Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

lý luận cơ bản về đầu tư, tăng trưởng và phát triển kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (573.36 KB, 40 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Tăng trưởng và phát triển kinh tế luôn là mục tiêu hướng tới của nhiều quốc gia
trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Từ khi giành được độc lập năm 1975 và đặc biệt
là từ sau năm 1986, khi Việt Nam thực hiện chính sách đổi mới, Đảng và Nhà nước ta
luôn đặt mục tiêu phát triển kinh tế lên hàng đầu với định hướng đến năm 2020 Việt
Nam sẽ cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Để đạt được mục tiêu trên thì đầu tư
là một yếu tố cực kỳ quan trọng vì đầu tư, nói rõ hơn là đầu tư phát triển, không
những làm gia tăng tài sản của cá nhân nhà đầu tư, mà còn trực tiếp làm gia tăng tài
sản vật chất cho nền kinh tế, có tác động rất mạnh mẽ đến phát triển kinh tế. Đã có
nhiều lý thuyết về đầu tư được nêu ra nhằm phân tích tác động của đầu tư đến tăng
trưởng và phát triển dưới nhiều khía cạnh khác nhau như lý thuyết số nhân đầu tư, lý
thuyết gia tốc đầu tư, mô hình Harrod – Domar...
Chính phủ Việt Nam với vai trò của mình đã luôn nỗ lực tạo điều kiện tốt nhất
cho mục tiêu phát triển kinh tế bền vững và kết quả là Việt Nam đã trở thành thành
viên chính thức của tổ chức kinh tế thế giới WTO từ ngày 1/1/2007. Đây vừa là cơ hội
vừa là thách thức lớn đặt ra đối với Việt Nam khi nền kinh tế còn non trẻ, khả năng
kiểm soát các luồng vốn đầu tư ( trong nước và từ bên ngoài vào) còn hạn chế. Nếu
không có một cái nhìn đúng đắn về đầu tư thì nền kinh tế Việt Nam sẽ rất khó đứng
vững trước làn sóng vốn tràn vào Việt Nam và luôn biến động một cách mạnh mẽ
như hiện nay. Chính vì tầm quan trọng của đầu tư đối với tăng trưởng và phát triển
kinh tế là rất lớn nhưng vấn đề giải thích sự tác động đó thông qua các lý thuyết kinh
tế về đầu tư còn ít được đề cập đến. Do đó chúng tôi quyết định chọn đề tài nghiên
cứu là:

DỰA VÀO CÁC LÝ THUYẾT KINH TẾ VỀ ĐẦU TƯ GIẢI THÍCH VAI TRÒ CỦA
ĐẦU TƯ ĐỐI VỚI TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ

.
1
Đê tài được chia làm 3 phần chính:
Phần I : Những vấn đề lý luận cơ bản về đầu tư, tăng trưởng và phát triển


kinh tế.
Phần này đề cập đến một số khái niệm về đầu tư, tăng trưởng và phát triển kinh
tế với mục đích tạo thuận lợi hơn cho quá trình nghiên cứu, đồng thời cũng đưa ra
một số tác động của đầu tư đến tăng trưởng và phát triển kinh tế tạo tiền đề cho việc
phân tích, nghiên cứư phần 2 & phần 3.
Phần II : Giải thích sự tác động của đầu tư đến tăng trưởng và phát triển
kinh tế thông qua các lý thuyết kinh tế về đầu tư.
Trong phần này chúng ta sẽ nghiên cứu cụ thể sự tác động của đầu tư đến tăng
trưởng và phát triển kinh tế dựa vào các lý thuyết về đầu tư như: Số nhân đầu tư, lý
thuyết gia tốc đầu tư, lý thuyết quỹ nội bộ của đầu tư,…
Phần III : Một số bài học và kết luận rút ra từ việc nghiên cứu các lý thuyết
kinh tế về đầu tư .
Với phần này chúng ta sẽ xem xét lại tất cả các lý thuyết kinh tế về đầu tư đã
được đề cập ở trên, từ đó rút ra được các bài học và kết luận cơ bản từ các lý thuyế
đó.
Đề tài của em hoàn thành được là nhờ sự giúp đỡ trực tiếp, tận tình của TS. Từ
Quang Phương và TS. Phạm Văn Hùng. Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ rất
nhiệt tình và quý báu của các thầy để em có thể hoàn thành tốt nhất đề tài này.
Tuy nhiên do kiến thức lý luận và kinh nghiêm thực tiễn còn non yếu, thời gian
nghiên cứu chưa nhiều, cùng với hạn chế về mặt tài liệu nên đề tài của em không
tránh khỏi những khiếm khuyết và sơ sài. Em mong được sự đóng góp chỉ bảo của các
thầy để đề tài của em được tốt hơn.
Hà nội, tháng 10 năm 2008.

2
PHẦN I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ĐẦU TƯ, TĂNG
TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
I. CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN
1. Đầu tư và phân loại đầu tư.
1.1 Khái niệm về đầu tư.

Đầu tư nói chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt
động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực
đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Như vậy , mục tiêu của mọi công cuộc đầu tư là
đạt được các kết quả lớn hơn so với những hy sinh về nguồn lực mà nhà đầu tư phải
ghánh chịu khi tiến hành đầu tư.
Nguồn lực được nói đến ở đây có thể là tiền, tài nguyên, công nghệ, nhà xưởng,
sức lao động, trí tuệ… và các mục đích hướng tới chính là sự tăng lên về tài sản tài
chính (tiền vốn), tài sản vật chất (nhà máy, đường sá, bệnh viện, máy móc…), tài sản
trí tuệ (trình độ chuyên môn, kỹ năng tay nghề, năng suất lao động, trình độ quản lý…
) trong nền sản xuất xã hội.
Trong những kết quả đạt được trên đây, những kết quả trực tiếp của sự hy sinh
các tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực tăng thêm có vai trò quan trọng
trong mọi lúc , mọi nơi không chỉ đối với người bỏ vốn mà cả đối với toàn bộ nền
kinh tế. Những kết quả này không chỉ nhà đầu tư mà cả nền kinh tế xã hội được thụ
hưởng. Chẳng hạn, một nhà máy được xây dựng, tài sản vật chất của nhà đầu tư trực
tiếp tăng lên, đồng thời tài sản vật chất, tiềm lực sản xuất của nền kinh tế cũng được
tăng thêm.
Lợi ích trực tiếp do sự hoạt động của nhà máy này đem lại cho nhà đầu tư là lợi
nhuận, còn cho nền kinh tế là thoả mãn nhu cầu tiêu dùng (cho sản xuất và cho sinh
hoạt ) tăng thêm của nền kinh tế, đóng góp cho ngân sách, giải quyết việc làm cho
người lao động…
3
Trình độ nghề nghiệp, chuyên môn của người lao động tăng thêm không chỉ có
lợi cho chính họ (để có thu nhập cao, địa vị cao trong xã hội) mà còn bổ sung nguồn
lực có kỹ thuật cho nền kinh tế để có thể tiếp nhận công nghệ ngày càng hiện đại, góp
phần nâng cao dần trình độ công nghệ và kỹ thuật của nền sản xuất quốc gia.
1.2 Phân loại đầu tư.
Căn cứ vào các kết quả của hoạt động đầu tư, bản chất và lợi ích do đầu tư đem
lai chúng ta có thể chia đầu tư ra làm 3 loại : đầu tư tài chính, đầu tư thương mại và
đầu tư phát triển.

Đầu tư tài chính:
Đầu tư tài chính là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ ra cho vay hoặc mua các
giấy tờ có giá để hưởng lãi suất định trước, hay lãi suất tuỳ thuộc vào kết quả hoạt
động sản xuất kinh doanh của cơ quan phát hành. Đầu tư tài chính không tạo ra tài
sản mới cho nền kinh tế (Nếu không xét đến quan hệ quốc tế trong lĩnh vực này) mà
chỉ làm tăng giá trị tài sản tài chính của các tổ chức, cá nhân. Với sự hoạt động của
hình thức đầu tư này, vốn được lưu chuyển dễ dàng, khi cần có thể rút ra nhanh
chóng. Đây thực sự là một nguồn cung cấp vốn quan trọng cho đầu tư phát triển.
Đầu tư thương mại:
Đầu tư thương mại là hình thức đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra mua
hàng hóa và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận chênh lệch do giá khi
mua và khi bán. Loại đầu tư này không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế (nếu không
xét đến ngoại thương), mà chỉ làm tăng tài sản tài chính của nhà đầu tư trong quá trình
mua đi bán lại, chuyển giao quyền sở hữu hàng hoá giữa người bán với nhà đầu tư và
giữa nhà đầu tư với khách hàng của họ. Tuy nhiên đầu tư thương mại có tác dụng thúc
đẩy quá trình lưu thông của cải vật chất do đầu tư phát triển tạo ra. Từ đó thúc đẩy
đầu tư phát triển, tăng thu cho ngân sách, tăng tích luỹ vốn cho phát triển sản xuất
kinh doanh dịch vụ nói riêng và nền sản xuất xã hội nói chung.
4
Đầu tư phát triển :
Đầu tư phát triển là những hoạt động đầu tư tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế,
làm tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động xã hội khác, là điều kiện chủ
yếu để tạo việc làm, nâng cao đời sống của mọi người dân trong xã hội. Nói cách khác
đầu tư phát triển là việc bỏ tiền ra để xây dựng, sửa chữa nhà cửa, kết cấu hạ tầng,
mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ, bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân
lực, thực hiện các chi phí thường xuyên gắn liền với hoạt động của các tài sản này
nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho
nền kinh tế xã hội.
Ba loại đầu tư trên luôn tồn tại và có mối quan hệ tương hỗ với nhau, trong đó
đầu tư phát triển là cơ bản nhất, tạo tiền đề đề tăng tích lũy, phát triển hoạt động đầu

tư tài chính và đầu tư thương mại. Đầu tư phát triển là điều kiện tiên quyết cho sự ra
đời, tồn tại và tiếp tục phát triển của mọi cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ. Bên cạnh
đó, đầu tư tài chính và đầu tư thương mại hỗ trợ và tạo điều kiện để tăng cường đầu tư
phát triển. Tuy nhiên trong khuân khổ của đề tài này chúng ta chỉ đi sâu, tiềm hiểu,
xem xét các vấn đề kinh tế của đầu tư phát triển- loại đầu tư quyết định trực tiếp sự
phát triển của nền sản xuất xã hội, là điều kiện tiên quyết cho sự ra đời, tồn tại và tiếp
tục phát triển của mọi cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ.
2. Khái niệm về tăng trưởng kinh tế.
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập của nền kinh tế trong một khoảng
thời gian nhất định (thường là một năm). Sự gia tăng này được thể hiện ở quy mô và
tốc độ tăng trưởng. Quy mô phản ánh sự gia tăng nhiều hay ít còn tốc độ tăng trưởng
được dùng để so sánh sự gia tăng giữa các thời kỳ. Người ta thường xác định tăng
trưởng kinh tế thông qua các chỉ tiêu GDP (tổng sản phẩm quốc nội), GNP (tổng sản
phẩm quốc dân) và GNI (thu nhập bình quân đầu người).
5
Đầu tư là một trong những yếu tố được tính đến trong tăng trưởng kinh tế, dựa
vào công thức tính GDP sau:
GDP = S + I + G + (X – IM)
Trong đó: S: tổng tiết kiệm trong nền kinh tế
I: đầu tư
G: chi tiêu của chính phủ
X: xuất khẩu
IM: nhập khẩu.
Bản chất của tăng trưởng kinh tế là phản ánh sự thay đổi về lượng của nền kinh
tế còn đầu tư phát triển không những làm gia tăng tài sản của nhà đầu tư mà còn trực
tiếp làm tăng tài sản của nền kinh tế quốc dân, chẳng hạn khi nhà đầu tư xây dựng
một nhà máy thì nhà máy đó không những là tài sản của nhà đầu tư mà còn là tiềm lực
sản xuất của cả nền kinh tế, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động. Như vậy
đầu tư phát triển chính là một yếu tố không thể thiếu đối với quá trình tăng trưởng của
một nền kinh tế.

3. Khái niệm về phát triển kinh tế.
Phát triển kinh tế là quá trình lớn lên, tăng tiến về mọi mặt của nền kinh tế. Phát
triển kinh tế là một khái niệm rộng hơn tăng trưởng. Nếu tăng trưởng được xem là quá
trình biến đổi về lượng thì phát triển là quá trình biến đổi cả về lượng và chất của nền
kinh tế. Đó là sự kết hợp một cách chặt chẽ quá trình hoàn thiện của cả hai vấn đề về
kinh tế và xã hội ở mỗi quốc gia. Phát triển kinh tế bao gồm có tăng trưởng, sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo chiều hướng tiến bộ (thường xét đến sự chuyển dịch
cơ cấu ngành: sự gia tăng tỉ trọng ngành công nghiệp, dịch vụ và giảm tỉ trọng ngành
nông nghiệp), sự biến đổi ngày càng tốt hơn trong các vấn đề xã hội (xóa bỏ nghèo
đói, suy dinh dưỡng, tăng tuổi thọ bình quân, tăng khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế,
nước sạch của người dân, đảm bảo phúc lợi xã hội, giảm thiểu bất bình đẳng trong xã
hội…).
6
Một mặt trái của đầu tư phát triển, bên cạnh việc làm tăng sản lượng của nền
kinh tế, đầu tư phát triển còn gây nên một số tác động tiêu cực như ô nhiễm, suy thoái
môi trường, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, gây ảnh hưởng tới sức khỏe con người.
Hiện nay, ở nhiều quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, người ta đã chú ý tới
những ảnh hưởng tiêu cực đến tương lai do tăng trưởng nhanh gây ra. Trên thế giới đã
xuất hiện khái niệm mới về phát triển, đó là phát triển bền vững. Theo định nghĩa của
Ngân hàng Thế giới WB: “Phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng các nhu cầu
hiện tại mà không làm nguy hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương
lai”. Nói cách khác, phát triển bền vững là sự kết hợp hài hòa, chặt chẽ, hợp lý cả về
ba mặt: tăng trưởng kinh tế, cải thiện các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường. Đây là
mục tiêu hướng tới của nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam.
7
PHẦN II : CÁC LÝ THUYẾT KINH TẾ VỀ ĐẦU TƯ
Chúng ta đều biết rằng đầu tư là một yếu tố nằm trong tổng cầu của nền kinh tế.
Trong khi đầu tư nhỏ hơn rất nhiều so với tiêu dùng trong GDP, nhưng nó lại rất quan
trọng bởi vì đây là thành tố trong GDP biến động mạnh nhất và phản ánh rõ nét nhất
hình mẫu biến động theo chu kỳ mà các nền kinh tế thị trường phải đối mặt. Trong

yêu cầu của đề tài chúng ta phải nghiên cứu ảnh hưởng của đầu tư đến tăng trưởng và
phát triển kinh tế nhưng dưới góc độ vận dụng các lý thuyết kinh tế về đầu tư để giải
thích . Do đó chúng ta phải nghiên cứu vấn đề trên phương diện lý luận, vận dụng các
lý thuyết đầu tư là chủ yếu. Có rất nhiều lý thuyết kinh tế về đầu tư, mỗi lý thuyết
nghiên cứu một khía cạnh khác nhau của đầu tư đối với tăng trưởng và phát triển kinh
tế. Dưới đây trình bày một số lý thuyết tiêu biểu sau.
1. SỐ NHÂN ĐẦU TƯ.
1.1 Tư tưởng của mô hình .
Mô hình số nhân đầu tư xuất phát từ tư tưởng của Keynes. Ông cho rằng đầu tư
tăng sẽ bù đắp cho những thiếu hụt về cầu tiêu dùng. Để đảm bảo cho đầu tư gia tăng
liên tục ông đưa ra nguyên lý số nhân.
1.2 Mô hình số nhân đầu tư .
Số nhân đầu tư phản ánh vai trò của đầu tư đối với sản lượng. Nó cho thấy sản
lượng gia tăng bao nhiêu khi đầu tư gia tăng một đơn vị.
Công thức tính (1) :
k =

Trong đó: ΔY là mức gia tăng sản lượng
ΔI là mức gia tăng đầu tư
K là số nhân đầu tư
Từ công thức (1) ta có :
8
∆ Y
∆I
ΔY= k .ΔI
Như vậy việc gia tăng đầu tư có tác dụng khếch đại sản lượng tăng lên số nhân
lần. Trong công thức trên, k là một số dương lớn hơn 1.
Nếu MPC càng lớn thì k càng lớn, do đó, độ khếch đại của sản lượng càng lớn.
Sản lượng càng tăng, công ăn việc làm càng gia tăng.
Thực tế, gia tăng đầu tư, dẫn đến gia tăng cầu về các yếu tố tư liệu sản xuất (máy

móc thiết bị, nguyên nhiên vật liệu…) và qui mô lao động. Sự kết hợp hai yếu tố này
làm cho sản xuất phát triển, kết quả là, gia tăng sản lượng của nền kinh tế.
2. LÝ THUYẾT GIA TỐC ĐẦU TƯ.
2.1. Tư tưởng trung tâm của mô hình gia tốc đầu tư .
Nếu số nhân đầu tư giải thích mối quan hệ giữa việc gia tăng đầu tư với gia tăng
sản lượng hay việc gia tăng đầu tư có ảnh hưởng như thế nào đến sản lượng. Như vậy
đầu tư xuất hiện như một yếu tố của tổng cầu. Theo Keynes, đầu tư cũng được xem
xét dưới góc độ tổng cung, nghĩa là mỗi sự thay đổi của sản lượng làm thay đổi đầu tư
như thế nào. Các doanh nghiệp thực hiện các dự án đầu tư để đưa mức tư bản đạt mức
mong muốn. Lượng tư bản mong muốn phụ thuộc vào mức sản lượng là điều dễ dàng
chấp nhận được. Khi mức sản lượng cao hơn, các hãng có nhu cầu lớn hơn về tư bản
vì tư bản là một trong nhiều nhân tố để tạo ra sản lượng. Tư tưởng trung tâm của mô
hình gia tốc dựa trên mối quan hệ đơn giản này.
2.2. Nội dung của lý thuyết gia tốc đầu tư .
Mô hình gia tốc giả thiết rằng lượng tư bản mong muốn là bội số của mức sản
lượng :
K
d
t
= α .Y
t
α>0 (1)
Ở dạng đơn giản nhất của mô hình gia tốc, đầu tư ròng đúng bằng chênh lệch
giữa lượng tư bản mong muốn với lượng tư bản hiện có vào cuối thời kì trước. Nếu
tạm thời bỏ qua hao mòn tư bản trong quá trình sử dụng, chúng ta có mối liên hệ sau:
9
I
n,t
= K
d

t
- K
d
t -1
(2)
Lượng tư bản có được vào cuối thời kỳ trước chính là lượng tư bản mong muốn
phụ thuộc vào thu nhập của thời kỳ đó.
K
t-1
= K
t-1
d
=

α .Y
t-1
(3)
Vì vậy, chúng ta có thể viết l ại phương trình (2) như sau:
I
n,t
= K
d
t
- K
t-1
= α .Y
t
- α .Y
t-1
= α.( Y

t
- Y
t-1
)
I
n,t
= α.Δ Y
t
(4)
Mức đầu tư phụ thuộc vào sự thay đổi của sản lượng.
Dạng đơn giản này cho ta thấy một đặc điểm quan trọng của mô hình gia tốc. Từ
phương trình (1), α có thể được coi là tỷ lệ giữa mức tư bản mong muốn so với sản
lượng:
α =K
t
d
/ Y
t
(5)
Ví dụ, giả sử rằng tỷ lệ này là 2. Trong trường hợp này, cứ mỗi đồng sản lượng
thay đổi thì mức bổ sung tương ứng là 2 đồng. Trong bối cảnh đó, đầu tư sẽ biến động
rất mạnh trong chu kỳ kinh doanh. Theo mô hình giao điểm của Keynes cho thấy sự
thay đổi của đầu tư có tác dụng số nhân đến sản lượng. Vì vậy cùng với hiệu ứng số
nhân, lý thuyết gia tốc đơn giản chỉ có thể giải thích sự biến động theo chu kỳ của sản
lượng. Một cú sốc đối với sản lượng sẽ làm thay đổi mức đầu tư và sự thay đổi này sẽ
làm mức sản lượng cân bằng thay đổi thông qua hiệu ứng số nhân, và tác động thêm
vào đầu tư thông qua hiệu ứng gia tốc. Tuy nhiên cũng giống như lý thuyết đơn giản
về số nhân của Keynes, chúng ta cần phải điều chỉnh lý thuyết gia tốc về đầu tư trước
khi có thể sử dụng nó để giải thích cho quá trình đầu tư trong nền kinh tế thực.
Điều chỉnh đầu tiên mà chúng ta cần làm để mô hình gia tốc đơn giản trở nên

thực tế hơn bằng cách cho rằng lượng tư bản thực tế sẽ điều chỉnh dần đến mức
mong muốn. Gỉa sử rằng chúng ta sử dụng mô hình cho một năm nào đó. Cũng giả sử
rằng, do sản lượng tăng lên nên lượng tư bản mong muốn cũng tăng theo. Các dự án
10
đầu tư sẽ được thực hiện nhằm đưa lượng tư bản tiến tới mức mong muốn. Bên cạnh
những chi phí mà ta gọi là chi phí trực tiếp của đầu tư, chúng ta cần tính đến những
chi phí điều chỉnh, và việc coi chi phí này tăng lên khi mức đầu tư tăng cũng là điều
hợp lý. Những ví dụ về chi phí điều chỉnh như phải đóng cửa nhà máy hoặc thuê thêm
công nhân làm việc ngoài giờ để lắp đặt thiết bị, chi phí tăng thêm do muốn tăng tiến
độ xây dựng nhà máy và hoạt động sản xuất có thể bị đình trệ do bộ máy quản lý phải
tập trung vào việc triển khai các dự án đầu tư. Nếu chi phí điều chỉnh tăng mạnh, thì
quyết định tối ưu đối với doanh nghiệp sẽ là điều chỉnh dần lượng tư bản thực tế đến
mức mong muốn. Khi đó chênh lệch giữa hai lượng tư bản này chỉ bị triệt tiêu một
phần trong từng thời kỳ.
Để phản ánh được độ trễ điều chỉnh này, chúng ta có thể viết (2) như sau:
I
n,t
= λ.( K
d
t
-K
t-1
) 0< λ<1 (6)
Sử dụng (1), ta có:
I
n,t
= λ.( α.Y
t
- K
t-1

) (7)
Trong đó, thông thường, K
t-1
khác K
d
t -1
do lượng tư bản thực tế khác với lượng
tư bản mong muốn trong mỗi thời kỳ. Phương trình (7) xác định cơ chế điều chỉnh
một phần mà ở đó hệ số λ thể hiện phần của chênh lệch giữa lượng tư bản mong muốn
với lượng tư bản thực tế được thực hiện thông qua đầu tư. Do chỉ một phần sự thay
đổi của lượng tư bản mong muốn được thực hiện trong mội thời kỳ nên trong một thời
kỳ nhất định nào đó đầu tư sẽ phản ứng với những thay đổi của thu nhập trong một số
thời kỳ trước đó. Phương trình (7) hàm ý rằng, đầu tư phản ứng chậm hơn với sự thay
đổi của thu nhập hiên tại, và vì thế mà cũng hàm ý rằng đầu tư không thay đổi nhiều
trong ngắn hạn như mô hình gia tốc đơn giản dự báo (ở phương trình 4). Phương trình
(7) được gọi là mô hình gia tốc linh hoạt- có thể thích hợp hơn với những biến động
của đầu tư trong thực tế. Mặc dù đầu tư là nhân tố dễ biến động, nhưng nó không biến
đông nhiều như dự đoán của mô hình gia tốc đơn giản.
11
Mô hình gia tốc linh hoạt cũng có thể được điều chỉnh nhằm thể hiện sự biến
động về tốc độ thay đổi của đầu tư nhằm lấp đầy lỗ hổng giữa lượng tư bản thực tế
với lượng tư bản mong muốn (tham số λ). Đây chính là biến lựa chọn đối với hãng
kinh doanh và có thể bị tác động bởi các điều kiện tín dụng, bao gồm lãi suất, thuế và
các biến số khác. Ví dụ, chúng ta có thể kỳ vọng rằng, trong điều kiện các nhân tố
khác không thay đổi, có ít đầu tư hơn sẽ được thực hiện để triệt tiêu lỗ hổng giữa
lượng tư bản thực tế với lượng tư bản mong muốn khi lãi suất cao hơn và ngược lại.
2.2. Nhận xét về lý thuyết gia tốc đầu tư.
2.2.1 Ưu điểm.
a. Lý thuyết gia tốc đầu tư phản ánh quan hệ giữa sản lượng với đầu tư.Nếu α
không thay đổi trong kỳ kế hoạch thì có thể sử dụng công thức để lập kế hoạch khá

chính xác.
b. Lý thuyết phản ánh sự tác động của tăng trưởng kinh tế dẫn đến đầu tư. Khi
kinh tế tăng trưởng cao, sản lượng nền kinh tế tăng, cơ hội kinh doanh lớn, dẫn đến
tiết kiệm tăng cao và đầu tư nhiều.
2.2.2 Nhược điểm.
a. Lý thuyết giả định quan hệ tỷ lệ giữa sản lượng và đầu tư là cố định.
Thực tế đại lượng này (α) luôn biến do sự tác động c ủa nhiều nhân tố khác.
b. Thực chất lý thuyết đã xem xét sự biến động của đầu tư thuần (NI) chứ
không phải sự biến động của tổng đầu tư do sự tác động của thay đổi sản lượng. Vì từ
công thức K
d
t
= α.Y
t
có thể viết:
Tại thời điểm t : K
d
t
= α.Y
t
(8)
Tại thời điểm (t-1): K
t-1
d
= α.Y
t-1
d
(9)
Lấy (8) trừ đi (9), ta có :
K

d
t
- K
t-1
d
= α.Y
t
-α.Y
t-1
d
= α.( Y
t
-Y
t-1
d
) (10)
Trong đó:
12
K
d
t
- K
t-1
d
: Đầu tư ròng và bằng (I
t
-D) với D l à khấu hao
Do đó:
I
t

-D= K
d
t
- K
t-1
d
= α.( Y
t
-Y
t-1
d
)= α.ΔY ()
và đầu tư ròng ΔI= α.ΔY
Như vậy theo lý thuyết này đầu tư ròng là hàm của sự gia tăng sản lượng đầu ra.
Nếu sản lượng tăng, đầu tư ròng tăng(lớn hơn α lần). Nếu sản lượng giảm, đầu tư
thuần sẽ âm. Nếu tổng cầu về sản lượng trong thời gian dài không đổi, đầu tư ròng sẽ
bằng 0 (khi ΔY=0 thì ΔI=0 )
Tuy nhiên khi sản lượng không thay đổi giữa hai thời kỳ đầu tư thuần bằng o
nhưng tổng đầu tư là một số dương vì các doanh nghiệp vẫn phải đầu tư thay thế máy
móc thiết bị đã hao mòn hết.
c. Theo lý thuyết này toàn bộ vốn đầu tư mong muốn đều được thực hiện ngay
trong cùng một thời kỳ. Điều này không đúng vì nhiều lý do, chẳng hạn do việc cung
cấp các yếu tố có liên quan đến thực hiện vốn đầu tư không đáp ứng, do cầu vượt qúa
cung…do đó lý thuyết gia tốc đầu tư tiếp tục được hoàn thiện qua thời gian. Theo lý
thuyết gia tốc đầu tư sau này thì vốn đầu tư mong muốn được xác định như là một
hàm của mức sản lượng hiện tại và quá khứ, nghĩa là quy mô đầu tư mong muốn được
xác định trong dài hạn.
Nếu gọi K
t
d

và K
t-1
d
là vốn đầu tư thực hiện ở thời kì t và t-1
Kt
*
t
–K
t-1
d
là vốn đầu tư mong muốn
λ là một hằng số (0< λ <1)
Thì: K
t
–K
t-1
= λ .(Kt
*
t
–K
t-1
)
Có nghĩa là sự thay đổi vốn đầu tư thực hiện giữa hai kỳ chỉ bằng một phầm của
chênh lệch giữa vốn đầu tư mong muốn thời kỳ t và vốn đầu tư thực hiện thời kỳ t-1.
Nếu λ =1 thì K
d
t
=Kt*
t
.

Và lý thuyết gia tốc đầu tư hoàn thiện sau này cũng đã đề cập đến tổng đầu tư.
13
Theo lý thuyết gia tốc đầu tư ban đầu thì đầu tư thuần ∆I=I
t
- D
t
=K
t
d
-K
t-1
d
. Theo lý
thuyết gia tốc đầu tư sau này thì
K
t
d
- K
t-1
d
= λ(Kt
*
t
–K
t-1
) và do đó ∆I= λ(Kt
*
t
–K
t-1

)
Để xác định tổng đầu tư, chúng ta giả định: D
t
=δ.K
t-1
δ là hệ số khấu hao v à 0< δ <1. Do đó
I
t
- D
t=
I
t
- δ K
t-1
d
=
λ(Kt
*
t
–K
t-1
) hoặc
I
t
= λ .(Kt
*
t
–K
t-1
) + δ K

t-1
d
I
t
chính là tổng đầu tư trong kỳ và là hàm của vốn mong muốn và vốn thực hiện.
.3. LÝ THUYẾT QUỸ NỘI BỘ CỦA ĐẦU TƯ.
Theo lý thuyết này, đầu tư có quan hệ tỷ lệ thuận với lợi nhuận thực tế:
I ~ f (lợi nhuận thực tế ). Do đó , dự án đầu tư nào đem lại lợi nhuận cao sẽ được
lựa chọn. Vì lợi nhuận cao, thu nhập giữ lại cho đầu tư sẽ lớn hơn và mức đầu tư sẽ
cao hơn. Nguồn vốn cho đầu tư có thể huy động bao gồm: Lợi nhuận giữ lại, tiền trích
khấu hao, đi vay các loại trong đó bao gồm cả việc phát hành trái phiếu bán cổ phiếu
là nguồn vốn huy động từ bên ngoài. Vay mượn thì phải trả nợ, trường hợp nền kinh
tế lâm vào tình trạng suy thoái, doanh nghiệp có thể không trả được nợ và lâm vào
tình trạng phá sản. Do đó, việc đi vay không phải là điều hấp dẫn, trừ khi được vay
ưu đãi. Cũng tương tự, việc tăng vốn đầu tư bằng phát hành trái phiếu cũng không
phải là biện pháp hấp dẫn. Còn bán cổ phiếu để tài trợ cho đầu tư chỉ được các doanh
nghiệp thực hiện khi hiệu quả của dự án đầu tư là rõ ràng và thu nhập do dự án đem
lại trong tương lai sẽ lớn hơn các chi phí đã bỏ ra.
Chính vì vậy theo lý thuyết quỹ nội bộ của đầu tư, các doanh nghiệp thường
chọn biện pháp tài trợ cho đầu tư từ các nguồn vốn nội bộ và các sự gia tăng của lợi
nhuận sẽ làm cho mức đầu tư của doanh nghiệp lớn hơn.
Sự khác nhau giưa lý thuyết gia tốc đầu tư và lý thuyết này dẫn đến việc thực thi
các chính sách khác nhau để khuyến khích đầu tư. Theo lý thyết gia tốc đầu tư chính
sách tài khoá mở rộng sẽ làm cho mức đầu tư cao hơn và do đó sản lượng thu được
14
cũng sẽ cao hơn. Còn việc giảm thuế lợi tức của doanh nghệp không có tác dụng kích
thích đầu tư. Ngược lại theo lý thuyết quỹ nội bộ của đầu tư thì việc giảm thuế lợi tức
của doanh nghiệp sẽ làm tăng lợi nhuận từ đó tăng đầu tư và tăng sản lượng, mà tăng
lợi nhuận cũng có nghĩa là tăng quỹ nội bộ. Quỹ nội bộ là một yếu tố quan trọng để
xác định lượng vốn đầu tư mong muốn, còn chính sách tài khoá mở rông không có tác

dụng trực tiếp làm tăng đầu tư theo lý thyết này.
4. LÝ THUYẾT TÂN CỔ ĐIỂN.
4.1. Sự ra đời của lý thuyết tân cổ điển .
Cuối thế kỷ 19 là thời kỳ đánh dấu sự chuyển biến mạnh mẽ của khoa học –
kỹ thuật. Hàng loạt các phát minh khoa học về ang loạt các nguồn tài nguyên
được khai thác phục vụ cho quá trình sản xuất. Sự chuyển biến này đã có những
ảnh hưởng rõ rệt trong các trào lưu chính của tư tưởng kinh tế. Sự phát triển của
trào lưu này hình thành một trường phái kinh tế mới, đứng đầu là Alfred Marshall
(1842 – 1924), tác phẩm chính của ông là “Các nguyên lý của kinh tế học” xuất
bản 1890, do đó thời gian này được coi như điểm mốc đánh dấu sự ra đời của
trường phái tân cổ điển.
Những tư tưởng cơ bản của trường phái này có những điểm mới so với các
nhà kinh tế cổ điển nhưng cúng có những quan điểm thống nhất với họ.
4.2. Nội dung của lý thuyết tân cổ điển .
Các nhà kinh tế tân cổ điển đã cố gắng giải thích nguồn gốc của sự tăng
trưởng thông qua hàm sản xuất. Hàm số này nêu lên mối quan hệ giữa sự tăng lên
của đầu ra với sự tăng lên của các yếu tố đầu vào: vốn, lao động, tài nguyên và
khoa học – công nghệ.
Y=f (K, L, R, T)
Trong đó: Y: Đầu ra (ví dụ GDP)
K: Vốn sản xuất
L: Số lượng lao động
15

×