Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

ĐẶC TRƯNG cơ bản của tư TƯỞNG NÔNG dân và GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC NHỮNG BIỂU HIỆN KHÔNG TÍCH cực của tư TƯỞNG NÔNG dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (486.59 KB, 29 trang )

MỤC LỤC
Trang 3
Trang 3
Trang 5
Trang 5
Trang 5

PHẦN MỞ ĐẦU

1.
2.
3.
4.

Lý do chọn Tiểu luận
Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
Yêu cầu

5. Lịch sử nghiên cứu đề tài
6. Kết cấu của đề tài
PHẦN NỢI DUNG
CHƯƠNG 1: Giai cấp nơng dân Việt Nam, sự hình thành

tư tưởng nông dân và ảnh hưởng của tư tưởng nông dân
trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp nông thôn
1.1 Khái niệm giai cấp nông dân và vai trò của giai cấp nông
dân Việt Nam trong lịch sử
1.1. Khái niệm giai cấp nông dân
1


1.1. Vai trò của giai câp nông dân Việt Nam trong lịch sử
2
1.2 Lịch sử hình thành tư tưởng nông dân Việt Nam
1.2. Khái niệm tư tưởng
1
1.2. Tư tưởng nông dân Việt Nam, sự hình thành, phát triển và
2 tồn tại.
1.2. Những phẩm chất tốt đẹp, đáng tự hào của con người
3 nông dân Việt Nam
1.2. Một số biểu hiện của tư tưởng nông dân trong giai đoạn
4 hiện nay
CHƯƠNG 2: Một số giải pháp khắc phục những biểu
hiện không tích cực của tư tưởng nông dân, trong quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông
thôn ở tỉnh Yên Bái
2.1 Một số giải pháp khắc phục
2.1. Đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
1 nghiệp nông thôn
Nâng cao trình độ dân trí, nâng cao đời sống vật chất, tinh
2.1. thần cho nông dân và phát huy quyền làm chủ của nông
dân – phát huy quy chế dân chủ ở cơ sở.
2
1

Trang 6
Trang 6
Trang 7

Trang 7
Trang 7

Trang 7
Trang 7
Trang 9
Trang 9

Trang 9
Trang 10
Trang 12

Trang 14
Trang 14
Trang 15

Trang 18


2.1. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,
3 nông thôn ở tỉnh Yên Bái.
PHẦN KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHẦN MỞ ĐẦU
2

Trang 20
Trang 26
Trang 29


1. Lý do chọn Tiểu luận

Nước ta có nền nơng nghiệp lâu đời, hơn 70% dân số làm nông
nghiệp. Ở thời kỳ nào, người nông dân và kinh tế nông nghiệp cũng có
mợt vai trò vơ cùng quan trọng trong sự phát triển chung của đất nước
như đời sống vật chất, đời sống tinh thần… Nhận thức đúng đắn được
tầm quan trọng này, trong quá trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước với mục tiêu là đến năm 2020 đưa Việt Nam cơ bản trở thành một
nước công nghiệp. Đảng và Nhà nước ta đặc biệt chú trọng đến vấn đề
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp và phát triển nông thôn. Điều
này được thể hiện rất rõ trong một số chỉ thị, nghị quyết của các đại hội
VI, VII, VIII. Đặc biệt trong đại hội IX, nghị qút TW 5 về “Đẩy mạnh
Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng thơn thời kỳ 2001 –
2010” đã nhấn mạnh “…Ra sức bồi dưỡng sức dân ở nông thơn và phát
huy vai trị của giai cấp nơng dân trong sự nghiệp đổi mới, tập trung sự
chỉ đạo và tạo các nguồn lực cần thiết cho Cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa nơng nghiệp, phát triển nơng thơng tồn diện, tiêu thụ nơng sản
háng hóa, bảo hiểm sản xuất và bảo hiểm xã hội, phát huy lợi thế từng
vùng, giúp đỡ vùng khó khăn, phân bố dân cư theo quy hoạch, phát triển
ngành nghề, giải quyết công ăn, việc làm, xóa đói, giảm nghèo, cải thiện
đời sống, nâng cao dân trí, xây dựng nơng thơng mới”…Vậy có thể
khẳng định: Thiếu sự tham gia của nơng dân thì q trình cơng nghiệp
hóa, hiện đạt hóa đất nước khơng thành cơng.
Tiến trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp và phát triển
nông thôn ở nước ta cho tới nay đã đạt được rất nhiều các thành tựu, tuy
nhiên cũng này sinh rất nhiều vấn đề bất cập và hạn chế như vấn đề đất
đai cho sản xuất nông nghiệp, vấn đề ứng dụng các kỹ thuật hiện đại cho
sản xuất, vấn đề về bao tiêu sản phẩm…Và minh chứng rõ rệt nhất là
mức sống và thu nhập. Thu nhập bình quân của những người thuần túy
sản xuất nông nghiệp rất thấp (tỷ lệ hộ nghèo theo số liệu năm 2005 là
3,9 triệu hộ chiếm 22% số hộ cả nước). Kéo theo đó là sự chênh lệch vơ
cùng rõ rệt mức sống giữa thành thị và nơng thơn, sự phân hóa giàu

nghèo ngày càng cao (mức chênh lệch giữa nhóm hộ giàu nhất và nhóm
hộ nghèo nhất năm 2006 là 8.5 lần trong khi năm 2004 chi ở mức 7.1
lần)...
3


Để thực hiện tốt được tiến trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
nơng nghiệp và phát triển nơng thơn, nhất thiết phải tìm nguyên nhân
cùng các biện pháp phát huy những ưu điểm và khắc phục cho những hạn
chế và bất cập trên. Ngoài những nguyên nhân khách quan, một trong
những nguyên nhân chủ quan mà theo em là hết sức quan trọng xuất phát
từ bản thân người nông dân Việt Nam nói chung, nơng dân tỉnh n Bái
nói riêng. Đó chính là vấn đề về tư tưởng.
Trong tiến trình cơng nghiệp hóa, hiện đại nơng nghiệp và phát
triển nơng thơn của đất nước nói chung, n Bái nói riêng, vai trò của
người nông dân càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết vì đây chính là
lực lượng lao động cơ bản – một trong những yếu tố quyết định đến sự
thành công hay thất bại của tiến trình. Mặt khác, do truyền thống lâu đời,
tư tưởng người nông dân với những biểu hiện của thế giới tinh thần bên
trong như phẩm chất, thái độ, lý tưởng, động cơ, mục đích, giá trị, năng
lực, nhu cầu và những phong tục tập quán, lối sống, nếp nghĩ đã được lưu
truyền từ đời này sang đời khác. Vì vậy việc hiểu, nắm bắt được tư tưởng
người nông dân chính là cách thức quan trọng để tìm ra được những giải
pháp phù hợp, sáng tạo, năng động cho việc phát huy vai trò của người
nơng dân trong tiến trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp và
phát triển nơng thơn. Điều này cũng hoàn toàn phù hợp với chủ trương
của Đảng, chính sách của Nhà nước trong vấn đề chăm lo phát triển
nguồn lực con người phục vụ cho sự phát triển toàn diện của đất nước.
Nhận thức được tính cấp thiết của những vấn đề trên, nên em lựa
chọn đề tài: “Đặc trưng cơ bản của tư tưởng nông dân và giải pháp

khắc phục những biểu hiện khơng tích cực của tư tưởng nông dân ở
tỉnh Yên Bái trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa nơng
thơn”. Với đề tài này, em mong muốn nghiên cứu, tìm hiểu rõ hơn về vai
trò của người nông dân, về sự kế thừa, phát triển và biến đổi của tư tưởng
người nông dân trong từng thời kỳ. Từ việc ý thức được biểu hiện cũng
như ảnh hưởng về tư tưởng của người nơng dân trong tiến trình cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp và phát triển nơng thơn hiện nay để
tìm ra các biện pháp phát huy ưu điểm, khắc phục nhược điểm, nâng cao
hơn nữa vai trò của người nơng dân trong tiến trình cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa nơng nghiệp và phát triển nơng thơn nói riêng, sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nói chung.
4


2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
- Nêu rõ và phân tích vai trò của giai cấp nông dân trong lịch sử.
- Phân tích tư tưởng nông dân Việt Nam: Quá trình hình thành, phát
triển và sự tồn tại.
- Lý giải tại sao cần phải đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn.
- Đề xuất các giải pháp khắc phục những mặt hạn chế, phát huy
mặt tích cực của nông dân trong công cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
nơng nghiệp và nơng thơn.
3. Phương pháp nghiên cứu
Với đề tài này, em sử dụng những phương pháp như sau:
- Phương pháp phân tích.
- Phương pháp tổng hợp.
- Phương pháp lôgíc.
- Phương pháp lịch sử
Khi nghiên cứu vấn đề này, em cần phải kết hợp giữa phân tích và

tổng hợp, đánh giá tình hình cụ thể. Đánh giá khái quát chung vấn đề, kết
hợp lý luận và thực tiễn.
Căn cứ vào những kết qủa nghiên cứu, sưu tầm từ thực tiễn để
chứng minh làm sáng tỏ lý luận con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá
của Đảng và Nhà nước ta.
Bên cạnh đó, phải biết kết hợp chặt chẽ phương pháp lôgic và
phương pháp lịch sử, coi trọng những vấn đề lịch sử cụ thể, trên cơ sở đó
luận giải vấn đề mợt cách khoa học, lôgic, chính xác.
4. Yêu cầu
Nắm vững các vấn đề lý thuyết, lý luận về tư tưởng, về giai cấp
nông dân, về quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Bên cạnh đó tư duy
mợt cách linh hoạt, sáng tạo để liên hệ thực tế ở Yên Bái.
Nắm vững lý thuyết, lý luận. Cần tư duy, sáng tạo.

5. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, vấn đề nông
dân, nông nghiệp nông thôn luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm
đặt lên hàng đầu. Đã có rất nhiều chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về
5


công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn được khẳng định
trong các nghị quyết của một số đại hội:
- Đại hội VI, bước ngoặt trong đổi mới tư duy của Đảng cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nông thôn .
- Đại hội VII và đại hội VIII tiếp tục và khẳng định và làm rõ quan
điểm công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn đã được đề
ra từ đại hội VI.
- Đại hội IX , đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 5 về “Đẩy mạnh
cơng nghiệp hố, hiện đại hố nơng nghiệp, nơng thơn thời kỳ 2001 –

2010” đã làm rõ hơn quan điểm của Đảng về cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa nơng nghiệp, nông thôn.
Một số phương tiện thông tin đại chúng, một số báo, tạp chí cũng
đề cập đến vấn đề nông dân, nơng nghiệp, nơng thơn như: Tạp chí Cộng
sản, Cơng tác thông tin - Lý luận…Trong các sách: Con đường cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng thơn…; Mợt số vấn đề về
công tác vận động nông dân, Dân vận…
Trên cơ sở đó, bản thân em thấy cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu vấn
đề nông dân và tư tưởng nơng dân, góp phần tổng kết, rút kinh nghiệm,
đề ra các giải pháp để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nơng nghiệp, nơng thơn, phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành nước
công nghiệp vào năm 2020.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài gồm hai chương chính:
Chương 1: Giai cấp nông dân Việt Nam, sự hình thành tư tưởng
nông dân và ảnh hưởng của tư tưởng nông dân trong tiến trình cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nông thôn.
Chương 2: Một số giải pháp khắc phục những biểu hiện không tich
cực của tư tưởng nông dân trong quá trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
nơng nghiệp, nơng thôn ở tỉnh Yên Bái.

6


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
GIAI CẤP NÔNG DÂN VIỆT NAM, SỰ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG NÔNG
DÂN VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG NÔNG DÂN TRONG TIẾN TRÌNH
CÔNG NGHIỆP HOÁ – HIỆN ĐẠI HOÁ NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN


1.1 Khái niệm giai cấp nông dân và vai trò của giai cấp nông
dân Việt Nam trong lịch sử
1.1.1 Khái niệm giai cấp nông dân
Khái niệm về nông dân: Nông dân là người lao động cư trú ở
nông thôn sống chủ yếu bằng nghề làm ruộng, sau đó bằng các ngành,
nghề mà tư liệu sản xuất chính là đất đai tùy theo từng thời kỳ lịch sử ở
từng nước, có quyền sở hữu khác nhau vè ruộng đất. Những người này
hình thành nên giai cấp nông dân.
Khái niệm giai cấp nông dân:
Theo Bách khoa toàn thư: Giai cấp nơng dân là bao gồm những
tập đồn người sản xuất nhỏ hoặc làm thuê cho địa chủ và cho phú nông
trong nông nghiệp dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân về ruộng đất.
Vậy giai cấp nông dân là những người sống lâu đời ở nông thôn
(làng, bản, ấp) lấy sản xuất nông nghiệp làm nguồn sống chính dưới hình
thức tư hữu nhỏ. Nơng dân là lực lượng cách mạng trong cuộc cách
mạng dân tộc dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Có thể thấy giai cấp nông dân ở nước ta là lực lượng quan trọng, là
lực lượng cơ bản cùng giai cấp công nhân hợp thành đội quân chủ lực của
cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đưa nông dân đi theo con đường cách mạng
xã hội chủ nghĩa là tạo ra một lực lượng chủ yếu trong cuộc cải tạo và
xây dựng chủ nghĩa xã hợi ở nước ta.
1.1.2 Vai trị của giai cấp nông dân Việt Nam trong lịch sử
Chủ nghĩa Mác –Lê Nin đã từng khẳng định vai trò của quần chúng
nông dân lao động là người quyết định, là người sáng tạo chân chính ra
lịch sử xã hội. Ở nước ta, nông dân chiếm hơn 70% số dân cả nước – họ
là một bộ phận của dân cư, là lực lượng đông đảo trong quần chúng nhân
dân lao động, là động lực cách mạng xã hội chủ nghĩa và chính họ là một
trong những lực lượng trực tiếp sản xuất ra của cải nuôi sống xã hội.
7



Là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội, song trước sau họ vẫn
không thay đổi được phương thức sản xuất để hình thành một mô hình xã
hội tiến bộ hơn. Vì vậy, họ không trở thành giai cấp lãnh đạo cách mạng
mà chỉ có thể liên minh với giai cấp công nhân, tầng lớp trí thức và các
giai tầng xã hội khác cùng giai cấp công nhân thực hiện c̣c cách mạng
giải phóng mình, giải phóng dân dợc do giai cấp công nhân lãnh đạo.
Chủ nghĩa Mác-LêNin cho rằng: “Giai cấp nông dân muốn giành
thắng lợi trong cách mạng thì phải tập hợp được giai cấp nơng dân,
tranh thủ họ, đoàn kết họ trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản và
các thế lực áp bức, bóc lột khác.”
Vận dụng quan điểm trên của chủ nghĩa Mác-LêNin vào hoàn cảnh
cụ thể nước ta, Đảng và Bác Hồ sớm nhận thấy: Nông dân là lực lượng
cách mạng to lớn, một người bạn đồng minh tự nhiên, tin cậy, trung
thành của giai cấp công nhân. Nông dân và công nhân là đội quân chủ
lực của cách mạng “là gốc cách mệnh”. Sau này, Bác tiếp tục khẳng
định: “Nông dân là một lực lượng to lớn của dân tộc, một đồng minh rất
trung thành của giai cấp công nhân.”
Trong quá trình tổng kết lãnh đạo cách mạng, Bác lại một lần nữa
khẳng định: “Trải qua các thời kỳ, Đảng ta đã nắm vững và quyết định
đúng đắn vấn đề nông dân, củng cố được liên minh công nông. Đảng ta
đấu tranh chống xu hướng “hữu khuynh” và “tả khuynh” đánh giá vai
trị của nơng dân là qn chủ lực của cách mạng, là bạn đồng minh chủ
yếu và tin cậy của giai cấp công nhân, là lực lượng cơ bản cùng với giai
cấp công nhân xây dựng xã hội chủ nghĩa.”
Trên cơ sở đánh giá đúng vai trò của giai cấp nông dân, Đảng và
Bác Hồ luôn coi trọng công tác vận động nông dân đã sớm xây dựng
được khối liên minh cơng nơng vững chắc và có những chủ trương chính
sách thích hợp để tạo nên những thành quả to lớn trong c̣c cách mạng
giải phóng dân tợc, bảo vệ xây dựng đất nước.

Trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nói chung; cơng
nghiệp hoá, hiện đại hoá nơng nghiệp, nơng thơn nói riêng, giai cấp nơng
dân ngày càng có vai trò quan trọng hơn để góp phần vào việc thực hiện
công cuộc đổi mới, xây dựng một nước Việt Nam ngày một phát triển và
giàu mạnh hơn.
1.2 Lịch sử hình thành tư tưởng nơng dân Việt Nam
8


1.2.1. Khái niệm tư tưởng
Trước khi đi sâu tìm hiểu lịch sử hình thành tư tưởng nông dân
Việt Nam chúng ta cần thống nhất khái niệm tư tưởng.
Khái niệm tư tưởng: Tư tưởng với tư cách là sản phẩm tinh thần
của con người, ln tồn tại. Nó xuất hiện một cách tự nhiên do nhu cầu
nhận thức của con người, phục vụ cho sự phát triển. Có thể nói tư tưởng
là một trong những sản phẩm quan trọng nhất của đời sống mà con
người hồn tồn có quyền tự hào, thứ sản phẩm còn cao hơn và tinh xảo
hơn mọi thứ sản phẩm công nghiệp hay công nghệ tinh xảo nhất.”
1.2.2 Tư tưởng nơng dân Việt Nam, sự hình thành, phát triển và
tồn tại
Một trong những điều kiện chi phối lớn nhất sự hình thành tư
tưởng nông dân Việt Nam là điều kiện kinh tế, xã hội.
Từ bao đời nay với nền sản xuất nhỏ tự cấp, tự túc đã tạo lập cho
người nông dân Việt Nam tư tưởng làm ăn nhỏ lẻ manh múm, trì trệ. Nền
kinh tế tiểu nông, độc canh nghèo nàn, lạc hậu lại không ổn định, chủ yếu
phụ thuộc vào tự nhiên đã tạo cho người nơng dân tư tưởng “khép mình”
trong mợt khn khổ có sẵn.
Mặt khác, nước ta lại bị đơ hợ thống trị trong một thời gian rất dài
nên cuộc đời của người nông dân từ thế hệ này sang thế hệ khác ln bị
các thế lực thống trị đè nén, bóc lột. Cuộc sống của họ vô cùng cực khổ,

cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, thiếu thốn đủ thứ và nạn đói thường
xuyên xảy ra, đe dọa họ. Đã có rất nhiều c̣c khởi nghĩa chống lại chế
đợ phong kiến và thực dân nhưng tất cả đều thất bại. Vì vậy tâm lý bất
lực, cam chịu, nhẫn nhục càng ăn sâu vào suy nghĩ của người nông dân.
Bên cạnh đó, cần phải kể đến những tư tưởng cổ hủ phong kiến,
ảnh hưởng của tôn giáo nhằm duy trì ý thức hệ phong kiến đã thâm nhập
vào nông dân, kết hợp với tư tưởng hẹp hòi, bè phái cục bộ, chủ nghĩa
bình quân, chủ nghĩa kinh nghiệm, tự do, tùy tiện, chủ nghĩa cá nhân... đã
làm cho nhận thức của nơng dân có sự phân hóa.
Do quan hệ làng xóm có tính chất khép kín đã ảnh hưởng tới việc
hình thành và phát triển ý thức tâm lý của người nông dân Việt Nam. Họ
quen tự lực, tự cung, tự cấp, làm được bao nhiêu thì ăn bấy nhiêu với mợt
tâm lý tự ty, tư duy lạc hậu, khơng có thói quen chấp hành pháp luật, có
xu hướng chống lại những tổ chức, thể chế, những quy phạm được thiết
9


lập qua nhiều thế hệ... Bên cạnh đó, tư tưởng “bám đất, bám làng” càng
tạo cho họ nếp sống bảo thủ, chật hẹp, không muốn đi xa, ngại tiếp xúc
với cái mới... Chính những đặc tính này đã tác động không nhỏ tới tư
tưởng và hành động của người nông dân.
Vào thời kỳ những năm cuối thập niên 80, đầu thập niên 90 trong
quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhà nước đã duy trì quá lâu cơ chế
tập trung quan liêu, bao cấp làm cho một bộ phận nơng dân có tư tưởng
trơng chờ, ỷ lại, hạn chế sự sáng tạo, năng động của nông dân, kìm hãm
sự phát triển của đất nước.
Trên đây là một số những đặc điểm nhưng nó đã chi phối khơng
nhỏ đến tư tưởng của người nông dân nước ta. Hiện nay, cơ chế thị
trường đã tác động đến mọi mặt đời sống của người nông dân. Bên cạnh
những mặt tích cực, ta không thể không nhắc đến mặt tiêu cực của cơ chế

thị trường, chính cơ chế thị trường đã làm nảy sinh, tạo mơi trường phát
triển cho những thói quen, tật xấu trong đời sống người nông dân. Điều
này cho thấy, lịch sử phát triển của giai cấp nông dân từ chế độ cộng sản
nguyên thủy tan rã cho đến nay chưa bao giờ trở thành một hệ tư tưởng
và chưa bao giờ có tư tưởng riêng.
Trong các thời kỳ khác nhau hoặc họ đi theo hệ tư tưởng giai cấp
này, hoặc đi theo tư tưởng giai cấp khác. Chính những hạn chế này đã
ảnh hưởng không nhỏ đến tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp, nông thôn.
1.2.3. Những phẩm chất tốt đẹp, đáng tự hào của con người
nông dân Việt Nam
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, hình ảnh người nông dân
nước ta luôn hiện lên với đầy đủ nững phẩm chất truyền thống tốt đẹp của
của con người Việt Nam. Hiện nay, với đặc điểm nước ta có hơn 70%
dân số là nơng dân cho thấy rằng: Nông dân luôn là một bộ phận quan
trọng của dân cư, lịch sử hình thành và phát triển của giai cấp nông dân
luôn gắn liền với lịch sử dân tộc Việt Nam. Vì vậy trong mỗi thời kỳ, mỗi
giai đoạn cụ thể người nông dân luôn thể hiện được truyền thống cần cù
trong lao động, dũng cảm trong chiến đấu, tình làng nghĩa xóm sâu nặng
và lịng nhân nghĩa thủy chung...
Ngay từ xưa, người nông dân Việt Nam đã có bản chất cần cù
trong lao đợng, chăm chỉ hăng hái tham gia sản xuất. Đức tính này một
10


phần do con người và do hoàn cảnh địa lý, thiên nhiên tạo nên. Vì vậy, để
kiếm miếng cơm, manh áo, để duy trì sự sống của mình, những người
nông dân không còn con đường nào khác là phải chống chọi với thiên
nhiên. Thiên nhiên càng khắc nghiệt càng hình thành nên đức tính cần cù,
dũng cảm, hăng say lao đợng, dẻo dai chịu thương chịu khó của họ.

Ngày nay, người nơng dân Việt Nam đã có sự chuyển biến trên
nhiều phương diện do quá trình tổ chức lại sản xuất nông nghiệp, lấy giá
trị sản xuất làm thước đo hiệu quả lao đợng, những thói quen, nếp nghĩ cũ
dần dần đã được thay đổi, thay vào đó là những tư tưởng đạo đức mới.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, chính sách của nông nghiệp nông dân
Việt Nam ngày càng có những thay đổi tích cực trong suy nghĩ, đáp ứng
nhịp đợ phát triển chung của đất nước. Có thể nói người nơng dân ngày
nay rất tiến bợ, họ coi lao động cho mình và cho xã hội vừa là quyền lợi,
vừa là nghĩa vụ của mình.
Trong tác phẩm “Giai cấp công nhân và vấn đề nông dân”,
Nguyên Tổng Bí thư Lê Duẩn đã viết “Nông dân Việt Nam đã có một
truyền thống anh hùng, chiến thắng ngoại xâm để xây dựng nhà nước,
nông dân Việt Nam cũng đã ghi lại những trang sử oai hùng chống
phong kiến, địa chủ…”
Nông dân việt nam đã hàng ngàn năm sống dưới chế độ phong kiến
và hơn một trăm năm bị thực dân, đế quốc đô hộ, đời sống của họ vô
cùng cực khổ, họ chỉ biết trông vào đồng ruộng, tư tưởng “con trâu đi
trước, cái cày theo sau’’ luôn bám rễ trong tư duy lao động. Mặt khác do
đặc điểm của làng xã Việt Nam đã tạo cho người nông dân mợt tình u
q hương, làng xóm, u đất nước nồng nàn và sâu sắc. Lối sống giản
dị, chất phác, chân thực, trong sáng đã củng cố, bồi đắp thêm tinh thần
dân tộc, tinh thần yêu thương đùm bọc lẫn nhau trong mỗi người dân,
sống tình cảm yêu thương đùm bọc những người cùng cảnh ngộ với tinh
thần “tương thân tương ái”, chính những tình cảm đó đã hình thành nên
tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái tạo nên sức mạnh lớn cùng cả dân
tộc ta vượt qua bao thử thách, khó khăn. Những giá trị đạo đức ấy là
truyền thống tốt đẹp của người nông dân Việt Nam được kết tinh và
truyền dạy từ bao đời nay, nó đã trở thành các chuẩn mực đạo đức xã hội,
giá trị văn hoá của dân tộc.
11



Sự nghiệp đổi mới của đất nước ta trong thời gian qua đã làm thay
đổi một phần không nhỏ đời sống nông dân Việt Nam. Hy vọng, với một
hoàn cảnh sống mới, một nền nông nghiệp mới, một diện mạo nông thôn
mới đang từng ngày khởi sắc, giai cấp nông dân trong tiến trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn sẽ hình thành những
chuẩn mực về hệ tư tưởng dựa trên những giá trị kế thừa và phát huy từ
bản sắc dân tộc Việt Nam.
1.2.4. Một số biểu hiện của tư tưởng nông dân trong giai đoạn
hiện nay
Giai cấp nông dân được hình thành và phát triển gắn liền với từng
giai đoạn lịch sử cụ thể của nước ta. Mợt đất nước có nền kinh tế th̀n
nơng với hơn 70% dân số làm nông nghiệp, nên trong tư tưởng của đại bộ
phận của giai cấp nông dân nếp sống, nếp nghĩ còn còn một số biểu hiện
không tích cực như: trì trệ, phụ thuộc, làm ăn nhỏ lẻ… Ngày nay trong
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nơng nghiệp, bên cạnh những
biểu hiện đã có, tư tưởng nơng dân còn có những diễn biến theo theo
chiều hướng tích cực hơn.
Tư tưởng nơng dân Việt Nam có nguồn gốc chủ yếu từ một nền sản
xuất nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ lẻ manh mún. Vì thế trong một
thời gian khá dài đã tạo nên tâm lí “an phận thủ thường”, tự bằng lòng
với những thứ đã có, họ khơng còn ý chí phấn đấu, ln sống trong sự sắp
đặt sẵn phụ thuộc nhiều vào tự nhiên, chấp nhận những điều kiện tổ chức,
những thể chế quy phạm được thiết lập qua nhiều thế hệ. Cuộc sống của
họ chỉ biết quanh quẩn bên ruộng, vườn, con trâu cái cày ít được tiếp xúc
với cuộc sống bên ngoài. Tâm lí “khéo ăn thì no, khéo co thì ấm”, “năng
nhặt, chặt bị”, tạo nên thói quen làm ra của cải dư thừa để tích trữ, việc
mua sắm những tiện nghi sinh hoạt trong nhà, cao hơn nữa là làm nhà cao
cửa rộng họ vẫn chưa dám nghĩ tới. Chính những điều này đã tạo nên

những suy nghĩ mang tính cục bộ, bảo thủ, hẹp hòi… Ngày nay trong quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá tư tưởng cục bộ, đố kỵ, hẹp hòi, tự ti,
tuỳ tiện ngày càng được hiện rõ hơn:
Ở nhiều vùng nông thôn nước ta, hiện tượng nơng dân sống thờ ơ,
vơ trách nhiệm trước khó khăn, hoạn nạn của người khác vẫn còn tồn tại
họ chỉ biết “đèn nhà ai, nhà ấy rạng”, “mạnh ai người ấy thắng” hay thái
12


độ nể nang, né tránh thấy sai hay đúng đều không dám đưa ra chính kiến
của mình.
Bản thân những người nông dân mang tư tưởng tư hữu, sản xuất
nhỏ, lạc hậu, manh mún. Mác viết: “Tiểu nông là một khối quần chúng
rộng lớn mà tất cả các thành viên đều sống trong những điều kiện như
nhau, nhưng khơng có được mối quan hệ về nhiều mặt ràng buộc với
nhau, phương thức sản xuất của họ không làm cho họ liên kết với nhau
mà làm cho họ tách rời nhau…” (Mác-Ăng ghen tuyển tập).
Chúng ta không phủ nhận vai trò to lớn của giai cấp nông dân bởi
chính sự tham gia của nông dân mới làm nên thắng lợi của cuộc cách
mạng dân tộc nhưng ở họ vẫn luôn tồn tại những tính toán, sự ích kỷ,
những tính toán hẹp hòi đố kị. Vì thế giai cấp nông dân không thể có mợt
vị trí riêng, vị trí đợc lập cho riêng mình vì họ không đại diện cho một
phương thức nào.
Như vậy, những biểu hiện không tích cực trong tư tưởng của người
nông dân hiện nay đang là vấn đề bức xúc, mợt bài toán khó giải đặt ra
cho nhà nước ta.
Những tư tưởng không tích cực này đang cản trở thậm chí đưa đến
những hậu quả không tốt trong quá trình cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước nói chung và công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông
thôn nói riêng. Vì vậy để giải quyết tốt những vấn đề nêu trên cần phải có

các giải pháp phù hợp, kiên trì, với các bước đi cụ thể để nông dân thực
sự trở thành lực lượng chủ chốt với những người lao đợng mới, có ý chí,
kiến thức khoa học kĩ thuật, có văn hoá kỷ cương để phục vụ đắc lực cho
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước mà trước hết là công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nơng nghiệp nơng thơn.

CHƯƠNG 2
MỢT SỚ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC NHỮNG BIỂU HIỆN KHƠNG
TÍCH CỰC CỦA TƯ TƯỞNG NƠNG DÂN TRONG QUÁ TRÌNH CƠNG
NGHIỆP HĨA - HIỆN ĐẠI HĨA NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN
Ở TỈNH YÊN BÁI

13


2. 1 Một số giải pháp khắc phục
Hiện nay, tư tưởng của người nông dân còn một số biểu hiện không
tích cực nhưng chúng ta cũng không thể phủ nhận vai trò và những đóng
góp to lớn của nơng dân vào sự ổn định và phát triển đất nước. Nền nông
nghiệp nước ta từ một nền nông nghiệp tự cung tự cấp, lạc hậu, thiếu
lương thực triền miên đến nay cơ bản đã chuyển sang sản xuất hàng hoá,
phát triển tương đối toàn diện và liên tục với tốc độ cao, nhiều mô hình,
tấm gươnǵ lao động, sản xuất giỏi đã xuất hiện. Đặc biệt trong tâm lí của
người nông dân Việt Nam đã có sự biến đổi từ “ tư duy làm cò con, manh
múm chuyển sang tư duy kinh tế, mạnh dạn sáng tạo và hiệu quả”. Từ
quan niệm coi buôn bán là xấu, chuyển sang nhu cầu giao lưu với tất cả
các vùng trong và ngoài nước, buôn bán ngày càng được mở rộng. Nhu
cầu “ăn no mặc ấm” ở một số nơi đang chuyển thành “ăn ngon, mặc
đẹp”. Tâm lý “an phận thủ thường” được chuyển hoá thành tâm lý
không bằng lòng, không thoả mãn, không chấp nhận đói nghèo mà muốn

vươn lên làm giàu chính đáng. Giờ họ đã mạnh dạn tiếp thu kỹ thuật mới,
làm ăn có tính toán hiệu quả.
Tuy nhiên, vấn đề đang cần phải bàn và đáng bàn ở đây là thực
trạng nông nghiệp, nông thôn nước ta cần giải quyết như: Sự đầu tư cho
nông nghiệp, vấn đề ruộng đất cho bà con nông dân, việc làm, chế biến,
tiêu thụ nơng sản, bảo hiểm xã hội… Thêm vào đó, trong tư tưởng người
nông dân hiện nay còn xuất hiện những biểu hiện tiêu cực như: Chủ
nghĩa cá nhân, chủ nghĩa bình qn, cục bộ, ích kỉ, hẹp hịi, thực dụng
chạy theo đồng tiền…, quan hệ giữa hàng xóm, láng giềng với nhau thì
có nguy cơ bị mai một …
Để khắc phục những nhược điểm trên đồng thời phát huy mặt tích
cực em xin trình bày một số giải pháp để góp phần thúc đẩy nhanh tiến
trình cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nói chung, tiến trình cơng
nghiệp hoá, hiện đại hoá nơng nghiệp, nơng thơn nói riêng.
2.1.1 Đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp nông thôn.
Theo văn kiện Đại Hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng, thì
công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của thời kì quá
độ. Đảng ta đã xác định thực chất của công nghiệp xã hội chủ nghĩa là
“tái sản xuất mở rộng quá trình thực tiễn cách mạng khoa học kỹ thuật,
14


thực sự phân công mới về lao động xã hội và q trình tích luỹ xã hội
chủ nghĩa để khơng ngừng hồn thiện”.
Hợi nghị Ban chấp hành TW lần thứ 7 khoá VI và đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VII, Đảng cộng sản Việt Nam một lần nữa xác định:
“Cơng nghiệp hố, hiện đại hố là q trình chuyển đổi căn bản toàn
diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ quản lý kinh doanh,
dịch vụ và quản lý kinh tế – xã hội từ sử dụng sức lao động thủ cơng là

chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ,
phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên nền văn minh xã
hội. Cải biến kỹ thuật, tạo dựng nền cơng nghiệp theo hướng hiện đại
(khía cạnh vật chất – kỹ thuật) và phát triển kinh tế thị trường (khía cạnh
cơ chế, thể chế) là hai mặt của quá trình cơng nghiệp hóa duy nhất”.
Mục tiêu tổng quát và lâu dài của công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nông nghiệp, nông thôn là xây dựng một nền nông nghiệp sản xuất hàng
hóa lớn, hiệu quả và bền vững, xây dựng một nền nông thôn ngày càng
giàu đẹp, dân chủ, công bằng, văn minh, có cơ cấu kinh tế hợp lý.
Nơng thôn Việt Nam chiếm gần 80% dân số, 72% nguồn lao động
xã hội, nhưng mới tạo ra khoảng 1/3 tổng sản phẩm quốc dân (1996). Do
vậy cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng thơn khơng những
là quan trọng, mà còn có ý nghĩa quyết định đối với quy mô và tốc độ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Cho nên, Đảng và nhà nước ta rất coi trọng vấn đề của nông thôn,
nông nghiệp trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nghị quyết
Đại hội lần thứ VIII của Đảng chỉ rõ : « Đặc biệt coi trọng cơng nghiệp
hố, hiện đại hố nơng nghiệp, nơng thơn. Phát triển tồn diện nơng lâm,
ngư nghiệp gắn liền với công nghiệp chế biến nông – lâm – thủy sản ;
phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu ». Nhờ
quán triệt những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, sự phát
triển của công nghiệp nông thôn thời gian qua được đánh giá tổng quát
như sau :
Về cơ bản, công nghiệp kể cả dịch vụ nông thôn, chỉ được xem
như những ngành phụ để giải quyết thời gian nông nhàn và lao động dư
thừa ở nông thôn. Tuy vậy, trong mấy năm gần đây, công nghiệp và dịch
vụ nông thôn đã bắt đầu phát triển.
15



Cơ cấu nông nghiệp, nông thôn đã thay đổi theo hướng thích ứng
với cơ chế kinh tế mới trong điều kiện mới. Sự thay đổi rõ nhất trong cơ
cấu thành phần kinh tế là kinh tế hộ gia đình và các doanh nghiệp tư
nhân, trách nhiệm hữu hạn tăng lên mợt cách nhanh chóng, trong khi các
hợp tác xã và kinh tế nhà nước giảm đi rõ rệt.
Nhiều ngành kinh tế, sản phẩm truyền thống bị mai một đã dần
dần được khôi phục do yêu cầu khách quan của nền kinh tế, của thị
trường trong nước và quốc tế. Sự khôi phục này thường gắn liền với sự
đổi mới, hiện đại hóa các sản phẩm và cơng nghệ trùn thống. Mặt khác,
nhiều làng trùn thống được khơi phục lại có sức lan tỏa khá mạnh sang
các khu vực lân cận.
Tuy nhiên đến nay công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thơn còn
gặp nhiều khó khăn. Trước hết là tình trạng kinh tế thuần nông, cây lúa
chiếm tỷ lệ cao, sức mua còn rất nhỏ, trình độ kỹ thuật của công nghiệp
nông thôn còn thấp cả về sản phẩm, thiết bị lẫn công nghệ. Trừ một số
mặt hàng thủ công mỹ nghệ, sản phẩm cơng nghiệp nơng thơn có chất
lượng thấp, mẫu mã kiểu dáng chậm thay đổi, tốn nhiều nguyên vật liệu,
năng lượng, phần lớn thiết bị và công nghệ sản xuất của công nghiệp
nông thôn là công cụ thủ công cải tiến hoặc thiết bị thải, loại của các cơ
sở công nghiệp đô thị. Công nghiệp nông thôn nước ta phát triển không
đồng đều, mới chỉ tập trung ở những địa phương có ngành nghề trùn
thống ở ven đơ thị, đầu mối giao thông quan trọng.
Hội nghị lần thứ 5 BCH TW khóa IX đã xác định nợi dung tổng
quát quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nơng thơn như
sau: «Cơng nghiệp hố, hiện đại hố nơng nghiệp là q trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nơng nghiệp theo sản xuất hàng hóa lớn, gắn với
cơng nghiệp chế biến và thị trường, hồn thiện cơ khí hóa, điện khí hóa,
thủy lợi hóa, ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ trước hết là
công nghệ sinh học, đưa thiết bị nhằm nâng cao năng suất, chất lượng
hiệu quả, sức cạch tranh của nơng sản hàng hóa trên thị trường ».

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn là quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tăng nhanh tỷ trọng sản phẩm và lao
động nông nghiệp; xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, quy hoạch
phát triển nông thôn, bảo vệ môi trường sinh thái, tổ chức lại sản xuất và
xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp; xây dựng nông thôn dân chủ, công
16


bằng, văn minh, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của
nhân dân ở nông thôn.
Vì thế để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp, nông thôn cần tăng cường vai trò của nhà nước và của nông dân.
* Đối với nhà nước :
Trong thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông
thôn. Nhà nước ta cần phải đổi mới nội dung và phương pháp. Cần điều
chỉnh cơ cấu đầu tư của toàn bộ nền kinh tế theo hướng ưu tiên tập trung
vốn đầu tư cho nông nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến nông – lâm thuỷ sản.
Tăng tỉ lệ vốn đầu tư cho công nghiệp và dịch vụ nông thôn, đầu tư
cho hạ tầng. Cần quan tâm đến các nghành công nghiệp mới ở nông thôn,
những nghành vùng, vùng cơng nghiệp hiện có ở thành phố; đầu tư ứng
dụng và chuyển giao khoa học, công nghệ cho sản xuất, coi đây là khâu
đột phá quan trọng nhất để thúc đẩy phát triển nông thôn và kinh tế nông
thôn. Trước hết cần tập trung vào công nghệ sinh học, chương trình giống
cây trồng, vật nuôi công nghệ bảo quản và chế biến nông – lâm - thuỷ
sản.
Phát triển mạnh các nghành nghề, làng nghề thủ công truyền thống
ở nông thôn, bao gồm các nghành nghề mới được hình thành, chuyển sản
xuất hàng thủ công mỹ nghệ hoặc chế biến nông – lâm - thuỷ sản sang
phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Cần khuyến khích các làng
nghề ở nông thôn phát triển theo hướng sử dụng công nghệ hiện đại kết

hợp với phát huy kinh nghiệm truyền thống. Nhà nước hỗ trợ vốn, cán bộ,
kĩ thuật, công nghệ, tạo thị trường, có chính sách miễn giảm thuế, đào tạo
tay nghề và cho vay vốn với lãi xuất ưu đãi nhất.
Bên cạnh nhà nước hỗ trợ vốn. Nhà nước ta cần thu hút mạnh mẽ
mọi nguồn vốn trong nước và vốn đầu tư nước ngoài vào nông nghiệp và
nông thơn. Đây là giải pháp rất có ý nghĩa đối với mục tiêu chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn trong giai đoạn công nghiệp hoá,
hiện đại hoá.
* Đối với nông dân
Tuyên truyền, giáo dục làm cho nông dân nhận thức đúng về công
nghiệp hoá, hiện đại hoá là việc của chính mình, cần thực hiện công việc
này với ý nghĩa là người chủ; nhận thức được mối quan hệ giữa nghĩa vụ
17


và quyền lợi, lợi ích của mình gắn với lợi ích của giai cấp công nhân và
tầng lớp trí thức và lợi ích chung của dân tộc .
Vận động nông dân thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp, nông thôn bằng nhiều hình thức và mức độ khác nhau tuỳ theo
từng vùng, chú ý vận động nông dân thành thị tiết kiệm trong tiêu dùng
để hoàn thiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá ngay tại bản làng, thôn, xã.
Với phương châm ‘‘nhà nước và nông dân cùng làm’’ được phát huy một
cách đúng đắn, phối hợp với từng vùng. Kết quả thực hiện phương châm
này được thực hiện trong xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn, đưa tiến bộ
khoa học, kĩ thuật vào nông nghiệp, phát triển kinh tế trang trại, mở rộng
nghành nghề trong nông nghiệp và nơng thơn.
2.1.2 Nâng cao trình đợ dân trí, nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần cho nông dân và phát huy quyền làm chủ của nông dân –
phát huy quy chế dân chủ ở cơ sở.
Việt Nam tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước với

xuất phát điểm là một nước nông nghiệp lạc hậu phần đông dân trí của
nông dân còn thấp, chưa được đào tạo bài bản về chuyên môn nghề
nghiệp.
Đảng ta xác định cùng với việc phát triển nhiều nghành khoa học,
thì phát triển giáo dục - đào tạo là công việc được đưa lên hàng đầu. Phát
triển giáo dục phải bằng nhiều hình thức đa dạng, bảo đảm công bằng xã
hội, mọi người nông dân, con em nông dân đều được đi học, góp phần
nâng cao dân trí đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đáp ứng yêu cầu sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nói chung và cơng nghiệp hoá, hiện
đại hoá nhà nước, nơng thơn nói riêng.
Đẩy mạnh phong trào ‘‘Tồn dân đồn kết xây dựng đời sống văn
hố’’, xây dựng làng, xã văn hoá, gia đình văn hoá, phát huy những
truyền thống tốt đẹp, thuần phong mỹ tục, bài trừ các hủ tục ‘‘mê tín dị
đoan’’, các tệ nạn xã hội như: Cờ bạc, rượu chè, ma tuý, mại dâm... Phát
huy tình làng nghĩa xóm, tinh thần đoàn kết, xây dựng các quy ước về
nếp sống văn minh ở các thôn, làng... trên cơ sở pháp luật của nhà nước;
xây dựng nhiều điển hình về kinh tế, văn hoá trong mỡi gia đình con
người nơng dân.
Bên cạnh đó ta khơng thể khơng nói tới văn hoá. Văn hoá có vị trí
rất quan trọng trong việc hình thành nhân cách, làm phong phú đời sống
18


tinh thần của con người . Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là
mục tiêu, vừa là động lực để thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội. Vì
thế cần phát triển và tăng cường mạng lưới thiết chế văn hoá, thông tin,
tuyên truyền ở cơ sở để nâng cao dân trí, tạo cho người dân tham gia sáng
tạo văn hoá. Cần phải đảm bảo cho mọi người dân đều được chăm sóc
sức khoẻ, nâng cao thể chất phát động các phong trào thể thao như:
Tổ chức mở rộng các hoạt động văn hoá, văn nghệ, truyền thanh,

vệ sinh môi trường, y tế... nhằm đáp ứng từng bước những nhu cầu về
văn hoá, sức khoẻ cho nông dân.
Khi đã nâng cao được trình độ dân trí, nâng cao đời sống vật chất
và tinh thần của người nông dân cần phải phát huy được quyền làm chủ
và phát huy quy chế dân chủ ở cơ sở .
Để phát huy dân chủ trong nông dân, cần phải đẩy mạnh công tác
tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng sâu rộng trong nông dân về chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước. Phát
huy tinh thần tự giác, hăng hái cách mạng, nâng cao lòng yêu nước và
tinh thần quốc tế chân chính, tin tưởng vào mục tiêu, lý tưởng cách mạng
và sự lãnh đạo của Đảng. Mọi việc thực hiện theo nguyên tắc ‘‘dân biết,
dân bàn, dân kiểm tra’’, chống mọi biểu hiện quan liêu, mệnh lệnh coi
thường dân.
Giáo dục bồi dưỡng đạo đức lối sống, phát huy truyền thống bản
sắc văn hoá: nhân hậu, thuỷ chung, có ý thức làm chủ và ý thức trách
nhiệm cộng đồng, thực hiện ‘‘người tốt việc tốt’’, ‘‘lá lành đùm lá rách’’,
xoá đói giảm nghèo, từng bước hình thành những chuẩn mực đạo đức lối
sống con người mới, chống những lề thói cổ hủ, lạc hậu, những biểu hiện
của lối sống phi văn hoá, coi đồng tiền là tất cả.
Phát huy hơn nữa vai trò của các đoàn thể, các tổ chức chính trị
của xã hội ở nông thôn để tập hợp nông dân, thông qua đó bồi dưỡng giáo
dục nâng cao nhận thức của của mỗi người dân và phát huy quyền làm chủ
của họ trong đời sống xã hội.
Xây dựng hệ thống chính trị ở nông thôn thực sự vững mạnh, đẩy
mạnh thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở nhằm tạo bầu không khí dân chủ
ở nông thôn, chống nạn tham nhũng, quan liêu, tham gia xây dựng Đảng,
củng cố chính quyền ở cơ sở thật trong sạch và vững mạnh. Việc thực
hiện quy chế dân chủ ở cơ sở cần gắn liền bới c̣c vận đợng ‘‘tồn dân
19



đồn kết xây dựng đời sống văn hố’’. Nâng cao bồi dưỡng chất lượng tổ
chức cán bộ hội cơ sở, nâng cao chất lượng và chất lượng hội viên. Thực
hiện quy chế dân chủ, nhất là ở cơ sở sẽ góp phần vào việc xây dựng nhà
nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân.
Bên cạnh đó các mặt trận, đoàn thể, các hợi (Hội Nơng dân, Đồn
thanh niên, Hội Phụ nữ...) cần phải phối hợp với mọi người để tuyên
truyền, bồi dưỡng, giáo dục người nông dân mới trong đó Hợi Nơng dân
giữ vai trò chủ chốt.
Trước hết cần giáo dục nâng cao thái độ giác ngộ chính trị, tinh
thần yêu nước cho nông dân, tăng cường khối đại đoàn ở nông thôn. Cần
đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục tư tưởng chính trị sâu rộng
trong nông dân giúp bà con hiểu được về quan điểm, đường lối chủ
trương của Đảng, chính sách - pháp luật Nhà nước về tình hình nhiệm vụ
cách mạng, những thành tựu của hơn 20 năm đổi mới về những thuận lợi,
khó khăn thách thức đối với nông dân, nông nghiệp và nông thơn hiện
nay.
2.1.3 QUÁ TRÌNH CƠNG NGHIỆP HOÁ – HIỆN ĐẠI HOÁ NÔNG
NGHIỆP, NÔNG THÔN Ở TỈNH YÊN BÁI

Yên Bái là tỉnh miền núi phía Bắc, có diện tích tự nhiên
6.88,627,64 ha chiếm 2% diện tích cả nước và bằng 10,4% diện tích vùng
Đông Bắc. Nằm trải dọc đôi bờ sông Hồng; Phía Đông Bắc giáp hai tỉnh
Hà Giang, Tuyên Quang Phía Đông giáp tỉnh Phú Thọ, Phía Tây giáp tỉnh
Sơn La nằm sâu trong nội địa. Hệ thống giao thông tương đối phát triển
toàn tỉnh có 8 huyện, thị và 1 thành phố trực tḥc tỉnh (trong đó có 2
hụn vùng cao là Trạm Tấu và Mù Cang Chải thuộc 62 huyện nghèo của
cả nước) có 180 xã, phường, thị trấn. 70/159 xã vùng cao, 63/159 xã đặc
biệt khó khăn. Dân số toàn tỉnh 751.922 người mật độ dân số trung bình
109 người /km2 với 30 dân tộc (dân tộc thiểu số chiến 53,74%). Tỷ lệ dân

số sống ở khu vực nông thôn chiến 81% trình độ dân trí không đồng đều,
có tiềm năng về đất đai, nguồn nhân lực lao động với gần 430.000 người
trong độ tuổi lao động trong đó lao đợng nơng, lâm nghiệp, thủy sản
chiếm trên 75%. Tỷ lệ hộ nghèo năm 2011 là 24,23% (44.078 hộ) hộ cận
nghèo 5,84% (10.627 hộ).
Kinh tế chậm phát triển đời sống của người nơng dân còn gặp
nhiều khó khăn, nhân dân sinh sống chủ yếu bằng nghề trồng trọt và chăn
20


nuôi, khai thác lâm nghiệp. Ngoài ra, một vài năm gần đây một số huyện
đã phát triển cây chè và khai thác các mỏ đá công nghiệp. Vẫn còn tình
trang sản xuất nông nghiệp phụ thuộc vào thiên nhiên; hệ thống thuỷ
nông, thuỷ lợi chưa đảm bảo cho sản xuất thâm canh của nông dân nên
năng xuất cây trồng, vật nuôi chưa cao.
Quán triệt đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Đảng trong
những năm qua, Đảng bộ và nhân dân tỉnh Yên Bái đã nêu cao ý chí tự
lực, tự cường, đẩy nhanh quá trình xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật
phục vụ cho phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn và nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
Tỉnh đã ưu tiên đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật cho khu vực nông
nghiệp, nông thôn, giá trị sản xuất toàn ngành tăng bình quân 5,64%/ năm
kinh tế trang trại được chú trọng và phát triển theo hướng hàng hoá, nâng
cao chất lượng, hiệu quả, mở rộng và hình thành thêm các vùng chun
canh có quy mơ lớn về diện tích và sản phẩm gắn với chế biến và thị
trường. Nổi bật là vùng lúa năng suất chất lượng cao ở Văn Chấn, Văn
Yên, Thị xã Nghĩa Lộ, Lục Yên, vùng măng tre Bát Độ, Sắn ở Trấn Yên,
Văn Yên... Mở rộng thêm 5.000 ha ngơ theo hướng sản x́t hàng hóa
đưa lương thực bình quân đầu người từ 277 kg/năm tăng lên 318 kg. Các
thế mạnh về cây công nghiệp, chăn nuôi đại gia súc, lâm nghiệp được

phát huy làm cho nông nghiệp được phát triển khá toàn diện. Vùng chè
với diện tích 13.000 ha tiếp tục được cải tạo, thâm canh năng xuất, chất
lượng; trồng mới thay thế 2.328 ha chè già cằn cỗi bằng giống mới. Sản
lượng chè búp tươi tăng 40% so với năm 2005. Phát triển vùng quế đặc
sản ở các huyện Văn Yên, Văn Chấn, Trấn Yên lên 27.000 ha gắn với
công nhiệp chế biến nâng cao hiệu quả sản xuất và thu nhập cho người
trồng quế. Với chương trình phát triển chăn nuôi đại gia súc theo hướng
công nghiệp, bán công nghiệp, bò cho hộ nghèo... nên tổng đàn gia súc
chính tăng bình quân 4,33%/năm giá trị sản xuất chăn nuôi năm 2010
chiếm 25% giá trị ngành nông nghiệp. Năm năm qua toàn tỉnh trồng mới
71.248 ha rừng, trong đó có trên 83% diện tích là rừng sản xuất. Đặc biệt
là 3.331 ha rừng tại các huyện, xã vùng cao phía tây của tỉnh cùng với
việc tổ chức bảo vệ và khoanh nuôi tái sinh rừng được chú trọng; đưa tỷ
lệ độ che phủ rừng từ 51,37% năm 2005 tăng lên 59,2% năm 2010 là mợt
trong những địa phương có tỷ lệ rừng cao nhất nước giá trị sản xuất lâm
21


nghiệp tăng bình quân 6,42%/ năm. Năm 2010 chiếm 20,7% tổng giá trị
ngành nông, lâm nghiệp, thủy sản. Cơ sở hạ tầng nông thôn đã được quan
tâm đầu tư thông qua các chương trình, dự án, ngân sách tỉnh và đầu tư
của nông dân. Cơ cấu kinh tế nông thôn đã có chuyển biến, giảm dần số
hợ nơng nghiệp, tăng số hộ làm ngành nghề, dịch vụ. Số hộ thuần nông
năm 2007 giảm hơn 2% so với năm 2001, số hộ hoạt động thương nghiệp
tăng, tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu
dùng xã hội năm 2010 tăng gấp 3 lần so với năm 2005, kim ngạch xuất
khẩu hàng hóa năm 2010 đạt 25 triệu USD, gấp hơn 2,5 lần so với năm
2005. Với sự coi trọng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông
thôn, đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất nông
nghiệp và tập trung xây dựng cơ sở vật chất hạ tầng, giao thông, trường

học, trạm xá... Phong trào xã hội hoá giáo dục phát triển mạnh, trình độ
dân trí được tăng lên rõ rệt. Do vậy, trong những năm qua công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn ở Yên Bái đã đạt được những
kết quả rất quan trọng, nổi bật kinh tế phát triển khá toàn diện, duy trì
được tốc độ tăng trưởng cao bình quân 5 năm (2005- 2010) là 12,31%
trong đó: Nơng, lâm nghiệp tăng 5,1%, cơng nghiệp - xây dựng tăng
17,24%; dịch vụ tăng 14,25% cơ cấu chuyển dần theo hướng cơng nghiệp
hóa. Tỷ trọng nơng, lâm nghiệp 33,05% (giảm 5,93%) tổng sản phẩm trên
địa bàn năm 2010 tính theo giá thực tế gấp 2,5 lần so với năm 2005; GDP
bình quân đầu người đạt 10,8 triệu đồng Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích
cực là trong việc xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật, nâng cao năng suất
lao động; cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, tạo tiền đề
vững chắc cho những phát triển cao hơn.
Tuy nhiên, từ thực tiễn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nông nghiệp nông thôn ở Yên Bái cũng đã bợc lợ những khó khăn và hạn
chế. Quy mô sản xuất nông nghiệp nhỏ, phân tán; năng suất lao động,
năng suất cây trồng, vật nuôi và tỷ suất hàng hoá thấp. Bình quân lương
thực đầu người mới đạt 517,5kg/người/năm. Tỷ trọng hàng hoá nông lâm
sản xuất khẩu mới chiếm 36,58% tổng giá trị sản xuất. Đầu tư cho nông
nghiệp mới chỉ hơn một nửa đầu tư cho công nghiệp (15% và 25% ). Thế
mạnh về cây công nghiệp, chăn ni đại gia súc chưa có bước đợt phá
mạnh, chè xuất khẩu vẫn ở dạng thô. 3 năm trở lại đây, giá trị chăn nuôi
trong tổng giá trị sản xuất ngành chỉ ở mức 21%. Trồng rừng vẫn còn
22


quảng canh là chủ yếu, nên sản lượng gỗ chỉ bằng 50-60% rừng thâm
canh.
Nhìn chung, nông nghiệp phát triển chưa bền vững, khả năng thích
ứng, đối phó với thiên tai rất hạn chế. Quá trình thực hiện công nghiệp

hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn còn nhiều lúng túng, bước đi
chưa rõ ràng. Đất đai ở vùng cao chưa được quản lý chặt chẽ, một bộ
phận đồng bào vẫn thiếu đất sản xuất. Cơ chế, chính sách khuyến khích
chuyển đổi, tích tụ đất đai chưa hoàn chỉnh, nên hạn chế nhiều trong quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nông thôn hiện nay phát triển thiếu
quy hoạch, kết cấu hạ tầng thiếu và chất lượng kém; còn trên 600km
đường chỉ đi được vào mùa khơ và mới có khoảng 35% mặt đường được
cứng hoá. Nhiều công trình thuỷ lợi xuống cấp, thiếu kinh phí sửa chữa.
Kinh tế nông thôn nặng về thuần nông, hiện còn tới 86% số hộ
chuyên nông nghiệp, hộ làm công nghiệp, dịch vụ tăng chậm; hộ làm
thuỷ sản, lâm nghiệp so với 5 năm trước có xu hướng giảm.Các nguồn
lực trong nơng thơn sử dụng lãng phí, kém hiệu quả, nhất là tài nguyên và
nhân lực. Hàng năm, khu vực nông thôn tăng thêm nhưng giải quyết việc
làm ổn định còn chiếm tỷ lệ thấp, do công nghiệp các ngành nghề khác
giải quyết việc làm quá chậm cho người lao động. Đây là một trong
những vấn đề bức xúc cần sớm có biện pháp giải quyết. Đời sống vật
chất, tinh thần nông dân còn nhiều khó khăn, nhất là đồng bào vùng cao
khoảng cách giàu nghèo giữa nơng thơn và thành thị có xu hướng ngày
càng giãn cách, tất yếu sẽ dẫn đến nông nghiệp, nông thôn, phát triển
không bền vững.
Mặt khác, vai trò chỉ đạo của chính quyền Nhà nước đối với các
doanh nghiệp có chức năng trực tiếp phục vụ sản xuất như: Vật tư, thương
mại... còn hạn chế.
Với đặc điểm địa lý và thực trạng nêu trên, trong những năm tới
thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở Yên
Bái phải dựa trên một nền nông nghiệp quy mô lớn thích hợp, đồng thời
xây dựng chiến lược, bước đi phù hợp thông qua việc xây dựng các đề án
phát triển nông nghiệp, nông thôn, nông dân thiết thực, cụ thể. Đẩy mạnh
thực hiện cơ giới hoá các khâu trong sản xuất, để nâng cao năng suất lao
động.

23


Trong phát triển nông nghiệp, vấn đề an ninh lương thực phải đặt
lên hàng đầu; chú trọng khai hoang ruộng nước và thâm canh, tăng vụ ở
những nơi có điều kiện, nhất là ở vùng cao. Cần có c̣c cách mạng ứng
dụng tiến bộ kỹ thuật rộng rãi trong nông nghiệp, nhất là công nghệ sinh
học để tạo ra một nền nơng nghiệp sạch, phát triển bền vững, có năng
śt, chất lượng, tỷ suất hàng hoá cao, đủ sức cạnh tranh trên thị trường.
Tập trung đổi mới cơ cấu sản xuất nông nghiệp trên cơ sở thế mạnh về
cây công nghiệp, chăn nuôi đại gia súc và lâm nghiệp. Đầu tư thâm canh,
mở rộng diện tích chè, tuyển chọn giống chè nhập nội phù hợp đưa vào
sản xuất, phát triển chè đặc sản vùng cao; cùng với đầu tư hoặc liên
doanh đầu tư công nghệ chế biến tiên tiến, tạo ra sản phẩm chè tinh, chất
lượng cao.
Tiếp tục thay đổi tập quán chăn nuôi đại gia súc, hướng mạnh vào
chăn nuôi công nghiệp, bán công nghiệp, áp dụng rộng rãi các biện pháp
kỹ thuật để nâng cao chất lượng, số lượng đàn trâu, bò; đồng thời làm tốt
công tác phòng chống dịch cho gia súc, gia cầm; phấn đấu giá trị chăn
nuôi chiếm trên 30% giá trị ngành nông nghiệp. Sử dụng có hiệu quả mặt
nước đầm, ao, hồ để nuôi trồng thuỷ sản, hướng mạnh vào nuôi các loại
thuỷ sản có giá trị kinh tế cao.
Cùng với tăng cường bảo vệ diện tích rừng hiện có, đẩy mạnh
trồng rừng sản xuất với tập đoàn cây phù hợp (cả cây bản địa, cây gỗ
lớn) phục vụ công nghiệp chế biến gỗ, giấy và xuất khẩu; phấn đấu giá trị
sản xuất lâm nghiệp chiếm 48- 50% giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp
trong những năm tới.
Chuyển cơ cấu kinh tế nông thôn từ thuần nông sang phát triển
kinh tế đa dạng, chú trọng vào công nghiệp vừa và nhỏ, làng nghề, ngành
nghề truyền thống sử dụng nhiều nguyên liệu tại chỗ, các hoạt đợng

thương mại, dịch vụ; có chính sách khún khích phát triển doanh nghiệp
nông thôn, các hợp tác xã dịch vụ nơng nghiệp có hoạt đợng chế biến,
lưu thơng, các loại hình trang trại quy mô sản xuất hàng hoá lớn.
Khuyến khích xây dựng các cơ sở chế biến gắn với vùng nguyên
liệu. Nâng cấp các tuyến đường, cầu nông thôn, bảo đảm đường ô tô đến
trung tâm xã trong cả mùa mưa và cứng hoá mặt đường (nhựa, bê tông,
rải đá cấp phối…) được 100% như Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần
thứ XVII đề ra. Đầu tư để đẩy nhanh tiến độ xây dựng, sửa chữa, nâng
24


cấp các công trình thuỷ lợi, tiến tới chủ động tưới tiêu cả hai vụ. Quy
hoạch nông thôn phù hợp với sản xuất lớn và mức sống hiện đại, gắn với
bảo tồn văn hóa đậm đà bản sắc dân tợc, bảo vệ môi trường sinh thái.
Tiếp tục tăng cường thực hiện quy chế dân chủ để nông dân trực
tiếp giải quyết các vấn đề phát triển kinh tế, xã hội ở địa phương; tham
gia xây dựng Đảng, chính quyền, đoàn thể vững mạnh. Thực hiện tốt việc
liên kết 4 nhà trong sản xuất; tiến tới xóa bỏ trợ cấp cho nông dân thông
qua doanh nghiệp bằng phát triển các dịch vụ công. Đào tạo nghề cho
nông dân bằng trang bị kỹ năng sản xuất, quản lý nông hộ, khả năng tiếp
thu khoa học kỹ thuật, nắm bắt thị trường. Thành lập trung tâm thông tin
thị trường, dự báo thị trường nơng sản để nơng dân sản x́t có hiệu quả,
tránh được rủi ro. Thực hiện bảo hiểm một số sản phẩm chủ lực của tỉnh,
trước tiên là chè, quế, trâu bò… để nông dân yên tâm sản xuất; tiến tới
bảo hiểm xã hội cho nông dân. Nông dân cần được xác định như một
doanh nghiệp để được hưởng cơ chế, chính sách như các loại hình doanh
nghiệp khác.
Thu hút các nguồn tài trợ, các chương trình, dự án đầu tư cho khu
vực nông thôn, tạo điều kiện cho nông dân trực tiếp tham gia và được
hưởng lợi nhiều hơn từ các chương trình, dự án. Chỉ có đặt đúng tầm và

giải quyết đồng bộ vấn đề nông nghiệp, nông thôn, nông dân thì nông
nghiệp, nông thôn, nông dân mới phát triển bền vững, góp phần thực hiện
thành cơng sự nghiệp cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Tóm lại, để thực hiện có hiệu quả quá trình cơng nghiệp hoá, hiện
đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở Yên Bái phải nắm vững và vận dụng
sáng tạo đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Đảng vào điều kiện
cụ thể ở địa phương nhằm phát triển sản xuất toàn diện, tạo ra sức mạnh
tổng hợp nhằm thúc đẩy sản xuất phát triển, xây dựng cơ sở vật chất kinh
tế hạ tầng, phục vụ sản xuất và đời sống, góp phần thực hiện mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh.

PHẦN KẾT LUẬN
Như vậy, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là
quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất – kinh
25


×