1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
1.1. Cơ sở lý luận:
Tổ chức UNESCO đã nêu “Giáo dục góp phần vào việc đào tạo một lực
lượng lành nghề và sáng tạo, thích ứng được với bước tiến hoá của công nghệ
và tham gia vào cuộc cách mạng trí tuệ đang là động lực của các nền kinh tế”.
Đất nước ta đang bước vào giai đoạn công nghiệp hoá - hiện đại hoá
với mục tiêu đến năm 2020 Việt Nam từ một nước nông nghiệp cơ bản trở
thành nước công nghiệp, hội nhập với cộng đồng quốc tế. Trong đó nhân tố
quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và
hội nhập quốc tế là con người, là nguồn nhân lực. Bởi vậy nguồn nhân lực
Việt Nam phải được phát triển cả về số lượng và chất lượng (trí lực và thể lực
của con người lao động). Để đáp ứng với yêu cầu lớn lao đó, nền giáo dục
Việt Nam phải đặt cho mình mục tiêu rất quan trọng: đào tạo nguồn nhân lực,
chuẩn bị cho đất nước những lớp người lao động có đầy đủ phẩm chất và
năng lực đáp ứng được nhu cầu của giai đoạn mới. Chính tầm quan trọng của
giáo dục như vậy, Đảng ta đã xác định giáo dục phải thực hiện phương châm:
“Học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn
liền với xã hội. Coi trọng công tác hướng nghiệp, dạy nghề và phân luồng học
sinh trung học, chuẩn bị cho thanh thiếu niên đi vào lao động nghề nghiệp
phù hợp với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong cả nước và từng địa
phương”. [8], [15]
Đường lối của Đảng xác định cho ngành Giáo dục - Đào tạo rất rõ ràng,
ngành Giáo dục - Đào tạo đã cụ thể hoá đường lối đó thông qua Chỉ thị của
Bộ trưởng Bộ Giáo dục - Đào tạo số 33/2003/CT-BGDĐT ngày 23/7/2003 về
hoạt động dạy Nghề phổ thông cần được thúc đẩy mạnh trong giai đoạn tới.
2
Đó là “Nâng cao chất lượng và mở rộng việc dạy Nghề phổ thông để giúp cho
học sinh tìm hiểu nghề, làm quen với một số kỹ năng nghề nghiệp. Hoạt động
dạy Nghề phổ thông được giao cho các trung tâm Kỹ thuật tổng hợp – Hướng
nghiệp và cơ sở khác được giao dạy Nghề phổ thông. Những trường THCS và
THPT tổ chức 2 buổi / ngày phải dành thời gian theo qui định cho học sinh để
học Nghề phổ thông tại trung tâm Kỹ thuật tổng hợp – Hướng nghiệp hoặc tại
trường”. Chỉ thị trên đă đặt dạy nghề phổ thông ở vị trí rất quan trọng trong
quá trình giáo dục ở nhà trường, trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo hiện nay.
Trong đó yêu cầu các trường đã tổ chức được dạy Nghề phổ thông thời gian
qua thì phải tích cực mở rộng và nâng cao hơn trước. [2]
Qua phân tích trên, một lần nữa chúng ta hiểu rõ dạy Nghề phổ thông ở
các trường rất quan trọng, rất cấp thiết. Các trường và các trung tâm Kỹ thuật
tổng hợp – Hướng nghiệp phải tích cực liên kết với nhau, bổ sung cho nhau
những điều kiện đặc trưng của đơn vị mình cùng nhau thực hiện nhiệm vụ dạy
Nghề phổ thông cho học sinh, góp phần thực hiện trọn vẹn nhiệm vụ chính trị
mà ngành Giáo dục - Đào tạo giao phó.
1.2. Cơ sở thực tiễn:
Dạy Nghề phổ thông là xu thế mà nhà trường phổ thông của nhiều nước
trên thế giới đang áp dụng có hiệu quả như: Nhật Bản, Trung Quốc, Hà Lan,
Singarpo, Malaixia . . . Nhằm cung cấp cho học sinh những cơ sở khoa học về
tự nhiên, xã hội và tư duy rèn luyện các kỹ năng thực hành chuẩn bị các cơ sở
ban đầu cho việc tiếp thu khoa học kỹ thuật nghề nghiệp và bước vào cuộc
sống.
Dạy nghề trong nhà trường phổ thông mang tính giáo dục tiền nghề
nghiệp, chuẩn bị nghề cho học sinh là chủ yếu. Ở đây chỉ trang bị những kiến
thức, kỹ năng lao động cơ bản giúp cho học sinh làm quen với lao động và
3
nghề nghiệp, tạo nên tâm lý sẵn sàng lao động và rèn luyện một số phẩm chất
đạo đức nghề nghiệp, khả năng vận dụng và thích ứng với cơ chế thị trường.
Đó là những cơ sở ban đầu rất quan trọng để học sinh tiếp tục vào học tại
các trường nghề. Hình thành kỹ năng nghề nghiệp, phát huy tính sáng tạo
trong thời gian lao động tư duy. [18]
Xuất phát từ thực trạng hoạt động dạy Nghề phổ thông tại Quận 9:
Trung tâm Kỹ thuật tổng hợp – Hướng nghiệp Quận 9 là đơn vị giáo dục
trực thuộc Phòng Giáo dục Giáo dục và Đào tạo Quận 9 chịu sự quản lý về
chuyên môn của Sở Giáo dục – Đào tạo thành phố hồ Chí Minh và Phòng
Giáo dục – Đào tạo Quận 9.
Tại Quận 9, trung tâm Kỹ thuật tổng hợp – Hướng nghiệp chưa có cơ sở
độc lập nên không thể tiến hành việc dạy Nghề phổ thông tại trung tâm mà
giao việc dạy Nghề phổ thông cho 13 trường THCS thực hiện và trung tâm
làm nhiệm vụ quản lý hoạt động dạy Nghề phổ thông tại các trường THCS.
Thông qua quản lý hoạt động dạy Nghề phổ thông tại các trường THCS
trên địa bàn Quận 9, trung tâm thực hiện việc tư vấn hướng nghiệp, phân
luồng học sinh đồng thời đào tạo nguồn lực có tri thức, kỹ năng lao động, dạy
nghề và hình thành tác phong công nghiệp cho học sinh.
Nghiên cứu các giải pháp quản lý hoạt động dạy Nghề phổ thông được
coi là nội dung chủ yếu, hoạt động có tính quyết định, quan trọng và bức thiết
mang ý nghĩa thực tại trong giai đoạn hiện nay tại Quận 9. Nhằm nâng cao
chất lượng và hiệu quả của hoạt động dạy Nghề phổ thông nói riêng và sự
nghiệp giáo dục và đào tạo của Quận 9 nói chung.
Xuất phát từ những lý do trên tôi chọn đề tài:
“Một số giải pháp quản lý hoạt động dạy Nghề phổ thông ở các
trường Trung học cơ sở Quận 9, thành phố Hồ Chí Minh”.
4
2. Mục đích nghiên cứu:
- Đề xuất một số giải pháp quản lý hoạt động dạy Nghề phổ thông nhằm
góp phần nâng cao hiệu quả dạy Nghề phổ thông ở các trường THCS trên địa
bàn Quận 9 trong giai đoạn đổi mới.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu:
3.1. Khách thể nghiên cứu:
- Việc quản lý hoạt động dạy Nghề phổ thông ở các trường THCS.
3.2. Đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu những yêu cầu về công tác quản lý dạy Nghề phổ thông và
những giải pháp quản lý dạy Nghề phổ thông hiện nay ở các trường THCS
trên địa bàn Quận 9.
4. Giả thuyết khoa học:
Nếu áp dụng được những giải pháp quản lý dạy Nghề phổ thông được đề
xuất trong đề tài thì sẽ nâng cao chất lượng dạy Nghề phổ thông ở các trường
THCS trên địa bàn Quận 9, thành phố Hồ Chí Minh.
5. Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu:
5.1. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về quản lý dạy Nghề phổ thông nói
chung và quản lý dạy Nghề phổ thông ở bậc THCS nói riêng.
- Nghiên cứu thực trạng việc quản lý dạy Nghề phổ thông ở các trường
THCS trên địa bàn Quận 9.
- Đề xuất một số giải pháp quản lý hoạt động dạy Nghề phổ thông
nhằm nâng cao chất lượng dạy Nghề phổ thông ở các trường THCS trên địa
bàn Quận 9.
5.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Tập trung nghiên cứu về công tác quản lý dạy Nghề phổ thông ở một số
trường THCS trên địa bàn Quận 9.
5
- Phạm vi nghiên cứu: Bộ phận phụ trách dạy Nghề phổ thông ở Phòng
Giáo dục và Đào tạo Quận 9, Ban giám đốc trung tâm Kỹ thuật tổng hợp –
Hướng nghiệp và một số Ban giám hiệu các trường THCS khảo sát.
6. Phương pháp nghiên cứu:
Xuất phát từ mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của đề tài, tác giả sử
dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận:
+ Phương pháp phân tích – tổng hợp tài liệu: Tiếp cận hệ thống các tư
liệu để tìm hiểu các khái niệm, cơ sở lý luận về dạy nghề, dạy Nghề phổ
thông, quản lý dạy Nghề phổ thông.
+ Phương pháp khái quát hoá các nhận định độc lập: tiếp cận các ý
kiến, nhận định, quan điểm độc lập từ các nguồn tài liệu khác nhau về vấn đề
dạy nghề phổ thông, từ đó người nghiên cứu khái quát lên thành ý kiến, nhận
định, quan điểm riêng của mình.
6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
+ Phương pháp điều tra: áp dụng phương pháp an-ket
Đặt một số câu hỏi nhất loạt cho một số Hiệu trưởng, Phó hiệu trưởng
các trường THCS, Phó giám đốc trung tâm KTTH - HN và các đồng chí lãnh
đạo Phòng Giáo dục - Đào tạo phụ trách hoạt động dạy Nghề phổ thông.
Thực hiện một số phiếu điều tra trưng cầu ý kiến đối với cán bộ quản lý
hoạt động dạy Nghề phổ thông ở Phòng Giáo dục – Đào tạo, ở Trung tâm
KTTH - HN và các trường THCS tiêu biểu tại Quận 9.
+ Phương pháp tổng kết kinh nghiệm quản lý giáo dục: Lấy lý luận
quản lý hoạt động dạy Nghề phổ thông ra phân tích thực tiễn quản lý hoạt
động dạy Nghề phổ thông và từ phân tích thực tiễn quản lý hoạt động dạy
Nghề phổ thông rút ra lý luận quản lý hoạt động dạy Nghề phổ thông.
6
+ Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động: nghiên cứu các sản
phẩm về hoạt động dạy Nghề phổ thông của Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng,
cán bộ quản lý Phòng Giáo dục – Đào tạo, trung tâm Kỹ thuật tổng hợp –
Hướng nghiệp, giáo viên dạy Nghề phổ thông, học sinh học Nghề phổ
thông… từ đó thu thập những thông tin liên quan đến việc quản lý hoạt động
dạy Nghề phổ thông.
+ Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia: xin ý kiến của Giáo viên hướng
dẫn đề tài.
6.3. Phương pháp toán thống kê:
Nhằm xử lý các số liệu sau khi điều tra, trưng cầu ý kiến.
7. Những đóng góp của luận văn:
Về mặt lý luận: Hệ thống được cơ sở lý luận của quản lý hoạt động
dạy Nghề phổ thông ở các trường Trung học cơ sở.
Về mặt thực tiễn:
- Đánh giá được thực trạng việc quản lý hoạt động dạy Nghề phổ thông
ở các trường Trung học cơ sở Quận 9.
- Đề ra được một số giải pháp quản lý hoạt động giáo dục Nghề phổ
thông ở các trường Trung học cơ sở Quận 9.
8. Cấu trúc của luận văn:
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Luận văn được
chia làm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của quản lý hoạt động dạy Nghề phổ thông ở
các trường Trung học cơ sở.
Chương 2: Thực trạng việc quản lý hoạt động dạy Nghề phổ thông ở
các trường Trung học cơ sở Quận 9.
Chương 3: Một số giải pháp quản lý hoạt động dạy Nghề phổ thông ở
các trường Trung học cơ sở Quận 9.
7
NỘI DUNG
Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG DẠY NGHỀ PHỔ
THÔNG Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ
1.1.
Lịch sử nghiên cứu vấn đề:
Hoạt động dạy nghề là một trong bốn mặt hoạt động của công tác giáo
dục lao động – kỹ thuật tổng hợp - hướng nghiệp và dạy nghề gọi tắt là hoạt
động lao động – hướng nghiệp hay hoạt động hướng nghiệp và tư vấn nghề
cho học sinh phổ thông.
Trên Thế giới hoạt động giáo dục lao động – hướng nghiệp cho học
sinh có từ hàng trăm năm nay và ngày càng được phát triển.
Vào giữa Thế kỷ thứ XIX (năm 1848), ở Pháp xuất hiện cuốn sách
“Hướng dẫn chọn nghề”. Cuốn sách đề cập tới vấn đề phát triển đa dạng của
nghề nghiệp do sự phát triển công nghiệp và việc nhất thiết phải giúp đỡ
thanh niên trong sự lựa chọn nghề nghiệp nhằm sử dụng có hiệu quả năng lực
lao động của thế hệ trẻ. Người ta thấy rằng, hệ thống nghề nghiệp vào thời
điểm này đã phức tạp, tức là, sự chuyên môn hóa đã đạt tới mức độ cao hơn
hẳn so với giai đoạn sản xuất nông nghiệp và thủ công nghiệp.
Ở Mỹ, từ năm 1958 giáo dục hướng nghiệp – dạy nghề đã được đưa
vào cả trường phổ thông trung học lẫn phổ thông cơ sở có dạy nghề, là một
trong những mục tiêu của cải cách giáo dục dạy nghề ở Mỹ.
Những vấn đề hướng dẫn chọn nghề được đặt ra một cách rộng rãi ở
nhiều nước với tính cấp thiết của nó vào những năm đầu thế kỷ XX. Người ta
nhận thấy rằng, để có sự tuyển chọn đích đáng những người lao động cho nhà
máy, xí nghiệp, cần phải đưa hướng nghiệp vào trường phổ thông. Từ lâu
N.K. Crupxkaia, nhà giáo dục học và tâm lý học lỗi lạc của Liên Xô đã từng
8
nêu lên luận điểm “tự do chọn nghề” cho mỗi thanh thiếu niên. Theo bà,
thông qua hướng nghiệp, mỗi trẻ em đều phải nhận thức sâu sắc hướng phát
triển kinh tế của đất nước, những nhu cầu nào của nền sản xuất cần được thỏa
mãn, những nhiệm vụ mà thanh thiếu niên phải đáp ứng trước yêu cầu mà xã
hội đề ra trong lĩnh vực lao động sản xuất.
Thực tế cho thấy hoạt động giáo dục lao động, kỹ thuật tổng hợp,
hướng nghiệp và dạy nghề đã mang lại nhiều hiệu quả thiết thực cho sự phát
triển tài năng, nhân cách của cá nhân, góp phần nâng cao năng suất lao động
xã hội, gắn liền mục tiêu giáo dục đào tạo với mục tiêu phát triển kinh tế xã
hội. Hoạt động này đã trở thành bộ phận thiết yếu của nền giáo dục hiện đại.
Tại Việt Nam, công tác hướng nghiệp được chính thức đưa vào trường
phổ thông từ ngày 19 tháng 3 năm 1981 theo Quyết định 126/CP của Hội
đồng Chính phủ về công tác hướng nghiệp trong trường phổ thông và việc sử
dụng hợp lý học sinh THCS, THPT tốt nghiệp ra trường. Quyết định 126/CP
đã khẳng định, công tác hướng nghiệp trong trường phổ thông được tiến hành
qua 4 con đường – hay 4 hình thức: học các môn văn hóa, dạy – học môn kỹ
thuật và hoạt động lao động sản xuất, các buổi sinh hoạt hướng nghiệp và các
hoạt động ngoại khóa trong và ngoài nhà trường. Mục đích của hoạt động này
là giúp cho học sinh định hướng chọn nghề sao cho phù hợp với năng lực,
hứng thú và hoàn cảnh bản thân học sinh, đồng thời đáp ứng nhu cầu nhân lực
phát triển các ngành nghề trong xã hội. [16]
Năm 1986, sơ kết 5 năm thực hiện Quyết định 126/CP của Hội đồng
Chính phủ, Bộ Giáo dục – Đào tạo đã đặt vấn đề: tiếp theo hướng nghiệp phải
dạy nghề cho học sinh phổ thông để nếu không tiếp tục học lên học sinh ra
đời dễ tạo công ăn việc làm, sẵn sàng tham gia lao động sản xuất ở địa
phương. Chủ trương này đưa vào thảo luận và được khẳng định trong Nghị
quyết của Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần VI vào năm 1986, được coi là
9
Đại hội đổi mới: trường phổ thông phải chuyển mạnh theo hướng dạy kiến
thức phổ thông cơ bản, lao động, kỹ thuật tổng hợp, hướng nghiệp và dạy
nghề. [15]
Luật Giáo dục năm 1998, Luật Giáo dục năm 2005 và Luật sửa đổi và
bổ sung Luật Giáo dục năm 2009 đều khẳng định: Mục tiêu của giáo dục phổ
thông là chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào đời sống lao động,
ở cấp Trung học cơ sở cần dạy cho học sinh những hiểu biết thông thường về
kỹ thuật và hướng nghiệp; nội dung giáo dục phổ thông phải đảm bảo tính
phổ thông, cơ bản, toàn diện, hướng nghiệp và có hệ thống. [24] [25]
Từ Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) đến Đại hội Đảng lần thứ XI
(2011), các văn kiện đều nhấn mạnh đến tăng cường công tác hướng nghiệp,
đẩy mạnh dạy nghề, chuẩn bị nguồn nhân lực cho sự nghiệp Công nghiệp hoá,
Hiện đại hoá đất nước, phù hợp với nền kinh tế thị trường nhiều thành phần
theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Việc dạy – học Nghề phổ thông giúp học
sinh có những thông tin ban đầu về các nghề trong xã hội thuộc mọi lĩnh vực
công nghiệp, nông – lâm ngư nghiệp, dịch vụ . . . Chính vì lẽ đó, thực hiện
Nghị quyết lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết
40/2000/QH10 của Quốc hội khoá 10 ngày 09 tháng 12 năm 2000, Chỉ thị
14/2001/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về đổi mới giáo dục phổ thông
ngày 11 tháng 6 năm 2001, Bộ trưởng Bộ Giáo dục – Đào tạo đã ban hành
Chỉ thị 33/2003/CT-BGD&ĐT ngày 23 tháng 7 năm 2003 về việc tăng cường
giáo dục hướng nghiệp cho học sinh phổ thông, nâng cao chất lượng và mở
rộng việc dạy Nghề phổ thông để giúp học sinh tìm hiểu nghề, làm quen với
một số kỹ năng lao động nghề nghiệp và quy định chương trình nghề phổ
thông với thời lượng 90 tiết/năm học cho học sinh bậc Trung học cơ sở. Năm
2006, theo Quyết định số 16/2006/QĐ-BGD&ĐT ngày 05 tháng 5 năm 2006
của Bộ trưởng Bộ Giáo dục – Đào tạo hoạt động giáo dục Nghề phổ thông là
10
một trong 4 hoạt động được quy định trong Chương trình giáo dục trung học
là: Giáo dục Quốc phòng an ninh – 35 tiết/năm; Giáo dục ngoài giờ lên lớp –
4 tiết/ tháng; Giáo dục Hướng nghiệp – 3 tiết/ tháng; Giáo dục Nghề phổ
thông 2 tiết/ tuần. [2] [3] [23] [12]
Việc nghiên cứu các giải pháp để nâng cao hiệu quả thực hiện hoạt
động giáo dục Nghề phổ thông đã được các nhà giáo dục quan tâm bằng nhiều
hoạt động chuyên môn như:
- Các hội thảo, hội nghị chuyên đề cấp Bộ hay Sở Giáo dục – Đào tạo
tổ chức như: Tổ chức giáo dục lao động - hướng nghiệp theo yêu cầu đổi mới
giáo dục phổ thông (tháng 11 năm 2001); Đổi mới công tác giáo dục lao động
– hướng nghiệp phục vụ cho yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
(tháng 7 năm 2003); Các giải pháp phân luồng học sinh sau Trung học cơ sở
và Trung học phổ thông (Hà Nội, ngày 11 tháng 9 năm 2009)
- Các đề tài nghiên cứu khoa học: Nghiên cứu xây dựng chương trình
dạy nghề ở trường phổ thông ở thành phố Hồ Chí Minh, tác giả Chu Xuân
Thành [27]; Hiệu trưởng quản lý công tác dạy nghề tại trường THCS An
Nhơn – Gò Vấp thành phố Hồ Chí Minh, tác giả Hồ Thị Thu Liên [21]; Thực
trạng và các giải pháp quản lý việc thực hiện nhiệm vụ dạy nghề ở một số
trường THCS tại thành phố Hồ Chí Minh, tác giả Phạm Thị Kim Thư [30] . . .
Tuy nhiên, chưa có đề tài nào nghiên cứu vấn đề: Giải pháp quản lý
hoạt động giáo dục nghề phổ thông tại các trường THCS Quận 9 thành phố
Hồ Chí Minh, đồng thời điểm khác biệt lớn nhất của đề tài là thời điểm
nghiên cứu ứng với hoạt động giáo dục nghề phổ thông được đưa vào làm
môn tự chọn từ năm học 2007 – 2008.
Điểm mới của Luận văn là khảo sát và đánh giá thực tiễn bằng những
số liệu thu thập của các năm 2008, 2009, 2010, 2011, 2012 và 2013 trên phạm
vi Quận 9 để nêu lên những điểm mạnh, điểm yếu, những tồn tại trong việc
11
thực hiện nhiệm vụ giáo dục nghề phổ thông, qua đó đề xuất các giải pháp
quản lý có tính khả thi nhằm nâng cao chất lượng hoạt động giáo dục Nghề
phổ thông.
1.2.
Các khái niệm cơ bản của đề tài:
1.2.1. Quản lý – Quản lý giáo dục:
• Quản lý:
Từ khi xã hội loài người xuất hiện, con người đã có sự hợp tác, sự phân
công lao động vào việc tổ chức các hoạt động của mình, nghĩa là nhu cầu
quản lý đã được hình thành. Xã hội ngày càng tiến bộ, nền kinh tế càng phát
triển, khoa học kỹ thuật và công nghệ càng tiên tiến thì hoạt động quản lý và
vai trò của nhà quản lý càng trở nên quan trọng để đảm bảo sự phối hợp hoạt
động nhịp nhàng nhằm mục đích đem lại hiệu quả cao nhất. [9]
Bản thân khái niệm quản lý có tính đa nghĩa nên có sự khác biệt giữa
nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Hơn nữa, do sự khác biệt về thời đại, xã hội, chế độ,
nghề nghiệp nên quản lý cũng có nhiều giải thích, lý giải khác nhau. Cùng với
sự phát triển của phương thức xã hội hóa sản xuất và sự mở rộng trong nhận
thức của con người thì sự khác biệt về nhận thức và lý giải khái niệm quản lý
càng trở nên rõ rệt. Có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm quản lý, như:
- Quản lý là tổ chức và điều khiển các hoạt động theo những yêu cầu nhất
định.
- Quản lý là một hoạt động thiết yếu nảy sinh khi con người lao động và
sinh hoạt tập thể nhằm thực hiện các mục tiêu chung của tập thể.
- Quản lý là sự tổ chức, điều hành, kết hợp vận dụng tri thức với lao động
để phát triển sản xuất, phát triển xã hội. Sự kết hợp đó được thể hiện ở cơ chế,
chế độ chính sách, biện pháp quản lý của giai cấp thống trị và ở nhiều khía
cạnh tâm lý - xã hội.
12
- Quản lý là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng và
thực hiện một cách sáng tạo các chức năng như kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo,
kiểm tra.
- Quản lý là tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý
(người quản lý) đến khách thể quản lý (người bị quản lý) trong một tổ chức
nhằm làm cho tổ chức đó vận hành và đạt được mục đích của mình.
- Vậy, quản lý có thể hiểu là sự tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ
thể quản lý lên đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu đề ra.
Ta có thể minh họa bằng mô hình sau:
Công cụ
Chủ thể
quản lý
Khách thể
quản lý
Mục
tiêu
Phương pháp
Hình 1.1. Chức năng quản lý và chu trình quản lý
Mặt khác, quản lý còn chịu sự tác động của các điều kiện khách quan như:
tự nhiên (đất đai, địa hình, thổ nhưỡng, vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên…),
xã hội (trình độ phát triển kinh tế, trình độ dân trí, truyền thống dân tộc,
phong tục tập quán . . .) và các yếu tố chủ quan như con người, bao gồm
13
người quản lý và người bị quản lý, trong đó người quản lý, lãnh đạo có vai trò
quyết định.
Quản lý là một trong năm nhân tố của phát triển, đó là các nhân tố: vốn,
nguồn lao động, khoa học kỹ thuật, giao lưu và quản lý. [10]
• Quản lý giáo dục:
Quản lý được thực hiện đối với những lĩnh vực khác nhau, trong đó có
giáo dục. Quản lý giáo dục là dạng quản lý dành cho một lĩnh vực xã hội cụ
thể là giáo dục, quản lý giáo dục là một bộ phận của quản lý xã hội nằm trong
quản lý văn hóa – tinh thần.
Quản lý hệ thống giáo dục là tác động của hệ thống có kế hoạch, có ý thức
và hướng đích của chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau đến tất cả các mắt
xích của hệ thống nhằm mục đích đảm bảo việc hình thành nhân cách cho thế
hệ trẻ trên cơ sở nhận thức và vận dụng những quy luật chung của xã hội cũng
như các quy luật của quá trình giáo dục, của sự phát triển thể lực và tâm lý
trẻ, là tác động của hệ thống có mục đích để làm cho hệ thống vận hành theo
đúng quy luật, đúng đường lối lãnh đạo.
Quản lý giáo dục thường được thực hiện ở 3 cấp: cấp Trung ương, cấp địa
phương và cấp cơ sở. Cấp Trung ương và cấp chính quyền địa phương tỉnh,
thành phố được gọi chung là cao cấp. Cấp ngành ở tỉnh và thành phố và cấp
chính quyền quận, huyện gọi là cấp trung và cấp trường là cấp cơ sở. Ở cấp
quản lý nào cũng có cả quản lý vĩ mô và quản lý vi mô. Đối tượng của quản
lý giáo dục vĩ mô là những yếu tố ảnh hưởng đến toàn cục, đến toàn bộ hệ
thống giáo dục. Đối tượng của quản lý giáo dục vi mô là những yếu tố chỉ ảnh
hưởng cục bộ, đơn lẻ.
Trường học là một đơn vị cơ sở của tổ chức và hệ thống giáo dục đồng
thời là một dạng tổ chức trong xã hội, là hệ thống con của quản lý giáo dục.
Do đó, quản lý trường học chính là quản lý giáo dục tại cơ sở.
14
Quản lý giáo dục, quản lý nhà trường có thể hiểu là một chuỗi tác động
hợp lý có mục đích, tự giác, hệ thống, kế hoạch; mang tính tổ chức – sư phạm
của chủ thể quản lý đến tập thể giáo viên và học sinh, đến những lực lượng
giáo dục trong và ngoài trường nhằm huy động họ cùng cộng tác, phối hợp,
tham gia vào mọi hoạt động của nhà trường nhằm làm cho quá trình này vận
hành tối ưu để đạt được những mục tiêu dự kiến.
Quá trình quản lý là một quá trình hoạt động của chủ thể quản lý nhằm
thực hiện hệ thống các chức năng quản lý để đưa hệ thống quản lý đến mục
tiêu đề ra. Quá trình quản lý giữ vai trò trung tâm trong hệ thống quản lý vì nó
chính là căn cứ xác định nội dung của hoạt động quản lý, cách tổ chức các
giai đoạn liên tục trong quá trình quản lý, nó còn là căn cứ xác định và hình
thành công nghệ quản lý. Như vậy, quá trình quản lý giáo dục là quá trình
thực hiện bốn chức năng cơ bản: kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra nhằm
đưa hệ thống giáo dục tới các mục tiêu. [19]
Quá trình quản lý giáo dục có đặc trưng cơ bản là có tính chu kỳ, còn gọi
là chu trình quản lý, chu trình quản lý là sự kết hợp các chức năng quản lý
theo một trình tự thời gian xác định trong đó các hoạt động quản lý diễn ra kế
tiếp nhau.
Bàn về hoạt động quản lý giáo dục, ta cần tìm hiểu người quản lý cần phải
làm gì, điều đó cũng chính là tìm hiểu các chức năng hoạt động quản lý giáo
dục và người quản lý tiến hành công việc trong từng giai đoạn từng chức năng
quản lý như thế nào.
Vai trò và nội dung của các chức năng quản lý giáo dục có thể được tóm
tắt bằng mô hình sau:
15
CHỨC NĂNG
QUẢN LÝ
KẾ
HOẠCH
TỔ CHỨC
CHỈ ĐẠO
KIỂM TRA
Hình 1.2. Vai trò và nội dung của các chức năng quản lý
- Chức năng kế hoạch là chức năng đầu tiên, nó có vai trò định hướng cho
toàn bộ các hoạt động, là cơ sở để huy động tối đa nguồn lực cho việc thực
hiện các mục tiêu và là căn cứ cho việc kiểm tra, đánh giá quá trình thực hiện
mục tiêu, nhiệm vụ của tổ chức đơn vị và từng cá nhân của quá trình quản lý.
Nội dung của chức năng kế hoạch thể hiện ở 4 hoạt động cơ bản sau:
• Xác định và phân tích mục tiêu
• Xây dựng kế hoạch thực hiện mục tiêu
• Triển khai thực hiện các kế hoạch
• Kiểm tra và đánh giá việc thực hiện kế hoạch
Để thực hiện chức năng kế hoạch, người quản lý có thể chia quá trình thực
hiện thành 4 giai đoạn: giai đoạn tiền kế hoạch nhằm xác định mục tiêu, giai
đoạn lập kế hoạch, giai đoạn triển khai thực hiện kế hoạch, và giai đoạn đánh
giá tổng kết việc thực hiện kế hoạch.
- Chức năng tổ chức là chức năng thứ hai trong quá trình quản lý, nó có
vai trò hiện thực hóa các mục tiêu, tạo ra sức mạnh mới, đây là khâu quan
trọng nhất của quản lý.
Nội dung chủ yếu của chức năng tổ chức là:
16
• Xác định cấu trúc tổ chức của chủ thể quản lý tương ứng với các đối
tượng quản lý.
• Xây dựng và phát triển đội ngũ nhân sự.
• Xác định cơ chế hoạt động và các mối quan hệ của tổ chức
• Tổ chức lao động một cách khoa học
- Chỉ đạo là chức năng thứ ba trong một quá trình quản lý nó có vai trò
cùng với chức năng tổ chức để hiện thực hóa các mục tiêu, là cơ sở để phát
huy các động lực cho việc thực hiện các mục tiêu quản lý và góp phần tạo nên
chất lượng và hiệu quả cao của các hoạt động.
Chức năng chỉ đạo cần thực hiện các nội dung sau:
• Thực hiện quyền chỉ huy và hướng dẫn triển khai các nhiệm vụ
• Thường xuyên đôn đốc, động viên và kích thích lao động
• Giám sát và sửa chữa
• Thúc đẩy các hoạt động phát triển
- Chức năng kiểm tra là một trong những chức năng quan trọng của quá
trình quản lý có vai trò cung cấp thông tin, trợ giúp cá nhân và đơn vị hoàn
thành nhiệm vụ, kế hoạch đã xác định. Chức năng kiểm tra cần thực hiện các
nội dung sau: đánh giá (xác định các chuẩn mực, thu thập thông tin, so sánh
sự phù hợp của việc thực hiện các chuẩn mực); phát hiện mức độ thực hiện
(tốt, vừa, xấu) của các đối tượng quản lý; điều chỉnh bao gồm tư vấn (uốn
nắn, sửa chữa), thúc đẩy (phát huy thành tích tốt, mặt mạnh) hoặc xử lý.
Kiểm tra phải thể hiện rõ 4 bước cơ bản là:
• Xác định chuẩn kiểm tra
• Đo lường việc thực thi các nhiệm vụ
• So sánh sự phù hợp của thành tích với chuẩn mực
• Đưa ra các quy định điều chỉnh cần thiết
17
Nội dung của quản lý giáo dục là quản lý các yếu tố cấu thành quá trình
giáo dục tổng thể, bao gồm: mục tiêu giáo dục, nội dung giáo dục, phương
pháp giáo dục, nhà giáo dục, người được giáo dục, kết quả giáo dục, cơ sở vật
chất, trang thiết bị và đồ dùng dạy học, môi trường giáo dục và các lực lượng
giáo dục.
Sáu nguyên tắc cơ bản trong quản lý giáo dục của nước ta là: đảm bảo sự
lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối của Đảng; đảm bảo tính khoa học, tính kế hoạch
và tính thực tiễn; tập trung dân chủ; tính pháp chế; tính hiệu quả; và kết hợp
quản lý theo ngành, theo lãnh thổ.
Như vậy, quản lý giáo dục là quản lý quá trình sư phạm, quá trình giáo dục
diễn ra ở tất cả các cấp học, bậc học và cơ sở giáo dục . . . làm cho quá trình
đó vận động đúng đường lối, quan điểm giáo dục của Đảng.
1.2.2. Nghề và Nghề phổ thông:
• Nghề:
Nghề là một lĩnh vực hoạt động lao động mà trong đó, nhờ được đào tạo,
con người có được những tri thức, những kỹ năng để làm ra các loại sản phẩm
vật chất hay tinh thần nào đó, đáp ứng được những nhu cầu của xã hội. [29]
Nghề nghiệp trong xã hội không phải là một cái gì cố định, cứng nhắc.
Nghề nghiệp cũng giống như một cơ thể sống, có sinh thành, phát triển và tiêu
vong. Chẳng hạn, do sự phát triển của kỹ thuật điện tử nên đã hình thành công
nghệ điện tử, do sự phát triển vũ bão của kỹ thuật máy tính nên đã hình thành
cả một nền công nghệ tin học đồ sộ bao gồm việc thiết kế, chế tạo cả phần
cứng, phần mềm và các thiết bị bổ trợ v.v… Công nghệ các hợp chất cao phân
tử tách ra từ công nghệ hóa dầu, công nghệ sinh học và các ngành dịch vụ, du
lịch tiếp nối ra đời…
Ở Việt Nam trong những năm gần đây, do sự chuyển biến của nền kinh tế từ
cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường, nên đã gây ra những biến
18
đổi sâu sắc trong cơ cấu nghề nghiệp của xã hội. Trong cơ chế thị trường, nhất
là trong nền kinh tế tri thức tương lai, sức lao động cũng là một thứ hàng hóa.
Giá trị của thứ hàng hóa sức lao động này tuỳ thuộc vào trình độ, tay nghề, khả
năng về mọi mặt của người lao động. Xã hội đón nhận thứ hàng hóa này như
thế nào là do “hàm lượng chất xám” và “chất lượng sức lao động” quyết định.
Khái niệm phân công công tác sẽ mất dần trong quá trình vận hành của cơ chế
thị trường. Con người phải chủ động chuẩn bị tiềm lực, trau dồi bản lĩnh, nắm
vững một nghề, biết nhiều nghề để rồi tự tìm việc làm, tự tạo việc làm…
Khi giúp đỡ thanh niên chọn nghề, một số nhà nghiên cứu thường đặt câu
hỏi: “Bạn biết được tên của bao nhiêu nghề?”. Nghe hỏi, nhiều bạn trẻ nghĩ
rằng mình có thể kể ra nhiều nghề, song khi đặt bút viết thì nhiều bạn không
kể được quá 50 nghề. Bạn tưởng như thế đã là nhiều, song nhà nghiên cứu lại
nhận xét: Chà, sao biết ít vậy!
Để hiểu vì sao nhà nghiên cứu lại kêu lên như vậy, chúng ta hãy cùng nhau
làm sáng rõ 2 khái niệm Nghề và Chuyên môn.
Nghề là một lĩnh vực hoạt động lao động mà trong đó, nhờ được đào tạo,
con người có được những tri thức, những kỹ năng để làm ra các loại sản phẩm
vật chất hay tinh thần nào đó, đáp ứng được những nhu cầu của xã hội.
Nghề bao gồm nhiều chuyên môn. Chuyên môn là một lĩnh vực lao động
sản xuất hẹp mà ở đó, con người bằng năng lực thể chất và tinh thần của mình
làm ra những giá trị vật chất (thực phẩm, lương thực, công cụ lao động…)
hoặc giá trị tinh thần (sách báo, phim ảnh, âm nhạc, tranh vẽ…) với tư cách là
những phương tiện sinh tồn và phát triển của xã hội.
Trên thế giới hiện nay có trên dưới 2000 nghề với hàng chục nghìn chuyên
môn. Ở Liên Xô trước đây, người ta đã thống kê được 15.000 chuyên môn,
còn ở nước Mỹ, con số đó lên tới 40.000.
19
Vì hệ thống nghề nghiệp trong xã hội có số lượng nghề và chuyên môn
nhiều như vậy nên người ta gọi hệ thống đó là “Thế giới nghề nghiệp”. Nhiều
nghề chỉ thấy có ở nước này nhưng lại không thấy ở nước khác. Hơn nữa, các
nghề trong xã hội luôn ở trong trạng thái biến động do sự phát triển của khoa
học và công nghệ. Nhiều nghề cũ mất đi hoặc thay đổi về nội dung cũng như
về phương pháp sản xuất. Nhiều nghề mới xuất hiện rồi phát triển theo hướng
đa dạng hóa. Theo thống kê gần đây, trên thế giới mỗi năm có tới 500 nghề bị
đào thải và khoảng 600 nghề mới xuất hiện. Ở nước ta, mỗi năm ở cả 3 hệ
trường (dạy nghề, trung học chuyên ngiệp và cao đẳng - đại học) đào tạo trên
dưới 300 nghề bao gồm hàng nghìn chuyên môn khác nhau. [13]
• Nghề phổ thông:
Theo quy định hiện nay của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Nghề phổ thông là
môn học tự chọn ở các trường Trung học cơ sở (gồm 70 tiết); là môn học bắt
buộc ở trường Trung học phổ thông (gồm 105 tiết).
Mục tiêu của dạy Nghề phổ thông là giáo dục cho học sinh hiểu một số
kiến thức cơ bản về công cụ, kỹ thuật, quy trình công nghệ và về an toàn lao
động, vệ sinh môi trường đối với một Nghề phổ thông đã học; hình thành cho
học sinh một số kỹ năng sử dụng công cụ, kỹ năng thực hành kỹ thuật theo
quy trình công nghệ để làm ra sản phẩm; phát triển hứng thú kỹ thuật và nhu
cầu vận dụng kiến thức, kỹ năng vào lao động, thói quen làm việc có kế
hoạch, tuân thủ quy trình kỹ thuật và bảo đảm an toàn lao động, bước đầu có
tác phong công nghiệp, giữ gìn vệ sinh môi trường, có ý thức tìm hiểu và lựa
chọn nghề của học sinh.
1.2.3. Dạy nghề và dạy Nghề phổ thông:
• Dạy nghề:
20
Khái niệm dạy nghề là công việc đào tạo những công nhân có văn hóa, có
kỹ thuật một cách tổ chức, có kế hoạch nhằm đáp ứng nhu cầu nhân lực kỹ
thuật của các ngành thuộc nền kinh tế quốc dân.
Quá trình dạy nghề là quá trình truyền thụ những tri thức chuyên môn
nghề nghiệp và hình thành những kỹ năng, kỹ xảo lao động một nghề nhất
định.
Mục đích cuối cùng của dạy nghề là hình thành được tay nghề và những
phẩm chất nhân cách cần thiết cho người lao động. Tay nghề là trình độ điêu
luyện của kỹ năng lao động nghề nghiệp, đáp ứng những đòi hỏi của chuyên
môn. Khái niệm dạy nghề ở đây chỉ về sự đào tạo trong những trường đào tạo
công nhân kỹ thuật, những trường đào tạo thợ lành nghề theo những danh
mục do nhà nước quy định phục vụ trực tiếp yêu cầu thực tế xã hội.
• Dạy Nghề phổ thông:
“Đó là những nghề phổ biến, thông dụng đang cần phát triển ở địa
phương. Nắm được nghề này, học sinh có thể tự tạo việc làm, để được sử
dụng trong các thành phần kinh tế tại chỗ của cộng đồng dân cư.
Những nghề này có kỹ thuật tương đối đơn giản, quá trình dạy nghề
không đòi hỏi phải có những trang thiết bị phức tạp.
Nguyên liệu dùng trong việc dạy nghề dễ kiếm phù hợp với điều kiện
kinh tế, khả năng đầu tư ở địa phương.
Thời gian học nghề thường ngắn (khoảng trên dưới 100 tiết) kế hoạch
dạy học của cấp THCS, THPT có thể giải quyết được số tiết lý thuyết và thực
hành để nắm được trình độ tối thiểu của nghề ”.
Hiện nay do không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng đòi hỏi
ngày càng cao các yêu cầu của nền kinh tế thị trường. Vì vậy cũng không hạn
chế việc dạy những nghề phức tạp ở những nơi có điều kiện thực hiện. DNPT
mang tính thực hành cao. Đây là điểm khác biệt trong dạy nghề so với dạy các
21
môn văn hoá. Do vậy DNPT thực hiện một cách có hiệu quả nguyên lý giáo
dục của Đảng: Học đi đôi với hành, nhà trường gắn liền với xã hội, giáo dục
kết hợp với lao động sản xuất.
Dạy nghề trong nhà trường phổ thông mang tính giáo dục tiền nghề
nghiệp, chuẩn bị nghề cho học sinh là chủ yếu. Ở đây chỉ trang bị những kiến
thức, kỹ năng lao động cơ bản giúp cho học sinh làm quen với lao động và
nghề nghiệp, tạo nên tâm lý sẵn sàng lao động và rèn luyện một số phẩm chất
đạo đức nghề nghiệp, khả năng vận dụng và thích ứng với cơ chế thị trường.
Dạy Nghề phổ thông là một khái niệm và nội dung mới chỉ việc dạy
nghề trong nhà trường phổ thông khác với đào tạo nghề chính quy tại trường
nghề. Đây là những nghề có tính chất phổ biến, tính chất nghề và thực hành
nghề ít phức tạp, thiết bị không quá tốn kém thời gian học không lâu, quá
trình nghề có thể vận dụng khoa học kỹ thuật công nghệ mới.
Việc dạy Nghề phổ thông, do vậy cần cung cấp những kiến thức và kỹ
thuật cần thiết của một nghề làm cho học sinh hiểu được cơ sở khoa học về
vật liệu, công cụ, quá trình công nghệ, tổ chức quản lý sản xuất. Nhằm giúp
học sinh dễ dàng thích ứng với sự dịch chuyển lao động trong sản xuất và đào
tạo nghề mới.
Dạy Nghề phổ thông cũng sẽ giúp học sinh rèn luyện các kỹ năng sử
dụng công cụ, gia công vật liệu, thao tác các kỹ thuật, lập kế hoạch tính toán,
thiết kế và khả năng vận dụng trong thực tiễn. Đó là những cơ sở ban đầu để
hình thành kỹ năng nghề nghiệp, phát huy sáng tạo, hình thành thời gian lao
động tư duy.
- Dạy Nghề phổ thông cho học sinh phổ thông:
Trường phổ thông của ta không đào tạo những thợ lành nghề như những
trường dạy nghề, nhưng trong giai đoạn hiện nay, nó coi việc dạy nghề như
một tính chất của mình. Như thế có nghĩa là, trường phổ thông không chỉ dạy
22
văn hóa mà có nhiệm vụ chuẩn bị tích cực hơn cho học sinh đi vào cuộc sống
lao động xã hội thông qua việc dạy nghề trong trường phổ thông, chúng ta chỉ
dạy Nghề phổ thông cho học sinh.
Những nghề dạy cho học sinh phổ thông gọi tắt là Nghề phổ thông được
quy ước với những dấu hiệu cơ bản:
+ Đó là những nghề phổ biến, thông dụng đang cần phát triển ở địa
phương, học sinh có thể tự tạo việc làm, dễ sử dụng trong các thành phần kinh
tế ở những nơi đông dân cư.
+ Những nghề ấy có kỹ thuật tương đối đơn giản, quá trình dạy nghề
không đòi hỏi có những trang thiết bị phức tạp (ví dụ: may, thêu, điện dân
dụng, nấu ăn . . .).
+ Nguyên liệu dùng cho việc dạy nghề dễ kiếm, phù hợp với điều kiện
kinh tế, khả năng đầu tư của địa phương.
+ Thời gian học nghề thường ngắn (khoảng trên dưới 100 tiết), kế hoạch
giảng dạy của cấp THCS có thể giải quyết được cả số tiết lý thuyết và thực
hành để nắm được trình độ tối thiểu của nghề (70 tiết/ năm học).
Quan niệm như trên nhằm loại trừ những nghề quá đơn giản, không phân
biệt tay nghề, chỉ cần đến sức lực cơ bắp (bốc vác ở bến tàu xe, thợ xây . . .).
Do đó ở đây không đặt vấn đề dạy nghề quá đơn giản, đồng thời cũng không
hạn chế việc dạy những nghề phức tạp ở những nơi có điều kiện thực hiện.
1.2.4. Quản lý hoạt động dạy Nghề phổ thông:
Quản lý nhà trường (Trung tâm KTTH-HN): quản lý hoạt động DNPT là
bộ phận chủ yếu trong toàn bộ hoạt động quản lý của nhà trường, là hoạt động
chủ yếu nhất trong toàn bộ hoạt động của nhà trường do nhà trường tổ chức
quản lý và chỉ đạo nhưng có quan hệ tương tác, liên thông với các tổ chức
giáo dục và đào tạo khác mà học sinh có điều kiện tham gia. Công tác quản lý
23
quá trình DNPT cũng diễn ra theo một chu trình gồm 4 giai đoạn là: lập kế
hoạch → tổ chức thực hiện → chỉ đạo, lãnh đạo → kiểm tra đánh giá.
Nội dung quản lý hoạt động dạy Nghề phổ thông: Quản lý mục tiêu, nội
dung, Giáo viên, học sinh, nề nếp, chất lượng dạy học, tài chính, cơ sở vật
chất và hoạt động kiểm tra, đánh giá.
1.3.
Hoạt động dạy nghề ở các trường THCS:
1.3.1. Giáo dục và việc dạy nghề:
Vị trí của hoạt động dạy nghề trong cấu trúc của hoạt động giáo dục lao
động – hướng nghiệp:
Dạy nghề
Kĩ thuật ứng dụng
Hướng nghiệp
Kĩ thuật tổng hợp
Giáo dục lao động
Hình 1.3. Cấu trúc hoạt động lao động – hướng nghiệp
1.3.2. Cơ sở của việc dạy Nghề phổ thông:
Vấn đề dạy nghề phổ thông được đặt ra không chỉ ở nước ta mà còn đối
với nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên, trong xu thế chung ấy, vấn đề này ở
nước ta cũng có những nét riêng biệt. Chúng ta cần làm rõ những căn cứ xuất
phát của nó.
- Nhiều năm qua, do giáo dục phát triển mạnh mẽ, số học sinh tốt
nghiệp THCS tăng lên rất nhiều so với trước. Trung bình, hàng năm chúng ta
có khoảng 1 triệu học sinh THCS ra trường (Thành phố Hồ Chí Minh có
24
khoảng 70.000 học sinh). Đồng thời, số lượng học sinh tốt nghiệp THPT cũng
ngày càng đông hơn (Bình quân mỗi năm có khoảng 30 – 40 vạn). Trường
dạy nghề và trường trung cấp chuyên nghiệp chưa đáp ứng được nhu cầu học
tiếp sau THCS của học sinh. Trong đó, theo quy định phân luồng hiện nay
trường THPT chỉ được nhận 70 – 80% học sinh tốt nghiệp THCS. Còn đối
với học sinh tốt nghiệp THPT, trường đại học chỉ nhận trên dưới 10%. Như
vậy là, hàng năm chúng ta có khoảng 20 vạn học sinh tốt nghiệp THCS và 20
vạn học sinh tốt nghiệp THPT sẽ học các trường nghề hoặc trực tiếp tham gia
lao động sản xuất. Do đó, cần phải giúp cho số học sinh này có năng lực lao
động nghề nghiệp để có đủ điều kiện tham gia vào sản xuất trong xã hội.
- Hoàn cảnh nước ta gặp nhiều khó khăn trong phát triển sản xuất, bố
trí người vào hệ thống nghề nghiệp trở nên phức tạp. Ngay đến công ăn, việc
làm đơn giản hàng ngày cũng không phải dễ dàng kiếm được. Nếu học sinh ra
trường với ít lý luận sách vở chung chung, các em sẽ phải đứng ngoài công ăn
việc làm. Việc dạy nghề sẽ có ý nghĩa quyết định trong việc giúp lực lượng
thanh thiếu niên tự tạo việc làm hoặc dễ tìm việc làm cho bản thân. [20]
- Sự phát triển sản xuất, nâng cao năng xuất lao động là một yêu cầu
cần thiết của đất nước. Yếu tố còn người sẽ đóng vai trò quyết định đối với
việc đẩy mạnh sản xuất. Con người đào tạo ra vừa được phổ cập giáo dục phổ
thông, vừa được phổ cập nghề nghiệp mới đáp ứng được nhu cầu nói trên.[22]
- Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI (1986) đã chỉ ra đường
lối đổi mới kinh tế xã hội, giáo dục và nêu rõ: “Trường phổ thông phải
chuyển mạnh theo hướng dạy kiến thức phổ thông cơ bản, lao động, kỹ thuật
tổng hợp và dạy Nghề phổ thông (dạy chữ, dạy người, dạy nghề)”
- Nhằm triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội VI của Đảng, ngày
29/3/1989 Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười đã ký Quyết định số
23/HĐBT về một số vấn đề cấp bách của giáo dục trong đó chỉ rõ “Phải đẩy
25
mạnh giáo dục hướng nghiệp, phát triển hệ thống dạy nghề, kết hợp việc dạy
văn hóa với dạy nghề ở bậc phổ thông”.
- Sau một thời gian thí điểm, ngày 17/9/1991 Bộ trưởng Bộ Giáo dục –
Đào tạo đã ký Quyết định số 2793/QĐ ban hành danh mục nghề và chương
trình dạy nghề (tạm thời) cho học sinh THCS và THPT.
1.3.3. Thời gian, chương trình, tài liệu dạy Nghề phổ thông:
Chương trình nghề có quan hệ chặt chẽ với chương trình môn Công
nghệ (trước đây gọi là môn Kỹ thuật) và lao động sản xuất. Nội dung chương
trình Công nghệ được coi là một phần của chương trình Nghề phổ thông
nhằm cung cấp cho học sinh những tri thức, kỹ năng cơ sở, tạo điều kiện đi
sâu vào học một nghề cụ thể. Chương trình học Nghề phổ thông của học sinh
lớp 8 THCS là 70 tiết/ năm, mỗi tuần học 2 tiết tùy vào sự sắp xếp của mỗi
trường hoặc trung tâm Kỹ thuật tổng hợp – Hướng nghiệp.
Số danh mục nghề dạy ở trường phổ thông có nhiều nhưng tùy điều
kiện của từng địa phương hoặc từng trường mà chọn một số nghề phù hợp với
thực tế cơ sở vật chất của đơn vị tổ chức dạy nghề, các đơn vị có thể bổ sung
nội dung thực hành thực tế tùy theo nhu cầu và điều kiện của địa phương cho
phù hợp với cấu trúc của chương trình.
Học sinh được chọn nghề học và nơi học nghề phổ thông nhưng phải
đăng ký với nhà trường đang theo học vào đầu năm học. Cuối khóa, học sinh
được quyền đăng ký thi Nghề phổ thông do Sở Giáo dục – Đào tạo tổ chức.
Nếu đạt yêu cầu của kỳ thi Nghề phổ thông từ trung bình trở lên thì học sinh
được cấp giấy chứng nhận Nghề phổ thông và cộng thêm điểm vào kết quả thi
hoặc xét tốt nghiệp của bậc THCS và thi tốt nghiệp của bậc THPT.
Bộ Giáo dục – Đào tạo chủ trương mềm hóa về nội dung, đa dạng hóa
về hình thức học nghề theo hướng: Bộ Giáo dục đưa ra danh sách các môn