Tải bản đầy đủ (.doc) (95 trang)

Một số giải pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên hệ vừa làm vừa học tại trường Đại học Sài Gòn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (435.38 KB, 95 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

ĐẶNG NGỌC THÔNG

MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG
TỰ HỌC CỦA SINH VIÊN HỆ VỪA LÀM VỪA HỌC
TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

NGHỆ AN - 2013


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

ĐẶNG NGỌC THÔNG

MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG
TỰ HỌC CỦA SINH VIÊN HỆ VỪA LÀM VỪA HỌC
TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN

Chuyên ngành: Quản lý giáo dục
Mã số: 60.14.05

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học:

PGS. TS. NGUYỄN VIẾT NGOẠN



NGHỆ AN - 2013


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành được luận văn, tác giả đã nhận được rất nhiều sự giúp
đỡ, đóng góp những ý kiến quý báu của quý thầy cô là giảng viên trường Đại
học Vinh, Đại học Sài Gòn và sự động viên cán bộ lãnh đạo Phòng đào tạo tại
chức và Tu nghiệp giáo viên trường Đại học Sài Gòn… Qua đây tôi xin bày tỏ
lòng biết ơn sâu sắc đến:
- PGS. TS. Nguyễn Viết Ngoạn, Hiệu trưởng trường Đại học Sài Gòn
đã tận tâm hướng dẫn tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận
văn này.
- Khoa Quản lý giáo dục, Quý thầy cô là giảng Đại học Vinh đã tạo
điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập, giúp đỡ và đóng góp ý
kiến quý báu cho tôi trong quá trình nghiên cứu và thực hiện luận văn.
- Quý thầy cô là giảng viên cơ hữu, thỉnh giảng và Cán bộ các Phòng
ban, các Khoa của trường Đại học Sài Gòn đã tận tình góp ý và giúp tôi về số
liệu để tôi hoàn thành luận văn này.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng song do khả năng nghiên cứu của tôi còn
hạn chế, kinh nghiệm trong công tác nghiên cứu khoa học còn ít do đó luận
văn không tránh khỏi thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến
tận tình của Quý thầy cô, các bạn đồng nghiệp để luận văn được hoàn thiện
hơn nữa và mang tính khả thi cao.
Xin chân thành cảm ơn!
Nghệ An, tháng 9 năm 2013
Tác giả

Đặng Ngọc Thông



MỤC LỤC
Trang



DANH MỤC VIẾT TẮT
CBQL

Cán bộ quản lý

CSVC

Cơ sở vật chất

CVHT

Cố vấn học tập

GD - ĐT

Giáo dục - Đào tạo

HĐTH

Hoạt động tự học

SV

Sinh viên


TCN

Trước công nguyên

TNGV

Tu nghiệp giáo viên


DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục - Đào tạo giữ một vai trò hết sức quan trọng đối với sự tồn tại
và phát triển kinh tế - xã hội bền vững của đất nước và là sự quan tâm hàng
đầu của mỗi quốc gia. Đào tạo đại học theo hình thức vừa làm vừa học là chủ
trương của Đảng và Nhà nước nhằm nhanh chóng đào tạo, nâng cao đội ngũ
cán bộ đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong những năm qua. Nếu
hệ VLVH nhằm tạo điều kiện thật sự cho người vừa đi làm vừa có cơ hội đi
học đáp ứng nhu cầu nâng cao kiến thức, nâng cao trình độ chuyên môn, thích
nghi với nhiều môi trường làm việc thì chất lượng đào tạo phải là mục
tiêu.Trong bối cảnh mới đầy biến động trong Giáo dục đại học thì hệ đào tạo
VLVH được đánh giá chất lượng chưa được tin cậy (Ví dụ: Thông báo số
88/TB-UBND ngày 29/5/2013 về việc tuyển dụng công chức của tỉnh Nam
Định …). Một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo
phần lớn là tính tự học của người học không có.
Chính vì thế, chúng tôi chọn đề tài: Một số giải pháp quản lý hoạt

động tự học của sinh viên hệ vừa làm vừa học tại Trường Đại học Sài Gòn
để nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
Xuất phát từ việc nghiên cứu cơ sở lý luận của vấn đề chất lượng đào
tạo, vấn đề tự học, tự nghiên cứu của sinh viên Đại học hệ VLVH, luận văn đi
sâu nghiên cứu thực trạng quá trình tự học, tự nghiên cứu của sinh viên hệ
VLVH và công tác quản lý hệ VLVH tại trường Đại học Sài Gòn, nhằm góp
phần phục vụ cho nghiên cứu, quản lý và giảng dạy ở các trường Đại học
đang đào tạo SV hệ VLVH nói chung và Đại học Sài Gòn nói riêng.
Thông qua cơ sở lý luận, luận văn sẽ đưa ra kết quả: Chứng minh rằng
việc quản lý tự học, tự nghiên cứu của sinh viên là hoạt động vô cùng cần


thiết, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo hệ VLVH, góp phần rút ngắn
khoản cách nhìn nhận và phân biệt giữa các hệ đào tạo trong Giáo dục - Đào
tạo (GD-ĐT). Từ đó đưa ra những kiến nghị, những giải pháp quản lý tự học
của SV hệ VLVH tại trường Đại học Sài Gòn trong những năm tới.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Công tác quản lý hoạt động tự học của SV hệ VLVH ở các trường đại học.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Giải pháp quản lý hoạt động tự học của SV hệ VLVH tại Trường Đại
học Sài Gòn.
4. Giả thuyết khoa học
Nếu tìm được giải pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên hệ
VLVH tại trường Đại học Sài Gòn phù hợp thì chất lượng học tập của sinh
viên sẽ được nâng cao, đáp ứng mục tiêu đào tạo của nhà trường trong giai
đoạn hiện nay.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận của vấn đề quản lý hoạt động tự học của

sinh viên hệ VLVH.
5.2. Nghiên cứu cơ sở thực tiễn vấn đề quản lý hoạt động tự học của
sinh viên hệ VLVH tại Trường Đại học Sài Gòn.
5.3. Đề xuất các giải pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên hệ
VLVH tại Trường Đại học Sài Gòn.
5.4. Khảo sát sự cần thiết, tính khả thi và thử nghiệm một số giải pháp,
đề xuất.
6. Giới hạn nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu thực trạng quản lý hoạt động tự học của sinh viên hệ
VLVH các ngành ngoài sư phạm từ năm học 2008 - 2009 đến năm học 2012 2013 tại Trường Đại học Sài Gòn do Phòng đào tạo tại chức & TNGV trực
tiếp quản lý.


7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
- Phương pháp phân tích - tổng hợp tài liệu;
- Phương pháp khái quát hóa các nhận định độc lập;
- Phương pháp mô hình hóa.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp điều tra;
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục;
- Phương pháp chuyên gia;
- Phương pháp nghiên cứu các sản phẩm hoạt động;
- Phương pháp khảo nghiệm, thử nghiệm.
8. Đóng góp của đề tài
8.1. Về mặt lý luận
Hệ thống hóa và phát triển các vấn đề lý luận của hoạt động tự học và
quản lý hoạt động tự học của SV hệ VLVH.
8.2. Về mặt thực tiễn
Đề xuất một số giải pháp quản lý hoạt động tự học, kiến nghị nhằm

nâng cao khả năng tự học, tự nghiên cứu của SV hệ VLVH tại Trường Đại học
Sài Gòn.
9. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục nghiên cứu.
Luận văn có ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của vấn đề quản lý hoạt động tự học.
Chương 2: Cơ sở thực tiễn của vấn đề quản lý hoạt động tự học của
sinh viên hệ vừa làm vừa học tại Trường Đại học Sài Gòn.
Chương 3: Một số giải pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên hệ
vừa làm vừa học tại Trường Đại học Sài Gòn.


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN
CỦA VẤN ĐỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC
1.1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Những nghiên cứu ở nước ngoài
Trên thế giới có nhiều công trình nghiên cứu về tự học và các tổ chức
hoạt động tự học.Tự họclà một vấn đề đã được nhiều nhà giáo dục học trên
thế giới quan tâm dưới các góc độ khác nhau: phát huy tính tích cực, tính độc
lập, tính tự giác, tính sáng tạo của người học như các nhà khoa học giáo dục
Xôcơrat, Khổng Tử, Cômenxki, Đixtecvec, Usinxki. Ngay từ những năm
trước công nguyên, XôCơRát (469 - 339 TCN) đã đưa ra quan niệm rất nổi
tiếng: Giáo dục nhằm giúp con người tự khẳng định chính mình. Vận dụng
quan điểm đó vào dạy học, ông cho rằng cần phải để cho người học tự suy
nghĩ, tự tìm tòi, cần giúp người học tự phát hiện thấy sai lầm của mình và tự
khắc phục những sai lầm đó. Đến thế kỷ 17, J.A.Cômenxki (1592-1670) đã
tìm ra phương pháp cho phép giáo viên, giảng viên giảng dạy ít hơn, học sinh
học nhiều hơn. Ông đề ra một số nguyên tắc dạy học mà cho đến nay vẫn có
tác dụng nhằm phát huy tính tích cực học tập của học sinh là: Nguyên tắc đảm

bảo tính trực quan trong dạy học, nguyên tắc đi từ cái chung đến cái riêng,
nguyên tắc tôn trọng đặc điểm đối tượng.
Đến thế kỷ thứ XIX Conxtantin Đmitrêvic Usinxki (1824-1870) đã
nghiên cứu về tính tích cực, tính độc lập của học sinh. Theo ông tính tích cực,
tính độc lập là cơ sở duy nhất để cho sự học có hiệu quả. Ông cho rằng cần
giáo dục cho học sinh biết định hướng trong môi trường xung quanh, biết
hành động một cách sáng tạo, biết tự mình nâng cao vốn học vấn và tự phát
triển bản thân. Trong dạy học không nên dồn tất cả tính tích cực vào công tác


dạy của người giáo viên, còn học sinh thì lại thụ động mà cần phải làm sao
cho học sinh tích cực ở mức độ cao nhất.
Đầu thế kỉ XX, những thành tựu về lý luận dạy học của nhà nước Xô
Viết ra đời gắn liền với tên tuổi của một số nhà giáo dục học nổi tiếng như:
V.V. Đavưdov, L.V.Zankov, I.Ia.lecne, Iu.K.Babanski, R.A.Nhizamov. Khi
nghiên cứu về lý luận dạy học ở đại học, các tác giả đã vạch rõ sự khác biệt
giữa dạy học ở đại học với dạy học ở phổ thông: Các tác giả cho rằng dạy học
ở đại học không phải chỉ trả lời câu hỏi dạy như thế nào? Mà còn phải trả lời
câu hỏi: SV độc lập học tập như thế nào? Độc lập nghiên cứu khoa học ra
sao? Tìm tòi sáng tạo như thế nào?... Có thể nói ngay từ đầu thế kỉ XX, vấn
đề tự học ở đại học đã được rất nhiều các tác giả quan tâm dưới góc độ
phương pháp dạy và phương pháp học. Vấn đề này cho đến nay vẫn tiếp tục
được nghiên cứu.
Còn I.F. Kharlamop (năm 1986) đã nghiên cứu tự học dưới góc độ tìm
ra những biện pháp để phát huy tính tích cực học tập của học sinh bằng cách:
Tăng cường việc nghiên cứu làm việc với sách giáo khoa, với tài liệu học tập,
dạy học nêu vấn đề, cải tiến công tác tự lực học tập, đổi mới phương pháp
kiểm tra đánh giá…
Với xu thế phát triển của thời đại I.U.K.Babanxki (năm1987) nghiên
cứu tự học gắn liền với việc tìm ra các biện pháp tối ưu hoá việc học theo hai

hướng: Phát huy tính tích cực, tính tự giác của học sinh trong học tập dưới sự
hướng dẫn, điều khiển trực tiếp của thầy, kết hợp với quản lý và tự quản lý
hoạt động học tập của học sinh.
Đáp ứng với xu thế phát triển của thời đại, đáp ứng những yêu cầu đổi
mới của các quốc gia trên thế giới, các nhà giáo dục học ở các nước phát triển
đã đi sâu nghiên cứu để tối ưu hóa việc học, hình thành, phát triển năng lực tự
học để người học có thể học thường xuyên, học suốt đời. Makiguchi,


B.P.Exipov, khi nghiên cứu bản chất tự học của SV, các tác giả đã chỉ ra rằng:
bản chất tự học của SV là hoạt động nhận thức bằng hành động tìm tòi,
nghiên cứu, khám phá. Đây chính là cơ sở lý luận của vấn đề tổ chức hoạt
động tự học cho SV.
Cuối thế kỉ XX ảnh hưởng của sự phát triển khoa học kỹ thuật, đặc biệt
là ảnh hưởng của cuộc cách mạng công nghệ, phần lớn các nhà giáo dục học
đã nghiên cứu tự học theo hai hướng chính: Hướng thứ nhất là nghiên cứu áp
dụng công nghệ dạy học, nhằm thay đổi vị trí của thầy và trò trong quá trình
dạy học, từ chuyên gia về việc dạy, giáo viên phải chuyển sang chuyên gia về
việc học của người học; Hướng thứ hai là dạy học phân hoá, dạy học tiến
hành theo nhịp độ cá nhân người học để đạt tới năng suất và hiệu quả cao nhất
trong việc học, dạy học cần phải được tổ chức hướng vào người học. Tiêu
biểu cho các hướng nghiên cứu trên là Raja Roy Singh. Ông đã nghiên cứu
vai trò của năng lực tự học trong việc học tập thường xuyên và học tập suốt
đời, đề cao vai trò chuyên gia cố vấn của người thầy trong việc học tập
thường xuyên, học tập suốt đời, trong việc hình thành phát triển năng lực tự
học của người học.
Năm 1986, Sharma và R. Ahmed đã nghiên cứu hoạt động tự học như
là một hình thức tổ chức dạy học bằng cách dạy phương pháp cho người học.
Theo tác giả Sharma và R. Ahmed, người ta có thể dạy phương pháp tự học
cho SV bằng nhiều hình thức khác nhau tùy theo điều kiện, hoàn cảnh, tùy

theo tính chất đặc thù môn học và nội dung yêu cầu của bài học. Nhưng theo
ông dù tuân theo hình thức nào thì cũng phải thực hiện theo các giai đoạn sau:
- Giai đoạn 1: Giáo viên thiết kế bài tập và cung cấp nguồn tài liệu cần
thiết cho bài tập và chỉ dẫn cụ thể những gì SV phải làm để hoàn thành bài tập.
- Giai đoạn 2: Giáo viên tổ chức cho SV tự nghiên cứu, tự làm bài tập
với sự hỗ trợ của những thông tin có sẵn.


- Giai đoạn 3: Giáo viên làm việc với SV trên lớp theo hình thức cá nhân
hay tập thể thông qua những hình thức khác nhau: Thảo luận, xêmina, củng cố
ôn tập, xây dựng bài giảng, kiểm tra đánh giá, tự kiểm tra, tự đánh giá.
Nghiên cứu về vấn đề tự học của SV là một lý thuyết mới về tổ chức tự
học dưới góc độ nhìn nhận tự học như là một phương pháp dạy học.
Tóm lại, qua nghiên cứu các tư tưởng, quan điểm, bàn về dạy học và tự
học, tổ chức hoạt động tự học của các tác giả trên thế giới, chúng tôi có một
số nhận xét sau:
Tự học là cần thiết đối với tất cả mọi người, vấn đề tự học của SV nói
chung và của SV đại học VLVH nói riêng được các tác giả trên thế giới quan
tâm dưới nhiều góc độ khác nhau như: phát huy tính tích cực học tập của
người học, tối ưu hoá thời gian học, phương pháp học của người học để đạt
được hiệu quả cao nhất ở người học.
1.1.2. Những nghiên cứu ở trong nước
Theo tác giả Đặng Hữu Hoạt, Hà Thị Đức (năm 1994): “Tự học là một
hình thức tổ chức dạy học cơ bản ở đại học. Đó là một hình thức hoạt động
nhận thức của cá nhân, nhằm nắm vững hệ thống tri thức và kỹ năng do chính
bản thân người học tiến hành ở trên lớp hoặc ở ngoài lớp, theo hoặc không
theo chương trình và sách giáo khoa đã quy định”.
- Theo GS.TS Nguyễn Cảnh Toàn (năm 1997): “Tự học là tự mình
động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ và có khi cả cơ bắp (khi phải
sử dụng công cụ) cùng các phẩm chất của mình cả động cơ, tình cảm, cả nhân

sinh quan, thế giới quan để chiếm các lĩnh vực thành sở hữu của mình”.
- Theo GS Vũ Văn Tảo (Tạp chí Tháng 4/2001) “Học, cốt lõi là tự học,
là quá trình phát triển nội tại, trong đó chủ thể tự thể hiện và biến đổi mình…”.
- Theo TS Võ Quang Phúc (Tạp chí Tháng 4/2001): “Học, một khi
được hiểu như là sự chiếm lĩnh kinh nghiệm của nhân loại, thì tự nó bao gồm


cả HĐTH. Nói khác đi, tự học là bộ phận của học, nó cũng được tạo thành bởi
những thao tác, cử chỉ, ngôn ngữ, hành động của người học trong hệ thống
tương tác của hoạt động dạy học. Tự học phản ánh rõ nhất nhu cầu bức xúc về
học tập của người học, phản ánh năng lực tổ chức và tự điều khiển của người
học nhằm đạt kết quả nhất định trong hoàn cảnh nhất định với một nội dung
học tập nhất định”.
Trong một số công trình nghiên cứu về tự học và tổ chức hoạt động tự
học thì tính tích cực, tính độc lập, động cơ học tập của người học giữ một vai
trò rất quan trọng đối với chất lượng và hiệu quả của hoạt động tự học
(Nguyễn Ngọc Bảo, Đặng Vũ Hoạt, Hà Thị Đức). Kiểm tra đánh giá là khâu
then chốt nhằm giúp người thầy điều chỉnh, điều khiển hoạt động dạy của
mình, điều khiển, điều chỉnh hoạt động học của trò, đồng thời giúp người học
tự điều khiển, tự điều chỉnh hoạt động học tập nhằm nâng cao chất lượng,
hiệu quả của hoạt động dạy học. Bên cạnh đó, kiểm tra đánh giá còn là một
nhân tố phát huy tính tích cực của người học trong quá trình tự học và hình
thành kỹ năng tự đánh giá ở SV.
Qua các quan điểm về tự học nêu trên, chúng tôi hiểu rằng, tự học là
hoạt động tổ chức nhận thức độc lập của từng người học, tự phát huy năng
lực cá nhân để thực hiện các nhiệm vụ tự học xác định. Tự học là “tự động
học tập”, thể hiện tính tự lực, tự giác, tích cực cao trong quá trình lĩnh hội
kiến thức, rèn luyện kỹ năng. Vì vậy, tự học mang đậm sắc thái cá nhân, biểu
hiện ở: tự xác định mục tiêu chiếm lĩnh kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hoàn
thành các nhiệm vụ tự học cụ thể đặt ra trong từng giờ học, buổi học; tự lập

kế hoạch, tiến độ, thời gian tự học phù hợp với mục tiêu tự học đã xác định;
tự xác định nội dung, nhiệm vụ, lựa chọn phương pháp tự học, sử dụng
phương tiện tự học phù hợp; tự kiểm tra - đánh giá, tự điều chỉnh việc học
của bản thân.


1.2. Các khái niệm cơ bản của luận văn
1.2.1. Hoạt động tự học
1.2.1.1. Tự học là gì?
Trong tập bài giảng chuyên đề dạy tự học cho SV trong các nhà trường
trung học chuyên nghiệp và Cao đẳng, Đại học GS.TSKH Thái Duy Tuyên
(năm 2003) viết: “Tự học là hoạt động độc lập chiếm lĩnh kiến thức, kỹ năng,
kỹ xảo, tự học là tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ
(quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp…) cùng các phẩm chất động cơ, tình
cảm để chiếm lĩnh tri thức một lĩnh vực hiểu biết nào đó hay những kinh
nghiệm lịch sử, xã hội của nhân loại, biến nó thành sở hữu của chính bản thân
người học”.
Tác giả Nguyễn Kỳ (tạp chí Nghiên cứu giáo dục số 7/1998) cũng bàn
về khái niệm tự học: “Tự học là người học tích cực chủ động, tự mình tìm ra
tri thức kinh nghiệm bằng hành động của mình, tự thể hiện mình. Tự học là tự
đặt mình vào tình huống học, vào vị trí nghiên cứu, xử lý các tình huống, giải
quyết các vấn đề, thử nghiệm các giải pháp…Tự học thuộc quá trình cá nhân
hóa việc học”.
Trong bài phát biểu tại hội thảo “Nâng cao chất lượng dạy học” tổ chức
vào tháng 11 năm 2005 tại Đại học Huế, GS.Trần Phương cho rằng: “Học bao
giờ và lúc nào cũng chủ yếu là tự học, tức là biến kiến thức khoa học tích lũy
từ nhiều thế hệ của nhân loại thành kiến thức của mình, tự cải tạo tư duy của
mình và rèn luyện cho mình kỹ năng thực hành những tri thức ấy”.
Từ những quan niệm trên đây có thể nhận thấy rằng, khái niệm tự học
luôn đi cùng, gắn bó chặt chẽ với khái niệm tự thân.Tri thức, kinh nghiệm, kỹ

năng của mỗi cá nhân chỉ được hình thành bền vững và phát huy hiệu quả
thông qua các hoạt động tự thân ấy. Để có được kết quả và đạt tới sự hoàn
thiện thì mỗi SV phải tự thân tiếp nhận tri thức từ nhiều nguồn; Tự thân rèn
luyện các kỹ năng; Tự thân bồi dưỡng tâm hồn của mình ở mọi nơi mọi lúc.


Như vậy, hoạt động học là hoạt động của người học nhằm tổ chức các
điều kiện bên trong và bên ngoài đảm bảo cho việc lĩnh hội tri thức, kỹ năng,
kỹ xảo có hiệu quả.
1.2.1.2. Khái niệm hoạt động
“Hoạt động là sự tương tác tích cực của chủ thể và đối tượng nhằm biến
đổi đối tượng theo mục đích mà chủ thể tự giác đặt ra để thỏa mãn nhu cầu
của bản thân”. Hoạt động nảy sinh từ nhu cầu nhưng lại được điều chỉnh bởi
mục tiêu mà chủ thể nhận thức được, nghĩa là nhu cầu, là cơ sở xuất phát, là
động cơ của hoạt động, nhưng nội dung, hình thái của hoạt động lại chịu sự
chi phối bởi mô hình lý tưởng của kết quả mong muốn, của sự biến đổi đối
tượng. Cấu trúc hoạt động gồm ba cấp độ từ thấp đến cao: cấp bậc thao tác,
cử động; cấp bậc hành động và cấp bậc hoạt động. Hoạt động gồm hai thành
tố cơ bản là chủ thể và đối tượng, đồng thời có hai đặc trưng đó là:
- Tính đối tượng: là đối tượng khách quan có khả năng thỏa mãn nhu
cầu và được chủ thể chọn.
- Tính chủ thể: là khi cá nhân trở thành chủ thể của hoạt động, là những
tác động tích cực để biến đổi chiếm lĩnh đối tượng và qua đó, chủ thể và đối
tượng được cải tạo.
1.2.1.3. Hoạt động tự học
HĐTH là quá trình tổ chức nhận thức độc lập, tự phát huy năng lực cá
nhân một cách tích cực, tự giác, tự lực chiếm lĩnh tri thức khoa học. HĐTH về
bản chất là sự tiếp thu, tự xử lý thông tin, chủ yếu bằng các thao tác trí tuệ
- Cấu trúc hệ thống của HĐTH
+ Động cơ: là lực đẩy trực tiếp, là nhu cầu hứng thú tạo ra sự chú ý liên

tục, thu hút người học vào quá trình học tập một cách tích cực trong mọi giai
đoạn học tập.


+ Định hướng: là mục đích của người học để xác định và ý thức được
hoạt động nhận thức của mình.
+ Nội dung: là hệ thống tri thức, kỹ năng, kỹ xảo cần chiếm lĩnh.
+ Kế hoạch tự học: là bảng phân chia nội dung tự học dựa trên yêu cầu
nhiệm vụ tự học, khả năng bản thân và các điều kiện bảo đảm để đạt được
mục tiêu đề ra.
+ Phương pháp tự học: là cách thức chiếm lĩnh nội dung tự học.
+ Hình thức tự học: là các cách hay phương pháp diễn ra HĐTH (tự
học một mình, theo nhóm, theo lớp…).
+ Năng lực tự học: là những phẩm chất trí tuệ mà hiệu quả học tập phụ
thuộc vào đó (tính định hướng, bề rộng, độ sâu…).
+ Tự kiểm tra - đánh giá: là hoạt động kiểm tra của cá nhân đối với kết
quả tự học, phát hiện sai lệch, giúp người học điều chỉnh, làm cơ sở cho
HĐTH tiếp theo.
- Nội dung của HĐTH
Nội dung tự học bao gồm toàn bộ những vấn đề học tập do cá nhân
người học độc lập tiến hành, biểu hiện cụ thể qua việc thực hiện các nhiệm vụ
tự học hàng ngày. Trên cơ sở mục tiêu, yêu cầu đào tạo, nội dung của HĐTH
được xem xét ở ba khía cạnh sau:
+ Về nội dung tự học cơ bản: quán triệt phương châm, biến quá trình
đào tạo của Nhà trường thành quá trình tự đào tạo của mỗi người học. Do đó,
nội dung tự học của người học phải toàn diện, đầy đủ theo yêu cầu và chương
trình học quy định. Xét về cơ bản, nội dung của HĐTH gồm: kiến thức, kỹ
năng về nghề nghiệp đang được đào tạo; tri thức, phương pháp.
+ Về nội dung tự học thường xuyên: là những nội dung tự học diễn ra
hàng ngày, thể hiện ở việc giải quyết các nhiệm vụ tự học cụ thể, nội dung

HĐTH rất phong phú, có thể kể đến: nghiên cứu bút ký, đọc và nghiên cứu


giáo trình, tài liệu, ghi chép tài liệu học tập, ghi nhớ tài liệu học tập, chuẩn bị
cho các buổi học sau, bài học sau, trao đổi, tranh luận học hỏi; ôn luyện…
+ Về nội dung tự học mở rộng: ngoài những nội dung tự học bắt buộc
theo mục tiêu, yêu cầu, chương trình đào tạo của Nhà trường, người học có
thể tự học, tự nghiên cứu những lĩnh vực tri thức theo sở thích, sở trường cá
nhân. Nội dung tự học thường xuyên có ý nghĩa là phương tiện từng bước
thực hiện và hướng tới nội dung tự học cơ bản. Nội dung tự học cơ bản biểu
hiện cụ thể và được thực hiện thông qua nội dung tự học thường xuyên. Nội
dung tự học mở rộng có tác động tích cực, bổ sung, làm phong phú hơn cho
nội dung tự học cơ bản và nội dung tự học thường xuyên.
1.2.2. Sinh viên hệ vừa làm vừa học
Phần lớn SV hệ Đại học VLVH là những người vừa đi làm, vừa đi học,
nên họ chịu áp lực công việc, áp lực gia đình. Bên cạnh đó, tuổi tác cũng có
ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng học tập. Việc đến lớp đầy đủ đã là một
cố gắng lớn, việc làm bài tập và tự nghiên cứu thêm ở nhà chắc chắn là phải
cần có một lòng quyết tâm cao độ. Việc tự học, tự nghiên cứu chỉ phát huy tốt
khi mà việc học tập thực sự cần thiết cho công việc của người học. Tuy nhiên,
cónhiều SV hệ Đại học VLVH là những người trẻ tuổi, những người chưa có
việc làm, nên học đầu tư và chăm chỉ học và nghiên cứu mang lại chất lượng
học tập cao.
1.2.3. Giải pháp quản lý hoạt động tự học
Muốn nâng cao hiệu quả của hoạt động tự học của SV đòi hỏi người
thầy giáo ngoài chức năng tổ chức, hướng dẫn, truyền đạt... cần phải dạy cách
thao tác với đối tượng, cách chiếm lĩnh đối tượng cho SV, hay nói cách khác
là hướng dẫn phương pháp học, cách học cho SV.
Tự học có hiệu quả cao khi tạo được môi trường học tập cho người học,
khi người học không ngừng rèn luyện cho mình một hệ thống kỹ năng tự học.



Muốn tự học có kết quả cao đòi hỏi chủ thể tự học phải có động cơ và
thái độ học tập đúng đắn, phải có nhu cầu và hứng thú học tập, phải có sự say
mê khoa học, phải nhận thức rõ được mục đích của hoạt động học tập và ý
thức một cách đầy đủ về việc học của mình. Để hoàn thành nội dung học tập
đòi hỏi chủ thể tự học phải có ý chí vượt khó để vượt qua vật cản hay chướng
ngại vật trong quá trình tự học nhằm đạt được các mục tiêu học tập đã đề ra.
Bên cạnh đó, hoạt động tự học của SV được thực hiện bởi hệ thống kỹ
năng, kỹ xảo nhất định vì vậy muốn hoạt động tự học đạt hiệu quả cao đòi hỏi
người học phải có hệ thống kỹ năng tự học, cụ thể: Kỹ năng sắp xếp thời gian
tự học, kỹ năng đọc sách, kỹ năng nghe và ghi chép bài trên lớp, kỹ năng
nghiên cứu khoa học... và kỹ năng tự đánh giá kết quả học tập.
Tự học chỉ thực sự có hiệu quả khi người học có đầy đủ các phương
tiện hỗ trợ cho hoạt động tự học, phương tiện đầu tiên phải kể đến là tài liệu
giáo trình, các tài liệu hướng dẫn tự học và các tài liệu tham khảo khác. Ngoài
ra c̣n các phương tiện hỗ trợ như đèn chiếu, băng hình, máy vi tính, các
phýõng tiện nghe nhìn khác... phục vụ cho hoạt động học tập của SV.
1.3. Hoạt động tự học của sinh viên hệ vừa làm vừa học
1.3.1. Ý nghĩa của hoạt động tự học của sinh viên hệ vừa làm vừa học
Tự học giúp người học chiếm lĩnh và nắm vững tri thức, kỹ năng, kỹ
xảo trong nghề nghiệp tương lai một cách nhanh chóng và bền vững. Trong
dạy học người học đóng vai trò là chủ thể nhận thức và mối quan hệ giữa việc
dạy và tự học là quan hệ ngoại lực - nội lực. Chính vì vậy, cho dù người dạy
có giỏi đến đâu cũng chỉ là người hướng dẫn, là chất xúc tác để người học tự
nhận thức, tự chiếm lĩnh tri thức, tự học mới là yếu tố nội lực quyết định đến
tính chất và tốc độ của quá trình chiếm lĩnh tri thức của người học. Ở đây, SV
đã thể hiện ở mức độ cao vai trò của chủ thể nhận thức và kết hợp thống nhất,
hài hòa giữa vai trò là chủ thể nhận thức với vai trò là đối tượng điều khiển



trong dạy học. Hoạt động học gắn chặt với HĐTH, tự học là cốt lõi của việc
học. Qua tự học sẽ giúp người học tự kiểm tra mức độ kết quả lĩnh hội kiến
thức, kỹ năng, kỹ xảo để người học tự điều chỉnh hoạt động học tập của mình.
Tự học còn giúp SV hình thành niềm tin khoa học và rèn luyện ý chí
phấn đấu, đức tính kiên trì, phê phán, bồi dưỡng hứng thú học tập, lòng say
mê nghiên cứu khoa học. Qua HĐTH SV mới tìm ra những vấn đề cần nghiên
cứu sâu, có những chính kiến của bản thân và tìm những luận cứ để chứng
minh hay phản biện các vấn đề khoa học, từ đó hình thành những đức tính tốt
đối với một nhà khoa học thực thụ. Những đức tính đó không thể được truyền
từ người dạy qua người học mà chính người học phải tích cực lao động bằng
trí óc mới có thể hình thành.
Tự học không những giúp SV không ngừng nâng cao chất lượng và
hiệu quả học tập từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường mà còn có thể hình thành
phương pháp, niềm tin, thái độ tự học, tự nghiên cứu suốt đời để thích ứng với
sự biến đổi nhanh chóng, toàn diện, tốc độ cao của xã hội.
Tự học giúp nâng cao chất lượng GD - ĐT của nhà trường. Mục tiêu
của giáo dục đào tạo là biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo. Quá
trình đào tạo phải tạo ra những người biết tự học, có phương pháp tự học và
tự học một cách có hiệu quả chứ không phải dạy học một cách nhồi nhét, thụ
động, áp đặt. Nhất là trong dạy học ở bậc đại học thì mục tiêu đó càng trở nên
quan trọng và có ý nghĩa, vì thực chất học ở bậc đại học là học phương pháp
và chỉ học những kiến thức cơ bản mang tính chất nền tảng. Tự học một cách
sáng tạo sẽ giúp nâng cao chất lượng và hiệu quả học tập của người học, từ đó
sẽ nâng cao chất lượng của quá trình GD - ĐT.
Như vậy, tự học đóng một vai trò hết sức quan trọng trong quá trình
nhận thức của cá nhân, góp phần nâng cao chất lượng GD - ĐT. Vấn đề là
HĐTH có cần được quản lý hay không? Nếu có thì phải quản lý như thế nào



cho phù hợp? Những vấn đề này sẽ làm sáng tỏ trong phần tiếp theo: phần
Quản lý hoạt động tự học.
1.3.2. Động cơ hoạt động tự học của sinh viên hệ vừa làm vừa học
Động cơ tự học của SV có thể xuất phát từ bên ngoài hoặc chính bên
trong nhu cầu nhận thức… của SV. Nó được hình thành trước hết phải xuất
phát từ việc người học mong muốn được thỏa mãn một nhu cầu trong học tập
là hoàn thành các nhiệm vụ học tập mà giảng viên giao cho một cách bắt buộc
trong một thời gian nhất định. Từ việc thực hiện nhiệm vụ bắt buộc của giảng
viên giao người học sẽ nảy sinh nhu cầu, tạo ra những hứng thú, lòng say mê
nghiên cứu trong học tập. Chính việc giải quyết những mâu thuẫn trong quá
trình tự học sẽ là yếu tố cơ bản để hình thành động cơ tự học cho người học.
Chỉ khi nào động cơ tự học hình thành bằng con đường này mới duy trì được
sự hứng thú, tạo sự cố gắng liên tục của người học để vượt qua mọi khó khăn
và tạo ra kết quả học tập cao nhất, để khẳng định mình trong nghề nghiệp và
tìm tòi, nghiên cứu nhằm thỏa mãn những nhu cầu hiểu biết của bản thân.
Vì vậy, muốn quản lý tốt HĐTH, nhà quản lý giáo dục cần phải biết
hình thành động cơ tự học cho SV bằng nhiều con đường, nhiều biện pháp và
hình thức khác nhau nhằm tận dụng tối đa những ưu điểm của mỗi phương
pháp và hạn chế tới mức thấp nhất những tồn tại của chúng, vì các giải pháp
hình thành động cơ tự học có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
1.3.3. Kỹ năng tự học
Tự học là quá trình nỗ lực chiếm lĩnh tri thức của bản thân người học
bằng hành động của chính mình, hướng tới những mục đích nhất định.
Theo GS. TS. Nguyễn Cảnh Toàn (năm 1997), tự học là tự mình động
não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ và có cả cơ bắp cùng các phẩm
chất của mình, cả động cơ tình cảm, nhân sinh quan, thế giới quan để chiếm
một lĩnh vực hiểu biết nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó thành sở hữu


của mình. Việc tự học được tiến hành khi người học có nhu cầu muốn hiểu

biết một kiến thức nào đó và bằng nỗ lực của bản thân cố gắng chiếm lĩnh
được kiến thức đó.
Ở các trường đại học, tự học là cần thiết và là cách học ở đại học. Đó là
một hình thức tổ chức hoạt động nhận thức của cá nhân nhằm chiếm lĩnh hệ
thống tri thức và kỹ năng do chính bản thân người học tiến hành. Khi SV tự
mình huy động mọi phẩm chất, năng lực của bản thân để tiến hành các hoạt
động tìm tòi, khám phá độc lập nhằm mục đích chiếm lĩnh tri thức là họ tiến
hành hoạt động tự học.
1.3.4. Điều kiện để thực hiện hoạt động tự học
Tự học là yếu tố quyết định chất lượng học tập, chất lượng đào tạo, là
con đường nhanh chóng đưa sự nghiệp giáo dục nước ta tiến kịp các nước
trong khu vực và trên thế giới.
Tự học được xuất phát từ chính nhu cầu muốn học hỏi, muốn gia tăng
sự hiểu biết để làm việc và sống tốt hơn của mỗi người, là hình thức học tập
không thể thiếu được của SV đang học tập tại các trường đại học. Thực tế
giảng dạy tại các trường đại học cho thấy, nếu SV không chịu khó học tập,
đào sâu nghiên cứu, mở rộng thêm kiến thức bằng cách học tập độc lập thì các
thầy giáo, cô giáo có dạy giỏi, có kiến thức sâu rộng và trình độ nghiệp vụ
vững vàng đến mấy chất lượng học tập cũng không thể cao.
Hiện nay, xã hội đặt ra cho giáo dục và đào tạo ngày càng khắt khe, đòi
hỏi các trường đại học không chỉ đào tạo ra nguồn nhân lực thông thạo về lý
thuyết mà còn phải biết vận dụng, ứng dụng những kiến thức đó vào thực tiễn
đời sống. Để đáp ứng yêu cầu đó, các trường đại học đã phát động đổi mới
phương pháp học tập. Tuy các đội ngũ giảng viên đã tiến hành ứng dụng
nhưng chuyển biến về chất lượng trong giờ dạy chưa thật sự có kết quả cao.
Bởi SV quen với việc thụ động trong việc tiếp nhận, áp đặt. Trong bài giảng


của thầy giáo, cô giáo đều có phần định hướng, tổ chức tự học cho SV nhưng
nhiều khi SV chỉ thực hiện một cách sơ sài. Như vậy, việc tự học của SV được

đặt ra như một nhu cầu bức thiết.
1.3.5. Hình thành hoạt động tự học cho sinh viên hệ vừa làm vừa
học
- Quan trọng là SV phải xác định đúng đắn động cơ mục đích học tập
của mình. Phải xác định học cho chính mình, học để kiếm sống và làm việc,
học để phát huy năng lực bản chất của mình và sau đó mới có điều kiện để
phục vụ nhân dân và xã hội. SV cần chủ động trong quá trình học tập, không
nên thụ động, phải tự giác học tập, phải nắm kiến thức vững chắc. SV phải có
kế hoạch sao cho phù hợp, sẽ giúp cho chính mình tránh được sự chồng chéo
và tùy tiện trong học tập. Có kế hoạch học tập và kiên trì thực hiện theo lịch
trình đã định và phải tập trung cao độ trong học tập, nghiêm khắc với chính
mình mặt dù công việc hàng ngày đang bị chi phối sự học đối với SV vừa đi
làm vừa đi học.
Bản thân SV phải tìm ra phương pháp học tập phù hợp với sở trường
của chính bản thân mình,tìm tòi suy nghĩ trước một vấn đề, phải đưa ra giả
định và tự tìm cách trả lời. Ngoài ra, SV còn phải mạnh dạn trao đổi với thầy
cô với bạn bè bất cứ lúc nào để trao đổi học tập.
Bản thân SV tìm cách ghi nhớ để tri thức được cô đọng lại trong đầu
góp phần cho tư duy sáng tạo. Bởi lẽ, nếu không nhớ tri thức, không thuộc tri
thức thì không thể có điều kiện nghiền ngẫm, điều kiện so sánh, phân tích,
liên tưởng, suy đoán, biến tri thức tiếp thu từ sách vở, từ thầy cô và nhiều
nguồn khác nữa thành tri thức của mình. Bao giờ cũng thế, từ những tri thức
đã tiếp thu được nếu chịu khó nghiền ngẫm suy nghĩ thấu đáo thì sẽ nảy sinh
tri thức mới cho mình.


- Phải biết chịu khó lắng nghe, biết cách tự ghi chép. Nghe để nắm bắt
thông tin, nghe để học cách diễn đạt và sử dụng ngôn từ. Chịu nghe vẫn hơn
là chịu nói, có ý nghĩa sâu sắc trong quá trình tự học, tự bồi bổ tri thức cho
mình. Chú ý tìm ra những ý quan trọng mà thầy cô nhấn mạnh trong bài

giảng, lúc mà thầy cô láy đi láy lại nhiều lần. Và khi đã nắm được cái “thần”
bài giảng của thầy cô thì chính là lúc đã lớn lên trong ta niềm tin khoa học và
tự tin hơn.
Ghi chép cẩn thận khi gặp những vấn đề liên quan đến ngành học của
mình - đây là hoạt động tự mình lượm lặt tri thức mà tri thức này nằm rải rác
ở nhiều nơi, trong giáo trình, ở sách báo tham khảo, trên mạng, trong hội thảo,
trong cuộc sống hàng ngày. Ghi chép cũng cần ngắn gọn, cô đọng, cần nhấn
mạnh bằng ký hiệu của chính bản thân mà mình cho là tâm đắc, sâu sắc và cả
thích thú nữa. Đánh dấu những vấn đề mà còn chưa hiểu, nghi hoặc hay cần
mở rộng và đào sâu. Với các ngành khoa học xã hội và nhân văn nên chú ý
việc đưa ra các hình ảnh minh họa, phân tích hình ảnh minh họa của thầy cô.
Ghi chép ngắn gọn là kết quả của sự lắng đọng của bản thân khi tiếp cận tri
thức. Phải biết cách ghi chép cho riêng mình.
- Tự đọc, tự nghiên cứu làm căn bản. Xem, nhìn, nghe, đọc là các
khâu quan trọng mở đầu, sau đó là nghiên cứu, là trao đổi. Nói cách khác là
các hoạt động này phải có hướng đích. Đọc sách ngày nay dường như được
xếp dưới nghe, nhìn, nhưng nếu không đọc thì sẽ là một hẫng hụt lớn và là
sai lầm nghiêm trọng. Khâu đọc lả rất cần thiết, cách đọc là quan trọng. Đọc
bao giờ cũng mang lại cảm giác khác với nghe, nhìn. Đó là quá trình thẩm
thấu các con chữ với sức nặng của tầng sâu tri thức. Ta suy nghĩ đằng sau
chữ ấy, cách lập luận ấy, các tác giả muốn nói gì, toát ra nội dung gì, truyền
báo thông điệp gì.


×