng biệt và buộc chặt, bên
trong có nhãn ghi đủ ngày, tháng, năm thu mẫu, sinh cảnh và địa điểm thu.
Tại mỗi điểm lấy mẫu thu 5 lần nhắc lại trong một đợt thực địa. Tổng số 160
mẫu định lượng đã thu thập, phân tích.
2.4.3. Nghiên cứu trong phòng thí nghiệm:
- Tách động vật ra khỏi đất:
Các mẫu đất thu ở thực địa về cho vào rây, đặt trên phễu, tách động vật
ra khỏi đất theo phương pháp phễu lọc Berlese - Tullgren, dựa trên cơ sở
tính hướng âm của động vật đất, những động vật này sẽ chui sâu xuống khi

lớp đất phía trên bị khô dần.
+ Cấu tạo phễu:
Phễu có hình tam giác, làm bằng bìa cát tông nhẵn. Đường kính miệng
phễu 25cm, chiều dài phễu 30 35cm. Đáy phễu có 1 lỗ nhỏ gắn với ống
nghiệm, bên trong phễu chứa dung dịch định hình để hứng mẫu. Trên miệng
phễu là rây lọc, rây lọc có đường kính 15cm, thành bao quanh rây lọc làm

K30A - Khoa Sinh - KTNN

17

Trường ĐHSP Hà Nội 2


Luận văn tốt nghiệp

Ngô Như Hải

bằng sắt có chiều cao 5cm, phía dưới rây lọc có gắn tấm lưới lọc với đường
kính lỗ lưới là 1x1mm
+ Đặt mẫu:
Trước khi đặt mẫu phải đảm bảo phễu lọc, rây lọc sạch, không có bụi
hoặc vầt khác bám vào. Đặt phễu lên giá, đáy phễu gắn vào ống nghiệm nhỏ
trong có chứa dung dịch định hình (chiếm khoảng 2/3 thể tích ống nghiệm) là
formon 4% hay cồn Ethylic 700. Trong ống nghiệm có nhãn ghi đầy đủ ngày,
tháng, năm, địa điểm và sinh cảnh lấy mẫu (nếu 1 sinh cảnh có nhiều mẫu thì
đánh số thứ tự để dễ theo dõi). Đất được đặt trên bề mặt lưới. Phần đất vụn lọt
qua lỗ lưới phải được đổ vào rây trước khi đặt rây lên miệng phễu.
+ Thời gian lọc mẫu:
Tuỳ theo điều kiện nhiệt độ, độ ẩm và không khí nơi đặt mẫu. Với nhiệt

độ bình thường của phòng, trong khoảng 7 ngày đêm là có thể thu được các
ống nghiệm ra đáy phễu. Dùng bông nút miệng ống lại, cho vào trong lọ thuỷ
tinh có chứa formon 4% để vảo quản khi chưa phân tích.
- Tách mẫu, cố định mẫu và chuẩn bị tiêu bản định loại:
Các ống nghiệm sau khi thu được từ phễu lọc sẽ được phân tích dần
từng ống nghịêm (theo từng sinh cảnh cụ thể). Để tách, ta đổ ống nghiệm đã
thu trên giấy lọc đặt sẵn trong đĩa Petri để dưới kính lúp 2 mắt. Dùng kim nhỏ
chuyển những cá thể cần tẩy màu vào dung dịch KOH 10%, ngâm khoảng 2030 phút. Quan sát khi thấy mẫu vật chuyển sắc tố nhạt dần và mẫu sẽ duỗi ra ở
tư thế thẳng. Việc chuyển mẫu như vây được nhắc lại 1 vài lần cho đến khi
mẫu trở nên trong hoàn toàn (có thể đun nóng KOH 10% ở nhiệt độ 50 600C
để rút ngắn thời gian tẩy màu). Quá trình định loại sơ bộ: phần lớn được tiến
hành trên lam kính và quan sát dưới kính hiển vi. Với các mẫu vật cần kiểm
tra và bảo quản lâu dài làm vật mẫu chuẩn thì phải làm tiêu bản cố định bằng
dung dịch định hình Svan có thành phần: Nước cất: 20ml, Chloralhydrat: 60
gr, Gôm arbic: 15 gr, Glucoza:3 gr, axit axetic: 2ml để làm tiêu bản cố định,

K30A - Khoa Sinh - KTNN

18

Trường ĐHSP Hà Nội 2


×