Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Chương III một số vấn đề CHUNG về tổ CHỨC sản XUẤT và QUẢN lý TRONG DOANH NGHIỆP xây DỰNG GIAO THÔNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (229.65 KB, 18 trang )

Chương III MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỔ CHỨC SẢN XUẤT VÀ QUẢN LÝ
TRONG DOANH NGHIỆP XÂY DỰNG GIAO THÔNG
3.1. TỔ CHỨC SẢN XUẤT VÀ TỔ CHỨC QUẢN LÝ SẢN XUẤT XÂY DỰNG
3.1.1. Một số vấn đề chung về tổ chức doanh nghiệp

3.1.1.1. Định nghĩa tổ chức doanh nghiệp
Tổ chức là tạo thành một chính thể có cấu tạo và chức năng nhất định, hoạt động có trật tự
nền nếp, làm những việc cần thiết để tiến hành một hoạt động có hiệu quả, tập hợp một số người
hoạt động vì quyền lợi chung.
Trong tổ chức doanh nghiệp cần nắm vững 3 phạm trù: tổ chức sản xuất, tổ chức quản lý và
tổ chức lao động.
3.1.1.2. Nguyên tắc chung về tổ chức (8 nguyên tắc)
1- Từ mục tiêu hoạt động mà định ra chức năng của tổ chức, từ chức năng mà thiết lập bộ
máy thích hợp và từ bộ máy mà bố trí nhân sự đáp ứng được yêu cầu.
2- Nội dung, chức năng của mỗi tổ chức cần được phân chia thành các phần việc rõ ràng và
phân công hợp lý, rành mạch cho mỗi bộ phận, mỗi cá nhân chịu trách nhiệm thực hiện. Mỗi
nhân viên chỉ có một cấp trên và mỗi cấp trên chỉ nên có 4-5 người cấp dưới, tối đa không quá 7
người.
3- Nhiệm vụ, trách nhiệm và quyền hạn phải tương xứng.
4- Cần xác lập và xử lý đúng các mối quan hệ chức năng, chế độ công tác và lề lối làm việc.
Xử lý bất kỳ một vấn đề gì cũng phải đảm bảo có tình có lý.
5- Bảo đảm sự cung cấp thông tin qua lại đầy đủ, kịp thời, trung thực và có độ tin cậy.
6- Tăng cường kiểm tra trong quá trình thực hiện, xử lý các tình huống nảy sinh, giữ vững
tiến độ.
7- Tạo sự hợp tác gắn bó giữa các thành viên trong tổ chức, giữa người điều hành với tập thể
lao động, hướng vào mục tiêu chung.
8- Tuyển chọn chặt chẽ và bố trí sử dụng đúng đội ngũ cán bộ nhân viên, tạo điều kiện cho
mọi người phát huy tốt nhất khả năng và không ngừng phát triển về năng lực và phẩm chất.
3.1.2. Cơ cấu tổ chức

Yêu cầu: Cơ cấu phải hợp lý mới sử dụng tốt các nguồn lực, tạo tiền đề ra quyết định đúng


đắn và tổ chức thực hiện có hiệu quả quyết định đó. Cụ thể phải có tính tối ưu, linh hoạt, ổn định
tương đối, kinh tế và có độ tin cậy cao.
Phương pháp thiết kế cơ cấu tổ chức: Có nhiều phương pháp nhưng có thể khái quát thành 2
phương pháp là phương pháp tương tự và phương pháp phân tích theo các yếu tố. Dưới đây là sơ
đồ phương pháp phân tích theo các yếu tố:


Phương pháp phân tích theo yếu tố
Xây dựng sơ đồ cơ cấu tổng quát
Giai đoạn I
Xác định những kết luận
có tính chất nguyên tắc của cơ cấu
Xác định các thành phần cho các bộ phận của cơ cấu

PHƯƠNG PHÁP PT YẾU TỐ
Giai đoạn II

Xác định mối liên hệ
giữa các bộ phận
Xác định những đặc trưng của các yếu tố cơ cấu (chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn)

Giai đoạn III
Quy định các hoạt động
(điều lệ, quy chế, nội quy)

3.2. TỔ CHỨC SẢN XUẤT XÂY DỰNG

Tổ chức sản xuất xây dựng là tiến hành thiết lập trình tự, xác định các biện pháp cần thiết để
kết hợp các yếu tố đầu vào của sản xuất: lao động, thiết bị lao động (máy móc thi công) và đối
tượng lao động (nguyên vật liệu) theo không gian, theo thời gian để tạo ra các sản phẩm (công

trình, hạng mục công trình) đáp ứng các yêu cầu của khách hàng về tiến độ, chất lượng và giá
thành.
Mục đích của tổ chức sản xuất trong doanh nghiệp là nhằm hướng đến hiệu quả sản xuất kinh
doanh: tăng NSLĐ, tiết kiệm chi phí sản xuất, không ngừng cải tiến nâng cao chất lượng sản phẩm,
cải thiện điều kiện lao động và cuối cùng là để thu được nhiều lợi nhuận. Do đặc điểm của sản xuất
XDGT là hoạt động đa dạng, nhiều loại hình xây lắp, tiêu hao nhiều vật tư, tiền vốn, lại chịu tác động
bởi nhiều yếu tố ngẫu nhiên, vì vậy cần phải tổ chức đúng đắn các quá trình sản xuất cho phù hợp với
từng công trình. Để tổ chức mọi quá trình SXKD, các cán bộ quản lý trực tiếp sản xuất của doanh
nghiệp cần nắm vững thiết kế tổ chức thi công, hiểu biết an toàn sản xuất, công nghệ, quy trình thi
công xây lắp, chế tạo sản phẩm, nắm được tính năng, khai thác xe máy và kiến thức cần thiết có liên
quan đến việc quản lý các yếu tố đầu vào của sản xuất xây dựng. Đó là những yêu cầu cơ bản để tổ
chức đúng đắn mọi hoạt động xây lắp. Trong bối cảnh hiện nay, nhiều doanh nghiệp còn trúng thầu
các dự án có yếu tố vốn nước ngoài, đòi hỏi họ còn phải nắm được các yêu cầu, quy định của nhà tài
trợ, đặc biệt là các quy trình thi công và tuân thủ các tiêu chuẩn đối với các sản phẩm mới. Cán bộ
quản lý cần xây dựng mối quan hệ tốt và biết làm việc với tư vấn nước ngoài.
3.3. TỔ CHỨC QUẢN LÝ SẢN XUẤT XÂY DỰNG


Tổ chức quản lý sản xuất xây dựng là tạo các điều kiện thuận lợi để nâng cao hiệu quả tác
động của hệ thống quản lý đối với hệ thống bị quản lý, đồng thời giảm chi phí liên quan tới quá
trình quản lý, giảm trì trệ trong quản lý và đảm bảo điều kiện lao động bình thường cho cán bộ
quản lý. Thực chất, tổ chức quản lý là tổ chức để tác động, đó là hướng đến việc tạo điều kiện
thuận lợi, hỗ trợ cho các hoạt động tích cực, sáng tạo của bộ máy quản lý và tăng ảnh hưởng tích
cực của nó đến hiệu quả sản xuất xây dựng. Tổ chức quản lý trong doanh nghiệp phải đạt 3 yêu
cầu sau đây:
- Tính tác nghiệp: Là các quyết định quản lý từ lãnh đạo doanh nghiệp phải được triển khai,
truyền đạt tới các khâu phía dưới, cũng như các thông tin phản hồi từ dưới lên phải nhanh nhất.
Trong quá trình thi công xây lắp, khi tổ chức quản lý không đạt được yêu cầu này sẽ dẫn đến tình
trạng trì trệ trong quản lý, gây lãng phí các nguồn lực của doanh nghiệp và làm chậm tiến độ thi
công.

- Tính tin cậy: Là quyết định quản lý phải có chất lượng, có độ tin cậy, tránh sai sót, khiếm
khuyết hoặc phải sửa chữa thay đổi trong quá trình thực hiện gây lãng phí, làm tăng chi phí sản
xuất.
- Tính tiết kiệm (kinh tế): Là mọi quyết định quản lý phải đảm bảo hiệu quả, tiết kiệm chi phí
sản xuất và chi phí quản lý. Mối liên hệ tác động của quá trình quản lý tới quá trình sản xuất được
thiết lập:

Các
yếu
tố
q.lý

Cán bộ quản lý

P.tiện, thiết bị q.lý Thông tin (Đ.T của l.đ.q.lý)

Tổ chức quá trình quản lý

Quyết định quản lý
Các yếu tố sản xuất

Công nhân

Máy móc thi côngĐối tượng l.động (vật liệu)

T.chức quá trình sxuất

Trong tổ chức quá trình quản lý, cần nắm vững mục tiêu quản lý, phương tiện, phương pháp
và hình thức quản lý; đó là cơ sở để kết hợp các yếu tố quản lý. Trong tổ chức quá trình sản xuất,
cần nắm vững quy trình thi công xây lắp sản phẩm, tính năng và quy trình khai thác vận hành của

máy móc thiết bị thi công. Đó là cơ sở để kết hợp các yếu tố sản xuất.
Như vậy, để doanh nghiệp đạt được hệ thống các chỉ tiêu mong muốn (kết quả đầu ra tốt)
phải đồng thời nâng cao năng suất lao động của công nhân trong lĩnh vực trực tiếp sản xuất; của


cán bộ, nhân viên trong lĩnh vực quản lý và dựa trên việc đẩy nhanh áp dụng các tiến bộ kỹ thuật.
Để chỉ huy có hiệu quả sản xuất cán bộ quản lý cần có hiểu biết nhất định về kiến thức tổ chức
sản xuất và tổ chức quản lý sản xuất. Mọi tác động (quản lý) của doanh nghiệp đều phải hướng
đến những người thực hiện cuối cùng là tập thể những người lao động trong doanh nghiệp.
Kế hoạch kinh tế - kỹ thuật

Kế hoạch tác nghiệp

Quản lý tác nghiệp

Nguồn lực

Đối tượng quản lý
(những người thực hiện)

Kết quả S/x

Các tác động ảnh hưởng tới môi trường tập thể
3.4. ĐẢM BẢO THÔNG TIN CHO QUẢN LÝ XÂY DỰNG
3.4.1. Thông tin và công nghệ quản lý sản xuất trong doanh nghiệp xây dựng

+ Thông tin kinh tế
Thông tin là tổng hợp các tin tức cần thiết được sử dụng để tác động lên hệ thống quản lý,
nhằm mục đích phát triển, hoàn thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống. Thông tin
kinh tế là tổng hợp các tin tức về hoạt động SXKD được sử dụng để thông qua các quyết định

quản lý và có vai trò sống còn đối với doanh nghiệp. Thông tin là đối tượng của lao động quản
lý, cũng như đối tượng lao động trong quá trình sản xuất. Thiếu thông tin hoặc thông tin không
chính xác không thể thông qua được quyết định đúng đắn và không thể kiểm soát được đối tượng
bị quản lý.
Thông tin càng chính xác, đầy đủ, hệ thống quản lý càng có căn cứ vững chắc đề ra các
quyết định tác động hiệu quả tới đối tượng quản lý.
+ Công nghệ quản lý trong doanh nghiệp
Người lãnh đạo của doanh nghiệp (hay một bộ phận) làm việc phải dựa trên thông tin nhận
được về trạng thái của đối tượng quản lý đã được các phòng chuyên môn, nghiệp vụ tham mưu
theo chức năng và bằng kết quả lao động sáng tạo của mình (tư duy sáng tạo); phải đề ra được
thông tin chỉ huy mới (quyết định quản lý) để kịp thời chuyển đối tượng quản lý từ trạng thái thực
tế đến trạng thái mong muốn. Giai đoạn sáng tạo này đòi hỏi các cán bộ, nhân viên quản lý phải có
trình độ (biết phân tích, biết kết luận, biết đề xuất và lựa chọn phương án) để có được quyết định
tối ưu nhất. Nội dung khi ra quyết định là phải giải đáp được các câu hỏi: Phải làm gì? Tại sao phải


làm cái đó? Ai phải làm việc này? Khi nào phải làm? Làm việc ở đâu? Làm như thế nào? Các
quyết định quản lý được chuyển sang chu kỳ tổ chức thực hiện như: lập kế hoạch, xác định tiến độ,
tìm các nguồn lực, hướng dẫn và kiểm tra sản xuất. Các cán bộ đội, xưởng trưởng (trực tuyến) chịu
trách nhiệm triển khai thực hiện các quyết định quản lý. Quyết định quản lý phải được kịp thời khi:
tổ chức thực hiện không tốt, không đúng dự kiến; khi có biến động đột xuất; khi có khả năng cho
kết quả tồi, gây hậu quả xấu; khi xuất hiện thời cơ mới để đạt được kết quả cao hơn.

SƠ ĐỒ CÔNG NGHỆ CÓ TÍNH NGUYÊN TẮC TRONG QUẢN LÝ DOANH NGHIỆP
XDGT
Các phòng, ban chức năng của doanh nghiệp:
kỳ lôTìm
gíc kiếm,
sáng tạo:
lựa chọn,

Ra quyết
xử lý,
định
chuẩn
quản
bị lý
QĐ(lãnh
và bảo
đạoquản
doanh
t.tin
nghiệp bằng lao động sáng tạo thông qua các quyết định quản lý)

Đối tượng quản lý (công nhân, máy móc ở các khu vực sản xuất)

Cán bộ trực tuyến (Đội trưởng, Xưởng trưởng) lãnh đạo tác nghiệp

Ở đây: a,a1 là thông tin môi trường và quan hệ hợp tác
b,b1 là liên hệ qua lại giữa phòng, ban chức năng với các khu vực SX
c,c1 là hoạt động lãnh đạo tác nghiệp của các cán bộ trực tuyến
3.4.2 Phân loại thông tin

Có nhiều cách phân loại thông tin (xem sơ đồ).

Thông tin

Theo nguồn
(quan hệ với
đối tượng)
Theo vai trò

trong quá trình
quản lý
Theo quá trình
ghi chép

Ngoài
Chỉ dẫn

SXKD

Nội bộ
Kế hoạch

Công nghệ

Định mức

Xã hội

Phân tích

Tổ chức liên hệ ngoài


Theo mức độ
chi tiết hoá

Tổng quan

Trung bình


Chi tiết hoá

Theo trình
tự xử lý

Ban đầu

Dẫn xuất

Tổng hợp

Theo hình thức
gia công

Nghiệp vụ

Thống kê

Kế hoạch

+ Theo quan hệ với đối tượng quản lý:
Thông tin bao gồm: thông tin ngoài và thông tin nội bộ.
Thông tin ngoài là tác động của môi trường ngoài như của khách hàng, của cấp trên.
Thông tin nội bộ phát sinh và được sử dụng trong nội bộ của hệ thống. Ví dụ: trong xí
nghiệp là thông tin thực thực hiện việc cung cấp vật tư kỹ thuật, năng suất lao động. Thông tin
nội bộ giúp người chỉ huy ra được các quyết định để điều chỉnh, khắc phục sự cố trong việc thực
hiện kế hoạch. Trong các doanh nghiệp lớn, yêu cầu thành phần và tính chất các thông tin phụ
thuộc ở cấp quản lý, càng ở cấp cao thông tin tổng hợp càng cần quan trọng. Trong quá trình
dịch chuyển, thông tin từ cấp cao tới cấp thấp sẽ có một phần thông tin bị chìm đi ở mỗi khâu (có

chức năng phù hợp) và sẽ có phát sinh ra thông tin bổ sung (dẫn xuất).
+ Theo hướng thông tin:
Có thông tin chỉ huy và thông tin ngược.
Thông tin chỉ huy là kết quả thông qua các quyết định trên cơ sở gia công thông tin xuất
phát. Chất lượng của thông tin chỉ huy phụ thuộc nhiều ở tính đầy đủ, kịp thời, chính xác của
thông tin xuất phát, ở công nghệ gia công thông tin và trình độ của người lãnh đạo. Khả năng tác
nghiệp của cơ quan quản lý đến đối tượng quản lý phụ thuộc vào chu kỳ nhận được thông tin
xuất phát.
Thông tin ngược là tài liệu tổng kết, phản ánh tình hình hoạt động của đối tượng quản lý tới
cơ quan quản lý, để giúp cơ quan quản lý phân tích, kiểm tra và thông qua các quyết định.
+ Theo đặc tính tham gia trong quá trình quản lý (vai trò trong quá trình quản lý) có thông
tin định mức, chỉ dẫn, kế hoạch và thông tin báo cáo.
Thông tin định mức là những định mức, tiêu chuẩn đã được thông qua như chi phí lao động
để hoàn thành một đơn vị công tác, hao phí vật liệu để chế tạo một sản phẩm.


O Các đối tượng quản lý
Y Các cơ quan quản lý

Thông tin chỉ đạo (q. lý)
Thông tin liên hệ ngược

Thông tin chỉ dẫn gồm thông tin về đối tượng lao động, tư liệu lao động, cán bộ của doanh
nghiệp, các đơn vị cung cấp và tiêu dùng sản phẩm.
Thông tin kế hoạch gồm nhiệm vụ sản xuất sản phẩm, năng suất lao động và thu nhập...
Thông tin báo cáo phản ánh các kết quả hoàn thành của xí nghiệp qua quá trình thực hiện các
nhiệm vụ kế hoạch.
3.2. HÌNH THÀNH CẤU TRÚC TỔ CHỨC QUẢN LÝ SẢN XUẤT XÂY DỰNG
3.2.1. Cấu trúc của xí nghiệp sản xuất xây dựng


3.2.1.1. Khái niệm chung về hình thành cấu trúc tổ chức quản lý sản xuất
Cấu trúc của xí nghiệp bao gồm cấu trúc sản xuất và cấu trúc quản lý. Tổ chức quá trình sản xuất
xây dựng giao thông là điểm xuất phát để tổ chức quản lý. Tương ứng với tổ chức quá trình sản xuất,
bộ máy quản lý doanh nghiệp được hình thành. Quy mô, cơ cấu của bộ máy quản lý do đặc điểm,
cấu trúc của sản xuất quyết định.
Quá trình sản xuất xây dựng là sự tổng hợp của các quá trình chủ yếu, phù trợ và phục vụ có liên
quan để tạo ra sản phẩm cuối cùng.
3.2.1.2. Cấu trúc sản xuất xây dựng giao thông
Xây dựng các công trình giao thông bao gồm nhiều quá trình sản xuất, đó là:
+ Công tác chuẩn bị:
Đây là hoạt động phục vụ cho sản xuất chính, do các nhà máy, cơ sở gia công chế sửa, các
mỏ khai thác đảm nhận như: sản xuất các cấu kiện dầm, cọc, khai thác cát, đá, sỏi, gia công, cơ
khí, phụ kiện và sửa chữa các phương tiện. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, các hoạt động
trên có thể do các đơn vị xây lắp tự đảm nhận, hoặc do các khách hàng cung ứng cung cấp, tuỳ
theo các điều kiện cụ thể nhưng phải tuân thủ nguyên tắc đáp ứng được yêu cầu chất lượng, đảm
bảo tiến độ và chi phí ít nhất. Ở các tổng công ty XDGT hiện nay, nhiều hoạt động có liên quan
đến xây dựng được TCT tự đảm nhận (như sản xuất cấu kiện bê tông, gia công chế sửa kết cấu)
và tương lai, khi xuất hiện các tập đoàn kinh doanh sẽ có đa ngành đa lĩnh vực, chuyên môn hoá
sâu và hợp tác hoá trở nên chặt chẽ giữa các đơn vị trong tập đoàn.
+ Công tác vận chuyển:


Công tác vận chuyển ngoài được thực hiện bằng hợp đồng với các tổ chức vận chuyển như:
đường sắt, ô tô và đường thuỷ. Việc chọn loại phương tiện vận chuyển được căn cứ vào chủng
loại, khối lượng và cự ly vận chuyển hàng hoá.
Vận chuyển nội bộ do lực lượng vận chuyển của xí nghiệp tự đảm nhận. Tuỳ theo tính chất,
khối lượng của việc vận chuyển mà có hình thức tổ chức lực lượng cho phù hợp.
+ Công tác xây lắp:
Công tác xây lắp tập trung thường xuất hiện khi tiến hành xây dựng các công trình nhân tạo
trên tuyến như xây dựng hầm, cầu, cống, kè, đập, sân bay, bến cảng, đèn biển và ụ tầu. Các hoạt

động xây lắp này thường do các công trường đảm nhận.
Công tác xây lắp trên tuyến lại do các lực lượng thi công cơ động đảm nhận như xây dựng
nền mặt đường ô tô, nền, kiến trúc tầng trên đường sắt, nạo vét luồng lạch trên sông trên biển.
Mỗi doanh nghiệp xây dựng có một cấu trúc sản xuất riêng, phụ thuộc vào quy mô, công
nghệ, trình độ và trang thiết bị sản xuất, phụ thuộc vào các đặc điểm sản xuất cụ thể, vào điều
kiện cung cấp vật tư kỹ thuật và cuối cùng, phụ thuộc vào các mối quan hệ bên trong và bên
ngoài xí nghiệp. Trong doanh nghiệp, mỗi khâu sản xuất có chức năng sản xuất nhất định và có
mối liên hệ với nhau trong quá trình tạo ra các sản phẩm cuối cùng.
Chú ý: Hiện nay, do yêu cầu đa dạng hoá sản phẩm và do có hoạt động liên doanh liên kết
mà cấu trúc sản xuất của các doanh nghiệp XDGT đã được mở rộng. Ở các tổng công ty xây
dựng công trình giao thông còn có sự hoàn thiện, phân cấp giữa TCT và các doanh nghiệp thành
viên.
3.2.1.3. Cấu trúc quản lý sản xuất xây dựng giao thông
+ Khái niệm cấu trúc quản lý sản xuất:
Cấu trúc quản lý sản xuất là tập hợp và thống nhất các cấp, khâu quản lý trong mối quan hệ và
phụ thuộc lẫn nhau để đảm bảo thực hiện được các mục tiêu và chức năng quản lý của doanh nghiệp.
Một cấu trúc quản lý bất kỳ đều có các khâu (các phòng, ban, bộ phận) và các cấp quản lý.
Đặc tính của cấu trúc quản lý là tĩnh còn đặc tính của quá trình quản lý là động.
+ Khâu quản lý:
Khâu quản lý là một bộ phận (phòng, ban) liên kết vớimột nhóm cán bộ, chuyên viên, nhân viên
có liên quan với nhau trong phân công lao động quản lý, trong việc thực hiện các chức năng quản lý.
+ Cấp quản lý:
Tổng hợp các khâu quản lý là một cấp quản lý. Tổng hợp các cấp, các khâu quản lý tạo thành
cấu trúc quản lý. Liên hệ giữa các khâu là liên hệ ngang, biểu hiện sự phân công hợp tác của lao
động quản lý. Liên hệ giữa các cấp quản lý là liên hệ dọc (thẳng đứng), biểu hiện sự phụ thuộc
giữa các cấp trong quản lý.
+ Khái niệm bộ máy quản lý, điều hành sản xuất:
Bộ máy quản lý, điều hành sản xuất của doanh nghiệp là hệ thống các khâu và cán bộ có mối
liên hệ phụ thuộc lẫn nhau trong lao động quản lý, bao gồm: các phòng, ban, cán bộ lãnh đạo,



các chuyên viên, nhân viên các loại nằm ở các khâu khác nhau để đảm bảo cho doanh nghiệp
hoạt động như một hệ thống sản xuất xã hội. Trong cơ chế quản lý bao cấp, bộ máy quản lý
doanh nghiệp nhà nước do cơ quan chủ quản quyết định. Ngày nay đã có sự phân cấp. Hội đồng
quản trị, người đứng đầu doanh nghiệp (Tổng Giám đốc, Chủ tịch công ty, Giám đốc) nói chung
được quyền quyết định bộ máy quản lý doanh nghiệp của mình và sự phân cấp được quy định cụ
thể trong các văn bản liên quan. Tổng giám đốc các TCTXDGT được quyền quyết định cơ cấu
quản lý, được quyền bổ nhiệm các cán bộ lãnh đạo trong bộ máy quản lý, trừ các chức danh Phó
Tổng Giám đốc, Kế toán trưởng là thuộc quyền của Hội đồng quản trị. Các giám đốc các công ty
xí nghiệp thuộc các tổng công ty được quyền quyết định bộ máy, các cán bộ quản lý của doanh
nghiệp, trừ chức danh Kế toán trưởng và Phó Giám đốc doanh nghiệp. Để quản lý doanh nghiệp
là các TCTXD, Nhà nước (Bộ trưởng hoặc Chủ tịch UBND) bổ nhiệm các chức danh Chủ tịch
và các thành viên HĐQT cũng như TGĐ. Trong điều kiện các TCTXDGT đang tiến hành đa
dạng hoá sản phẩm, nhà thầu còn trở thành nhà đầu tư, bộ máy quản lý doanh nghiệp sẽ còn luôn
được bổ sung hoàn chỉnh, đáp ứng yêu cầu mới của đối tượng quản lý.
Để tác động có hiệu quả đến các quá trình sản xuất ở các khu vực sản xuất, phải tổ chức chặt
chẽ các hoạt động trong bộ máy quản lý.
Giữa cấu trúc sản xuất và cấu trúc quản lý có mối liên hệ và sự phụ thuộc lẫn nhau: đó là liên
hệ thông tin, chất lượng và số lượng:
- Liên hệ thông tin: Là liên hệ quản lý nhằm chuyển từ bộ máy quản lý các quyết định quản
lý, các chỉ dẫn... tới các khu vực sản xuất phía dưới (đối tượng quản lý) để thực hiện; và liên hệ
ngược là mọi thông tin phản ánh từ đối tượng quản lý tới cơ quan phản lý.
- Liên hệ chất lượng: Là sự phụ thuộc của hệ thống bị quản lý từ hệ thống quản lý. Hệ thống
quản lý yếu, thiếu năng lực sẽ tác động không hiệu quả đến các hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp.
- Liên hệ số lượng: Liên hệ số lượng là sự phụ thuộc của bộ máy quản lý từ đặc điểm sản
xuất. Bộ máy quản lý được xây dựng, hoàn thiện phải xuất phát từ đối tượng quản lý. Người lãnh
đạo cần chú ý khi ra các quyết định quản lý và xử lý tình huống phải tính đến đặc điểm của hệ
thống sản xuất xây dựng giao thông.
3.2.2. Tổ chức công tác của bộ máy quản lý xí nghiệp sản xuất xây dựng


3.2.2.1. Phân cấp quản lý trong bộ máy quản lý xí nghiệp
Phân cấp quản lý liên quan tới phân chia quyền và trách nhiệm, sao cho việc ra quyết định
được sâu sát với vấn đề thực tiễn cần phải giải quyết; phân cấp quản lý làm cho nguồn lực được
sử dụng hợp lý và hiệu quả. Trong bộ máy quản lý của xí nghiệp, lao động quản lý được phân
cấp như sau:
+ Ban giám đốc: Là bộ phận lãnh đạo doanh nghiệp là cấp cao nhất trong bộ máy quản lý.
Đó là phần suy nghĩ trong bộ máy quản lý, làm chức năng lãnh đạo hành chính kinh tế và lo các
chiến lược phát triển dài hạn của doanh nghiệp, đồng thời phải đề ra được các nhiệm vụ (xác


định các mục tiêu) trong năm cho doanh nghiệp hoạt động và kiểm tra đến cùng việc thực hiện
các nhiệm vụ đó.
Giám đốc doanh nghiệp nhà nước thực hiện chức năng hành chính, tức là người đại diện cho
Nhà nước tại doanh nghiệp có trách nhiệm thực hiện lãnh đạo doanh nghiệp chấp hành nghiêm
luật pháp của Nhà nước; còn giám đốc thực hiện chức năng kinh tế là lãnh đạo tập thể người lao
động trong doanh nghiệp, phát triển sản xuất kinh doanh, chăm lo cải thiện đời sống vật chất cho
người lao động và thực hiện nghĩa vụ với xã hội.
+ Các phòng ban: Là cấp trung gian (cấp thứ hai) trong bộ máy quản lý doanh nghiệp. Ở cấp
này có hai trách nhiệm trong vấn đề quản lý, vừa đối với phía trên và phía dưới. Thứ nhất, quan
hệ với cấp trên là phải có trách nhiệm tổ chức thực hiện các quyết định của lãnh đạo và kiểm tra
quá trình hoàn thành chúng; cung cấp cho lãnh đạo các thông tin thường xuyên về tình hình của
các bộ phận trong xí nghiệp. Các công việc này, hiện nay ở các doanh nghiệp thường là do các
trưởng, phó phòng ban chức năng trong doanh nghiệp đảm nhận. Họ có trách nhiệm thực hiện
các quyết định và giúp giám đốc chuẩn bị các quyết định có liên quan đến chức năng, nhiệm vụ
của phòng, ban mình. Thứ hai, là quan hệ với các khâu sản xuất phía dưới. Những người trong
các phòng ban là các chuyên viên, nhân viên của phòng là những người có chuyên môn về kế
hoạch, kỹ thuật, kế toán tài chính... vừa thực hiện các công việc xử lý các thông tin của phòng,
vừa phải trực tiếp giúp đỡ, hướng dẫn các khâu sản xuất phía dưới doanh nghiệp trong hoạt động
SXKD như hướng dẫn các đội, xưởng trong việc áp dụng thực hiện các quy trình công nghệ và

phải có trách nhiệm trả lời các câu hỏi, vướng mắc đặt ra trong quá trình sản xuất như "làm như
thế nào?", các cán bộ này không có quyền ra lệnh trong sản xuất (xem sơ đồ công nghệ quản lý).
Để đạt được yêu cầu này, cần thiết phải có cán bộ chuyên môn giỏi làm việc ở các phòng chức
năng am; hiểu thông thạo yêu cầu của sản xuất.


Giám đốc xí nghiệp

Phó giám đốc
P. giám đốc kinh doanh

P.kế hoạch hợp đồng

kỹ thuật Phó giám đốc nội chính

Phòng kỹ thuật

Phòng hành chính tổng hợp

Phòng kế toán tài vụ
Phòng quản lý chất lượng

Bộ phận pháp lý

Văn phòng đại diện I

Văn phòng đại diện II

Phòng thiết bị


Phòng lao động tiền lương

Phòng điều độ

Xưởng cơ
khí

Đội vận tải

Mỏ đá

Đội
c. trình

Đội
c. trình

Đội
c.trình 3


+ Đội trưởng (cán bộ trực tuyến): Là cấp cuối cùng trong bộ máy quản lý của doanh nghiệp,
chịu trách nhiệm chính, trực tiếp lãnh đạo sản xuất, thực hiện các chỉ tiêu của kế hoạch tác
nghiệp như tiến độ và chất lượng thi công, đảm bảo đưa công trình vào khai thác đúng tiến độ.
Đội trưởng có trách nhiệm trả lời các câu hỏi là “làm cái gì? và khi nào làm?” do tổ trưởng cùng
với tập thể người lao động đặt ra trong quá trình sản xuất. Đội trưởng không có quyền trả lời câu
hỏi là “làm như thế nào”? Như vậy, bộ máy quản lý doanh nghiệp là một hệ thống. Yêu cầu đối
với bộ máy quản lý doanh nghiệp là phải có đủ các lĩnh vực chuyên môn (nghề nghiệp), đủ thông
tin, trách nhiệm và quyền hạn. Đảm bảo ra các quyết định tác nghiệp phải sát với sản xuất. Trong
các doanh nghiệp lớn, cấp quản lý càng cao thì càng phải ra được các quyết định chiến lược,

không được với tới nhiệm vụ của người lãnh đạo ở cấp dưới. Cấu trúc xí nghiệp là sự thống nhất,
phụ thuộc giữa cấu trúc quản lý và cấu trúc sản xuất.
3.2.2.2. Phân chia thực hiện các chức năng quản lý trong bộ máy quản lý xí nghiệp
Để tổ chức lao động quản lý trong các doanh nghiệp, phải tiến hành phân cấp quản lý và
phân chia thực hiện các chức năng quản lý ở mỗi cấp - tức là giữa các phòng ban với nhau và
giữa các cán bộ, nhân viên trong một phòng. Chức năng cụ thể của các phòng chức năng như
sau:
1- Phòng kế hoạch và hợp đồng: Hình thành các hợp đồng kinh tế với khách hàng, với các
CĐT và quản lý các hợp đồng trong quá trình thực hiện cũng như lập tài liệu thanh toán khối
lượng với các thầu phụ. Thống nhất với chủ đầu tư, với tư vấn thiết kế các nội dung liên quan
đến hồ sơ thiết kế xây dựng công trình mà đơn vị nhận thầu. Lập giá và dự toán cho các dự án
đấu thầu và chỉ định thầu. Kiểm tra thiết kế tổ chức thi công chủ đạo, kiểm tra lại các tài liệu dự
toán. Đề ra các biện pháp tuân thủ pháp luật kinh tế, có các biện pháp khi hợp đồng bị phá vỡ, có
biện pháp loại bỏ những sai trái, những tranh chấp, bất đồng của những đơn vị tham gia xây
dựng. Thực hiện kiểm tra trách nhiệm đã ký với chủ đầu tư, tính toán đúng với các tổ chứcgiao
thầu và chia thầu với thầu phụ; quản lý các dự toán, lập các kế hoạch dài hạn, trung hạn và hàng
năm của doanh nghiệp; cân đối các khối lượng công tác trong cả thời kỳ hoạt động; xác định các
nhiệm vụ kế hoạch và tiến độ kết thúc bàn giao từng giai đoạn.
2- Phòng kỹ thuật: Chịu trách nhiệm về các biện pháp tổ chức kỹ thuật nhằm nâng cao năng
suất lao động và áp dụng kỹ thuật mới, đảm bảo cho công trường (đội thi công) các tài liệu thiết
kế dự toán và bản vẽ thi công cần thiết cho xây dựng và đưa công trình vào khai thác. Thực hiện
các biện pháp tiết kiệm vật liệu và cải tiến chất lượng công tác xây dựng, bố trí hợp lý các công
việc, đảm bảo các thông tin kỹ thuật và trao đổi các kinh nghiệm tiên tiến. Kiểm tra, tuân thủ các
quy trình thi công, xác định tính toán các thay đổi trong tài liệu kỹ thuật, kiểm tra các đề xuất,
kiến nghị, sáng kiến cải tiến. Kiểm tra, tiến hành các hoạt động nghiên cứu, thí nghiệm khoa học.
Lập các biện pháp để đưa công trình vào khai thác đúng tiến độ.
3- Phòng máy: Kiểm tra trạng thái của xe máy, thiết bị tiến độ thi công của xe máy; thực
hiện các biện pháp nhằm nâng cao năng suất lao động và khai thác thiết bị mới; thực hiện các
biện pháp kỹ thuật an toàn. Lập các kế hoạch sử dụng các thiết bị, xác định nhu cầu máy thi
công; tổ chức phục vụ kỹ thuật và sửa chữa dự phòng xe máy theo kế hoạch; báo cáo số lượng,

chủng loại và biến động của xe máy thiết bị.


4- Phòng tổ chức, lao động: Hoàn thiện các hình thức tổ chức và hệ thống tiền lương lao
động; xác định cấu trúc của các đơn vị sản xuất phía dưới về số lượng và nghề nghiệp; áp dụng
sơ đồ tiên tiến tổ chức lao động; xác định nhu cầu cán bộ và lao động cần có thường xuyên và
tương lai; đề ra biện pháp nâng cao tay nghề cho cán bộ và nhân viên nghiệp vụ các loại; lập kế
hoạch hoá đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực của doanh nghiệp; kiểm tra các chứng nhận nghề
nghiệp các loại cán bộ, công nhân kỹ thuật. Tổ chức các đợt thi nâng cao tay nghề, khởi thảo các
quy định trích thưởng từ quỹ khuyến khích. Kiểm tra chấp hành kỷ luật lao động, tính đúng đắn
của các định mức, kiểm tra sử dụng quỹ lương. Phân tích tổn thất thời gian làm việc. Xây dựng
các biện pháp kích thích bằng tiền thưởng đối với cán bộ, công nhân viên. Áp dụng các sơ đồ tổ
chức lao động khoa học trong tổ đội. Kiểm tra các chuẩn tắc, tiêu chuẩn, công cụ, kỹ thuật bảo
hiểm và bảo hộ lao động. Thực hiện các biện pháp cải thiện điều kiện làm việc và giảm lao động
nặng nhọc; các biện pháp về bảo hộ lao động và kỹ thuật an toàn; giáo dục và hướng dẫn kỹ
thuật an toàn; tham gia xác định các sự cố xảy ra; nắm vững các thiết bị bảo hộ, khai thác tốt và
an toàn; kiểm tra trạng thái kỹ thuật an toàn trên các công trình; lập các kế hoạch nghỉ ngơi cho
người lao động và trẻ em. Tiến hành ký kết các hợp đồng lao động tập thể.
5- Phòng điều độ sản xuất: Chịu trách nhiệm quản lý tiến độ để đưa công trình và bộ phận
công trình vào khai thác đúng tiến độ; điều hoà, phối hợp hoạt động của các tổ chức tham gia thi
công trên công trường. Xác định các nguyên nhân ảnh hưởng; có biện pháp khắc phục sự cố gây
chậm tiến độ. Kiểm tra tuân thủ an toàn trong thi công, thi công phù hợp với thiết kế tổ chức thi
công; thực hiện các công tác chuẩn bị kỹ thuật trước khi bắt đầu xây lắp chính trên mặt bằng xây
dựng; sử dụng tiết kiệm vật liệu trong thi công. Thực hiện các biện pháp để xây dựng đúng tiến
độ, đảm bảo sự vận hành đồng đều của các mỏ khai thác, bãi gia công trong tuần, trong ngày,
tiến độ sản xuất, cung cấp cấu kiện chi tiết xây dựng của các xí nghiệp công nghiệp; kiểm tra,
hình thành các tài liệu của phần công trình bị che khuất, tài liệu nghiệm thu, nhật ký công trình,
công tác chuẩn bị đưa công trình vào khai thác theo tiến độ quy định; kiểm tra, bố trí lực lượng
sản xuất, công nhân trên các khu vực thi công phù hợp với tiến độ.
6- Phòng cung ứng vật tư kỹ thuật: Đảm bảo thực hiện việc cung cấp vật tư cho các công

trường, các khâu sản xuất phù hợp với yêu vầu của thiết kế; kiểm tra nhập vật liệu từ các nhà
cung cấp; tổ chức công tác bảo quản và sử dụng vật liệu, các thiết bị vận chuyển và bảo quản
chúng; đề xuất các giải pháp giảm vật tư dự trữ vượt định mức; đề ra các biện pháp tiết kiệm vật
tư, nhất là vật tư quý hiếm; đề xuất các biện pháp giải quyết vật tư thiết bị thừa, không cần dùng;
tính toán nhu cầu số lượng vật tư thiết bị. Ngoài ra, trong vận chuyển còn tổ chức hoạt động và
sử dụng các phương tiện vận chuyển, kiểm tra khoản mục chi phí vận chuyển và phát sinh vận
chuyển vòng quanh; đề xuất các biện pháp giảm chi phí, tuân thủ các định mức hao hụt trong vận
chuyển ô tô, đường sắt; kiểm tra thực hiện các biện pháp tổ chức kỹ thuật nhằm giảm tổn thất
trong vận chuyển.
7- Phòng tài chính kế toán: a, Nhóm tài chính (tài vụ): Lập kế hoạch tài chính theo các nguồn
vốn, trạng thái và sử dụng vốn lưu động tự có; chịu trách nhiệm thanh toán với chủ đầu tư, với các
nhà cung cấp tín dụng, xác định các khoản nợ nần quá hạn phải thanh toán và nguyên nhân của


chúng. Trích nộp kịp thời, đầy đủ vào ngân sách, vào khoản phải thu và lợi nhuận; phân tích sử dụng
vốn vay, trạng thái vốn tín dụng trung và dài hạn, khả năng thanh toán với khách hàng; tính đúng đắn
kịp thời của vốn khấu hao. Đánh giá khả năng hoàn thành kế hoạch tài chính và tổ hợp các biện pháp
nhằm cải thiện hoạt động tài chính của doanh nghiệp xây dựng.
b, Nhóm kế toán (thanh toán): Chịu trách nhiệm tuân thủ các quy định của Bộ Tài chính
trong công tác hạch toán, kiểm toán và báo cáo. Kiểm tra, thực hiện các quy định hiện hành, áp
dụng hạch toán nội bộ (tổ đội, phân xưởng) và các quy định trả thưởng. Kiểm tra các đơn giá
trong tính toán, giá vật liệu, các loại chi phí ở kho bãi. Phân tích giá thành các hoạt động xây lắp,
các sản phẩm công nghiệp. Chịu trách nhiệm về chấp hành tuân thủ kỷ luật tài chính, theo dõi vật
liệu.
8- Phòng quản lý chất lượng: Đề ra được các biện pháp nâng cao chất lượng các công tác
xây lắp và các sản phẩm công nghiệp; kiểm tra theo giai đoạn chất lượng các hoạt động xây
dựng; xác định các nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng và đề ra được các biện pháp loại bỏ;
áp dụng các phương pháp kiểm tra bằng thí nghiêm, kiểm tra các vật liệu, bán thành phẩm nhập
vào.
3.3. NỘI DUNG CÔNG TÁC THIẾT KẾ HỆ THỐNG QUẢN LÝ DOANH NGHIỆP XÂY DỰNG

3.3.1. Phương pháp thiết kế doanh nghiệp xây dựng

Cấu trúc của doanh nghiệp, nếu hợp lý là một nhân tố mang lại hiệu quả, cũng như đối với các
nhân tố công nghệ, năng suất lao động, trình độ tay nghề... thậm chí còn quan trọng hơn. Quy mô
doanh nghiệp càng lớn, cấu trúc càng phức tạp, càng có nhiều vấn đề cần phải giải quyết. Cấu trúc
tổ chức của doanh nghiệp xây dựng (quy mô của chúng, thành phần và chức năng) phải hết sức
mềm dẻo, linh hoạt, ổn định tương đối, có thể thường xuyên thay đổi, miễn sao mục tiêu cuối cùng
là đạt được hiệu quả cao trong SXKD.
Cấu trúc của doanh nghiệp (bao gồm cấu trúc sản xuất, cấu trúc quản lý) hợp lý thì doanh
nghiệp vận hành sẽ hiệu quả, ngược lại, khi cấu trúc không hợp lý, dù doanh nghiệp có công
nghệ hiện đại, công nhân tay nghề cao, cán bộ quản lý có trình độ thì hiệu quả SXKD vẫn tồi.
Khi thiết kế cơ cấu doanh nghiệp, phải căn cứ xuất phát từ mục tiêu mà tiến hành thiết kế cấu
trúc sản xuất: xác định các loại hình, quy mô và số lượng các đơn vị sản xuất; tính toán mức độ
chuyên môn và hợp tác giữa các đơn vị sản xuất; quy định bố trí các đơn vị tại các địa điểm. Tiếp
đến thiết kế bộ máy quản lý: xác định số lượng các phòng ban chức năng cần thiết; từ đó xác
định số lượng cán bộ, chuyên viên, nhân viên quản lý cho các cấp lãnh đạo, chức năng và trực
tuyến. Cần lựa chọn nhiều phương án để so sánh.
3.3.2. Nội dung công tác thiết kế hệ thống quản lý doanh nghiệp xây dựng

Muốn thiết kế hệ thống quản lý doanh nghiệp cần phải giải quyết đúng các vấn đề sau đây:
1- Xác định chính xác các tài liệu xuất phát ban đầu. Đó là các mục tiêu, khối lượng và đặc
điểm sản xuất xây lắp. Cần chú ý các dạng sản phẩm xây dựng.
2- Có luận cứ vững chắc về cấu trúc sản xuất như khối lượng, số lượng sản xuất; mức độ
chuyên môn hoá, hợp tác và bố trí các đơn vị trực thuộc của doanh nghiệp.


3- Thiết kế bộ máy quản lý sao cho có khả năng đảm bảo cho hệ thống này vận hành có hiệu
quả, xác định đúng các thành phần cho các bộ phận của cơ cấu.
4- Phân chia chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các bộ phận quản lý cũng như xác định
quyền cho các cán bộ quản lý và các điều kiện để họ thực thi công việc.

5- Xác định hệ thống các mối quan hệ phụ thuộc quản lý theo chiều dọc và ngang; xác định
các chỉ tiêu đánh giá hoạt động của các bộ phận.
6- Quy định hoạt động bằng các điều lệ, quy chế, nội quy.
Chất lượng của thiết kế cấu trúc tổ chức phụ thuộc ở 2 yếu tố: chất lượng của các định mức
tiêu chuẩn và khả năng dự đoán, tính toán các ảnh hưởng của môi trường bên ngoài.
Tổ chức sản xuất xây dựng và quá trình quản lý là 2 yếu tố gắn bó chặt chẽ với nhau trong hệ
thống quản lý. Cấu trúc sản xuất thuộc đối tượng quản lý, nó phản ánh số lượng, quy mô, sự
phân bố và chuyên môn hoá các đơn vị sản xuất. Cấu trúc của chủ thể quản lý, tức là bộ máy
quản lý của doanh nghiệp, nhằm xác định số lượng, chức năng, và sự phụ thuộc của các khâu
quản lý. Các mối quan hệ phụ thuộc này tạo thành mô hình tổ chức của doanh nghiệp. Kết quả cụ
thể của thiết kế hệ thống quản lý phải được thể hiện bằng các sơ đồ, bảng phân chia thực hiện
chức năng, phân công trách nhiệm và các quan hệ phụ thuộc trong bộ máy quản lý.


NỘI DUNG CÔNG TÁC THIẾT KẾ HỆ THỐNG QUẢN LÝ


3.4. ÁP DỤNG PHƯƠNG PHÁP KINH TẾ VÀ QUY CHẾ DÂN CHỦ TRONG QUẢN LÝ
DOANH NGHIỆP XDGT NHÀ NƯỚC
3.4.1. Áp dụng phương pháp kinh tế trong quản lý doanh nghiệp xây dựng

Để quản lý các hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp, nhiều phương pháp được
áp dụng như phương pháp hành chính, phương pháp kinh tế, phương pháp tâm lý - giáo dục. Tuỳ
theo bối cảnh cụ thể của doanh nghiệp mà lựa chọn sử dụng phương pháp cho thích hợp, mềm
dẻo, miễn sao mang lại hiệu quả. Tất cả các phương pháp trên đã được trình bày ở nhiều tài liệu
khác nhau; ở đây trình bày phương pháp kinh tế trong quản lý doanh nghiệp xây dựng.
Thực chất của phương pháp kinh tế trong quản lý doanh nghiệp là tổng hợp các phương pháp
tác động của chủ thể quản lý lên đối tượng bị quản lý, dựa trên việc sử dụng các lợi ích kinh tế
thu được từ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh như suy nghĩ đề xuất, kiến nghị, dẫn đến tăng
doanh thu, giảm chi phí sản xuất kinh doanh, tạo ra hiệu quả kinh doanh (mang lại lợi nhuận),

như: có sáng kiến cải tiến, áp dụng tiến bộ kỹ thuật dẫn đến kết quả đẩy nhanh tiến độ thi công,
tăng chất lượng sản phẩm, sử dụng tiết kiệm các nguồn lực và giảm chi phí quản lý. Đó là những
lợi ích có được nhờ khai thác nội lực, đã góp phần mang lại thu nhập cho doanh nghiệp. Lãnh
đạo doanh nghiệp phải biết sử dụng một phần hiệu quả thu được, tác động kích thích trở lại,
nhằm mang lợi ích cho những người đã tạo ra các nguồn thu nhập đó, như thưởng rút ngắn tiến
độ thi công, thưởng tiết kiệm đầu vào và tăng NSLĐ.
3.4.2. Áp dụng quy chế dân chủ trong quản lý doanh nghiệp xây dựng giao thông nhà
nước

3.4.2.1. Thực chất của quy chế dân chủ
Để lôi cuốn người lao động tham gia vào quản lý, xây dựng phát triển doanh nghiệp và nhằm
thể chế hoá quyền làm chủ của người lao động trong các DNNN, ngày 13 tháng 2 năm 1999,
Chính phủ đã ban hành NĐ 07 kèm theo quy chế thực hiện dân chủ ở doanh nghiệp nhà nước.
Quy chế này đã khắc phục được tình trạng làm chủ chung chung của người lao động trước đây
đối với DNNN, thực sự khai thác được tính tích cực của người lao động và tạo ra động lực mới trong
quản lý SXKD, góp phần làm cho DNNN hoạt động hiệu quả.
Thực chất của Quy chế dân chủ trong DNNN là thể chế hoá phương châm "dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra" thành văn bản có tính pháp quy. Dân trong phạm vi DNNN chính là
công nhân lao động trực tiếp ở các đơn vị sản xuất, lao động quản lý ở các phòng ban chức năng.
Mặc dù là đối tượng bị quản lý, nay nhờ có quy chế dân chủ mà người lao động đã được biết,
được bàn, được tham gia quản lý và kiểm tra, kiểm soát điều hành vấn đề SXKD của bộ máy
quản lý, cũng như các cán bộ trong bộ máy này. Để đưa Quy chế vào cuộc sống, nhiệm vụ trọng
tâm cơ bản của các DNNN là phải tập trung chỉ đạo để thể chế hoá thành các quy chế, đặc biệt là
các quy chế sau đây:
- Quy chế trả lương, phân phối lợi nhuận.
- Quy chế khen thưởng, kỷ luật.
- Quy chế xây dựng, sử dụng các loại quỹ.


- Quy chế tuyển dụng lao động, tuyển chọn, bồi dưỡng đề bạt cán bộ.

- Quy chế phối hợp hoạt động giữa Đảng uỷ, Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc và các tổ
chức đoàn thể (công đoàn, đoàn thanh niên).
Qua 4 năm thực hiên QCTHDC ở DNNN, kết quả khảo sát cho thấy đã có nhiều tác động
tích cực đến SXKD ở DNNN, cụ thể: Có tới 91% số người được hỏi cho rằng thông qua việc
thực hiện quy chế công nhân viên chức, lao động được tham gia tích cực vào quá trình tổ chức,
quản lý, điều hành hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp; quy chế dân chủ được cụ
thể hoá bằng các quy chế trên các lĩnh vực điều hành, quản lý sản xuất (quy chế phân phối tiền
lương, tiền thưởng, quản lý tài chính, thoả ước lao động tập thể; quy chế tuyển dụng, đề bạt cán
bộ, đào tạo, bồi dưỡng; quy chế hoạt động của Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc, Ban thanh tra
nhân dân; quy chế phối hợp làm việc giữa Tổng giám đốc, Hội đồng quản trị với tổ chức Đảng,
Công đoàn, Đoàn thanh niên) đã trở thành một công cụ quản lý trong doanh nghiệp, gắn kết
quyền lợi và trách nhiệm của CNVCLĐ với quá trình và kết quả SXKD; đã có căn cứ pháp lý
cho giám đốc DNNN và tập thể người lao động trong DNNN một cơ sở, điều kiện thực hiện đầy
đủ quyền và nghĩa vụ của mình; tạo cho giám đốc được chủ động, sáng tạo phù hợp với yêu cầu
của cơ chế thị trường.
3.4.2.2. Biện pháp để bảo đảm dân chủ trực tiếp ở DNNN
+ Dân chủ trực tiếp
Dân chủ trực tiếp là hình thức dân chủ được thực hiện bằng cách CNVCLĐ trực tiếp bày tỏ
chính kiến, nguyện vọng của mình về những vấn đề liên quan đến công việc chung của cộng
đồng trong doanh nghiệp. Dân chủ trực tiếp đòi hỏi có nhiều người tham gia vào một quyết định
chung và có nhiều quyết định.



×