Tải bản đầy đủ (.docx) (132 trang)

lịch sử triết họcx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (584.63 KB, 132 trang )

Trình bày học thuyết Mác xít về hình thái kinh tế xã hội. Vận dụng để phân
tích những sai lầm khuyết điểm trong việc nhận thức và vận dụng học thuyết này
trong thời kỳ trước đổi mới và để phân tích phương hướng đổi mới sau đây của
Đảng ta “Xây dựng CNXH bỏ qua chế độ TBCN tạo ra sự biến đổi về chất của xã
hội trên tất cả lĩnh vực là một sự nghiệp rất khó khăn phức tạp cho nên phải trãi
qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức
kinh tế - xã hội có tính chất quá độ”. (VK9 – Tr85)
Bài làm
Học thuyết Mác xít về hình thái kinh tế - xã hội là cơ sở thế giới quan và là
căn cứ khoa học cho Cách mạng XHCN trên thế giới nói chung và ở nước ta nói
riêng. Trong thực tế hiện nay, từ khi CNXH thế giới lâm vào thoái trào nhưng nước
ta vẫn kiên trì khẳng định con đường phát triển đất nước là xây dựng CNXH , vận
dụng học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, Đảng ta đã xác định : “Xây dựng CNXH
bỏ qua chế độ TBCN tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả lĩnh vực là
một sự nghiệp rất khó khăn phức tạp cho nên phải trãi qua một thời kỳ quá độ
lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế - xã hội có tính
chất quá độ”. (VK9 – Tr85). Để làm rõ luận điểm trên, chúng ta sẽ đi sâu vào
phân tích học thuyết Mác Xít về hình thái kinh tế - xã hội và quá trình vận dụng
của Đảng ta trong thực tế nhằm tiếp tục làm sáng tỏ con đường đi lên CNXH ở
nước ta và thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ của Cách mạng Việt Nam.
Theo quan điểm Mác xít thì “hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của
chủ nghĩa duy vật lịch sử, dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định,
với kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất
định của lực lượng sản xuất và với một kiểu trúc thượng tầng tương ứng được xây
dựng trên những quan hệ sản xuất ấy. Hình thái kinh tế - xã hội là sự khái quát
dùng để chỉ xã hội trong một giai đoạn lịch sử nhất định, nói cách khác nó là một
nấc thang của lịch sử xã hội, là sự khái quát dùng để phân biệt giữa giai đoạn lịch
sử này với giai đoạn lịch sử khác.
Cấu trúc của hình thái kinh tế - xã hội bao gồm 3 yếu tố cơ bản cấu thành đó
là: lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng giữa các yếu tố
cơ bản đó có quan hệ biện chứng với nhau tạo thành các quy luật cơ bản chi phối


sự vận động, phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội và trở thành tiêu chuẩn
khách quan khoa học cho việc phân loại xã hội.
Một trong những quy luật cơ bản chi phối sự vận động và phát triển của hình
thái KT-XH là quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất . Quy luật này chỉ ra rằng : lực lượng sản xuất quyết định quan
hệ sản xuất và quan hệ sản xuất sau khi hình thành và tồn tại nó có tác động trở lại
đối với lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất thể
hiện qua việc trình độ lực lượng sản xuất đang tồn tại đặt ra yêu cầu quan hệ sản
xuất phải phù hợp với nó mà không đòi hỏi cao hơn hoặc thấp hơn nó. Song, quan
hệ sản xuất không hoàn toàn phù hợp một cách thụ động vào lực lượng sản xuất,
nó có vai trò độc lập tương đối trong sự tác động trở lại lực lượng sản xuất. Sự tác
động của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất diễn ra theo hai hướng : phù
hợp hoặc không phù hợp. Quan hệ sản xuất tác động phù hợp với lực lượng sản
xuất, nghĩa là quan hệ sản xuất sau khi hình thành và tồn tại, nó đáp ứng đúng đòi
hỏi tất yếu của lực lượng sản xuất và sau đó nó có vai trò tạo ra sự liên kết, kết hợp
có hiệu quả hơn giữa các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, làm cho tất cả các
yếu tố ấy phát huy tất cả tiềm năng, sức mạnh vốn có của nó, nhờ vậy mà tạo ra
năng suất lao động cao hơn. Hai là khi quan hệ sản xuất hình thành và tồn tại
không phù hợp với đòi hỏi tất yếu của lực lượng sản xuất thì nó sẽ kìm hãm, phá
hoại sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến những hậu quả kinh tế xã hội
nghiêm trọng. Biểu hiện của sự không phù hợp thể hiện ở 2 khía cạnh : một là khi
quan hệ sản xuất đã lỗi thời, lạc hậu so với trình độ mới của lực lượng sản xuất, hai
là trường hợp chú thể dùng ý chí chủ quan của mình áp đặt một “mô hình” quan hệ
sản xuất”, “cao hơn” trình độ lực lượng sản xuất. Cả 2 trường hợp này đều kìm
hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, nhưng không có nghĩa là lực lượng sản
xuất đứng im tại chổ
Quy luật thứ hai chi phối sự vận động và phát triển của hình thái KT-XH là
quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng (quan hệ sản xuất) và kiến
trúc thượng tầng. Quy luật này khẳng định rằng cơ sở hạ tầng là quan hệ cơ bản
quyết định kiến trúc thượng tầng và kiến trúc thượng tầng sinh ra từ cơ sở hạ tầng

nhưng nó có vai trò to lớn tác động mạnh mẽ trở lại cơ sở hạ tầng. Cơ sở hạ tầng
với tính cách là cơ cấu kinh tế hiện thực sản sinh ra một kiến trúc thượng tầng
tương ứng qui định tính chất, cơ cấu và mục đích hoạt động của kiến trúc thượng
tầng. Khi cơ sở hạ tầng thay đổi thì kiến trúc thượng tầng phải thay đổi theo nhưng
sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng diễn ra khá lâu dài, một cách biện chứng. Sự
tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng thể hiện qua vai trò
định hướng chính trị cho hoạt động kinh tế theo yêu cầu mục đích của giai cấp
thống trị, mà trong đó Nhà nước là thiết chế quan trọng nhất khi tác động trở lại
kinh tế. Kiến trúc thượng tầng cũng có nhiệm vụ bảo vệ và phát triển cơ sở kinh tế
đã sinh ra nó. Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đến cơ sở hạ tầng có thể diễn
ra 2 khả năng sau đây : một là phù hợp với tính tất yếu kinh tế, với yêu cầu phát
triển của lực lượng sản xuất thì có tác dụng thúc đẩy kinh tế phát triển; hai là do
yếu kém và sai lầm của kiến trúc thượng tầng tác động không phù hợp với quy luật
kinh tế thì sẽ kìm hãm sự phát triển của đời sống kinh tế. Trong những trường hợp
đặc biệt, kiến trúc thượng tầng có thể tác động làm đảo lộn nhanh chóng cơ sở hạ
tầng nhưng suy đến cùng thì kiến trúc thượng tầng vẫn bị kinh tế quyết định
Đấu tranh giai cấp cũng là một trong những động lực quan trọng của sự phát
triển các hình thái KT-XH khi xã hội có giai cấp đối kháng. Khi nghiên cứu phép
biện chứng duy vật, nghiên cứu quy luật mâu thuẫn ta thấy rằng mâu thuẫn nói
chung là nguồn gốc, động lực cho sự phát triển. Nói cách khác, động lực phát triển
của xã hội nằm ngay trong chính phương thức SX với việc giải quyết giữa LLSX
và QHSX. Về mặt xã hội, mâu thuẫn này là mâu thuẫn giai cấp giữa một bên là
giai cấp cách mạng, tiến bộ đại diện cho lực lượng SX tiến bộ, phát triển và một
bên là giai cấp thống trị, phản động đại diện cho QHSX lạc hậu đang kìm hãm sự
phát triển của lực lượng sản xuất đấu tranh với nhau. Với ý nghĩa đó, đấu tranh giai
cấp là động lực thúc đẩy xã hội phát triển, đồng thời là cũng là phương thức giải
quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ SX. Tuy nhiên, trong XH có
giai cấp thì đấu tranh giai cấp không phải là động lực duy nhất mặc dù nó là động
lực vô cùng quan trọng. Ngoài đấu tranh GC ra còn cò các động lực khác mà vai
trò vị trí của mỗi động lực như văn hóa, giáo dục, KHKT, tư tưởng đạo đức đều

phát huy tác dụng trong từng giai đọan lịch sử nhất định.
Trong đấu tranh giai cấp, vai trò của Nhà nước là hết sức quan trọng. Nhà
nước là một trong những yếu tố cấu thành của kiến trúc thượng tầng, nguồn gốc
sâu xa dẫn đến sự ra đời của nhà nước là từ kinh tế, từ sự phát triển của LLSX,
nguồn gốc trực tiếp về KT-XH dẫn đến sự ra đời và tồn tại của nhà nước là do có
chế dộ tư hữu và mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà được. Nhà nước là một tổ
chức của quyền lực chính trị, một bộ máy chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực
hiện các chức năng quản lý đặc biệt nhằm duy trì trật tự XH, thực hiện những mục
đích để bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội. Trong sự vận động và
phát triển của các hình thái KT-XH thì Nhà nước có tác động rất lớn trong cuộc
cách mạng xã hội, thay thế một hình thái kinh tế xã hội này bằng một hình thái
kinh tế xã hội khác.
Học thuyết Mác cũng chỉ ra rằng động lực của sự phát triển của các hình thái
kinh tế - xã hội chính là hoạt động thực tiễn của con người dưới tác động của các
quy luật khách quan. Quá trình phát triển đó là một quá trình lịch sử tự nhiên. Mác
viết “Tôi coi sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch
sử tự nhiên”. Phạm trù tự nhiên được dùng đi liền với từ “lịch sử” ở đây được đề
cập ở góc độ tính tất yếu của sự vận động phát triển lịch sử. Đó là sự phát triển vận
động không ngừng của lịch sử xã hội từ thấp đến cao, không phụ thuộc vào ý muốn
chủ quan của con người hoặc bất cứ một lực lượng xã hội nào mà nó do các quy
luật kinh tế - xã hội khách quan vốn có của bản thân xã hội quyết định mà trong đó
trước hết và cơ bản là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất của sự phát triển xã hội chẳng những diễn ra bằng
con đường phát triển tuần tự mà còn bao hàm cả trường hợp bỏ qua một hình thái
kinh tế - xã hội nhất định trong những hoàn cảnh lịch sử cụ thể nhất định
Bên cạnh việc khẳng định sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội
là một quá trình lịch sử tự nhiên, Mác cũng cho rằng không phải quốc gia, dân tộc
nào cũng nhất thiết phải trải qua tất cả các hình thái kinh tế - xã hội đã có trong
lịch sử. Do những điều kiện khách quan và chủ quan nhất định, một quốc gia, dân
tộc nào đó có thể bỏ qua một hình thái kinh tế - xã hội nhất định nào đó để tiến lên

một hình thái kinh tế - xã hội tiến bộ hơn. Đó cũng là quá trình lịch sử tự nhiên
nhưng mang tính đặc thù, rút ngắn lịch sử. V.I.Lê-nin đã cũng đã nói con đường
quá độ lên chủ nghĩa xã hội có thể có những hình thức khác nhau; điều đó tuỳ
thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Theo người, hình thức quá độ
trực tiếp là con đường phát triển tuần tự từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội;
còn hình thức quá độ gián tiếp là con đường phát triển rút ngắn, phát triển bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa - con đường từ tiền tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên,
cần lưu ý rằng, trong quan niệm của V.I.Lê-nin, tất cả các loại hình khác nhau của
sự phát triển xã hội - phát triển tuần tự hay phát triển rút ngắn - đều phải tuân theo
quy luật khách quan và đều là con đường phát triển lịch sử - tự nhiên. Phát triển rút
ngắn đòi hỏi phải có những điều kiện khách quan và chủ quan mới có thể thực hiện
được.
Dựa vào các quy luật khác quan và học thuyết của Mác – Lênin về hình thái
kinh tế - xã hội, Đảng ta đã vận dụng những lý luận này vào thực tiễn cách mạng
Việt Nam trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Theo sự vận động và phát
triển của hình thái kinh tế - xã hội thì chủ nghĩa cộng sản mà giai đoạn đầu là
CNXH là sự phát triển tất yếu lịch sử của CNTB. Đối với đất nước ta một quốc gia
chưa trãi qua thời kỳ phát triển TBCN thì để đi tới CNXH, Đảng ta đã chọn lựa con
đường phát triển rút ngắn - hay nói theo cách của Lênin phát triển không phải trãi
qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
Tuy nhiên do trong giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ, nhận thức của Đảng và
Nhà nước ta về quá trình “phát triển rút ngắn” chưa đầy đủ, toàn diện cộng với
bệnh chủ quan duy ý chí, nóng vội nên việc vận dụng “bỏ qua giai đoạn phát triển
tư bản chủ nghĩa” đã có nhiều sai lầm, muốn rút ngắn thật nhanh quá trình đi lên
chủ nghĩa xã hội nên đã “bỏ qua” quá giới hạn, vi phạm các quy luật khách quan
khi muốn tạo ra những bước nhảy vọt về kinh tế trong khi điều kiện chưa cho phép.
Văn kiện ĐH Đảng lần VI đã nêu “Do chưa nhận thức đầy đủ rằng thời kỳ quá độ
đi lên chủ nghĩa xã hội là một quá trình lịch sử tương đối dài, phải trải qua nhiều
chặng đường và do tư tưởng chỉ đạo chủ quan, nóng vội, muốn bỏ qua những
bước đi cần thiết , Đại hội IV chưa xác định những mục tiêu của chặng đường

đầu tiên”
Việc sai lầm do “bỏ qua những bước đi cần thiết” được thể hiện trong các chủ
trương chính sách lớn của Đảng trong thời kỳ trước đổi mới. Trước nhất đó là việc
bỏ qua bước trung gian quá độ kinh tế hàng hóa TBCN, phủ nhận các hình thức,
bước đi mang tính quá độ từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn - nội dung mà trước đây
CNTB ra đời nó đã từng thể hiện. Chính vì vậy, việc phát triển lực lượng SX không
được chú trọng , đã để kéo dài quá lâu trình độ SX thấp, thủ công, đầu tư công
nghiệp nặng không đúng hướng, đầu tư dàn đều, tràn lan không chú ý chiều sâu.
Trong việc đề ra chủ trương, chính sách, Đảng và Nhà nước ta đã bỏ qua không
chú ý vận dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật, những quy luật của SX hàng
hóa đang tồn tại khách quan vàp việc chế định các chủ trương, chính sách kinh tế.
Cũng trong thời kỳ này, Đảng và Nhà nước ta do chủ quan, nóng vội muốn
cải tạo nhanh quan hệ SX nên đã áp đặt một mô hình quan hệ sản xuất “cao hơn”
trình độ lực lượng sản xuất. Nó thể hiện qua việc “nóng vội muốn xóa bỏ ngay các
thành phần kinh tế phi XHCN” để chỉ còn lại 2 thành phần kinh tế : quốc doanh và
tập thể. Trong việc tổ chức hình thức sản xuất, chúng ta đã có xu hướng tổ chức
quá nhanh mô hình sản xuất, tập đoàn, hợp tác xã … với quy mô lớn mà không
tính đến khả năng trang bị kỹ thuật, trình độ quản lý và năng lực của cán bộ. Đồng
thời việc xác lập quan hệ SX cũng không đồng bộ “về nội dung cải tạo, thường
nhấn mạnh việc thay đổi quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất mà không coi trọng giải
quyết các vấn đề tổ chức quản lý và chế độ phân phối”. Bên cạnh đó, việc duy trì
quá lâu cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, có nhiều chủ trương sai
trong việc cải cách giá cả, tiền tệ, tiền lương, chính sách kinh tế đối ngoại khép
kín ... đã làm kìm hãm, phá hoại sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến sản
xuất đình trệ, kinh tế không phát triển, lạm phát gia tăng. Mặt khác trong kiến trúc
thượng tầng, đã buông lỏng chuyên chính vô sản, bộ máy nhà nước nặng nề, nhiều
tầng, nhiều nấc, cồng kềnh kém hiệu lực.. dẫn đến khủng hoảng kinh tế - xã hội.
Từ Đại hội VI (1986), Đảng ta đã tự phê phán nghiêm túc về những sai lầm
mắc phải, nhận thức lại quan niệm bỏ qua chế độ TBCN một cách đúng đắn, đầy
đủ hơn. Quan điểm đó đã được Đại hội VII, Đại hội VIII và Đại hội IX bổ sung

hoàn thiện hơn. Văn kiện Đại hội IX của Đảng đã khẳng định “Quá độ lên CNXH,
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan
hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng TBCN “Điều này có nghĩa là trong thời kỳ
quá độ đi lên CNXH, chúng ta không thể để quan hệ sản xuất tư hữu thống trị,
không để cho chính quyền rơi vào tay tư sản, không được để mất vai trò lãnh đạo
của Đảng, không được để Nhà nước mất vai trò quản lý kinh tế - xã hội, kinh tế
Nhà nước mất vai trò chủ đạo. Bên cạnh việc bỏ qua những nội dung trên, khi xây
dựng mới cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng CNXH thì phải chủ động kế thừa
biện chứng những nhân tố hợp lý của cả cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của
CNTB.
Về lộ trình đi lên CNXH, Đại hội IX cũng đã khẳng định : “Xây dựng
CNXH bỏ qua chế độ TBCN tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả lĩnh
vực là một sự nghiệp rất khó khăn phức tạp cho nên phải trãi qua một thời kỳ
quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế - xã hội
có tính chất quá độ”. (VK9 – Tr85)
Như vậy, rõ ràng nhận thức lý luận của Đảng về quá trình quá độ đi lên
CNXH đã xác định đây là một quá trình lâu dài để tạo ra sự biến đổi về chất (đối
với quan hệ SX, lực lượng SX, kiến trúc thượng tầng), nó phải trải qua nhiều chặng
đường, bước đi thích hợp và nhiều hình thức trung gian về tổ chức kinh tế - xã hội.
Như chúng ta biết, trong quan niệm triết học Mác - Lênin, tiến trình phát triển
của lịch sử nhân loại được qui định bởi sự phát triển của lực lượng sản xuất. Mọi
sự phát triển rút ngắn đều phải nhằm mục đích cuối cùng là tạo ra sự phát triển
vượt bậc, thậm chí là nhảy vọt của lực lượng sản xuất và do vậy, về thực chất, phát
triển rút ngắn chỉ có thể là rút ngắn các giai đoạn hay bước đi trong tiến trình phát
triển liên tục của lực lượng sản xuất. Nước ta còn nghèo, lực lượng SX kém phát
triển nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế là rất lớn cho nên phải tập trung sức phát
triển LLSX. Trong thời đại của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại,
với tốc độ phát triển như vũ bão của khoa học và công nghệ sản xuất, trình độ sản
xuất, kỹ năng lao động, trình độ tổ chức và quản lý sản xuất của con người được
tăng lên đáng kể. Điều đó cho phép chúng ta có thể rút ngắn các giai đoạn phát

triển hay hình thức công nghệ của sự phát triển lực lượng sản xuất
Đồng thời với việc tạo ra sự phát triển nhảy vọt của lực lượng sản xuất qua
con đường CNH-HĐH, Đảng cũng đã xác định việc phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần trong giai đoạn quá độ là một tất yếu khách quan, đây là bước đi tuần
tự trong việc phát triển Các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta từ sau
Đại hội VI đến nay đã khẳng định : các thành phần kinh tế là những bộ phận cấu
thành phần kinh tế thống nhất, được phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành
mạnh với nhau. Trong xu hướng vận động chung, thành phần kinh tế Nhà nước
phải giữ vai trò chủ đạo, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển. .
Sự phát triển của LLSX đòi hỏi phải có quan hệ SX phù hợp. Đại hội 9 đã
xác định : “Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ
sản xuất trên cả 3 mặt : sở hữu, quản lý và phân phối”
Đại hội Đảng lần VII đã nêu : để phù hợp với sự phát triển của LLSX,
chúng ta phải thiết lập từng bước quan hệ SX XHCN từ thấp đến cao với sự đa
dạng về hình thức sở hữu, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo
định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Như vậy, từ việc phát triển kinh tế nhiều thành phần, Đảng ta đã thừa nhận sự tồn
tại của nhiều hình thức sở hữu về tư liệu SX và các loại hình tổ chức kinh tế gắn
liền với các hình thức sở hữu đó do lịch sử để lại, phù hợp với từng thành phần
kinh tế. Chính điều này đã tạo ra sức sống động cho sự phát triển kinh tế, tạo ra
được nhiều sản phẩm do khơi dậy tiềm năng, sức sản xuất và năng động vốn có của
các thành phần kinh tế. Văn kiện Đại hội IX cũng đã xác định việc xây dựng chế
độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu không thể xác lập nhanh chóng ồ ạt như
trước đây mà phải là một quá trình kinh tế - xã hội lâu dài, qua nhiều bước, nhiều
hình thức từ thấp đến cao …
Song song với sự đổi mới về kinh tế là sự đổi mới về kiến trúc thượng tầng
bắt đầu từ việc đổi mới về chính trị , văn kiện Đaị hội 8 đã chỉ rõ “kết hợp chặt chẽ
ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm,
đồng thời từng bước đổi mới chính trị"
Tóm lại, xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra

sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là một sự nghiệp rất khó khăn
phức tạp, có sự đan xen và đấu tranh quyết liệt giữa cái mới và cái cũ, giữa cái chủ
nghĩa xã hội và cái không phải chủ nghĩa xã hội, phải sử dụng một số hình thức
trung gian, cho nên tất yếu phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài, với nhiều
chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Hiện nay,
chúng ta đang ở giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội theo con đường phát triển
rút ngắn nhằm mục tiêu phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế
hiện đại trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế đã trở thành xu thế khách quan; khoa
học và công nghệ có bước tiến nhảy vọt; kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi
bật trong quá trình phát triển của lực lượng sản xuất... đây chính là những điều kiện
khách quan vừa là thách thức nhưng cũng vừa là cơ hội đối với con đường phát
triển CNH-HĐH và xây dựng CNXH ở nước ta. Mặt khác với sự lãnh đạo đúng
đắn của Đảng, nhận thức và hành động đúng quy luật, chúng ta sẽ có những bước
đi nhanh và vững chắc trong công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta.
Mối quan hệ giữa vật chất vàý thức trong việc xây dựng nền kinh tế mới hiện nay ở
nước ta.


Lời nói đầu
Những thành tựu trong công cuộc đổi mới trong thời gian qua đã và đang
tạo ra một thế lực mới để nước ta bước vào một thời kì phát triển mới .Nhiều tiền
đề cần thiết về cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá đã được tạo ra ,quan hệ giữa
nước ta và các nước trên thế giới ngày càng được mở rộng .Khả năng giữ vững độc
lập trong hội nhập với cộng đồng thế giới được tăng thêm .Cách mạng khoa học và
công nghệ tiếp tục phát triển với trình độ ngày càng cao ,thúc đẩy quá trình chuyển
dịch kinh tế và đời sống xã hội .
Các nước đều có cơ hội phát triển .Tuy nhiên,do ưu thế công nghệ và thị trường
thuộc về các nước phát triển khiến cho các nuớc chậm phát triển đứng trước một
thách thức to lớn . Nguy cơ tụt hậu ngày càng cao ,mà điểm xuất phát của nước ta
quá thấp, lại phải đi lên từ môi trường cạnh tranh quyết liệt.

Trước tình hình đó ,cũng với xu thế phát triển của thời đại ,Đảng và nhà nước cần
tiếp tục tiến hành đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện đất nước,trong đó đổi mới
kinh tế đóng vai trò then chốt ,giữ vai trò chủ đạo .Đồng thời đổi mới kinh tế là
một vấn đề cấp bách, bởi giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị có mối quan hệ
giữa vật chất và ý thức sẽ cho phép chúng ta vận dụng vào mối quan hệ giữa kinh
tế và chính trị ,giúp cho công cuộc đổi mới của đất nước ngày càng giàu mạnh.
Với ý nghĩa đó em đã chon đề tài “Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
trong nền kinh tế nước ta hiện nay.Với sự hướng dẫn của thầy
I. Lý luận chung về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
1.Vật chất
a. Định nghĩa vật chất
Vật chất là phạm trù triết học phức tạp và có nhiều quan niệm khác nhau về nó
.Nhưng theo Lênin định nghĩa :”vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực
tại khách quan đem lại cho con người trong cảm giác ,được cảm giác của chúng ta
chép lại,chụp lại ,phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác “.
Lênin chỉ rõ rằng,để định nghĩa vật chất không thể theo cách thông thường vì khái
niệm vật chất là khái niệm rộng nhất.Để định nghĩa vật chất Lênin đã đối lập vật
chất với ý thức ,hiểu vật chất là thực tại khách quan được đem lại cho con người
trong cảm giác ,vật chất tồn tại độc lập với cảm giác ,ý thưc ,còn cảm giác ,ý thức
phụ thuộc vào vật chất ,phản ánh khách quan.
Khi định nghĩa vật chất là phạm trù triết học ,Lênin một mặt muốn chỉ rõ vật chất
là khái niệm rộng nhất ,muốn phân biệt tư cách là phạm tù triết học ,là kết quả của
sự khái quát và trừu tượng với những dạng vật chất cụ thể ,với những” hạt nhân
cảm tính”.Vật chất với tư cách là một phạm trù triết học không có những đặc tính
cụ thể có thể cảm thụ được .Định nghĩa vật chất như vậy khắc phục được những
quan niệm siêu hình của chủ nghĩa duy vật đồng nhất vật chất với hình thức biểu
hiện cụ thể của nó.
Lênin cho rằng vật chất vốn tự nó có ,không thể tiêu diệt được ,nó tồn tại bên ngoài
và không lệ thuộc vào cảm giác ,ý thức con người, vật chất là một thực tại khách
quan.Khác với quan niệm ý niêm tuyệt đối của CNDTKQ ,”thượng đế”của tôn

giáo …Vật chất không phải là lực lượng siêu tự nhiên tồn tại lơ lửng ở đâu đó ,trái
lại phạm trù vật chất là kết quả của sự khái quát sự vật ,hiện tượng cụ thể ,và do đó
các các đối tượng vật chất có thật ,hiện thực đó có khả năng tác động vào giác quan
để gây ra cảm giác ,và nhờ đó mà ta có thể biết được ,hiểu được và nắm bắt sự vật
này .Định nghĩa của Lênin đã khẳng định được câu trả lời về hai mặt của vấn đề cơ
bản của triết học .
Hơn thế nữa Lênin còn khẳng định cảm giác chép lại ,chụp lại ,phản ánh và tồn tại
không lệ thuộc vào cảm giác.Khẳng định như vậy một mặt muốn nhấn mạnh tính
thứ nhất của vật chất ,vai trò quyết định của nó với vật chất ,và mặt khác khẳng
định khả năng nhận thức thế giới khách quan của con người .Nó không chỉ phân
biệt CNDV với CNDT ,với thuyết không thể biết mà còn phân biệt CNDV với nhị
nguyên luận.
Như vậy ,chúng ta thấy rằng định nghĩa vật chất của Lênin là hoàn toàn triệt để,nó
giúp chúng ta xác định được nhân tố vật chất trong đời sống xã hội ,có ý nghĩa trực
tiếp định hướng cho nghiên cứu khoa học tự nhiên giúp ngày càng đi sâu vào vào
các dạng các dạng cụ thể của vật chất trong giới vi mô .Nó giúp chúng ta có thái độ
khách quan trong suy nghĩ và hành động.
b. Các đặc tính của vật chất
*Vận động là phương thức tồn tại của vật chất và là thuộc tính cố hữu của vật
chất .
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng ,vận động là sự biến đổi nói
chung chứ không phải là sự chuyển dịch trong không gian .Ăngghen cho rằng vận
động là một phương thức tồn tại vật chất ,là thuộc tính cố hữu của vật chất,gồm tất
cả mọi sự thay đổi trong moi quá trình diễn ra trong vũ trụ.Vận động có 5 hình
thức vận động chính là cơ -Hoá- lý -sinh-xã hội.Các hình thức vận động này có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau ,một hình thức vận động này thực hiện là tác động
qua lại với những hình thức vận động khác ,trong đó vận động cao bao gồm vận
thấp nhưng không thể coi hình thưc vận cao là tổng số đơn giản các hình thức vận
động thấp.
Thế giới khách quan bao giờ cũng tồn tại không ngừng không thể có vật chất

không vận động ,tức vật chất tồn tại .Vật chất thông qua vận động mà biểu hiện sự
tồn tại của mình .Ăngghen nhận định rằng các hình thức và các dạng khác nhau
của vật chất ,chỉ có thể nhận thức được thông qua vận động mới có thể thấy được
thuộc tính của nó .Trong thế giới vật chất từ các hạt cơ bản trong vi mô trong hệ
thống hành tinh khổng lồ.
Bất cứ một dạng vật chất nào cũng là một thể thống nhất có kết cấu xác định gồm
những bộ phận nhân tố khác nhau ,cùng tồn tại ảnh hưởng và tác động lẫn nhau
gây ra nhiều biến đổi .Nguồn gốc vận động do những nguyên nhân bên trong ,vận
động vật chất là tự thân vận động.
Vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất ,không thể có vận động bên ngoài vật
chất .Nó không do ai sáng tạo ra và không thể tiêu diệt được do đó nó dược bảo
toàn cả số lượng lẫn chất lượng.Khoa học đã chứng minh rằng nếu một hình thức
vận động nào dó của sự vật mất đi thì tất yếu nó nảy sinh một hình thức vận động
khác thay thế .Các hình thức vận động chuyển hoá lẫn nhau còn vận động của vật
chất thì vĩnh viễn tồn tại.
Mặc dù vận động luôn ở trong quá trình không ngừng ,nhưng điều đó không loại
trừ mà còn bao hàm cả hiện tượng đứng im tương đối ,không có nó thì không có sự
phân hoá thế giới vật chất thành các sự vật ,hiện tượng phong phú và đa dạng
.Ăngghen khẳng định rằng khả năng đứng im tượng đối của các vật thể ,khả năng
cân bằng tạm thời là những điều kiện chủ yếu của sự phân hoá vật chất .Nếu vận
động là biến đổi của các sự vật hiện tượng thì đứng im là sự ổn định ,là sự bảo
toàn tính quy định sự vật hiện tượng .Đứng im chỉ một trạng thái vận động ,vận
động trong thăng bằng ,trong sự ổn định tương đối .Trạng thái đứng im còn được
biểu hiện như là một quá trình vận động trong phạm vi sự vật ổn định ,chưa biến
đổi ,chỉ là tạm thời vì nó chỉ xẩy ra trong một thời gian nhất định .Vận động riêng
biệt có xu hương phá hoại sự cân bằng còn vận động toàn thể lại phá hoại sự cân
bằng riêng biệt làm cho các sự vật luôn biến đổi ,chuyển hoá nhau .
*Không gian và thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất
Không gian phản ánh thuộc tính của các đối tượng vật chất có vị trí ,có hình thức
kết cấu ,có độ dài ngắn cao thấp .Không gian biểu hiện sự tồn tại và tách biệt của

các sự vật với nhau ,biểu hiện qua tính chất và trật tự của chúng Còn thời gian
phản ánh thuộc tính của các qúa trình vật chất diễn ra nhanh hay chậm ,kế tiếp
nhau theo một trình tự nhất định .Thời gian biểu hiện trình độ tốc độ của quá trình
vật chất ,tính tách biệt giữa các giai đoạn khác nhau của qúa trình đó ,trình tự xuất
hiện và mất đi của các sự vật hiện tượng.
Không gian và thời gian là những hình thức cơ bản của vật chất đang vận động
,Lênin đã chỉ ra trong thế giới không có gì ngoài vật chất đang vận động .Không
gian và thời gian tồn tại khách quan ,nó không phải bất biến ,không thể đứng ngoài
vật chất ,không có không gian trống rỗng ,mà nó có sự biến đổi phụ thuộc vào vật
chất vận động .
Tính thống nhất vật chất của thế giới
CNDT coi ý thức,tinh thần có trước ,quyết đinh vật chất ,còn duy vật thì ngược
lại .Triết học Mác-Lênin khẳng định rằng chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới
vật chất đồng thời còn khẳng định rằng thế giới đều là những dạng cụ thể của vật
chất ,có liên hệ vật chất thống nhất với nhau như liên hệ về cơ cấu tổ chức ,lịch sử
phát triển và đều phải tuân thủ theo quy luật khách quan của thế giới vật chất ,do
đó nó tồn tại vĩnh cửu ,không do a sinh ra và cũng không mất đi trong thế giới
đó ,không có gì khác ngoài những quá trình vật chất đang biến đổi là chuyển hoá
lẫn nhau ,là nguyên nhân và kết quả của nhau.
2. ý thức
a. kết cấu của ý thức
Cũng như vật chất có rất nhiều quan niệm về ý thưc theo các trường phái khác
nhau . Theo quan điểm của CNDVBC khẳng định rằng ý thức là đặc tính và là sản
phẩm của vật chất ,là sự phản ánh khách quan vào bộ óc con người thông qua lao
động và ngôn ngữ .Mác nhấn mạnh rằng tinh thần ý thức là chẳng qua chỉ là cái vật
chất được di chuyển vào bộ óc con người và được cải biến trong đó .ý thức là một
hiện tượng tâm lý xã hội có kết cấu phức tạp gồm ý thức tri thức ,tình cảm ,ý chí
trong đó tri thức là quan trọng nhất ,là phương thức tồn tại của ý thức,vì sự hình
thành và phát triển của ý thức có liên quan mật thiết với quá trình con người nhận
thức và cải biến giới tự nhiên.Tri thức càng được tích luỹ con người càng đi sâu

vào bản chất của sự vật và cải tạo sự vật có hiệu quả hơn ,tính năng động của ý
thức nhờ đó mà tăng hơn .Việc nhấn mạnh tri thức là yếu tố cơ bản quan trọng có ý
nghĩa chống quan điểm đơn giản coi ý thức là tình cảm ,niềm tin …Quan điểm đó
chính là bệnh chủ quan duy ý chí của niềm tin mù quáng .Tuy nhiên việc nhấn
mạnh yếu tố tri thức cũng không đồng nghĩa với việc phủ nhận coi nhẹ yếu tố vai
trò tình cảm ý chí.
Tự ý thức cũng là một yếu tố quan trọng mà CNDT coi nó là một thực thể độc lập
có sẵn trong cá nhân ,biểu hiện xu hướng về bản thân mình ,tự khẳng định cái tôi
riêng biệt tách rời xã hội .Trái lại CNDVBC tự ý thức là ý thức hướng về nhận thức
bản thân mình thông qua quan hệ với thế giới bên ngoài .Khi phản ánh thế giới
khách quan con người tự phân biệt mình ,đối lập mình với thế giới đó là sự nhận
thức mình như là một thực thể vận động ,có cảm giác ,tư duy có các hành vi đạo
đức và vị trí xã hội .Mặt khác sự giao tiếp xã hội và hoạt động thực tiễn xã hội đòi
hỏi con người nhận rõ bản thân mình và tự điều chỉnh theo các quy tắc tiêu chuẩn
mà xã hội đề ra .Ngoài ra văn hoá cũng đóng vai trò cái gương soi giúp cho con
người tự ý thức bản thân .
Vô thức là một hiện tượng tâm lý ,nhưng có liên quan đến hoạt động xảy ra ở ngoài
phạm vi của ý thức .Có 2 loại vô thức :loại thứ nhất liên quan đến các hành vi chưa
được con người ý thức ,loại thứ hai liên quan đến các hành vi trước kia đã được ý
thức nhưng do lặp lại nên trở thàmh thói quen ,có thể diễn ra tự động bên ngoài sự
chỉ đạo của ý thức.Vô thức ảnh hưởng đến nhiều phạm vi hoạt động của con người
.Trong những hoàn cảnh đó nó có thể giúp con người giảm bớt sự căng thẳng trong
hoạt động .Việc tăng cường rèn luyện để biến thành hành vi tích cực thành thói
quen ,có vai trò quan trọng trong đời sống .
b. Nguồn gốc của ý thức
Nguồn gốc tự nhiên
ý thức ra đời là kết quả của sự phát triển lâu dài của giới tự nhiên cho tới khi xuất
hiện con người và bộ óc .Khoa học chứng minh rằng thế giới vật chất nói chung và
trái đất nói riêng đã từng tồn tại rất lâu trước khi xuất hiện con người ,rằng hoạt
động ý thức của con người diễn ra trên cơ sở hoạt động sinh lý thần kinh bộ não

người .Không thể tách rời ý thức ra khỏi bộ não vì ý thức là chức năng bộ não ,bộ
não là khí quản của ý thức .Sự phụ thuộc ý thức vào hoạt động bộ não thể hiện khi
bộ não bị tổn thương thì hoạt động ý thức sẽ bị rối loạn .Tuy nhiên không thể quy
một cách đơn giản ý thức về quá trình sinh lý bởi vì óc chỉ là cơ quan phản ánh .Sự
xuất hiện của ý thức gắn liền sự phát triển đặc tính phản ánh ,nó phát triển cùng với
sự phát triển của tự nhiên .Sự xuất hiện của xã hộ loài người đưa lại hình thức cao
nhất của sự phản ánh ,đó là sự phản ánh ý thức luôn gắn liền với việc làm cho tự
nhiên thích nghi với nhu cầu phát triển của xã hội.
Nguồn gốc xã hội
Sự ra đời của ý thức gắn liền hình thành với sự phát triển của bộ óc con người dưới
ảnh hưởng của lao động và giao tiếp QHXH.
Lao động của con người là nguồn gốc vật chất có tính xã hội nhằm cải tạo tự
nhiên ,thoả mãn nhu cầu và phục vụ mục đích bản thân con người .Nhờ nó mà con
người và xã hội loài người mới hình thành và phát triển .Lao động là phương thức
tồn tại cơ bản đầu tiên của con người ,đồng thời ngay từ đầu đã liên kết con người
với nhau trong mối quan hệ khách quan ,tất yếu ; mối quan hệ này đến lượt nó nảy
sinh nhu cầu trao đổi kinh nghiệm và tổ chức lao động ,nhu cầu”cần phải nói với
nhau một cái gì”. Và kết quả là ngôn ngữ ra đời.Ngôn ngữ được coi là cái vỏ vật
chất của tư duy ,với sự xuất hiện của ngôn ngữ ,tư tưởng con người có khả năng
biểu hiện thành hiện thực trực tiếp ,trở thành tín hiệu vật chất tác động tới giác
quan của con người và gây ra cảm giác .Nhờ có nó mà con người có thể giao tiếp
,trao đổi ,truyền đạt kinh nghiệm cho nhau ,thông qua đó mà ý thức cá nhân trở
thành ý thức xã hội ,và ngược lại. Chính nhờ trừu tượng hoá và khái quát hoá tức là
quá trình hình thành thực hiện ý thức ,chính nhờ nó mà con người có thể đi sâu vào
bản chất của sự vật ,hiện tượng đồng thời tổng kết hoạt động của mình trong toàn
bộ quá trình phát triển lịch sử.
C. Bản chất của ý thức
Từ việc xem xét nguồn gốc của ý thức ,có thể thấy rõ ý thức có bản tính phản
ánh ,sáng tạo và bản tính xã hội .
Bản tính phản ánh thể hiện về thế giới thông tin bên ngoài ,là biểu thị nội dung

được từ vật gây tác động và được truyền đi trong quá trình phản ánh . Bản tính của
nó quy đinh mặt khách quan của ý thức, tức là phải lấy kháh quan làm tiền đề ,bị
nó quy định nội dung phản ánh là thế giới khách quan.
ý thức ngay từ đầu đã gắn liền với lao động ,trong hoạt động sáng tạo cải biến và
thống trị tự nhiên của con người và đã trở thành mặt không thể thiếu của hoạt động
đó .Tính sáng tạo của ý thức thể hiện ở chỗ nó không chụp lại một cách thụ động
nguyên xi mà gắn liền với cải biến ,quá trình thu nhập thông tin gắn liền với quá
trình xử lý thông tin .Tính sáng tạo của ý thức còn thể hiện ở khả năng gián tiếp
kháI quát thế giới khách quan ở quá trình chủ động ,tác động vào thế giới đó.
Phản ánh và sáng tạo liên quan chặt chẽ với nhau ,không thể tách rời ,không có
phản ánh thì không có sáng tạo vì phản ánh là điểm xuất phát là cơ sở của sáng
tạo .Đó là MQHBC giữa thu nhận xử lý thông tin ,là sự thống nhất mặt khách quan
chủ quan của ý thức.
ý thức chỉ được nảy sinh trong lao động ,hoạt động cải tạo thế giới của con
người.Hoạt động đó không thể là hoạt động đơn lẻ mà là hoạt động xã hội. ý thức
trước hết là thức của con người về xã hội và hoàn cảnh và những gì đang diễn ra ở
thế giới khách quan về mối liên hệ giữa người và người trong quan hệ xã hội.Do
đó ý thức xã hội hình thành và bị chi phối bởi tồn tại xã hội và các quy luật của tồn
tại xã hội đó …ý thức của mỗi cá nhân mang trong lòng nó ý thức xã hội ,Bản tính
xã hội của ý thức cũng thống nhất với bản tính phản ánh trong sáng tạo.Sự thống
nhất đó thể hiện ở tính năng động chủ quan của ý thức ,ở qaun hệ giữa nhân tố vật
chất và nhân tố ý thức trong hoạt động cải tạo thế giới quan của con người.
3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
Lênin đã chỉ ra rằng,sự đối lập giữa vật chất và ý thức chỉ có ý nghĩa tuyệt đối
trong phạm vi hạn chế:trong trường hợp này chỉ giới hạn trong vấn đề nhận thức
luận cơ bản là thừa nhận cái gì là cái có trước ,cái gì là cái có sau . Ngoài giới hạn
đó thì không còn nghi ngờ gì nữa rằng sự đối lập đó chỉ là tương đối .Như vậy để
phân ranh giới giữa CNDV và CNDT ,để xác định bản tính và sự thống nhất của
thế giới cần có sự đối lập tuyệt đối giữa vật chất và ý thức trong khi trả lời cái nào
có trước cái nào quyết định .Không như vậy sẽ lẫn lộn 2 đường lối cơ bản trong

triết học ,lẫn giữa vật chất và ý thức và cuối cùng sẽ xa rời quan điểm duy vật
.Song sự đối lập giữa vật chất và ý thức chỉ là sự tương đối như là những nhân tố
,những mặt không thể thiếu được trong hoạt động của con người ,đặc biệt là hoạt
động thực tiễn con người ,ý thức có thức có thể cải biến được tự nhiên ,thâm nhập
vào sự vật , không có khả năng tự biến thành hiện thực,nhưng thông qua hoạt động
thực tiễn của con người,ý thức có thể cải tiến được ,thâm nhập vào sự vật ,hiện
thực hoá những mục đích mà nó đề ra cho hoạt động của mình.Điều này bắt nguồn
từ chính ngay bản tính phản ánh,sáng tạo và xã hội của ý thức và chính nhờ bản
tính đó mà chỉ có con người có ý thức mới có khả năng cải biến và thống trị tự
nhiên ,bắt nó phục vụ con người. Như vậy tính tương đối trong sự đối lập giữa vật
chất và ý thức thể hiện ở tính độc lập tương đôí,tính năng động của ý thức. Mặt
khác đời sống con người là sự thống nhất không thể tách rời giữa đời sống vật chất
và đời sôngs tinh thần trong đó những nhu cầu tinh thần ngày càng phong phú và
đa dạng và những nhu cầu vật chất cũng bị tinh thần hoá.Khẳng định tính tương
đối của sự đối lập giữa vật chất và ý thức không có nghĩa là khẳng định cả hai yếu
tố có vai trò như nhau trong đời sống và hoạt động của con người .Trái lại, Triết
học Mác-Lênin khẳng định rằng,trong hoạt động của con người những nhân tố vật
chất và ý thức có tác động qua lại ,song sự tác động đó diễn ra trên cơ sở tính thứ
nhất của nhân tố vật chất so với tính thứ hai cuả ý thức.
Trong hoạt động của con người ,những nhu cầu vật chất xét đến cùng bao giờ cũng
giữ vai trò quyết định ,chi phối và quy định mục đích hoạt động của con người vì
nhân tố vật chất quy định khả năng các nhân tố tinh thần có thể tham gia vào hoạt
động của con người, tạo đIều kiện cho nhân tố tinh thần hoặc nhân tố tinh thần
khác biến thành hiện thực và qua đó quy định mục đích chủ trương biện pháp mà
con người đề ra cho hoạt động của mình bằng cách chọn lọc, sữa chữa bổ bổ sung
cụ thể hoá mục đích chủ trương biện pháp đó . Hoạt động nhận thức của con người
bao giờ cũng hướng đến mục tiêu cải biến tự nhiên nhằm thoả mãn nhu cầu sống .
Hơn nữa,cuộc sống tinh thần của con người xét đến cùng bị chi phối và phụ thuộc
vào việc thoả mãn nhu cầu vật chất và vào những điều kiện vật chất hiện có .khẳng
định vai trò cơ sở ,quyết định trực tiếp nhân tố vật chất, triết học Mác-Lênin đồng

thời cũng không coi nhẹ vai trò của nhân tố tinh thần ,tính năng động chủ quan.
Nhân tố ý thức có tác động trở lại quan trọng đối với nhân tố vật chất. Hơn nữa
,trong hoạt động của mình ,con người không thể tạo ra các đối tượng vật chất ,cũng
không thể thay đổi được những quy luật vận động của nó . Do đó ,trong quá trình
hoạt động của mình con người phải tuân theo quy luật khách quan và chỉ có thể đề
ra những mục đích,chủ trương trong phạm vi vật chất cho phép .
II. Vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong việc xây dựng nền kinh tế
nước ta hiện nay .
1.Vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vào mối quan hệ biện chứng giữa
kinh tế và chính trị :
Như chúng ta đã biết, giữa vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng lẫn
nhau .Nhân tố vật chất giữ vai trò quyết định còn nhân tố ý thức có tác động trở lại
nhân tố ý thức. Nhân tố vật chất trong nhiều trường hợp ý thức có tác dụng quyết
định đến sự thành bại của con người.Điều này thể hiện rõ trong các đường lối chủ
trường,chính sách đổi mới kinh tế của Đảng .Vai trò tích cực của ý thức chỉ được
trong một thời gian nhất định và điều kiện cụ thể vì thế giới vẫn tồn tại khách quan
và vận động ,theo đó ý thức phải biến đổi phù hợp với nó ,nếu tiêu cực thì sớm
muộn cũng bị đào thải ,nhưng xét đén cùng thì ý thức vẫn là nhân tố thứ hai quyết
định .Và ta thấy nếu kinh tế của một nước giàu ,xã hội phát triển cao nhưng chính
trị mất ổn định ,luôn đấu tranh giai cấp …thì đất nước đó không thể yên ấm hoà
bình được và cuộc sống người dân tuy đầy đủ ,sung túc nhưng sẽ luôn lo âu .Do
đó nếu chính trị ổn định thì dân mới yên tâm làm ăn và xây dựng một xã hội phát
triển ,đất nước giàu mạnh.
Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị thay đổi theo từng hình thái kinh tế CXNT-
CHNL-PK-TBCN-CNXH .Trình độ tổ tổ chức quản lý và tính chất hiện đại của
nền sản xuất sẽ là nhân tố quy định trình độ và mức sống của xã hội ,bởi sản xuất
vật chất là nền tảng hình thành tất cả các quan hệ xã hội đời sống tinh thần của xã
hội .hiện thực lịch sử đã chỉ ra rằng mọi quan hệ của đời sống xã hội bao gồm quan
hệ chính trị ,nhà nước pháp quyền,đạo đức ,khoa học ,tôn giáo…đều hình thành
biến đổi gắn liền với kinh tế và sản xuất nhất định .Trong đó theo Mác quan hệ sản

xuất giữa người với người là cơ bản quyết định tất cả các quan hệ khác
Sản xuất vật chất hay kinh tế là cơ sở đầu tiên quan trọng nhất khi tham gia vào
quá trình phân hoá và hoàn thiện các chức năng của con người ,thoả mãn các nhu
cầu của con người và xã hội . Sản xuất vật chất môi trường tự nhiên ,điều kiện xã
hội…đòi hỏi thể lực ,trí tuệ và nhân cách con người phải phát triển thích ứng với
nó .Yêu cầu khách quan của việc phát triển kinh tế ,sản xuất cho khoa học kĩ thuật
và điều kiện sinh hoạt xã hội ngày càng phát triển hoàn thiện .Đó chính là cơ sở
quyết định sự hoàn thiện của con người ,chính trị ,xã hội ,là nhân tố qaun trọng
hàng đầu của LLSX .Sự phong phú đa dạng của vật chất sự phát triển mạnh mẽ
của khoa học kĩ thuật và đời sống tinh thần trong quá trình sản xuất là cơ sở nảy
sinh sự phát triển năng lực tinh thần của con người .Nói cho cùng nhu cầu của con
người về vật chất bao giờ cũng giữ vai trò quyết định vì con người trước hết phải
ăn mặc ,ở rồi đến vui chơi giải trí .Hoạt động nhận thức của con người trước hết
hướng tới mục tiêu cải biến tự nhiên nhằm thoả mãn nhu cầu sống và cuộc sống
của con nguươì phụ thuộc vào nhu cầu vật chất và những điều kiện hiện có.
Nền kinh tế của một nước là nền tảng để cho nước đó tiếp tục phát triển các chủ
trương biện pháp trong việc phát triển kinh tế vào công cuộc bảo vệ xây dựng đất
nước .Căn cứ vào tình hình kinh tế mà có những chính sách phù hợp nhằm đem lại
lợi ích cao cho xã hội và cho nhân dân .Tác dụng ngược lại thể chế chính trị ,ý thức
của một nước rất quan trọng trong việc xây dựng đất nước. Chính trị ổn định chính
là điều kiện phát triển kinh tế ,mọi doanh nghiệp cũng như nhân dân ,các công ty
các tổ chức đem hết sức mình tạo lợi ích cho bản thân và xã hội.
Nguyên lý triết học Mác-Lênin về mối QHBC giữa vật chất và ý thức đòi hỏi
chúng ta phải xem xét các sự vật từ thực tế khách quan ,tránh chủ nghĩa chủ quan
duy ý chí,đồng thời phát huy vai trò năng động sáng tạo của ý thức ,phát huy nỗ
lực chủ quan và hoạt động của con người .
2.Vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức rtong việc xây dựng nền kinh tế
mới ở nước ta hiện nay.
Như chúng ta đã biết sau khi giải phóng miền nam thống nhất đất nước ,nền kinh tế
miến bắc bị suy giảm nghiêm trọng.Cơ sở vật chất kĩ thuật yếu kém,cơ cấu kinh tế

mất cân đối ,năng suất lao động thấp…sản xuất nông nghiệp chưa cung cấp đủ
lương thực cho dân ,nguyên liệu cho công nghiệp ,hàng hoá cho xuất khẩu ,ngoài
ra còn bị tàn phá nặng nề bởi đế quốc Mĩ .ở miền nam sau 20 năm chiến tranh nền
kinh tế bị đảo lộn ,nông nghiệp bị hoang hoá ở nhiều vùng…
Trước tình hình đó đại hội Đảng ta lần thứ IV đã đề ra chỉ tiêu và kế hoạch 5 năm
1976-1980 về xây dựng và phát triển vượt quá khả năng kinh tế 1975 phấn đấu dạt
21tr tấn lương thực 1tr tấn cá biển ,1tr ha khai hoang , 1tr200ha rừng mới 10tr tấn
than sạch …ngoài ra còn đề xuất xây dựng thêm các cơ sở mới về công nghiệp như
cơ khí và đặc biệt là phải cải tạo XHCN ở miền nam .Những chủ trương chính sách
sai lầm đó đã gây tổn hại đến nền kinh tế cuộc sóng nhân dân…đến hết 1980
,nhiều chỉ tiêu đề ra chỉ đạt được 50-60%, nền kinh tế tăng trưởng chậm ,tổng sản
phẩm xã hội bình quân là 1,5% công nghiệp tăng 2,6% nông nghiêp giảm 0,15% .
Đại hội Đảng lần V vẫn chưa tìm ra nguyên nhân dẫn tới sự trì trệ ,đồng thời cũng
chưa đề ra các chính sách mới cho nền kinh tế 1981-1985 . Chúng ta chưa khắc
phục chủ quan trì trệ trong bố trí cơ cấu kinh tế ,cảI tạo XHCN và quản lý kinh tế
lại phạm những sai lầm mới rong lĩnh vực phân phối lưu thông .Nhìn chung vẫn
chưa đạt được mục tiêu đại hội V đề ra .
Tất nhiên ngoài những yếu tố chủ quan còn có yếu tố khách quan dẫn đến sự trì trệ
của nền kinh tế do chiến tranh ,bối cảnh quốc tế … song chúng ta vẫn mắc sai lầm
chủ quan trong việc quản lý cán bộ ,phát triển LLSX .
Nhắc lại thấy rõ tác động tiêu cực của ý thức đối với vật chất ,thấy rõ tác động qua
lại giữa kinh tế và chính trị trước khi có công cuộc đổi mới .Phép BCDV khẳng
định rằng nếu ý thức là tiêu cực thì sớm muộn sẽ bị đào thải .
Trước tình hình kinh tế đó ,Đảng và nhà nước đã đi sâu nghiên cứu ,phân tích tình
hình ,lấy ý kiến của nhân dân và đặc biệt là đổi mới tư duy về kinh tế .Đại hội
Đảng VI đã rút ra kinh nghiệm lớn trong đó có:phải luôn luôn xuất phát từ thực
tế ,tôn trọng và hoạt động theo quy luật khách quan .Đảng đã đề ra đường lối đổi
mới ,mở ra bước ngoặt trong sự việc xây dựng CNXH ở nước ta .
Tại đại hội VI Đảng đã nghiêm khắc tự phê bình ,tìm ra đúng nguyên nhân khủng
hoảng kinh tế xã hội và đã đề ra nhiều phương hướng nhiệm vụ trong việc đổi

mới ,nhất là về kinh tế ,thực hiện chương trình kinh tế với 3 mục tiêu : lương thực
-thực phẩm ,hàng tiêu dùng ,xuất khẩu ,hình thành nền kinh tế nhiêu thành phần
,thừa nhận kinh tế tư sản sản xuất hàng hoá và kinh tế tư bản tư nhân ,đổi mới cơ
chế quản lý .Trong quá trình thực hiện nghị quyết của Đảng ,những diễn biến quốc
tế đã ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế nước ta nhưng Đảng ,nhà nước và nhân dân
đã nỗ lực khắc phục những khó khăn và tìm tòi khai phá ra đường lối đổi mới . Tại
đại hội VII ta đã đánh giá tình hình kinh tế chính trị của nước ta sau hơn nhiều năm
thực hiện đổi mới đã đạt được các bước tiến quan trọng .Tình hình hình chính trị
ổn định nên nền kinh tế có điều kiện phát triển bươc đầu nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần hoạt động theo sự quản lý của nhà nước ,LLSX huy động tốt
hơn ,tránh được lạm phát ,đời sống của người dân được cảI thiện ,cuộc khủng
hoảng đã giảm bớt ,sinh hoạt dân chủ ngày càng phát huy .
Qua các dẫn chứng trên ta thấy sự tác động qua lại giữa vật chất và ý thức ,giữa
kinh tế và chính trị ,nhờ có đường lối đổi mới ,nền kinh tế ngày càng phát triển
,cuộc sống của người dân ngày càng ổn định đã góp phần to lớn trong việc phát
huy dân chủ trong xã hội . Ngoài mặt tích cực còn có tiêu cực như : lạm phát vẫn
còn cao ,nhiều cơ sở đình đốn kéo dài ,lao động thiếu việc làm tăng lên ,và rong
quản lý còn nhiều lúng túng sơ hở… đặc biệt đại hội cũng xác định “về quan hệ
giữa đổi mới kinh tế và chính trị phải tập trung sức đổi mới kinh tế đáp ứng được
nhu cầu cấp bách của nhân dân về việc làm ,và các nhu cầu xã hội khác ,xây dựng
cơ sở vật chất kĩ thuật của CNXH ,coi đó là điều kiện quan trọng để tiến hành đổi
mới trong lĩnh vực chính trị.”
Đảng ta đã vận dụng đúng đắn mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vào công cuộc
đổi mới đất nước cả về kinh tế lẫn chính trị .Đại hội VIII đã chỉ ra các mục tiêu cần
đạt được ,cụ thể là phương châm chỉ đạo trong 5 năm 1991-1995 ,trong đó nổi cộm
nhất là phương châm kết hợp động lực kinh tế và động lực chính trị ,phương châm
tiếp tục đổi mới đã đI vào chiều sâu với bước đi vững chắc ,lấy đổi mới làm nền để
thúc đẩy các lĩnh vực khác phát triển.
Trong báo cáo của Đảng về công cuộc đổi mới đã nhận xét :”nét nổi bật là trong
Đảng đã có sự đổi mới tư duy về kinh tế với tinh thần độc lập sáng tạo. Đảng ta cụ

thể hoá và phát triển nghị quyết đại hội VII ,bước đầu hình thành hệ thống các
quan điểm ,nguyên tắc chỉ đạo sự nghiệp đổi mới ở nước ta “.
Sau đại hội ban chấp hành TƯ Đảng đã đề ra các nghị quyết giải quyết các vấn đề
đối nội đối ngoại . Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kì đã đánh giá cao trong
trong quá trình khắc phục khủng hoảng kinh tế … khắc phục được nhiều tồn tại
trong 3 năm qua .Lạm phát được đẩy lùi .Tổng sản phẩm GDP tăng bình quân
8.2% so với mức đề ra năm 91-95 là 5,5-5,6%.Sản xuất nông nghiệp tương đối
toàn diện sản lượng lương thực 26% so với 5 năm trước đó ,tạo đIều kiện thuận lợi
để cuộc sống đầy đủ ,phát triển được nhiều ngành nghề .Vấn đề lương thực đã
được giải quyết tốt .Quan hệ kinh tế đối ngoại được mở rộng theo hướng đa dạng
hoá ,thị trường xuất nhập khẩu được mở rộng , nguồn vốn đầu tư nước ngoài tăng
mạnh ,tăng kim ngạch xuất khẩu 91-95 là 17 tỉ USD so với kế hoạch là 12-15 tỉ
USD. Khoa học công nghệ có bước phát triển lớn phục vụ cho việc thực hiện
đường lối chính sách của Đảng ,lĩnh vực văn hoá tinh thần được nâng cao ,đời sống
nhân dân được cải thiện ,quốc phòng an ninh được giữ vững.
Hội nghị đại biểu toàn quốc chỉ nêu lên thành tựu tiếp tục giữ vững và củng cố ổn
định chính trị ,mở rộng quan hệ đối ngoại ,tạo đIều kiện cho công cuộc xây dựng
bảo vệ tổ quốc .
Như vậy , cũng thấy rõ tác động của kinh tế với chính trị và xã hội ,đối với công
tác đối ngoại ,quốc phòng ,an ninh…đổi mới kinh tế nhưng các nhân tố chính trị xã
hội ,đối ngoại…cũng tác động tích cực trở lại đối với kinh tế .Vận dụn đúng đắn
các mối quan hệ biện chứng duy vật . tại hội nghị đại biểu toàn quốc đã vạch ra
những điểm yếu kém ,vấn đề kinh tế như “nền kinh tế vẫn còn mang tính chất nông
nghiệp lạc hậu ,công nghiệp nhỏ bé ,kết cấu hạ tầng kém phát triển,kinh tế tuy tăng
trưởng khá nhưng năng suất chất lượng hiệu quả còn kém …” và vẫn còn những
tồn tại về mặt văn hoá ,xã hội…để có những thay đổi tốt hơn ,Đảng đã đề ra những
nhiệm vụ chủ yếu thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp
háo ,hiện đại hoá ,chăm lo đến các vấn đề văn hoá xã hội , đảm bảo an ninh -quốc
phòng, xây dựng nhà nước văn hoá của dân ,do dân và vì dân đổi mới chỉnh đốn
đảng và củng cố mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân .

Sau đại hội TƯ Đảng (khoá VII) ra nghị quyết phát triển công nghiệp mới đến
2000 theo hướng công nghiệp hoá ,hiện đại hoá đất nước.Cải cách nền hành chính
nhà nước với nội dung của hội nghị TƯ lần thứ VIII ,có thể coi đã cụ thể hoá một
bước cương lĩnh và chiến lược phát triển khoa học xã hội mà đại hộiVIII đã thông
qua.
Với thành công trong những năm qua ta thấy đường lối và chính sách của Đảng và
nhà nước là hoàn toàn đúng đắn phù hợp với nền kinh tế thị trường mà trước đây ta
đã phủ nhận đẻ hướng tới CNXH bỏ qua CNTB . Đảng đã phạm sai lầm đó là vội
cải tạo CNXH xoá bỏ nền kinh tế nhiều thành phần duy trì lâu cơ chế quản lý quan
liêu bao cấp.Có nhiều sai sót việc quản lý tiền tệ cũng như quản lý về giai cấp lãnh
đạo. Nước ta đã nghiên cứu các mặt mạnh và hạn chế của CNTB để tận dụng một
cách tổng hợp vào tình hình kinh tế xã hội nước ta hiện nay để đưa Việt Nam theo
hướng phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Các bước phát triển kinh
tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội.
Trên tinh thần đó cùng với các kinh nghiệm đại hội VIII lần này đã đánh giá được
khó khăn chung để chủ động nắm lấy thời cơ để vươn lên đẩy lùi và khắc phục các
nguy cơ xuất phát từ tình hình trên . Đảng đã đề ra cương lĩnh cần tiếp tục nắm
vững 2 nhiệm vụ chiến lược xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc. Từ nay đến 2000
ra sức để trở thành nước công nghiệp.
Với những chính sách phát triển thích hợp chúng ta đã được một số bước tiến quan
trọng ,bình thường hoá quan hệ Việt -Mĩ ,là thành viên của khối Asean ,đặc biệt
1998 nước ta đã trở thành thành viên của khối APEC (diễn đàn hợp tác kinh tế
châu á Thái Bình Dương)… Từ chỗ bị bao vây cấm vận đến nay nước ta đã quan
hệ ngoại giao với 167 nước ,quan hệ thương mại với 120 nước ,phát triển quan hệ
tốt đẹp với các nước láng giềng .Đó là ý nghĩa to lớn trong việc giữ vững môI
trường hoà bình ổn định ,là nền tảng xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Tăng trưởng GDP tiếp tục tăng cao ,1996 là 9,3%,1997 là 8,2% 1998 là 5,8% ,lạm
phát chiếm dưới 10%.Tốc độ tăng trưởng công nghiệp vẫn là hai con số…đời sống
nhân dân càng ổn định tăng cao .
Công cuộc đổi mới ở Việt Nam ngày càng đúng đắn ,chính vì Đảng ngày càng nắm

vững và vận dụng đúng đắn phương pháp luận triết học toàn diện Mác-Lênin .Mối
quan hệ kinh tế biện chứng giữa kinh tế và chính trị ngày càng rõ nét ,đơn cử từ
việc thiếu ăn bây giờ Việt Nam trở thành nước thứ 3 xuất khẩu gạo trên thế giới.
Lòng tin của nhân dân ngày càng tăng cao .Ngoài ra còn tăng truởng về tổng sản
phẩm quốc dân ,về tốc độ thu hút vốn đầu tư nước ngoài ,về xuất khẩu …
Đổi mới là khó khăn nhưng nhờ có chính sách và đường lối đúng đắn và có sự tìm
tòi học hỏi từ nền kinh tế tư bản của nhiều nước ,cùng các diễn biến phức tạp của
tình hình thế giới,những biến dộng nhiều mặt của đất nước càng đòi hỏi lòng kiên
trì ,giữ vững lòng tin ,quyết tâm khắc phục khó khăn để thích ứng kịp thời với sự
biến đổi từng ngày từng giờ.
Người cán bộ kinh tế phảI quán triệt sâu sắc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác
-Lênin ,tư tưởng Hồ Chi Minh là phải nghiên cứu đề xuất và áp dụng đúng đắn các
chủ trương và chính sách kinh tế để đưa nền kinh tế nước ta vượt qua tình trạng
nghèo đói và kém phát triển ,tránh khỏi nguy cơ tụt hậu so với kinh tế thế giới
.Trong việc xoá bỏ quan liêu bao cấp nghĩa là đòi hỏi người làm công tác quản lý
phải sáng tạo ,năng động nắm bắt được thực tế để vận dụng và phát triển nó .Từ
kinh nghiệm thực tế chỉ cần không nhận định đúng một vấn đề ,1 chủ trương ,1
thông tin ,1 từ ngữ trong bản hợp đồng kinh tế ,1 hành động chậm trễ hay vội vã là
có thể lớn về nền kinh tế .Ngược lại nếu biết nắm bắt kịp thời 1 thông tin dù nhỏ
vẫn có thể dẫn tới một thắng lợi lớn.Nên sự kết hợp giữa thực tế khách quan và
phát huy nỗ lực chủ quan ,kết hợp giữa tình cảm và trí tuệ phải thật nhuần
nhuyễn ,các bộ quản lý phải có phẩm chất tốt đẹp,phải trung thực ,chính xác kịp
thời ,phải biết nắm bắt và đề ra giải pháp dúng đắn cho mọi tình huống .Cần đấu
tranh chống chủ nghĩa chủ quan duy ý chí ,tư tưởng nóng vội phưu lưu ,bất chấp
mọi quy luật .Ngoài ra cần rèn luyện tính kiên nhẫn chăm chỉ ,dám nghĩ dám
làm ,chủ động sáng tạo ,giành lấy thời cơ .Rèn luyện được các phẩm chất ấy người
quản lý sẽ đứng vững trên vị trí lãnh đạo của mình , ngoài ra còn có thể vươn lên
cao hơn để trở thành nhà kinh doanh giỏi.



Kết luận

Xây dựng CNXH ở Việt Nam là một sự nghiệp rất khó khăn ,phức tạp ,nó như
cuộc chiến đấu kháng chiến trường kì của Đảng và nhà nước.
Với những bién động trước tình hình kinh tế của nhiều nước trên thế giới đòi hỏi
Đảng và nhà nước phảI kiên trì ,giữ vững lòng tin ,quyết tâm khắc phục khó
khăn ,đồng thời phải tỉnh táo ,nhạy bén thích ứng kịp thời với thực tế biến đổi từng
ngày từng giờ.
Quán triệt phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh ,vận dụng thành thạo phép BCDV vào việc nghiên cứu và quản lý kinh tế
,phát huy mạnh mẽ quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong công cuộc đổi mới nhằm
tăng trưởng nền kinh tế quốc dân ,nhất định chúng ta sẽ trở thành những nhà quản
lý giỏi góp phần xứng đáng vào công cuộc đổi mới của đất nước,tạo điều kiện để
nền kinh tế Việt Nam phát triển cao ,từ đó nâng cao vị trí Việt Nam trên chính
trường quốc tế ,góp phần củng cố sự ổn định về chính trị của đất nước .Đó là
lương tâm của những người làm công tác quản lý kinh tế chính trị.

Chương 1: Triết học và vai trò của nó trong đời sống xã hội
1.Triết học là gì?
1.1. Triết học và đối tượng nghiên cứu của triết học
a. Khái niệm “Triết học”, nguồn gốc của triết học
Triết học ra đời gần như cùng một thời gian (khoảng từ thế kỷ VIII đến thế
kỷ VI TCN) tại một số trung tâm văn minh cổ đại như Trung Hoa, Ấn Độ, Hy Lạp.
Theo người Ấn Độ, triết học đọc là darshana, có nghĩa là sự chiêm ngưỡng,
là con đường suy ngẫm để dẫn dắt con ngời đến với lẽ phải. Còn ở Trung Quốc,
thuật ngữ triết học có gốc ngôn ngữ là chữ "triết". Đó không phải là sự miêu tả, mà
là quá trình tranh luận để tìm bản chất của đối tượng.
Ở phương Tây, thuật ngữ "Triết học" có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp
"Philôsôphia”, nghĩa là "yêu mến sự thông thái". Triết học đợc xem là hình thái cao
nhất của tri thức, có thể làm sáng tỏ bản chất của mọi vật.

Khái quát lại, triết học là một hình thái ý thức xã hội; là hệ thống tri thức lý
luận chung nhất của con ngời về thế giới; về vị trí, vai trò của con ngời trong thế
giới ấy.
Với quan niệm đó, triết học cổ đại không có đối tượng nghiên cứu riêng của mình,
mà đợc xem là "khoa học của mọi khoa học".
Từ thế kỷ XV - XVI đến thế kỷ XVIII, các bộ môn khoa học chuyên ngành,
nhất là khoa học thực nghiệm phát triển mạnh mẽ, dần dần tách ra khỏi triết học,
từng bước làm phá sản tham vọng muốn đóng vai trò "khoa học của mọi khoa học"
của một số học thuyết triết học lúc bấy giờ, đặc biệt là triết học Hêghen.
Đầu thế kỷ XIX, triết học Mác ra đời đã đoạn tuyệt hoàn toàn với quan
niệm trên và xác định đối tợng nghiên cứu của mình là tiếp tục giải quyết mối quan
hệ giữa vật chất và ý thức trên lập trường duy vật triệt để và nghiên cứu những quy
luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. Quan niệm macxit cho rằng:"Triết
học là một trong những hình thái ý thức xã hội, là học thuyết về những nguyên tắc
chung nhất của tồn tại và nhận thức, của thái độ con ngời đối với thế giới; là khoa
học về những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy".
Khác với các khoa học cụ thể chỉ đi vào nghiên cứu từng lĩnh vực riêng biệt
của thế giới, triết học xem xét thế giới nh một chỉnh thể và đem lại một hệ thống
các quan niệm về chỉnh thể đó. Triết học là sự diễn tả thế giới quan bằng lý luận.
Mặc dù có sự khác nhau giữa các hệ thống triết học, nhưng điểm chung của chúng
là đều nghiên cứu những vấn đề chung nhất của tự nhiên, xã hội và con người, mối
quan hệ của con ngời nói chung, của tư duy nói riêng với thế giới.
Như vậy, với tư cách là hệ thống tri thức lý luận chung nhất, khái quát nhất,
triết học không thể ra đời cùng với sự xuất hiện của xã hội loài nười. Triết học chỉ
có thể xuất hiện trong những điều kiện nhất định sau:
Thứ nhất, lao động đã phát triển đến mức có sự phân chia lao động xã hội
thành lao động trí óc và lao động chân tay, tạo điều kiện và khả năng nghiên cứu,
hệ thống hóa các quan điểm, quan niệm rời rạc lại thành học thuyết, thành lý luận
và trên cơ sở đó triết học đã ra đời. Đó là khi chế độ Công xã nguyên thuỷ đã bị
thay thế bằng chế độ Chiếm hữu nô lệ - chế độ xã hội có giai cấp đầu tiên trong

lịch sử nhân loại. Điều đó chứng tỏ rằng, ngay từ khi mới ra đời, triết học tự nó đã
mang trong mình tính giai cấp, phục vụ cho lợi ích của những giai cấp xã hội nhất
định.
Thứ hai, con ngời đã có sự phát triển cả về thể lực và trí lực, có một vốn
hiểu biết nhất định và đạt đến khả năng khái quát hóa, trừu tượng hóa để có thể rút

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×