Tải bản đầy đủ (.docx) (70 trang)

Vấn đề phát triển con người tỉnh vĩnh phúc giai đoạn 2005 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (438.8 KB, 70 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC su' PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO
DỤC CHINH TRỊ
NGUYÊN T HỊ QUỲNH

VẤN ĐÈ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI TỈNH
VĨNH PHÚC GIAI ĐOẠN 2005 - 2015

KHÓA LUẬN TÓT NGHIỆP ĐẠI HỌC


•••

Chuyên ngành: Chủ nghĩa Xã hội khoa học
NGUYỄN T HỊ QUỲNH

HÀ NỘI,
2015


TRƯỜNG ĐẠI HỌC su' PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHINH TRỊ

VẤN ĐÈ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI TỈNH
VĨNH PHÚC GIAI ĐOẠN 2005 - 2015
KHÓA LUẬN TÓT NGHIỆP ĐẠI HỌC


•••

Chuyên ngành: Chủ nghĩa Xã hội khoa học



Người hướng dẫn khoa học: Th .s Hoàn g Th anh Son

HÀ NỘI,
2015


LỜI CẢM ƠN
Với tấm lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin gửi lời cảm ơn chân
thành nhất tới Th.s Hoàng Thanh Son - Người đã luôn tận tình hướng dẫn tôi
trong suốt quá trình thực hiện và hoàn thành khóa luận.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo khoa Giáo dục Chính trị,
trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã cung cấp cho tôi nền tảng kiến thức quý
báu để tôi có thế hoàn thành khóa luận của mình.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới lãnh đạo, cán bộ sở ban ngành và nhân dân tỉnh
Vĩnh Phúc, Tổng cục Thống kê tỉnh Vĩnh Phúc, Viện Nghiên cứu và Phát triển
con người Việt Nam, Tổng cục Thống kê tỉnh Vĩnh Phúc, Viện Nghiên cứu Con
người Việt Nam đã giúp đỡ và cung cấp các số liệu và tài liệu tham khảo cho
khóa luận.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn đến bạn bè và những người thân trong gia
đình đã động viên, giúp đỡ và là chỗ dựa tinh thần lớn nhất để tôi hoàn thành tốt
khóa luận tốt nghiệp.
Xỉn chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 13 thảng 5 năm 2015 Sinh viên thực hiện

Nguyễn Thị Quỳnh


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những kết quả nghiên cứu được trình bày trong khóa

luận là tôi thực hiện và không trùng lặp với bất cứ tác giả nào khác.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm với những nội dung được đề cập
trong bản khóa luận này.
Hà Nội, ngày 13 tháng 5 năm 2015 Sinh viên thực hiện

Nguyễn Thị Quỳnh
ASEAN

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á

FDI

Đầu tư trực tiếp nước ngoài

GDI

Chỉ số phát triển liên quan đến giới

GDP

Tổng sản phẩm trong nước

HDI

Chỉ số phát triển con người

HDR

Báo cáo phát triển con người


THCS

Trung học cơ sở

THPT

Trung học phổ thông

UNDP

Chương trình phát triển của Liên hợp quốc

USD - ppp Đô la Mĩ theo sức mua tương đương


MỤC LỤC


MỞ ĐÀU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lịch sử nhân loại là lịch sử phát triển của loài người, bởi lẽ “con người
làm nên lịch sử” [8]. Theo tiến trình của lịch sử con người luôn luôn ước vọng
có một cuộc sống tự do, dồi dào về vật chất, phong phú về tinh thần và ngày
càng được nâng cao về tri thức. Tuy nhiên, trong tùng giai đoạn lịch sử thì mục
tiêu phấn đấu của con người có khác nhau. Trong thời đại ngày nay, phát triển
con người đã trở thành một cơ hội thực sự, một mục tiêu cho nhiều quốc gia và
cộng đồng trên thế giới. Việt Nam nằm trong số những quốc gia này. Ngay từ
khi tuyên bố khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (2/9/1945), Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định với thế giới rằng: mục đích tối cao của mọi
hành động, của tất cả nhân dân và nhà nước tối cao là phát triển, vì con người,

do con người và của con người. Thực tế diễn ra trong gần 70 năm qua, nhất là
trong thời kì đôi mới là minh chứng hùng hồn khắng định thành tựu phát triển
con người ở Việt Nam.
Đe đo lường kết quả và đánh giá thành tựu phát triển con người, báo cáo
phát triển con người năm 1990 và các báo cáo tiếp theo của UNDP đã đưa ra
một loạt chỉ số. Chỉ số tổng hợp nhất được đưa ra là chỉ số phát triển con người
- HDL
Chỉ số HDI được nhà kinh tế người Pakistan là Mahbub ul Haq xây
dựng năm 1990 phản ánh phát triển con người trên góc độ của phát

triển kinh

tế - xã hội nhấn mạnh vào các cơ hội:
Khả năng sống lâu: được đo bằng tuổi thọ trung bình tính từ khi sinh ra.
Trình độ giáo dục: được tính tổng họp theo tỉ lệ biết chữ của người lớn
và tỉ lệ đi học tiếu học, trung học và đại học.
Mức sống: được đo bằng giá trị (GDP) tính bằng bình

6

quân đầu người


thực theo sức mua tương đương (PPP).
Trên cơ sở thiết lập giới hạn cận trên và cận dưới phù họp với trạng thái
phát triển con người toàn cầu, HDI chỉ nhận giá trị trong khoảng từ 0 đến 1.
HDI của một quốc gia, một địa phương càng lớn (càng gần 1) thì trình
độ phát triển con người của một quốc gia (địa phương) đó được coi là càng cao
và ngược lại. Có thể nói, với HDI việc định hướng về thành tựu phát triển trở
lên toàn diện hơn và phản ánh chân thực mục tiêu của nó. Theo thời gian, HDI

không chỉ phản ánh thực trạng và những tiến bộ phát triển con người mà con là
một căn cứ xác định và lực chọn mục tiêu và chính sách phát triển kinh tế - xã
hội của một quốc gia (địa phương). Chính vì vậy mà nhu cầu tính chỉ số HDI
đã nhanh chóng được các quốc gia trên thế giới hưởng ứng trong đó có Việt
Nam. Rất nhiều tỉnh, thành phố của Việt Nam sau khi tiếp cận với báo cáo
quốc gia về phát triển con người năm 2001 do Trung tâm Khoa học Xã hội và
Nhân văn Quốc gia biên soạn đã triến khai tính chỉ số HDI cho địa phương
mình, tuy nhiên mỗi địa phương lại vận dụng công thức tính và nguồn số liệu
tính rất khác nhau, ít có địa phương nào tính toán được các chỉ số thành phần
của chỉ HDI theo đúng quy định của UNDP.
Vì vậy việc nghiên cứu vấn đề phát triển con người trong lĩnh vực kinh
tế, giáo dục, y tế phù hợp với nội dung của UNDP, đồng thời phục vụ cho
công tác đánh giá của các tỉnh là rất cần thiết. Vĩnh Phúc một địa phương đang
nổi lên là một tỉnh có sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế, giáo dục, y tế. Vì vậy
tôi quyết định chọn đề tài “Vấn đề phát triển con người tỉnh Vĩnh Phúc giai
đoạn 2005 - 2015”
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Chỉ số phát triển con người đã được Chương trình phát triển của Liên họp
quốc (UNDP) và Báo cáo quốc gia Việt Nam nghiên cún từ 1990 đến nay. Chỉ

7


số HDI Việt Nam đã được in thành sách, những công trình nghiên cứu cấp nhà
nước, các bộ ở Việt Nam cũng như các vùng trên cả nước. Trên cơ sở đó, tôi
quyết định chọn đề tài “Vấn đề phát triển con người tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn
2005 - 2015
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cún
3.1.


Đối tượng nghiên cứu
Vấn đề phát triển kinh tế, giáo dục, y tế tỉnh Vĩnh Phúc

3.2.

Phạm vi nghiên cứu
Không gian: nghiên cứu tỉnh Vĩnh Phúc
Thời gian: Thực trạng, phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến HDI ở tỉnh

Vĩnh Phúc giai đoạn 2005 - 2015, định hướng giải pháp đến năm 2020.
4. Mục đích và nhiệm yụ nghiên cún
4.1.

Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở lí luận và thực tiễn về phát triển con người, đánh giá thực

trạng và các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển con ngưòi tỉnh Vĩnh Phúc, tù’
đó đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chỉ số HDI tỉnh Vĩnh Phúc trong
những năm tới.
4.2.

Nhiệm vụ nghiên cứu
Đe thực hiện được mục đích trên, đề tài tập trung vào những nhiệm vụ
sau: Tổng quan một số vấn đề lí luận và thực tiễn và phát triển con
người. Giới thiệu phương pháp tính chỉ số HDI.
Đánh giá đúng thực trạng phát triển chỉ số HDI và phân tích các nhân tố

ảnh hưởng đến HDI tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2005 - 2015.
Bước đầu đưa ra định hướng và giải pháp nhằm nâng cao chỉ số HDI
trong những năm tới.


8


5. Phưoìig pháp và phưong pháp ỉuận
5.1.

Phương pháp
Phương pháp: Phương pháp chọn địa điểm, phương pháp thu thập số

liệu, xử lí số liệu, phân tích.
5.2.

Phương pháp luận
Phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ

Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho đề tài.
6. Đóng góp của đề tài

về mặt lí luận: đề tài góp phần làm sáng tỏ lí luận phát triển con người
(HDI) trên thế giới và Việt Nam.

về mặt thực tiễn: làm sáng tỏ thực trạng phát triển con người và các
nhân tố ảnh hưởng tỉnh Vĩnh Phúc.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục từ viết
tắt, danh mục bảng biếu và tài liệu tham khảo thì khóa
luận bao gồm 3 chương và 9 tiết.
CHƯƠNG 1
Cơ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỤC TIỄN VÈ PHÁT TRIẺN CON NGƯỜI

1.1.
1.1.1.

Cơ sở lí luận
Khái niệm phát triển con người

Chỉ số phát triển con người (Human Development Index - HDI) là chỉ số
so sánh, định lượng về mức thu nhập, tỉ lệ biết chữ, tuổi thọ và một số nhân tố
khác của các quốc gia trên thế giới. HDI giúp tạo ra một cái nhìn tổng quát về
sự phát triển của một quốc gia (hoặc một địa phương).
HDI (Human Development Index) được cơ quan phát triển nguồn lực
của Liên họp quốc (Human Development Resource - HDR) nghiên cún từ
những năm thuộc thập kỉ 80 và bắt đầu đưa vào tính toán từ năm 1989. Mục

9


đích của tính toán HDI là tìm ra một chỉ tiêu tổng hợp phản ánh một cách toàn
diện về sự phát triển kinh tế, xã hội của các quốc gia và vùng lãnh thổ thay thế
cho chỉ tiêu GDP bình quân đầu người tính theo sức mua tương đương trước
đây. Với chỉ tiêu GDP bình quân đầu người tính theo sức mua tương đương
tuy khắc phục được vấn đề khác biệt về mệnh giá “đích thực” của chỉ tiêu GDP
bình quân đầu người tính theo giá thực tế. Song chỉ tiêu GDP bình quân đầu
người tính theo sức mua tương đương cũng chỉ phản ánh một yếu tố kinh tế,
còn các yếu tố khác như giáo dục, y tế, môi trường, an toàn xã hội chưa được
thể hiện. Vì vậy, khi so sánh sự phát triển kinh tế, xã hội của các quốc gia và
vùng lãnh thổ với nhau, nếu chỉ sử dụng chỉ tiêu GDP bình quân đầu người
tính theo sức mua tương đương vẫn hết sức phiến diện. Đe khắc phục tình
trạng trên, cơ quan HDR của Liên họp quốc đã nghiên cứu chỉ số HDI như một
thước đo khá toàn diện làm phương tiện để so sánh sự phát triển kinh tế, xã hội

của các quốc gia và vùng lãnh thổ.
Tính từ năm 1989 trở lại đây, hàng năm Chương trình UNDP của Liên
họp quốc đều tính toán HDI cho các quốc gia và vùng lãnh thổ làm căn cứ sắp
xếp và đánh giá tình hình phát triển kinh tế, xã hội (báo cáo hàng năm của
HDR).
Do vị trí quan trọng của chỉ tiêu HDI, nên hầu hết các nước trên thế giới
đều có chương trình tính vận dụng chỉ tiêu HDI vào thực tiễn của đất nước
mình. Ớ nước ta, từ năm 1991 trở lại đây trên hầu hết các cuốn Tạp chí Con số
và Sự kiện; Tờ Thông tin khoa học và thống kê và nhiều báo chí trung ương và
địa phương đã giới thiệu chỉ tiêu HDI. Đặc biệt gần đây với sự trợ giúp tài
chính của UNDP, Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia đã phối
họp với một số cơ quan khác tiến hành nghiên cứu tính toán chỉ tiêu HDI cho
các địa phương trong toàn quốc. Công trình nghiên cứu trên đã ra mắt độc giả

1
0


cả nước và nhận được sự quan tâm của nhiều cơ quan quản lí Đảng và Nhà
nước. Vì vậy, trong những năm gần đây Ban khoa giáo Trung ương đã và đang
chỉ đạo các địa phương tính HDI cho các huyện, thị xã và thành phố trực thuộc
tỉnh, thành phố.
Qua nghiên cứu tìm hiểu, nổi bật lên một vấn đề chưa hiểu một cách đầy
đủ nội dung và ý nghĩa của chỉ tiêu HDI. Do vậy, khi đưa ra áp dụng tính toán
cho các địa phương gần như là sao chép và đo các giá trị thực tế chưa cao. Vì
vậy để hiểu được HDI là gì? Quan điểm cảu thế giới cũng như Việt Nam về
HDI như thế nào?... ta cần phải đi từ các quan điểm và mẫu hình phát triển của
thế giới.
1.1.2.


Các quan điếm về phát triển con người
1.1.2.1. Quan đỉêm chung
Phát triển con người chính là, và phải là, sự phát triển mang tính nhân

văn. Đó là sự phát triển vì con người, của con người và do con người.
Quan điểm phát triển con người nhằm mục tiêu mở rộng cơ hội lựa chọn
cho người dân và tạo điều kiện để họ thực hiện sự lựa chọn đó (có nghĩa là sự
tự do). Những lựa chọn quan trọng nhất là được sống lâu và khỏe mạnh, được
học hành và có cuộc sống ấm no.
Năm đặc trung của quan điểm phát triển con người là:
Con người là trung tâm của sự phát triển.
Người dân vừa là phương tiện vừa là mục tiêu của sự phát triển.
Việc nâng cao vị thế của ngưòi dân (bao hàm cả sự hưởng thụ và cống
hiến).
Chú trọng tạo lập sự bình đẳng cho mọi người dân về mọi mặt: tôn giáo,
dân tộc, giới tính, quốc tịch...

1
1


Tạo cơ hội lựa chọn tốt nhất cho người dân về: kinh tế, chính trị, xã hội,
văn hóa, tư tưởng,...
Lịch sử xã hội loài người đã trải qua nhiều thăng trầm, song tất thảy đều
hướng tới một mục đích chung đó là: “nâng cao giá trị của con người”[l]. Gắn
với tùng giai đoạn đó, nền kinh tế thế giới trải qua các mô hình phát triển. Sau
đây là các mô hình phát triển điển hình của nền kinh tế thế giới vào những năm
nửa cuối của thế kỉ XX.
Thời kì 1950 — 1970: Khi thế giới chỉ mới thoát khỏi đống tro tàn đổ
nát của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai. Nhiều quốc gia bị tàn phá nặng

nề, kể cả một số quốc gia mà bây giờ trình độ phát triển đứng hạng cao nhất
thế giới. Do bị chiến tranh hủy hoại nhiều tài sản và của cải, người dân của
nhiều chủng tộc bị bần cùng, lâm vào hoàn cảnh khó khăn, túng thiếu và đói
nghèo. Cho nên, chính sách un tiên của nhiều quốc gia thời kì sau chiến tranh
này là đáp ứng đủ các nhu cầu thiết yếu, cơ bản nhất của người dân. Do vậy,
mô hình phát triển của thời kì này là đáp ứng nhu cầu thiết yếu.
Mục tiêu là phát triển của nhiều Chính phủ là cung cấp nhiều hơn, đầy
đủ hơn những nhu cầu cơ bản về vật chất, kinh tế và các nhu cầu dịch vụ xã
hội cho dân chúng của nước mình.
Do mô hình phát triển và mục tiêu chính sách như vậy, nên hậu quả xã
hội là nguồn vốn con người ít được cải thiện, tức là vấn đề y tế, sức khỏe, giáo
dục, đảm bảo về mặt xã hội cho con người được thực hiện chậm chạp.
Do đó, hậu qủa kinh tế đối với quá trình phát triển là tăng trưởng chậm,
có thể nói hầu như bằng không, không có tăng trưởng gì đáng kể.
Thời kì 1970 - 1990: Nhiều quốc gia bắt đầu chú trọng tới việc tăng
trưởng. Hình tượng các con rồng, các con hổ trên thế giới đều xuất hiện ở thời
kì này. Không những chính sách của các quốc gia là tập trung vào tăng trưởng

1
2


kinh tế, mà các tập đoàn, các công ti cũng tập trung vào tăng trưởng. Vì vậy,
mô hình phát triến trên thế giới của thời kì này là tăng trưởng kinh tế.
Mục tiêu phát triển và chính sách phát triển của phần lớn các quốc gia là
bỏ trôi các nhu cầu cơ bản, coi nhu cầu thiết yếu của con người là thứ cấp đáp
ứng khát vọng tăng trưởng kinh tế. Họ cho rằng mọi nhu cầu sẽ được đáp ứng
khi có tăng trưởng cao. Trong giai đoạn này, việc so sánh trình độ phát triển
giữa các quốc gia thông qua so sánh tăng trưởng, so sánh tốc độ tăng trưởng
GDP bình quân đầu người. Ban đầu thì sử dụng tỉ giá hối đoái trung bình năm,

sau tiến đến sử dụng sức mua tương đương (PPP - Purchasing Power Parities)
để tính chuyển phục vụ so sánh, vì nhiều chuyên gia cho rằng làm như vậy sẽ
chính xác hơn, khi sử dụng sức mua tương đương là đã loại bỏ sự chênh lệch
giá giữa các quốc gia hay vùng lãnh thổ với nhau. Ta vẫn hay gọi nôn na là
đưa về cùng một mặt bằng so sánh. Trong thời kì này, người ta đã đánh đồng
giữa phát triển và tăng trưởng kinh tế, người ta coi tăng trưởng kinh tế chính là
phát triển.
Chính vì vậy, các quốc gia đều tập trung toàn lực cho tăng trưởng kinh
tế, bỏ mặc những vấn đề nhu cầu thiết yếu của con người, nên hậu quả xã hội
làm tăng thêm sự bất bình đẳng xã hội, tăng thêm đói nghèo trong dân chúng,
sự chênh lệch giữa người giàu và người nghèo ngày càng lớn.
Hệ quả kinh tế là tốc độ tăng trưởng cao và đồng đều ở rất nhiều nước,
đặc biệt là các con rồng, con hổ Châu Á.
*Thời từ từ 1990 đến nay: Người ta bừng tỉnh ra rằng, chỉ có tăng
trưởng kinh tế không thì không thể giải quyết được hết vấn đề, mà còn làm
trầm trọng thêm tình trạng đói nghèo và bất bình đẳng xã hội. Tăng trưởng
không hoàn trùng khớp với phát triển, mà chỉ là một mảng của phát triển, dù
quả thật đó là một mảng rất quan trọng. Do đó, người ta thay đổi hẳn quan

1
3


niệm về phát triển. Thừa nhận tầm quan trọng của phát triển là tăng trưởng
kinh tế (GDP), mà từ xưa tới nay người ta vẫn sử dụng tiêu chí GDP và tăng
GDP này đế phân biệt các nước phát triển và các nước đang phát triển, nhung
người ta còn nhấn mạnh khía cạnh xã hội của sự phát triển (đói nghèo, sức
khỏe, bất bình đẳng giới, bất bình đắng xã hội, cơ hội phát triển...). Khái niệm
phát triến được mở rộng từ thuần túy tăng trưởng ấy sang cả việc cải thiện các
khía cạnh xã hội của cuộc sống, người ta định nghĩa là phát triển con người

(Human Development).
Vì vậy mô hình phát triển của các quốc gia trong giai đoạn này là mô
hình phát triến con người.
Mục tiêu chính sách của các quốc gia là làm thế nào để mở rộng phạm vi
lựa chọn của người dân, và nâng cao năng lực lựa chọn cho người dân, để họ
đạt tới chất lượng cuộc sống tốt hơn.
Ket quả về mặt xã hội: nâng cao nguồn vốn con người và giảm tỉ lệ
nghèo đói trong dân chúng. Nâng cao nguồn vốn con người thực chất là nâng
cao tuổi thọ, nâng cao sức khỏe, và đặc biệt là nâng cao trình độ dân trí để có
khả năng tiếp cận với mục tiêu lựa chọn.
Ket quả về mặt kinh tế: là tạo điều kiện để xã hội phát triển một cách
bền vũng, môi trường được bảo vệ và các nguồn tài nguyên thiên nhiên được
bảo toàn được cho các thế hệ mai sau.
Quan niệm mới về phát triển con người bao hàm nhiều khía cạnh:
Thứ nhất: Quan niệm này nhấn mạnh mục tiêu của phát triển là vì con
người, vì việc cải thiện chất lượng cuộc sống của con người một cách bền
vũng.
Thứ hai: Phát triển con người phải do chính con người thực hiện, có
nghĩa là mọi người dân đều có cơ hội mở rộng được tham gia tích cực và sang

1
4


tạo vào quá trình phát triển. Đây cũng chính là khía cạnh của dân chủ. Chính
sách Nhà nước phải nhằm vào hướng tạo mọi điều kiện khuyến khích toàn dân
tham gia vào quá trình phát triển. Cơ chế thị trường có ưu điểm là thúc đầy nền
sản xuất có hiệu quả, mọi người đều có cơ hội làm ăn, song nhược điểm cũng
là sự cạnh tranh khốc liệt và sự tự do dễ dẫn đến hậu quả nghiêm trọng về xã
hội: thất nghiệp, bất bình đẳng, suy thoái môi trường..., nên phải có sự quản lí

Nhà nước là hoàn toàn đúng đắn và có sự sáng tạo không ngừng.
Thứ ba: Quan niệm mới về phát triển con người dựa trên cách tiếp cận
toàn diện, cụ thể là đề cập đến sự mở rộng không gian lựa chọn bao trùm tất cả
khía cạnh của đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục, y tế, môi
trường... trong mối liên hệ tác động qua lại chứ không chỉ giới hạn trong phạm
vi kinh tế. Cách tiếp cận toàn thể còn bao hàm nghĩa khác là tính đến tất cả
mọi người, không phân biệt chủng tộc, tôn giáo, giai cấp, giới tính, quốc tịch
hay thế hệ con người. Quan niệm toàn thể còn có nghĩa: phát triển là quá trình
bền vững, được duy trì từ thế hệ này sang thế hệ khác, nghĩa là không tổn hại
đến môi trường.
Thứ tư: Ớ đây phân biệt dứt điểm khái niệm phát triển con người và
phát triển nguồn nhân lực (hay còn gọi là nguồn vốn con người), mặc dù con
người là động lực quan trọng nhất của tăng trưởng kinh tế. Kinh nghiệm của
các nước phát triển cho thấy chỉ tiêu cho con người không phải là tiêu dùng
đon thuần, mà là một khoản đầu tư để hình thành một loại nguồn vốn quan
trọng có khả năng sinh sản ra nguồn vốn thu nhập trong tương lai - đó là nguồn
vốn con người thông qua việc tạo lập kĩ năng, kiến thức, kinh nghiệm, năng
lực sáng tạo. Đầu tư vào con người được thông qua các hoạt động giáo dục, y
tế, đảm bảo việc làm, cuộc sống... là cách đầu tư thiết thực nhất, hiệu quả nhất
đảm bảo tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững của các quốc gia. Cái khác

1
5


biệt căn bản giữa phát triển con người và phát triển nguồn nhân lực là ở chỗ
phát triển con người thì con người là mục tiêu có quyền và có nhu cầu được
hưởng thụ, còn phát triển nguồn nhân lực thì con người được nhìn nhận như
một nguồn vốn cũng như các nguồn vốn khác, dù rằng quan trọng.
Từ những nhận thức ấy, trên góc độ thống kê, để phản ánh phát triển

con người phải có thước đo chuẩn về nâng cao năng lực lựa chọn và mở rộng
phạm vi lựa chọn của con người (thu nhập, tuổi thọ và trình độ tri thức cũng
như các khía cạnh liên quan khác). Thước đo chuẩn đó được Chương trình
phát triển của Liên họp quốc (UNDP) sử dụng chính là chỉ số phát triển con
ngưòi.
1. Ị.2.2. Quan điềm của Việt Nam
Trong suốt quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước, Đảng Cộng sản Việt
Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam luôn luôn khẳng định:
con người là trung tâm của phát triển, con người là mục tiêu và đồng thời cũng
là động lực của phát triển.
Bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định các mục tiêu phát triển tối cao mà
Việt Nam hướng tới là đảm bảo các quyền con người: quyền được sống trong
độc lập tụ’ do, thoát khỏi ách áp bức nô lệ, quyền được đảm bảo các điều kiện
sống trong sự bình đẳng, quyền được mun cầu và quyền được hưởng hạnh
phúc...
Do vậy, quan điểm phát triển con người của Đảng và Nhà nước ta là
không mâu thuẫn với những điếm đã nêu trong quan niệm về phát triến con
người của UNDP và có thể khẳng định rằng tư tưởng phát triển con người đã
được nhân dân ta theo đuổi kể từ khi thành lập nhà nước dân chủ nhân dân đầu
tiên ở Đông Nam Á.

1
6


Xuất phát từ mục tiêu của cách mạng Việt nam do Đảng Cộng sản Việt
Nam lãnh đạo, đường lối phát triển xây dựng là: “ Dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công băng, văn minh” [7].
Nhà nước của dân, do dân và vì dân với phương châm “dân biết, dân

bàn, dân làm, dân kiểm tra” [7] đã trở thành nền tảng của dân chủ của của sinh
hoạt trong đời sống hàng ngày trên tất cả các lĩnh vực.
Lựa chọn của dân tộc ta là sự lựa chọn tự nguyện, chính đáng lấy mục
tiêu độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội, vì chỉ có độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội mới đem lại những điều đã nêu trong định nghĩa phát
triển con người.
Trong giai đoạn mới của lịch sử dân tộc, sự lựa chọn của nhân dân ta là
đổi mới, với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và chỉ đạo toàn dân
thực hiện.
Sự lựa chọn của nhân dân Việt Nam được thể hiện đầy đủ trong đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta, trong vấn đề phát triển
sản xuất, trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trong chính sách hội
nhập quốc tế, trong các chính sách xã hội như: xóa đói giảm nghèo, giữ gìn
bản sắc văn hóa dân tộc, vì văn hóa là linh hồn của dân tộc, bản sắc dân tộc là
cái thiêng liêng duy nhất mà tự ngàn đời người dân Việt Nam rất đỗi tự hào.
Những thành tự trong công cuộc đổi mới hay những vấn đề trong việc
mở rộng khả năng lựa chọn cho người dân, nâng cao khả năng và năng lực lựa
chọn cho người dân đã thể hiện rất rõ trong những năm qua và được thế giới
công nhận, không ai có thể phủ nhận.
Trong tiến trình đổi mới căn bản toàn diện, sâu sắc đất nước, Đảng
Cộng sản Việt Nam đã mở rộng mục tiêu hướng tới phát triển của con người,
vì con người và do con người, đó là [7]:

1
7


Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Đảng Cộng sản lãnh đạo, cơ chế một đảng.
Tự do lựa chọn chế độ chính trị.

Giữ gìn văn hóa và bản sắc dân tộc.
Phát triển con người phải trên góc độ tổng thể, không phân biệt giai cấp,
tầng lớp dân cư, không phân biệt dân tộc, giàu nghèo, giới tính, tín ngưỡng,
tôn giáo...
Tinh thần làm chủ tập thể, dân chủ cơ sở (là sự tham gia của dân chúng
vào các quyết sách của đất nước).
Phát triển con người là sự nghiệp của đổi mới.
Đẻ theo dõi và đánh giá việc thực hiện các chính sách của Đảng, Chính
phủ, việc tính toán chỉ số HDI ở nước ta đã trở thành vấn đề bức bách. Chỉ số
phát triển con người là công cụ hữu hiệu trong việc điều hành nền kinh tế quốc
dân nhằm mục tiêu phát triển vì con người và mang đạm tính nhân văn, dựa
vào chỉ số phát triển con người HDI, chính quyền các cấp, từ Trung ương đến
cơ sở có thế đề ra các chính sách thích hợp đảm bảo mục tiêu dân giàu nước
mạnh.
HDI đã trở thành một trong những chỉ tiêu quan trọng trong hệ thống chỉ
tiêu phát triển của nước ta, của hiệp hội các nước ASEAN, của khu vực và trên
toàn thế giới.
HDI đã đi vào chiến lược hành động và phát triển của đất nước ta, kể
các chiến lược tổng quan lẫn các chiến lược phát triển trong từng lĩnh vực.
Tư tưởng phát triển con người đã được thể hiện rõ trong các văn kiện
của Đảng và Nhà nước. Một trong những mục tiêu cụ thể của Chiến lược phát
triển kinh tế-xã 10 năm 2001 - 2010 là: “nâng lên đáng kể chỉ số phát triển con
người (HDI) của nước ta [3]”.

1
8


Trong Chiến lược phát triển dân số 2001 - 2010, Chính phủ cũng đề ra
mục tiêu đến năm 2010 phấn đấu đưa chỉ số phát triển con người nước ta lên

mức từ 0,70 đến 0,75 tức là mức trung bình khá của thế giới hiện nay và xấp xỉ
bằng mức hiện nay của Thái lan.
1.1.3. Mục đích và ý nghĩa của chỉ số phát Mến con người ỉ.
1.3. ì. Mục đích
Đe so sánh một cách tổng hợp tình hình phát triển kinh tế - xã hội của
các quốc gia trên thế giới.
Hay nói cách khác, dựa vào kết quả tính toán chỉ số HDI cho vùng quốc
gia hay vùng lãnh thổ, cơ quan HDR hàng năm tiến hành xếp hạng trình độ
phát triển kinh tế - xã hội. Theo các báo cáo của HDR trong nhũng năm gần
đây, chỉ số HDI mới tính toán cho khoảng 180 quốc gia hay vùng lãnh thổ
trong tổng số hơn 200 nước trên thế giới và Việt Nam chúng ta chỉ tiêu GDP
bình quân đầu người tính theo sước mua tương đương tính theo sức mua tương
đương xếp vào nhóm 25 quốc gia nghèo nhưng chỉ số HDI ở mức trung bình
(trên 100).
Đe phân tích các yếu tố tác động đến sự phát triển kinh tế - xã hội.
Giả sử, từ công thức tính HDI trên cơ sở lấy số bình quân của ba chỉ số
thành phần. Tuổi thọ (I|). tri thức (I 2) và GDP bình quân đầu người tính theo
sức mua tương đương (I3) sẽ cho nhận xét cụ thể về các mặt sau:
Neu 2 nước có cùng chỉ số HDI như nhau, nhưng các chỉ số thành phần
(1], I2và I3) khác nhau sẽ có nhận xét như sau:
Neu Iị'> Ý\ có thế rút ra kết luận: môi trường sống, tình hình xã hội,
chăm sóc sức khỏe của nước thứ nhất tốt hơn nước thứ hai.

1
9


Nấu lị '> Ý\ và I2'= I kéo theo I3'< I32 thì chúng ta dễ dàng rút ra nhận
22


xét: tuy nước thứ hai có nền kinh tế phát triển khá hơn nước thứ nhất, nhưng
vấn đề môi trường, chăm sóc sức khỏe và y tế kém hơn nước thứ nhất.
Nếu Ii‘> và I3'= kéo theo I2'< thì chúng ta có thể rút ra nhận xét: tuy
Ý\

I32

I2

hai nước có mức độ phát triển như nhau, nhưng nước thứ nhất chú trọng nhiều
đến môi trường, xã hội còn nước thứa hai chú trọng đến vấn đề giáo dục.
Với cách làm tương tự, có thể đi sâu phân tích nhiều ngữ cảnh khác
nhau và đưa ra khuyến cáo có giá trị về chính sách, kinh tế, xã hội, môi trường,
văn hóa...
Có thể khẳng định rằng, nếu tính toán được chỉ số HDI sẽ cung cấp cho
chúng ta nhiều tư liệu quý đế phân tích đánh giá thực trạng phát triển kinh tế xã hội và đây là điều thu hút sự quan tâm của nhiều nhà lãnh đạo trên thế giới.
1.1.3.2. Ỷ nghĩa
HDI là thước đo tổng họp đo lường trình độ phát triển của thế giới, của
một khu vực, một quốc gia hay một vùng, một tỉnh, một địa phương., thay thế
cho tiêu chí phát triển chỉ thuần túy sử dụng tốc độ tăng trưởng kinh tế thông
qua GDP.
Vì là thước đo tổng hợp của sự phát triển, nên HDI được sử dụng đế làm
công cụ quản lí và đề ra chính sách. Trên cơ sở tĩnh toán HDI và các chỉ số
thành phần, các nhà quản lí và những người đề ra chính sách dễ dàng phát hiện
những khía cạnh non yếu để từ đó có những giải pháp thích hợp nhằm nâng
cao năng lực lựa chọn cho người dân và mở rộng phạm vi lựa chọn cho người
dân.
HDI được sử dụng là một trong những chỉ tiêu thống kê quan trọng của
các hệ thống chi tiêu phát triển của thế giới, của khu vực, các hiệp hội: Liên
họp quốc, ASEAN, ...


2
0


HDI được đưa vào mục tiêu phấn đấu trong các Chiến lược phát triển
ngắn hạn, trung hạn cũng như dài hạn của các quốc gia.
HDI được sử dụng trong các công trình phân tích kinh tế - xã hội.
HDI được sử dụng để so sánh quốc tế trình độ phát triển giữa các khu
vực, các nhóm nước, các quốc gia, hay thậm chí giữa các vùng và các tỉnh,
thành phố trong một quốc gia.
Như vậy, việc tính toán HDI ở nước ta hiện nay đã trở thành vấn đề cấp
thiết để theo dõi quá trình thực hiện các mục tiêu Chiến lược phát triển kinh tế
- xã hội mà Đảng và Chính Phủ đề ra, để hội nhập với cộng đồng quốc tế, nhất
là trong giai đoạn hiện nay của quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất
nước trong bối cảnh toàn cầu hóa.
1.1.4.

Phương pháp tính chỉ số HDỈ

1.1.4.1.

Phương pháp tính chỉ số HDỈ trên thế giới Đẻ đo lường thành

tựu phát triển con người, từ năm 1990 Chương trình phát triển của Liên
hợp quốc đã đưa ra phương pháp tính chỉ số phát triển con người
(Human Development Index - HDI). Đây là chỉ số tổng họp phản ánh
trình độ phát triển của con người và cũng phản ánh mức độ đạt được
những khát vọng chung của loài người là có mức sống cao, có học vấn
cao, có sức khỏe dồi dào, xã hội lành mạnh, phát triến văn hóa cộng

đồng. Hiện nay, trên thế giới đã và đang sử dụng một số mô hình sau đề
tính HDI:
Tính chỉ so HDI theo mô hình 3 nhân tó - Mô hình tam giác: bao gồm:
sức khỏe, giáo dục, thu nhập.
về sức khỏe: nếu con người được mạnh khỏe thì cuộc sống trường thọ.
Ngược lại, trường thọ là một biểu hiện của một cơ thể khỏe mạnh. Vì vậy, sức

2
1


khỏe được “lượng hóa” bằng chỉ tiêu tuổi thọ trung bình hay còn gọi là kì vọng
sống trung bình được tính từ khi sinh ra.
về giáo dục: được đánh giá bằng kiến thức, hay còn được gọi là trình
độ tri thức, là sự tổng họp theo tỉ lệ biết chữ của người lớn (với quyền số
2/3) và tỉ lệ nhập học của tất cả các cấp (tiểu học, trung học và đại học với
quyền số tổng cộng chung là 1/3).
về thu nhập: được đo bằng chỉ số GDP bình quân đầu người tính thực
tế theo sức mua tương đương (PPP - Purchasing Power Parity và thường đưa
về USD).
Công thức tính chỉ số HDI:
HDI (ITUỔI THỌ ITRI THỨC "I” IGDP)/3

Trong đó: Ituổi thọ là chỉ số tuổi thọ

Itri thức là chỉ số tri thức IGDP LÀ CHỈ SỐ THU NHẬP Sơ

đồ: mô hình 3 nhân tố

sức khỏe, giáo dục, thu nhập và lành mạnh xã hội.

Trong quá trình tính chỉ số HDI của các nước trên thế giới, hàng loạt
câu hỏi được đặt ra: phải chăng học vấn, sức khỏe và mức sống đã đo lường
chính xác và đầy đủ sự phát triển của con người. Trong khi đó, ở nhiều nước
trên thế giới, vấn đề an toàn xã hội hay còn gọi là lành mạnh xã hội đang đặt

2
2


ra nhiều thách thức với hoàng loạt các tệ nạn xã hội như: các loại tội phạm, giá
mại dâm, tệ nạn ma túy, tình hình HIV/AIDS... điều này cho thấy, sự phát triển
con người không những cần làm cho kính tế, giáo dục, y tế phát triển, môi
trường tự nhiên trong lành mà còn phải đẩy lùi tội phạm và tệ nạn xã hội, tạo
sự lành mạnh trong xã hội.
Xét từ quan điếm con người, tệ nạn xã hội, nhất là tệ nạn nghiện hút ma
túy có tác động trục tiếp và làm giảm tất cả các chỉ số kinh tế, giáo dục và tuổi
thọ.
Với chỉ số kinh tế, một người nghiện hút không thể làm việc với cường
độ và năng suất cao mà còn dẫn tới bỏ bê và nghỉ việc, lang thang, không tham
gia lao động. Bản thân người đó không tham gia phát triển kinh tế cho gia đình
và vấn đề để có tiền mua ma túy đã sinh ra trộm cắp, thậm chí giết người, cướp
của cá nhân, tập thể, cộng đồng...
Với chỉ số giáo dục, nếu người nghiện hút là học sinh thì sẽ dẫn đến bỏ
học, nếu đối tượng nghiện hút là cha mẹ thì con cái không được quan tâm đến
học hành và cũng dẫn đến bỏ học.
Với chỉ số tuổi thọ, người nghiệm ma túy thường có tuổi thọ thấp do sức
khỏe suy kiệt. Bên cạnh đó, do tiêm chích và sinh hoạt bừa bãi, những người
nghiện hút rất dễ lây nhiễm HIV/ ADIS cho cộng đồng. Như vậy, những cái
chết từ căn bệnh này đã làm giảm tuổi thọ của xã hội.
Từ những phân tích trên, nhiều nước trên thế giới đã tính thêm chỉ số

lành mạnh xã hội nhằm phản ánh khả năng phòng ngừa tệ nạn của cộng đồng.
Công thức tính chỉ số HDI
HDI = (Ituổi thọ + Itri thức + IGDP + Ilmxh)/4

Trong đó: Ituổi thọ là chỉ số tuổi thọ
Itri thức

là chỉ số tri thức

Igdp là chỉ số thu nhập

2
3


ILMXH

là chỉ số lành

mạnh xã hội

Mô hình sao, bao gồm: sức khỏe, giáo dục, thu nhập, lành mạnh xã
hội và phát triển văn hóa cộng đồng.
Như chúng ta đã biết, trong đời sống hàng ngày thì nguồn thu nhập
cao là ước vọng của mọi người. Nhưng nếu không có đời sống tinh thần, lợi
ích phi vật chất, mà trong đó bao gồm các quyền được hưởng thụ giá trị văn
hóa, trạng thái tinh thần, hòa nhập và ý thức cộng đồng,... và đồng nghĩa là
tạo ra giá trị lao động cao hơn, năng suất hơn, thỏa mãn nhu cầu hơn. Xuất
phát từ sự phân tíchc trên, nhiều nước trên thế giới đã đưa thêm chỉ số phát
triển văn hóa cộng động để tính chỉ số HDI.

Công thức tính chỉ số HDI
HDI — (Ituổi thọ Itri thức "I" IGDP + ILMXH + Iptvhcđ)/5

Trong đó:

Ituổi thọ

là chỉ số tuổi thọ

Itri thức

thức

là chỉ số tri

IGDP



chỉ

SỐ

thu

2
4


nhập

IPTVHCĐ

ILMXH

là chỉ số

lành mạnh xã hội
là chỉ số phát triển văn hóa cộng đồng

Môt sổ đăc điếm của HDI:
0 Các chỉ số thành phần tức chỉ số tuổi thọ, chỉ số giáo dục, chỉ số
GDP, chỉ số lành mạnh xã hội và chỉ số văn hóa cộng đồng đều đóng góp
như nhau vào các giá trị của chỉ số phát triển con người HDI.
HDI càng gần 1 thì trình độ phát triển con người càng cao, và ngược
lại.
Hiện nay Chương trình phát triển của Liên họp quốc đã, đang và sẽ
tiếp tục dùng phương pháp tính chỉ số phát triển của con người theo 3

2
5


×