Tải bản đầy đủ (.pdf) (47 trang)

Những biện pháp nâng cao chất lượng dạy học bài công tác phòng không nhân dân lớp 12, trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (456.29 KB, 47 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Chiến tranh nhân dân Bảo vệ Tổ quốcViệt Nam xã hội chủ nghĩa trong
tương lai (nếu xảy ra) sẽ ác liệt hơn gấp nhiều lần cuộc chiến tranh giải phóng
trước kia. Trong thế kỷ XXI có thể dự báo lợi ích và mâu thuẫn giữa các nước
lớn có trình độ phát triển cao sẽ làm sâu sắc thêm mâu thuẫn giữa các quốc
gia và các giai cấp xã hội khác nhau tạo tiền đề để châm ngòi chiến tranh. Đó
là cuộc chiến tranh hiện đại, trong đó địch sử dụng vũ khí công nghệ cao mức
độ tàn phá hết sức khốc liệt. Do đó để hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại do
sự đánh phá bằng đường không của địch chúng ta cần nhận thức rõ về âm
mưu, thủ đoạn của kẻ thù, tính chất phức tạp, ác liệt của chiến tranh hiện đại.
Để thực hiện tốt công tác phòng không nhân dân trong điều kiện chiến tranh
hiện đại, yêu cầu trước hết là phải tuyên truyền, giáo dục sâu rộng trong nhân
dân, đặc biệt là trong học sinh, sinh viên và thế hệ trẻ về vị trí, vai trò của
công tác phòng không nhân dân. Tại khoản 1 Điều 13 chương II của Nghị
định số 65/2002/NĐ - CP ngày 01 tháng 7 năm 2002 của Chính phủ về công
tác phòng không nhân dân đã quy định Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì, phối
hợp với Bộ Quốc phòng tổ chức đưa nội dung kiến thức phổ thông về công
tác Phòng không nhân dân vào trong chương trình giáo dục quốc phòng của
các cấp học, bậc học.
Để đáp ứng nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn
minh. GDQP - AN có vai trò to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa và GDQP-AN cho học sinh, sinh viên. Môn học GDQP
- AN được các văn bản của Đảng, Chính phủ quyết định là môn học chính
khóa trong hệ thống các nhà trường. Thông qua môn học góp phần giáo dục

1


nhân cách, trang bị kiến thức GDQP - AN, sẵn sàng đáp ứng và thực hiện


nhiệm vụ chiến lược “xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa”.
Vì vậy nâng cao chất lượng dạy học môn GDQP - AN nói chung và
nâng cao chất lượng dạy học bài “Công tác phòng không nhân dân” cho học
sinh lớp 12, THPT là rất quan trọng vì công tác Phòng không nhân dân là một
nội dung quan trọng trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, là một bộ phận
của thế trận chiến tranh nhân dân trên mặt trận đối không, nhằm thực hiện
phòng tránh, đánh trả và khắc phục hậu quả các hành động xâm nhập, tiến
công đường không của địch, góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ tài sản Nhà nước, tính
mạng và tài sản của nhân dân. Xuất phát từ vấn đề trên, yêu cầu là tìm ra các
biện pháp để nâng cao chất lượng dạy học bài “Công tác phòng không nhân
dân” từ đó giúp các em học sinh hiểu được mục đích của công tác phòng
không nhân dân là phòng tránh, đánh trả và khắc phục hậu quả các hành động
đột nhập, tiến công đường không của địch, nhằm nâng cao nhận thức cho học
sinh, sinh viên về công tác phòng không nhân dân.
Thực tế hiện nay cho thấy trong các nhà trường THPT khi giới thiệu
cho học sinh bài “Công tác phòng không nhân dân” lớp 12, THPT vẫn chưa
thật sự chú trọng, chưa có nhiều biện pháp để nâng cao chất lượng dạy học,
chưa đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực và chưa ứng dụng
công nghệ thông tin vào trong bài giảng. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để môn
học GDQP - AN nói chung và bài “Công tác phòng không nhân dân”cho học
sinh lớp 12 trong quá trình dạy học đạt được kết quả cao nhất. Từ thực tế trên
tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: Những biện pháp nâng cao chất lượng dạy học
bài “Công tác phòng không nhân dân” cho học sinh lớp 12, THPT

2


2. Mục đích nghiên cứu.

Nghiên cứu lý luận và thực tiễn nội dung bài “Công tác phòng không
nhân dân” trong chương trình lớp 12, THPT, từ đó đề xuất những biện pháp
nâng cao chất lượng dạy học bài “Công tác phòng không nhân dân” đối với
học sinh lớp 12, THPT.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.
* Đối tượng nghiên cứu:Những biện nâng cao chất lượng dạy học bài
“Công tác phòng không nhân dân” trong chương trình lớp 12, THPT.
* Phạm vi nghiên cứu:
- Trường THPT Xuân Hòa - Phúc Yên,
- Trường THPT Giao Thủy - Nam Định.
- Những biện nâng cao chất lượng dạy học bài “Công tác phòng không
nhân dân” trong chương trình lớp 12, THPT.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về hình thức tổ chức dạy học bài
“Công tác phòng không nhân dân” trong chương trình lớp 12, THPT. Thực
nghiệm khảo sát thực trạng việc dạy, học bài “Công tác phòng không nhân
dân” ở một số trường phổ thông hiện nay, đề xuất các biện pháp nhằm nâng
cao chất lượng dạy học bài “Công tác phòng không nhân dân” lớp 12, THPT.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu.
* Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Nghiên cứu tài liệu giáo trình
sách giáo khoa, nghiên cứu phương pháp dạy học bài “Công tác phòng không
nhân dân” lớp 12, THPT từ đó xác định được cơ sở lý luận để tổ chức quá
trình dạy học nhằm phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh.
Nghiên cứu vị trí tính chất nội dung của công tác phòng không nhân
dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
* Phương pháp điều tra: Điều tra thực trạng dạy học môn học GDQP AN ở các trường THPT hiện nay, việc sử dụng các phương tiện trực quan đặc
biệt là ứng dụng CNTT vào dạy học.
3



Điều tra khả năng tiếp thu, hứng thú học tập của học sinh lớp 12 qua
bài “Công tác phòng không nhân dân”căn cứ vào kết quả thu được có thể điều
tra chung hoặc điều tra đi sâu vào một khía cạnh nào đó trong bài.
* Phương pháp quan sát: Quan sát theo dõi thu thập các dữ liệu các
diễn biến tâm lý khác nhau của học sinh lớp 12 khi tham gia học tập nội dung
bài “Công tác phòng không nhân dân”. Tìm hiểu phương pháp dạy học của
giáo viên để tìm ra và lựa chọn các phương pháp phù hợp.
* Phương pháp chuyên gia: Xin ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo
giảng dạy lâu năm môn học GDQP - AN và các nhà chuyên môn về quốc
phòng để hoàn thiện hơn đề tài nghiên cứu của mình.
* Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Các vấn đề nghiên cứu chỉ có
thông qua thực tiễn kiểm chứng bằng thực nghiệm sư phạm mới đủ tin cậy để
giải quyết việc xác định vấn đề có tính khả thi hay không, sử dụng hình thức
tổ chức và phương pháp luyện tập tính tích cực cũng như thực nghiệm. Để
đánh giá chất lượng cần tiến hành kiểm tra trên cơ sở đó so sánh kết quả điều
tra của nhóm đối chứng và thực nghiệm để từ đó đề xuất một số biện pháp
nâng cao chất lượng dạy học bài: “Công tác phòng không nhân dân”.
6. Đóng góp của đề tài.
Nghiên cứu đề tài những biện pháp nâng cao chất lượng dạy học bài:
“Công tác phòng không nhân dân” lớp 12, THPT nhằm cung cấp những thông
tin, những tài liệu về GDQP - AN và về nội dung công tác phòng không nhân
dân, từ đó góp phần nâng cao chất lượng môn học GDQP – AN.
Đề tài thực hiện thành công sẽ góp phần tạo hứng thú học tập để nâng
cao chất lượng giảng dạy của bài học giúp học sinh tiếp thu đầy đủ kiến thức
của bài, và làm tài liệu tham khảo hữu ích cho giáo viên.

4


NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Tổng quan các vấn đề liên quan đến đề tài nghiên cứu.
1.1.1. Những quan điểm, văn bản, Chỉ thị của Đảng và Nhà nước về
môn học GDQP – AN.
- Ngày 28/4/1981 Ban chấp hành Trung ương Đảng ra Chỉ thị số
107/CT/TW về tăng cường công tác giáo dục quốc phòng toàn dân, chuẩn bị
cho thế hệ trẻ sẵn sàng làm nhiệm vụ Bảo vệ Tổ quốc.
- Nghị định số 02 - NĐ/TW ngày 30/7/1987 của Bộ Chính trị đã quyết
định đưa nội dung đường lối quân sự của Đảng và nhiệm vụ quốc phòng vào
chương trình học tập chính thức trong các trường đào tạo, bổ túc cán bộ của
Đảng và Nhà nước các trường trung phổ thông học đến đại học.
- Chỉ thị số 12 - CT/TW ngày 03/5/2007 của Bộ Chính trị về “Tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng” đối với công tác giáo dục quốc phòng, an ninh
trong tình hình mới, đã chỉ rõ: Giáo dục quốc phòng - an ninh là một bộ phận
của nền giáo dục quốc dân, việc phổ cập và tăng cường giáo dục quốc phòng an ninh là nhiệm vụ chung của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội, phải được tổ
chức thực hiện chặt chẽ thống nhất từ Trung ương đến địa phương. Bằng các
hình thức phù hợp với từng đối tượng, chú trọng giáo dục lòng yêu nước, yêu
chế độ xã hội chủ nghĩa, lịch sử truyền thống của Đảng và dân tộc, lòng tự tôn
dân tộc, ý thức sống và làm việc theo pháp luật.
- Nghị định số 116/2007/NĐ - CP ngày 10/7/2007 của Chính phủ về
giáo dục quốc phòng - an ninh quy định rõ GDQP - AN là một bộ phận của
nền giáo dục quốc dân, một nội dung cơ bản trong xây dựng nền quốc phòng
toàn dân, an ninh nhân dân, là môn học chính khóa trong chương trình giáo
dục đào tạo THPT đến đại học và các trường chính trị hành chính, đoàn thể.
5


Giáo dục quốc phòng - an ninh cho học sinh, sinh viên có ý nghĩa hết sức
quan trọng nó góp phần phát triển con người toàn diện có đạo đức, sức khỏe,
kiến thức quốc phòng, an ninh để tham gia vào sự nghiệp xây dựng và củng

cố nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân.
1.1.2. Phân tích đặc điểm, nội dung chương trình GDQP - AN lớp 12,
trung học phổ thông.
* Đặc điểm:
Chương trình GDQP - AN lớp 12,THPT kết thúc việc dạy và học môn
học GDQP - AN cấp Trung học phổ thông, trên cơ sở chương trình toàn cấp,
chương trình môn học GDQP - AN lớp 12, THPT là những kiến thức cơ bản
cần thiết về quốc phòng - an ninh và một số nội dung kỹ thuật, chiến thuật
quân sự cũng như những hiểu biết về phòng không nhân dân, phục vụ trực
tiếp cho việc sẵn sàng tham gia lực lượng vũ trang bảo vệ Tổ quốc, nội dung
chương trình đã được lựa chọn phù hợp với năng lực tư duy, khả năng hoạt
động thực tiễn theo lứa tuổi và điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước.
Giáo dục quốc phòng - an ninh trong trường phổ thông nhằm giúp
học sinh:
- Có những hiểu biết nhất định về nền quốc phòng toàn dân - an ninh
nhân dân.
- Hiểu được ý nghĩa về điều lệnh đội ngũ, ý nghĩa tác dụng các tư thế,
động tác cơ bản vận động trên chiến trường của cá nhân và tư thế lợi dụng địa
hình, địa vật.
- Hiểu rõ hơn về luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam và luật
Công an nhân dân, tổ chức Quân đội, Công an, nhà trường tuyển sinh Quân
đội, Công an. Từ đó, xác định được trách nhiệm của học sinh với nhiệm vụ
bảo vệ Tổ quốc.
- Có kiến thức tối thiểu về công tác phòng không nhân dân.

6


- Hiểu được tầm quan trọng của an ninh quốc gia và một số nội dung
cơ bản trong phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc.

* Nội dung:
Chương trình GDQP - AN lớp 12, THPT gốm 35 tiết với thời lượng 01
tiết/tuần, bao gồm cả những nội dung về quốc phòng - an ninh.
Hệ thống kiến thức trong chương trình môn học được cấu trúc theo hệ
thống hình bậc thang từ thấp lên cao, lớp 12 là lớp cuối cùng trong chương
trình THPT. Trong nội dung kiến thức và thực hành đều có tính độc lập
nhưng chúng gắn kết chặt chẽ với nhau. Khi học sinh kết thúc năm học thì họ
sẽ được trang bị kiến thức tương đối cơ bản về quốc phòng - an ninh.
Nội dung chương trình được cấu trúc như sau:
+ Bài 1. Đội ngũ đơn vị (2 tiết thực hành).
+ Bài 2. Một số hiểu biết về nền quốc phòng.
+ Bài 3. Tổ chức Quân đội và Công an nhân dân Việt Nam (3 tiết lý
thuyết).
+ Bài 4. Nhà trường Quân đội, Công an và tuyển sinh đào tạo (2 tiết lý
thuyết).
+ Bài 5. Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam và Luật Công an
nhân dân (4 tiết lý thuyết).
+ Bài 6. Các tư thế, động tác cơ bản vận động trên chiến trường (6 tiết
thực hành).
+ Bài 7. Lợi dụng địa hình, địa vật (2 tiết: 1 tiết lí thuyết 1 tiết thực
hành).
+ Bài 8. Công tác phòng không nhân dân (4 tiết lí thuyết).
+ Bài 9. Trách nhiệm của học sinh với nhiệm vụ bảo vệ an ninh Tổ
quốc (3 tiết lí thuyết).
+ Kiểm tra (4 tiết: 2 tiết lí thuyết, 2 tiết thực hành).

7


1.1.3. Phân tích đặc điểm nội dung bài: “Công tác phòng không

nhân dân” lớp 12, trung học phổ thông.
* Đặc điểm:
Hiểu được khái niệm, đặc điểm, yêu cầu và những nội dung cơ bản ban
đầu về công tác phòng không nhân dân, sự phá hoại của kẻ thù bằng đường
không.
Nhận thức được trách nhiệm của học sinh đối với công tác phòng
không nhân dân.
* Nội dung: Gồm có 2 phần:
Phần 1: Sự hình thành và phát triển công tác phòng không nhân dân.
Phần 2: Những vấn đề cơ bản về công tác phòng không nhân dân.
1.1.4. Tình hình nghiên cứu cơ sở lí luận trong đổi mới phương pháp
dạy học.
Trong xu thế hội nhập toàn cầu đổi mới để tồn tại và phát triển là một
tất yếu và khách quan. Giáo dục cũng không nằm ngoài quy luật đó, thậm chí
là một yêu cầu hết sức cấp bách trong chính sách đổi mới toàn diện của Đảng
và Nhà nước ta. Trong gần 20 năm qua nền giáo dục của chúng ta đã có
những bước chuyển biến tích cực, đã đạt được những thành tựu nổi bật không
thể phủ nhận. Đổi mới giáo dục là cả một quá trình bao gồm nhiều nội dung,
giải pháp theo một lộ trình hợp lý phù hợp với thực tiễn, trong đó đổi mới
phương pháp dạy học là một khâu đột phá và đồng thời là bước đi quyết định
việc nâng cao chất lượng đào tạo theo yêu cầu của thời đại.
GDQP - AN là môn học được luật định, thể hiện rõ đường lối giáo dục
của Đảng, thể chế hóa bằng các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước
nội dung bao gồm những kiến thức cơ bản về đường lối quốc phòng - quân sự
của Đảng và các kỹ năng quân sự, an ninh cần thiết đáp ứng yêu cầu xây
dựng, củng cố nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân. Do vậy việc nâng

8



cao chất lượng dạy học trên cơ sở đổi mới phương pháp dạy học ứng dụng
công nghệ thông tin là yêu cầu cấp thiết hiện nay.
Đổi mới phương pháp dạy học môn học GDQP - AN là đổi mới cách thức
dạy phù hợp với quá trình nhận thức của học sinh, phù hợp với điều kiện thực tế
cho phép của các cơ sở đào tạo. Việc đổi mới phương pháp dạy học GDQP - AN
không có nghĩa là phủ nhận hoàn toàn PPDH cũ bằng phương pháp cách dạy
hoàn toàn mới mà là sự vận dụng linh hoạt những PPDH truyền thống trong đó
có sự hỗ trợ của phương tiện dạy học hiện đại nhằm đạt được mục đích đề ra với
kết quả cao nhất.
Việc đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng GDQP
- AN là yêu cầu cấp thiết, là xu hướng phát triển tất yếu của môn học trong hệ
thống giáo dục quốc dân hiện nay. Đổi mới PPDH phải trên cơ sở bồi dưỡng
nghiệp vụ sư phạm và kĩ năng sử dụng các phương tiện giảng dạy hiện đại,
ứng dụng phần mềm tin học.
1.2. Cơ sở lý luận.
1.2.1. Một số khái niệm.
* Phương pháp dạy học:
Để hiểu rõ về phương pháp dạy học, trước hết chúng ta cần quan niệm
thế nào là phương pháp. Theo Hêghen, phương pháp là cách thức làm việc
của chủ thể, cách thức này phụ thuộc vào nội dung phương pháp và sự vận
động bên ngoài của nội dung .
Thuật ngữ Phương pháp bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp “methodos” có
nghĩa là con đường, công cụ nhận thức. Trong lý luận dạy học, phương pháp
dạy học có thể được hiểu là con đường chính yếu, cách thức làm việc phối
hợp, thống nhất của người dạy và người học trong quá trình truyền đạt và tiếp
thu tri thức, và thông qua đó, sự học tập của người học cuối cùng đạt tới mục
đích dạy học.

9



Trong giai đoạn hiện nay việc đổi mới phương pháp thể hiện với các
mức độ sau đây:
+ Là sự cải tiến, hoàn thiện các phương pháp dạy học đang sử dụng để
góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả của dạy học.
+ Là việc bổ sung, phối hợp nhiều phương pháp dạy học để khắc phục
mặt hạn chế của các phương pháp dạy học đang sử dụng nhằm đạt được mục
tiêu dạy học đề ra; từ đó hình thành nên các “kiểu” Dạy - Học mới nhằm đem
lại hiệu quả cao hơn.
Như vậy, ta có thể hiểu phương pháp dạy học là những cách thức hoạt
động của giáo viên và học sinh trong những điều kiện dạy học xác định nhằm
đạt được mục đích dạy học.
Theo định nghĩa trên ta thấy phương pháp dạy học đặc trưng bởi tính
chất hai mặt nghĩa là bao gồm hai hoạt động của thầy (tổ chức điều khiển) và
của trò đóng vai trò chủ động tích cực (tự tổ chức, điều khiển).
* Biện pháp dạy học.
Theo địa từ điển tiếng việt: Biện pháp là cách tiến hành, cách giải quyết
vấn đề cụ thể. Biện pháp dạy học là một trong những thành tố của quá trình
dạy học có quan hệ mật thiết và biện chứng với các thành tố khác biệt là
phương pháp dạy học. Trong thực tiễn dạy học “phương pháp dạy học” và
“biện pháp dạy học” có quan hệ mật thiết với nhau đến nỗi khó phân biệt
được ranh giới giữa chúng. Trong từng tình hình cụ thể phương pháp dạy học
và biện pháp dạy học có thể chuyển hóa lẫn nhau. Có lúc phương pháp là con
đường độc lập để giải quyết nhiệm vụ dạy học, có lúc phương pháp chỉ là
biện pháp có tác dụng riêng biệt. Vì vậy việc xác định bản chất của khái niệm
“biện pháp dạy học” có thể dựa vào việc phân tích khái niệm phương pháp
dạy học. Cũng như phương pháp dạy học thì biện pháp dạy học cũng tuân
theo những quy luật tổ chức quá trình dạy học như có tính mục đích, gắn liền

10



với các nội dung và các thành tố của quá trình dạy học như hình thức tổ chức
dạy học, phương tiện dạy học….
Vì vậy, biện pháp dạy học là cách tổ chức các hoạt động học tập cho
học sinh của giáo viên nhằm đạt được mục đích dạy học.
* Chất lượng giáo dục:
Chất lượng là toàn bộ sản phẩm đạt được nhằm đáp ứng nhu cầu đề ra.
Chất lượng giáo dục là sản phẩm của người dạy và người học, nó đánh
giá thông qua kết quả học tập mà người học đạt được.
1.2.2. Vai trò đổi mới phương pháp dạy học.
Đất nước ta đang bước vào sự hội nhập toàn cầu bối cảnh trong nước
và quốc tế có nhiều thay đổi. Những thay đổi đó tạo ra nhiều cơ hội song cũng
đặt ra nhiều thách thức và nguy cơ. Vì vậy bên cạnh việc học tập và kế thừa
những thành quả khoa học của nhân loại chúng ta cần đi tắt đón đầu, đổi mới
tư duy phương pháp làm việc học tập.
Sự phát triển của khoa học - kỹ thuật đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc
sử dụng công nghệ thông tin vào quá trình dạy học và cũng đã đạt được hiệu
quả cao. Mặt khác sự bùng nổ của công nghệ thông tin làm cho nội dung sách
giáo khoa phải đổi mới, trình bày theo một hệ thống logic hơn, khoa học hơn.
Đổi mới nội dung tất yếu phải đổi mới phương pháp dạy học cho phù hợp.
Đặc biệt trong đó có môn học GDQP - AN.
Đổi mới phương pháp dạy học môn học GDQP - AN có vai trò vô cùng
quan trọng:
Một là: Nhằm nâng cao khả năng nhận thức, khả năng tư duy về quốc
phòng cho học sinh.
Hai là: Chuyển từ quan điểm phương pháp dạy học “lấy giáo viên làm
trung tâm” sang quan điểm “lấy học sinh làm trung tâm”.
Ba là: Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy cao độ tính
tích cực chủ động của người học trong quá trình lĩnh hội tri thức, phát huy

11


khả năng của người học. Hình thành cho người học phương pháp tự học, tăng
cường sự tìm kiếm tri thức hay ứng dụng tri thức vào cuộc sống.
Bốn là: Đổi mới phương pháp dạy học sẽ kết hợp một cách nhuần
nhuyễn giữa các phương pháp dạy học khác nhau, phương pháp hiện đại và
truyền thống để đạt được mục tiêu cao trong dạy học.
Năm là: Đổi mới phương pháp dạy học sẽ hình thành kỹ năng thực
hành cho học sinh để học sinh có khả năng vận dụng những lý thuyết đã học
vào các tình huống cụ thể trong cuộc sống.
Sáu là: Đổi mới phương pháp dạy học có sử dụng phương pháp hiện
đại vào dạy học, sử dụng phương tiện đa dạng, hợp lý trong quá trình dạy học
giúp cho phương pháp dạy học trở lên sinh động hơn, tạo được hứng thú học
tập cho học sinh.
1.3. Cơ sở thực tiễn.
1.3.1. Đổi mới phương pháp dạy học môn học GDQP - AN tại các
trường trung học phổ thông.
Đổi mới phương pháp dạy học môn học GDQP - AN trong các trường
THPT là yêu cầu tất yếu, bởi vì đổi mới là sự cải tiến, nâng cao chất lượng,
nâng cao hiệu quả của việc dạy học; là việc sử dụng, phối hợp nhiều phương
pháp, phương tiện dạy học để khắc phục những hạn chế của phương pháp đã
và đang sử dụng nhằm đạt được mục tiêu dạy học tốt hơn, đem lại hiệu quả
cao hơn. Vì thế, đổi mới phương pháp dạy học luôn được xác định trong văn
kiện của Đảng, mà Bộ Giáo dục và Đào tạo đã và đang chỉ đạo, triển khai
nhằm đáp ứng yêu cầu, mục tiêu giáo dục trong thời đại hiện nay, trong đó
người dạy luôn là nhân tố quan trọng trong việc thực hiện đổi mới phương
pháp.
Vấn đề đổi mới phương pháp dạy học hiện nay ở các cấp học nói chung
và THPT nói riêng là vấn đề cấp bách, thời sự đòi hỏi lớn của thực tiễn giáo

dục chẳng những ở nước ta mà còn trên cả thế giới. Đổi mới phương pháp dạy
12


học theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh “dạy học lấy
người học làm trung tâm” đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo xem là giải pháp
cơ bản để nâng cao chất lượng giáo dục khơi dậy khả năng tự học hình thành
cho học sinh tư duy tích cực độc lập sáng tạo đem lại hứng thú học tập.
Ở các trường THPT hiện nay thì hầu hết đã thực hiện đổi mới PPDH và
ứng dụng phần mềm tin học vào trong giảng dạy. Môn học GDQP - AN đã
được đưa vào chương trình học chính khóa tuy nhiên nó vẫn coi là môn học
phụ, chưa ứng dụng công nghệ thông tin vào trong quá trình giảng dạy. Vì
vậy cần có những nhận thức mới về môn học GDQP - AN và không được coi
nhẹ môn học này.
Đổi mới PPDH môn học GDQP - AN có ứng dụng công nghệ thông tin
là một tất yếu khách quan nhằm nâng cao chất lượng hiệu quả môn học. Đội
ngũ cán bộ lãnh đạo và đội ngũ giáo viên phải coi đổi mới PPDH ứng dụng
CNTT vào dạy học môn học GDQP - AN là một nhiệm vụ quan trọng, cấp
bách hiện nay, từ đó công tác chỉ đạo, tổ chức thực hiện để đạt kết quả tốt
hơn.
1.3.2. Sự cần thiết phải đổi mới phương pháp dạy học đối với bài
“Công tác phòng không nhân dân” lớp, 12 trung học phổ thông.
Trước sự phát triển như vũ bão của khoa học - công nghệ cùng với xu
thế hội nhập và cạnh tranh gay gắt của thế giới. Ngày nay, tri thức đóng vai trò
là nguồn lực quyết định đối với sự phát triển và tăng trưởng kinh tế. Từ đó đặt
ra cho ngành Giáo dục và Đào tạo một mục tiêu chiến lược đó là đào tạo ra
những con người phát triển toàn diện. Trong đó GDQP - AN cho học sinh
THPT nói chung và đổi mới phương pháp dạy học bài “Công tác phòng không
nhân dân” nói riêng là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhằm đáp ứng tốt
hơn nữa yêu cầu của mục tiêu giáo dục và thực tiễn của ngành giáo dục đề ra.


13


Hiện nay hầu hết các trường đã thực hiện dạy nội dung này trong
chương trình GDQP - AN lớp 12, THPT theo quy định của Bộ Giáo dục và
Đào tạo. Giảng dạy nội dung bài “Công tác phòng không nhân dân” có tác
dụng giúp các em hiểu thế nào là công tác phòng không, đặc điểm, yêu cầu và
những nội dung cơ bản của công tác phòng không, nhận thức được trách
nhiệm của bản thân mình đối với công tác phòng không nhân dân hiện nay
như thế nào và mình cần phải làm gì. Nhưng thực tế việc dạy học bài “Công
tác phòng không nhân dân” lớp 12, THPT vẫn còn tồn tại nhiều bất cập chất
lượng học của bài còn chưa cao, học sinh coi là môn học phụ, gộp các lớp lại
cùng học. Giáo viên sử dụng phương pháp thuyết trình không gây hứng thú
học tập cho học sinh. Nên nó chưa giải quyết được nhiệm vụ mà Đảng và Nhà
nước giao phó cũng như chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của xã
hội về đào tạo và phát triển con người toàn diện.
Vì vậy việc nâng cao chất lượng dạy học đối với bài “Công tác phòng
không nhân dân” đóng vai trò vô cùng quan trọng và rất cần thiết góp phần
phát huy hứng thú học tập, tính chủ động tích cực, nhằm đạt kết quả cao trong
học tập của học sinh.
1.3.3. Cơ sở đánh giá chất lượng bài giảng.
Hiện nay việc đánh giá bài giảng trong một tiết học được xem là một yếu
tố quan trọng để góp phần đành giá năng lực toàn diện của người giáo viên
cũng như quá trình tiếp thu bài học, hứng thú học tập của học sinh. Việc đánh
giá chất lượng của bài giảng không thể xem nhẹ vì chúng góp phần thay đổi
điều chỉnh định hướng PPDH của người giáo viên. Đặc biệt trong giai đoạn
triển khai việc đổi mới sách giáo khoa thì xây dựng cơ sở đánh giá chất lượng
bài giảng một cách khoa học chặt chẽ và có hệ thống sẽ góp phần đổi mới
PPDH cho phù hợp với xu thế tích cực hóa hoạt động học tập của người học.

- Để đánh giá chất lượng dạy học bài “Công tác phòng không nhân
dân” phải dựa vào các tiêu chí sau:
14


+ Mục tiêu bài học rõ ràng đầy đủ, truyền tải đủ nội dung làm nổi bật
trọng tâm của bài.
+ Phân bố thời gian hợp lý, hệ thống câu hỏi phù hợp với từng đối
tượng học sinh.
+ Bài giảng có tính vượt trội hơn so với bài giảng truyền thống, dễ
dàng trở về trang trước các phần đã học khi cần thiết.
+ Kết hợp các phương pháp dạy học truyền thống với ứng dụng công
nghệ thông tin.
- Lấy kết quả hoạt động của học sinh để đánh giá năng lực của giáo
viên.
+ Học sinh có hứng thú với tiết học không? (chăm chỉ tập chung hăng
hái ).
+ Học sinh có lĩnh hội kiến thức cơ bản của bài học không.
+ Học sinh có nêu nhiều câu hỏi thắc mắc không.
+ Học sinh có tham gia trao đổi, hoạt động nhằm đánh giá lẫn nhau
không (thảo luận, tranh luận, bàn bạc).
Như vậy với cơ sở đánh giá chất lượng bài giảng trên đã đáp ứng
PPDH tích cực trong đó lấy kết quả của học sinh để đánh giá khả năng
chuyên môn nghiệp vụ của người giáo viên. Với cơ sở đánh giá chất lượng
bài giảng trên người giáo viên sẽ tự động chuyển đổi và điều chỉnh PPDH
trong môn học giáo dục quốc phòng - an ninh lấy hoạt động của học sinh làm
nền tảng của mọi quá trình dạy học biến quá trình học tập thụ động của học
sinh thành quá trình học tập chủ động.

15



CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG DẠY HỌC BÀI “CÔNG TÁC
PHÒNG KHÔNG NHÂN DÂN” CHƢƠNG TRÌNH GDQP AN LỚP 12, TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
2.1. Hình thức tổ chức giảng dạy của bài “Công tác phòng không nhân
dân” lớp 12, trung học phổ thông.
Ở các trường THPT hiện nay đã và đang tiếp tục thực hiện nội dung
giảng dạy và học tập môn học GDQP - AN cho học sinh theo quy định của Bộ
Giáo dục và Đào tạo. Tuy nhiên việc tổ chức giảng dạy nội dung này cho học
sinh vẫn còn nhiều bất cập. Môn học GDQP - AN ở trường THPT thường
diễn ra tập trung vào đầu năm học hoặc đầu học kì II, cũng có trường tổ chức
học rải, thời gian học tập trong 35 tiết/1 năm nên kết quả và chất lượng của
môn học vẫn còn thấp, chất lượng chưa cao.
Thực tế việc tổ chức giảng dạy môn học GDQP - AN ở trường THPT
Giao Thủy, trường THPT Xuân Hòa đã tổ chức học rải môn học GDQP - AN
cho học sinh theo chương trình 35tiết/1 năm và 1 tuần học một tiết bài “Công
tác phòng không nhân dân” là bài lý thuyết học trong 4 tiết. Cũng có trường
tổ chức học GDQP-AN vào tuần đầu tiên của kỳ học hay giữa khóa học nên
học sinh học lý thuyết tập trung với số lượng học sinh rất lớn gộp 2 - 3 lớp lại
hoặc là tập trung toàn khối để học lý thuyết. Vì số lượng đông, giáo viên
giảng dạy bằng phương pháp thuyết trình nên trong quá trình dạy học giáo
viên không bao quát được lớp học, học sinh không muốn học nên biến buổi
học lý thuyết thành nói chuyện phiếm.
Bài: “Công tác phòng không nhân dân” giáo viên chỉ lên lớp giảng dạy
bằng phương pháp thuyết trình giản đơn, không sử dụng các hình ảnh minh
họa cũng như không ứng dụng công nghệ thông tin vào trong giảng dạy nên
không thu được kết quả.
16



2.2. Phƣơng pháp giảng dạy của bài “Công tác phòng không nhân dân”
lớp 12, trung học phổ thông.
Môn học GDQP - AN được đưa vào giảng dạy trong những năm gần
đây, nhưng giáo viên được đào tạo chuyên môn vẫn còn thiếu chủ yếu là giáo
viên không chuyên hoặc qua lớp đào tạo ngắn hạn nên vẫn chưa đáp ứng
được yêu cầu tính chất của môn học.
Trong những năm qua việc giảng dạy môn học GDQP - AN trong
trường THPT đặc biệt là các bài lý thuyết vẫn giảng dạy theo phương pháp
truyền thống, phương pháp thuyết trình.Thuyết trình là phương pháp dùng lời
nói, đây là phương pháp cổ điển, truyền thống đã được sử dụng hàng nghìn
năm nay ở nước ta và trên thế giới.
Giáo viên dạy học bài “Công tác phòng không nhân dân” chủ yếu sử
dụng phương pháp thuyết trình độc thoại truyền thụ một chiều dựa vào giáo
án có sẵn.Trong bài giảng giáo viên hoàn thành đúng nội dung môn học theo
đúng chương mục và theo từng tiết giảng. Số giờ giảng của thầy giáo chiếm
đa số không có thời gian dành cho học sinh tự học, học nhóm hay thảo luận.
Khi giảng bài “Công tác phòng không nhân dân” giáo viên thường ghi những
đề mục lớn lên bảng giáo viên dựa vào phương pháp thuyết trình độc thoại,
giáo án và học sinh ghi những ý chính. Học sinh chỉ nghe, nghi nhớ thụ động,
ghi chép đầy đủ cẩn thận bài giảng của giáo viên trên lớp và đó cũng là tài
liệu ôn tập, học và kiểm tra. Phương pháp truyền thống này có nhược điểm
lớn là học sinh tham gia học tập thiếu sáng tạo, kém năng động, thụ động
trong quá trình học tập cũng như không nắm bắt được nội dung của bài do
vậy nhận thức của học sinh về bài học còn ở mức độ thấp.
2.3. Cơ sở vật chất bảo đảm.
Môn học GDQP - AN đã được các văn bản của Đảng, Chính phủ quyết
định là môn học chính khóa trong hệ thống các nhà trường và phổ biến cho

17



các Sở Giáo dục thực hiện. Tuy nhiên mỗi Sở Giáo dục lại có những nhận
thức khác nhau về tầm quan trọng của môn học này vì thế môn học GDQP AN ở mỗi trường cũng thực hiện khác nhau và không thống nhất. Có Sở coi
đây là môn học quan trọng nên đã đầu tư cơ sở vật chất cho các trường, đội
ngũ giáo viên được đào tạo chính quy về chuyên môn nghiệp vụ về GDQP AN. Hơn nữa nhà trường cũng có nhiều chính sách đãi ngộ đối với giáo viên,
tạo điều kiện cho giáo viên nâng cao năng lực về chuyên môn GDQP - AN và
có tâm huyết với nghề. Cũng có Sở Giáo dục coi đây là môn học phụ nên
không đầu tư cơ sở vật chất cho trường, đội ngũ giáo viên giảng dạy cũng
không được đào tạo chuyên môn, chủ yếu lấy giáo viên dạy môn học khác
sang dạy, nhà trường không có chính sách đãi ngộ đối với giáo viên dạy, thu
nhập thấp không tạo được sự phấn đấu của giáo viên.
Cũng chính vì sự nhận thức khác nhau về tầm quan trọng của môn học
như vậy nên thái độ học tập môn GDQP - AN của học sinh cũng khác. Những
trường đầu tư cho môn học thì học sinh chăm chỉ, chú ý học tập hơn, học sinh
có SGK và có tài liệu phục vụ cho môn học. Những trường coi đây là môn
học phụ thì học sinh thường không học có học cũng chẳng qua là học chống
đối nên không có những kiến thức cơ bản về GDQP - AN cũng như những
kiến thức về nội dung của bài học.
Trong dạy học GDQP - AN do chưa thự sự được các nhà trường quan
tâm đầu tư nên cơ sở vật chất phục vụ cho giảng dạy thì vẫn còn thiếu. Những
nội dung giảng dạy thuộc phần lý thuyết trong quá trình dạy học phải có tranh
ảnh mô hình, vật chất chuyên dùng thì còn rất thiếu. Những nội dung thuộc
phần thực hành ngoài thao trường thì vật chất đảm bảo cho bài học chủ yếu
dựa vào sự chuẩn bị của giáo viên và giáo viên phổ biến cho học sinh tự
chuẩn bị, ví dụ như lựu đạn bằng gỗ, súng bằng gậy tre.

18


Bài “Công tác phòng không nhân dân” tổ chức học trên lớp nên vật

chất bảo đảm của giáo viên chủ yếu là sách giáo khoa, giáo án, của học sinh
chỉ là sách giáo khoa và vở ghi bài.
Như vậy đối với lớp học đông và điều kiện vật chất bảo đảm như trên
thì học sinh không thể đạt được yêu cầu cũng như tiếp thu nội dung của bài
học được đặt ra.
2.4. Đánh giá chất lƣợng dạy học bài “Công tác phòng không nhân dân”
lớp 12, trung học phổ thông.
Trong những năm qua các sở Giáo dục và Đào tạo đã chỉ đạo xây dựng
kế hoạch hướng dẫn các nhà trường chọn nhiều hình thức tích cực để nâng cao
chất lượng học tập môn học môn học GDQP - AN, trong đó có bài “Công tác
phòng không nhân dân”. Tuy nhiên qúa trình giảng dạy môn học GDQP - AN
trong các trường THTP hiện nay vẫn còn tồn tại nhiều bất cập giáo viên vẫn sử
dụng phương pháp dạy học truyền thống, không quan tâm đầu tư cho môn học
nên ở các trường việc dạy học bài “Công tác phòng không nhân dân” vẫn chưa
đạt được kết quả như đã đề ra.
Qua thực tế dạy học môn học GDQP - AN ở các trường THPT đạt kết
quả chưa cao, học sinh có tư tưởng không muốn học và không thích học môn
học này. Đa số các em cảm thấy đây là một môn học khó, môn phụ. Bài “Công
tác phòng không nhân dân” thuộc nội dung lý thuyết nên nhà trường chưa đầu
tư cơ sở vật chất cho môn học, không có hình ảnh minh họa, giáo viên không
được đào tạo chuyên môn nên trong quá trình giảng dạy không liên hệ được
với thực tiễn, không lấy được các ví dụ minh họa liên quan đến bài học, không
gây được hứng thú học tập cho học sinh.
Từ thực trạng trên thì việc đổi mới PPDH môn học GDQP - AN là rất
cần thiết để tạo không khí và hứng thú học tập cho học sinh

19


* Thực trạng dạy học bài “Công tác phòng không nhân dân” ở trường

THPT Xuân Hòa, Trường THPT Giao Thủy.
Theo chỉ đạo chung của Bộ Giáo dục và Đào tạo thì trường THPT Xuân
Hòa, trường THPT Giao Thủy đã thực hiện nội dung môn học GDQP - AN.
Môn học GDQP - AN được phân bố học rải như các môn học khác trong suốt kỳ
học. Tuy nhiên môn học GDQP - AN vẫn coi là môn học phụ, nhà trường chưa
quan tâm đầu tư, tình trạng dạy chay, học chay vẫn diễn ra một cách phổ biến.
Khi giảng bài “Công tác phòng không nhân dân” giáo viên của trường
THPT Xuân Hòa, trường THPT Giao Thủy vẫn sử dụng phương pháp truyền
thống để lên lớp. Bên cạnh đó giáo viên không được đào tạo chuyên môn
nghiệp vụ giảng dạy môn học GDQP - AN nên trong quá trình truyền thụ kiến
thức của giáo viên cho học sinh còn nhiều hạn chế, giáo viên không tự tin
cũng như nắm chắc dẫn chứng và hình ảnh minh họa làm cho bài giảng khô
cứng không có tính thuyết phục, giáo viên chỉ dạy dựa vào sách giáo khoa và
dạy đủ nội dung của bài là được nên trong tiết học như vậy không tạo được
động cơ và hứng thú học tập cho học sinh. Trong giảng dạy giáo viên chưa
bám sát vào tình hình thực tiễn, đối tượng giảng dạy nên đã làm cho chất
lượng của bài giảng kém không mang lại hiệu quả. Với phương pháp giảng
dạy như vậy học sinh bị thụ động theo khuôn mẫu sẵn có của giáo viên, làm
cho khả năng sáng tạo bị bó buộc gây cho học sinh trạng thái chán nản không
muốn học.
Do đội ngũ giáo viên giảng dạy của trường còn thiếu và không được
đào tạo chuyên môn nên trong quá trình giảng dạy giáo viên chưa tích cực
trong việc đổi mới PPDH. Sau khi dạy xong bài “Công tác phòng không nhân
dân” theo phương pháp truyền thống và tiến hành kiểm tra thu được kết quả
như sau:
Bảng 1: Kết quả học tập theo phương pháp truyền thống.
20


STT


1

Trƣờng

THPT

Học sinh Tổng
lớp 12

số

12A1

50

THPT

12A2

Khá

Trung

Kém

bình

Xuân Hòa
2


Giỏi

45

Giao Thủy

3

15

17

5

(6%)

(30%)

(34%)

(10%)

2

12

28

3


(4,4%) (26,7%) (62,2%) (6.7%)

Bảng kết quả học tập theo phương pháp truyền thống trên cho thấy
giảng dạy bài “Công tác phòng không nhân dân”theo phương pháp truyền
thồng vẫn còn thấp. Tại các trường trên tỉ lệ học sinh giỏi chiếm ít, chủ yếu là
học sinh xếp loại khá và trung bình, còn có một số học sinh xếp loại kém. Từ
thực tế trên cần phải tiến hành đổi mới phương pháp dạy học bài “Công tác
phòng không nhân dân” để đạt được kết quả cao nhất.

21


CHƢƠNG 3: NHỮNG BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT
LƢỢNG DẠY HỌC BÀI “CÔNG TÁC PHÒNG KHÔNG
NHÂN” CHO HỌC SINH LỚP 12, TRUNG HỌC PHỔ
THÔNG
3.1. Nghiên cứu đối tƣợng nội dung chƣơng trình môn học.
3.1.1. Nghiên cứu đối tượng.
Đối tượng học tập ở đây là học sinh THPT người giáo viên phải đi
nghiên cứu tìm hiểu đặc điểm, tâm lí của học sinh THPT nói chung và học
sinh lớp 12 nói riêng. Đây là độ tuổi đang phát triển có trình độ hiểu biết nhất
định, có khả năng phân tích tổng hợp ham hiểu biết và có nhiều hoài bão tuy
nhiên mỗi học sinh lại có những đặc điểm khác nhau, có học sinh ở lớp
chuyên ban, có học sinh ở lớp không chuyên ban, có học sinh có sức khỏe tốt
nhưng cũng lại có những học sinh sức khỏe không tốt……vì vậy mà trình độ
nhận thức và khả năng tiếp thu của các em cũng khác nhau. Chính vì thế khi
tiến hành dạy học giáo viên cần xác định từng đối tượng và hoàn cảnh cụ thể
của học sinh để có công tác tổ chức và phương pháp giảng dạy cho phù hợp.
Đây là yếu tố quan trọng để giúp học sinh dễ tiếp thu và nhận thức nhanh

chóng nội dung bài học, tạo điều kiện thuận lợi cho việc học tập đặc biệt là
việc lĩnh hội và tiếp thu tri thức trong bài “Công tác phòng không nhân dân”.
3.1.2. Nghiên cứu nội dung chương trình môn học.
Theo Quyết định số 79/2007/QĐ – BGDĐT ngày 24/12/2007 của Bộ
Giáo dục và Đào tạo, chương trình GDQP - AN cấp THPT có 105 tiết. Trong
đó chương trình GDQP - AN lớp 12 THPT là 35 tiết với thời lượng 1
tiết/tuần, cả nội dung về quốc phòng và an ninh.
Bài “Công tác phòng không nhân dân” lớp 12, THPT có 4 tiết.

22


3.2. Đổi mới hình thức tổ chức dạy học.
Hình thức tổ chức dạy học môn học GDQP - AN có tác động trực tiếp
đến kết quả học tập. Tổ chức lớp học ít hay nhiều, theo từng cấp biên chế
hoặc tổ chức lớp học trên lớp hay ngoài thao trường là công việc đòi hỏi mỗi
giáo viên phải tính toán, phải căn cứ vào điều kiện cho phép để quyết định
một hình thức tổ chức giảng dạy học tập cho phù hợp. Thông thường ở THPT
tổ chức ghép lớp với số lượng học sinh đông nên hình thức tổ chức giảng dạy
mang lại hiệu quả thấp thậm chí không có tác dụng giáo dục. Do vậy cần phải
đổi mới kịp thời hình thức tổ chức dạy học môn học GDQP - AN ở bậc THPT
nói chung và trong bài “Công tác phòng không nhân dân” lớp 12, THPT. Mỗi
lớp học nên bố trí một giáo viên giảng dạy như thế vừa phù hợp với việc học
tập trên lớp học, địa hình học thực hành, vật chất bảo đảm để đáp ứng trong
quá trình dạy học cũng như học sinh tiếp thu bài học.
Hình thức tổ chức dạy học được hiểu là cách thức sắp xếp tổ chức tiến
hành các buổi học theo một trật tự, chế độ nhất định nhằm thực hiện mục tiêu,
nhiệm vụ dạy học đặt ra. Dạy học môn giáo dục quốc phòng được tiến hành
dưới nhiều hình thức tổ chức khác nhau.
Thứ nhất: Diễn giảng:

- Là hình thức giáo viên trình bày trực tiếp một tài liệu học tập, một
vấn đề khoa học, một đề tài nghiên cứu hay một phương pháp khoa học nào
đó theo một hệ thống, một trình tự nhất định cho đông đảo học sinh, sinh
viên. Diễn giảng là một trong những hình thức dạy học cơ bản, có thể được
tiến hành trong một môi trường lớn với số đông người học nên hiệu quả đào
tạo cao, tiết kiệm thời gian và sức lực của giáo viên.
- Những yêu cầu đối với diễn giảng:
+ Về nội dung, diễn giảng phản ánh được những tri thức khoa học cơ
bản, những thành tựu mới nhất, hiện đại nhất của khoa học kĩ thuật ở trong

23


nước và thế giới. Đặc biệt phải đảm bảo tính giáo dục, tính nghề nghiệp và
tính thực tiễn trong quá trình diễn giảng.
+ Về phương pháp, bài diễn giảng phải được trình bày một cách rõ
ràng, trong sáng, bồi dưỡng cho người học phương pháp tư duy lôgic, gây
hứng thú trong học tập, nghiên cứu.
+ Về tổ chức, bài giảng phải đảm bảo sự thống nhất giữa hoạt động dạy
và học, phải tạo điều kiện để người học có thể nghe, ghi chép những nội dung
cơ bản.
Thứ hai: Tự học:
- Là hình thức độc lập của người học nhằm lĩnh hội hoặc củng cố, vận
dụng các kiến thức, kĩ năng.
- Trong GDQP, tự học là hình thức cần thiết và có thể tổ chức theo các
loại hình cơ bản sau đây:
+ Tự nghiên cứu các tài liệu học tập như sách giáo khoa, giáo trình, vở
ghi và các tài liệu tham khảo khác trước và sau khi nghe giảng nhằm giúp cho
người học mở rộng, đào sâu, nắm chắc kiến thức môn học.
+ Tự nghiên cứu rèn luyện các kĩ năng, kĩ sảo chiến đấu hoặc sử dụng

các vũ khí trang bị quân sự.
+ Tự chuẩn bị tham gia các hình thức dạy học khác như chuẩn bị đề
cương, thảo luận.
Thứ ba: Thảo luận xêmina:
- Đây là các hình thức tổ chức dạy học, trong đó đòi hỏi người học phải
chuẩn bị ý kiến, tham gia thảo luận, tranh luận theo những câu hỏi, những vấn
đề đặt ra từ nội dung học tập.
- Ở hình thức thảo luận vấn đề đặt ra được kết cấu theo dạng câu hỏi
nhằm mục đích chính là củng cố, tái hiện kiến thức đã học. Người chủ trì thảo
luận thường là tổ trưởng học tập hoặc có thể là giáo viên.

24


- Nội dung xêmina thường là các vấn đề trọng tâm, các vấn đề phức tạp
của môn học hoặc là các vấn đề từ thực tiễn hoạt động quân sự, công tác quốc
phòng đặt ra. Buổi học xêmina bắt buộc phải đặt ra dưới sự điều khiển trực
tiếp của giáo viên, người có trình độ am hiểu sâu sắc vấn đề thảo luận và có
năng lực sư phạm.
- Từ những đặc trưng trên, hình thức xêmina đòi hỏi phải xây dựng kế
hoạch từ trước, phải có sự chuẩn bị công phu từ hai phía: Người dạy phải
chuẩn bị đề cương điều kiển buổi học, người học phải chuẩn bị đề cương phát
biểu, buổi học phải diễn ra theo quy trình chặt chẽ từ phần mở đầu đến phần
kết luận, song phải phát huy được tinh thần dân chủ, không khí tranh luận
sáng tạo, thực hiện tốt các chức năng nhận thức, phát triển giáo dục và kiểm
tra của xêmina.
3.3. Đổi mới phƣơng pháp dạy học.
3.3.1. Phương pháp trực quan.
Trực quan là phương pháp giảng dạy trong đó giáo viên sử dụng các
phương tiện dạy học tác động trực tiếp đến cơ quan của học sinh nhằm đạt

được kết quả cao trong giảng dạy và học tập. Sử dụng tốt phương tiện đồ
dùng dạy học có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo thực hiện có hiệu quả
tiến trình đổi mới phương pháp dạy học theo hướng dạy học tích cực. Đồ
dùng dạy học để cho học sinh thực hành và khám phá kiến thức mới. Vì vậy
tăng cường sử dụng đồ dùng và phương tiện dạy học là một yêu cầu cấp thiết
đối với người giáo viên.
Phương pháp trực quan được sử dụng rộng rãi trong môn học GDQP AN nhưng tùy theo nội dung bài giảng, tính chất của mỗi bài học và tình hình
cụ thể của đối tượng học tập, kinh nghiệm của giáo viên mà sử dụng các
phương tiện dạy học cho phù hợp.
Đối với môn học GDQP - AN thì việc sử dụng phương dạy học trực
quan càng cần thiết hơn bao giờ hết. Sử dụng phương tiện trực quan vào bài
25


×