Tải bản đầy đủ (.doc) (115 trang)

Một số giải pháp quản lý công tác giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông huyện Châu Thành, tỉnh An Giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (503.28 KB, 115 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
GD-ĐT được xem là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực thúc đẩy
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Để GD-ĐT phát triển thì một trong
những nhân tố quan trọng nhất là con người. GD-ĐT không những cung cấp
tri thức, rèn luyện kỹ năng mà GD HS trở thành những con người có nhân
cách, có đầy đủ các phẩm chất của một công dân Việt Nam trong thời kỳ hội
nhập và toàn cầu hoá. Trong thời gian qua GD-ĐT đã có nhiều thành tựu
nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, trong đó có vấn đề chất lượng GDĐĐ cho HS.
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI cũng đã khẳng định điều đó “Tập
trung nâng cao chất lượng GD-ĐT, coi trọng GDĐĐ, lối sống, năng lực sáng
tạo, kỹ năng thực hành, khả năng lập nghiệp”.
Có thể nói rằng HS là lớp người chịu nhiều ảnh hưởng tích cực cũng
như tiêu cực của đời sống xã hội, của cơ chế thị trường và việc mở rộng hợp
tác quốc tế. Điều đó đặt ra vấn đề làm thế nào để những người “Chủ tương lai
của đất nước” định hướng đúng đắn những giá trị đạo đức để họ hoàn thành
được vai trò, nhiệm vụ của mình trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Để làm được điều đó, ngoài việc nâng cao năng lực chuyên môn (cái tài) còn
cần phải chú trọng đến việc trau dồi phẩm chất đạo đức lối sống (cái đức).
Điều đó chỉ có được khi gia đình, nhà trường và xã hội đặc biệt quan tâm chú
trọng đến việc GD cách mạng cho thế hệ tương lai.
Từ đó đã cho ta thấy đạo đức của một con người vô cùng quan trọng
như Bác Hồ đã nói “Có tài không có đức thì vô dụng, có đức mà không có tài
thì làm việc gì cũng khó”. Hai mặt tài và đức thì Bác rất chú trọng đến đức.
Nếu người tài giỏi đến đâu mà không có đức, không đưa cái tài giỏi phục vụ


2

lợi ích chính đáng cho nhân dân thì người đó trở thành vô dụng. Cho nên Bác
đã dạy: “Dạy cũng như học, phải chú ý đến cả tài lẫn đức. Đức là đạo đức


cách mạng, đó là cái gốc quan trọng, nếu không có đạo đức cách mạng thì có
tài cũng vô dụng”. Từ xưa, ông bà ta cũng có câu tục ngữ răn dạy cách làm
người “Tiên học lễ, hậu học văn”. Muốn làm người thì trước hết phải học lễ
nghĩa, phép tắc, sau đó mới học văn hóa, vì thế việc dạy đạo đức là công việc
cho lên hàng đầu.
Nghị quyết hội nghị trung ương 2 về GD khẳng định: “Nhiệm vụ và
mục tiêu cơ bản của GD là nhằm xây dựng những con người và thế hệ thiết
tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong
sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ tổ quốc, công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc, có năng
lực tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, phát huy tiềm năng của dân tộc và con
người Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy tích cực của cá nhân, làm
chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kỹ năng
thực hành giỏi, có tác phong công nghiệp, có tính tổ chức kỷ luật, có sức
khỏe…”.
Ở Việt Nam, khẩu hiệu của giáo dục, đào tạo là: Đào tạo ra những con
người vừa hồng vừa chuyên, hoặc: Đào tạo ra những con người có đủ tài đức,
hoặc: Mục tiêu giáo dục bao gồm các mặt đức, trí, thể, mỹ, lao động... trong
đó, mục tiêu của Giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về
đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản.
Xác định rõ mục tiêu giáo dục là một điều rất quan trọng và cần thiết
vì nó định hướng chiến lược đầu tư giáo dục, xây dựng nội dung chương trình,
chọn lọc nội dung, xác định và chi phối toàn bộ công tác quản lý, điều hành các
bậc học và toàn bộ phương pháp dạy và học.


3

Tất nhiên, để thế hệ trẻ có được các kỹ năng và đạt được các mục tiêu
giáo dục còn tùy thuộc nhiều vào các thành tố khác như: Sự đầu tư thực sự

cho giáo dục, xác định đúng nội dung chương trình, đào tạo đội ngũ giáo viên,
vận dụng các phương pháp giảng dạy tiên tiến, các quan điểm về đánh giá thi
cử, cơ sở hạ tầng của ngành giáo dục, trình độ và năng lực quản lý giáo dục.
Tất cả các thành tố đó đều cần được quan tâm giải quyết thỏa đáng.
Đối với GD-ĐT huyện Châu Thành, tỉnh An Giang cũng tương tự.
Ngoài những thành tựu về các phương diện đã đạt được, trong những năm
qua, những bất cập về công tác GDĐĐ cho HS, chất lượng đạo đức của HS,
trong đó có HS THPT, đang đặt ra cho các cấp chính quyền, các nhà quản lý
GD, cho xã hội, những vấn đề cần phải giải quyết. Từ thực tiễn trên, việc tìm
kiếm các giải pháp quản lý để nâng cao chất lượng GDĐĐ ở trường THPT
trên địa bàn huyện Châu Thành có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao
chất lượng GD toàn diện hiện nay. Vì vậy chúng tôi chọn đề tài “Một số giải
pháp quản lý công tác GDĐĐ cho HS THPT huyện Châu Thành, tỉnh An
Giang”.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng quản lý GDĐĐ HS các
trường THPT huyện Châu Thành, từ đó đề xuất một số giải pháp quản lý
nhằm nâng cao chất lượng công tác GDĐĐ cho HS THPT huyện Châu
Thành, tỉnh An Giang.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu: Quản lý GDĐĐ cho HS ở các trường
THPT.
3.2. Đối tượng nghiên cứu: Một số giải pháp quản lý công tác GDĐĐ
cho HS THPT huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.
4. Giả thuyết khoa học


4

Công tác GDĐĐ cho HS THPT có vai trò hết sức quan trọng trong việc

hình thành nhân cách HS. Nếu tổ chức thực hiện tốt các giải pháp quản lý
công tác GDĐĐ cho HS ở các trường THPT huyện Châu Thành theo như đề
tài nghiên cứu thì sẽ góp phần nâng cao chất lượng GD trên đia bàn huyện.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Tìm hiểu cơ sở lý luận các vấn đề quản lý hoạt động GDĐĐ cho
HS trường THPT.
5.2. Phân tích thực trạng đạo đức, quản lý GDĐĐ cho HS trường THPT
huyện Châu Thành, tỉnh An Giang
5.3. Đề xuất một số giải pháp quản lý công tác GDĐĐ cho HS trường
THPT huyện Châu Thành, tỉnh An Giang
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận: Đọc tài liệu, tổng hợp, phân loại
tài liệu, nghiên cứu tài liệu đề cập đến vấn đề GDĐĐ, hoạt động GDĐĐ cho
HS trong trường THPT. Nghiên cứu các tri thức khoa học, các Văn kiện Đại
hội Đảng, các tài liệu về GD, quản lý GD, tham khảo ý kiến chuyên gia...
nhằm xác đinh cơ sở lý luận cho vấn đề nghiên cứu.
6.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Quan sát, điều tra, khảo sát
thực tiễn, tổng kết kinh nghiệm, xử lý số liệu thu thập lấy ý kiến của chuyên
gia để xây dựng cơ sở thực tiễn của đề tài.
7. Đóng góp của luận văn
7.1. Luận văn góp phần làm sáng tỏ về mặt lý luận về quản lý GDĐĐ
cho HS THPT.
7.2. Chỉ ra được thực trạng chất lượng GDĐĐ cho HS trường THPT
huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.
7.3. Đề xuất được một số giải pháp cụ thể trong quản lý, nhằm nâng
cao chất lượng GDĐĐ cho HS THPT huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.


5


8. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và kiến nghị, phần nội dung của đề
tài gồm 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận về quản lý công tác GDĐĐ cho HS THPT
huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.
Chương 2. Thực trạng quản lý công tác GDĐĐ cho HS THPT huyện
Châu Thành, tỉnh An Giang.
Chương 3. Một số giải pháp quản lý công tác GDĐĐ cho HS THPT
huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.


6

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ CÔNG TÁC GIÁO DỤC
ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Vài nét về lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Các nghiên cứu ở nước ngoài
Đạo đức là sản phẩm tổng hợp của các yếu tố khách quan và chủ quan
là sản phẩm của hoạt động thực tiễn và nhận thức của con người. Những quan
hệ giữa người - người, giữa cá nhân - xã hội càng có ý thức, tự giác, ý nghĩa
và hiệu quả của chúng càng có tính chất xã hội rộng lớn thì hoạt động của con
người càng có đạo đức. Đạo đức “Là một sản phẩm xã hội và vẫn là như vậy
chừng nào con người còn tồn tại”
Vấn đề đạo đức và GDĐĐ từ lâu đã được nhiều tác giả quan tâm,
nghiên cứu.
Arixtốt - nhà Triết học Hy Lạp cổ đại đã để lại cho chúng ta nhiều
quyển sách, trong đó chứa đựng nhiều vấn đề về đạo đức. Rồi Epiquya,
Xôcrát... đã có những đóng góp to lớn trong lĩnh vực này.
Trước đây ở Liên Xô, vấn đề đạo đức, nhân cách đã được các nhà

nghiên cứu Xô Viết hết sức quan tâm. A.F.Shishkin đã viết; "Nguyên lý đạo
đức học mác xít". Chúng ta có thể coi đây là cuốn "giáo khoa" về đạo đức
học. Ở đó, ông đặc biệt nhấn mạnh vai trò của đạo đức, coi "những phẩm chất
đạo đức chính là điều cốt yếu nhất ở con người, ở tính cách của nó". Kế tục và
phát triển những quan điểm của A.F.Shishikin, G.Bandzeladze đã có công
trình "Đạo đức học" (2 tập). Trong bộ sách này, G.Bandzeladze đã nghiên cứu
và làm rõ những vấn đề của khoa học đạo đức, như: Đạo đức là gì; đạo đức
phát sinh, phát triển ra sao, nội dung những phạm trù đạo đức học là gì v.v.


7

Ở Phương Đông, từ thời cổ đại, Khổng Tử (551- 479 – TCN) trong bộ
ngũ kinh có “Thư, thi, lễ, dịch, xuân thu” rất xem trọng đạo đức .
Ở Phương Tây, nhà triết học Socrát (470-399-TCN) cho rằng đạo đức
và sự hiểu biết quy định lẫn nhau, con người có được đạo đức là nhờ sự hiểu
biết và chỉ sau khi có sự hiểu biết mới trở thành đạo đức .
Aristoste (384-322-TCN) cho rằng không phải hy vọng vào Thượng đế
để áp đặt con người hoàn thiện về đạo đức mà việc phát hiện nhu cầu trên trái
đất mới tạo nên được con người hoàn thiện trong quan hệ đạo đức.
Các nhà triết học – thần học coi con người và xã hội chẳng qua chỉ là
những hình thái biểu hiện cụ thể khác nhau của một đấng siêu nhiên nào đó.
Những chuẩn mực đạo đức, do vậy là những chuẩn mực do thần thánh tạo ra
để răn dạy con người. Mọi biểu hiện đạo đức của con người do vậy đều là sự
thể hiện cái thiện tối cao từ đấng siêu nhiên; và tiêu chuẩn tối cao để thẩm
định thiện – ác chính là sự phán xét của đấng siêu nhiên đó.
Những nhà duy tâm khách quan tiêu biểu như Platon, sau là Hêghen tuy
không mượn tới thần linh, nhưng lại nhờ tới “ý niệm” hoặc “ý niệm tuyệt đối”
về các lý giải nguồn gốc và bản chất của đạo đức.
Những nhà duy tâm chủ quan nhìn nhận đạo đức như những năng lực

“tiên thiên” của lý trí con người. Ý chí đạo đức hay là “thiện ý” theo cách gọi
của Cantơ là một năng lực có tính chất nhất thành bất biến, có trước kinh
nghiệm, nghĩa là có trước và độc lập với những hoạt động mang tính xã hội
của con người.
1.1.2. Các nghiên cứu ở trong nước
Ở nước ta, Bác Hồ là người quan tâm nhiều nhất đến công tác GDĐĐ
cho mọi người. Hồ Chí Minh xem đạo đức là cái gốc của nhân cách, Bác viết:
“Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây
phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người Cách mạng phải có đạo đức,


8

không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân.
….”. Hay trong tác phẩm “Cần, kiệm, liêm, chính” của Bác vào tháng 6 năm
1949 đã viết:
Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc
Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính
Thiếu một mùa, thì không thành trời
Thiếu một phương, thì không thành đất
Thiếu một đức, thì không thành người.
Còn đối với thế hệ trẻ, phải đào tạo thế hệ trẻ thành những người thừa
kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”. Điều đó cho thấy,
đạo đức và tài năng là hai nội dung không thể thiếu được trong bồi dưỡng
GD, trong đó đạo đức là yếu tố gốc.
Và gần đây Bộ GD-ĐT đã đưa ra Chỉ thị số 2516/BGD&ĐT ngày
18/05/2007 về việc thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh” trong ngành GD.
Có thể nói, vấn đề đạo đức và GDĐĐ cho HS từ lâu đã được quan tâm

và trong giai đoạn hiện nay, vấn đề lại càng phải được quan tâm nhiều hơn
nữa. Để quản lý GDĐĐ cho HS THPT trong thời kỳ đổi mới đã có một số nhà
khoa học nghiên cứu về quản lý công tác GDĐĐ.
Trong những năm qua nhiều giáo trình đạo đức được biên soạn khá công
phu như giáo trình của Trần Hậu Khiêm (NXB Chính trị quốc gia, 1997); Phạm
Khắc Chương – Hà Nhật Thăng (NXB GD, 2001); Giáo trình đạo đức học (GS.TS
Nguyễn Ngọc Long chủ biên, NXB Chính trị quốc gia, 2000)…


9

Vấn đề GDĐĐ cũng được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu: Hoạt động
ngoài giờ lên lớp của các khối 10, 11, 12 của nhiều tác giả, NXB GD; GD giá trị
truyền thống cho HS, sinh viên.
- Nguyễn Văn Trung với đề tài luận văn thạc sỹ khoa học GD: “Công
tác quản lý của HT trong việc tổ chức GDĐĐ cho HS ở các trường THPT
huyện Châu Thành, Đồng Tháp ”, năm 2006
- Lê Quang Tuấn với đề tài luận văn thạc sỹ khoa học GD: “Một số giải
pháp công tác quản lý GDĐĐ cho HS ở các trường THPT huyện Cẩm Xuyên
– Hà Tĩnh ” năm 2008
- Một vài quan điểm đổi mới hoạt động GDĐĐ của người GVCN bậc
THCS (Lê Trung Tấn- Nguyễn Dục Quang, 1994).
- Một số biện pháp quản lý hoạt động GDĐĐ cho HS ở trường THPT An
Lão – Hải Phòng – 2003
- Một số biện pháp quản lý hoạt động GDĐĐ cho HS ở trường THPT Thái
phiên – Thành Phố Hải Phòng – 2001
- Một số biện pháp quản lý của HT nhằm nâng cao chất lượng GDĐĐ cho
HS ở trường THPT Thành Phố Hải Phòng – 2003
- Một số giải pháp quản lý nâng cao chất lượng GDĐĐ cho HS ở các trường
THPT Huyện Nhơn Trạch tỉnh Đồng Nai – 2011

Tuy nhiên, tại huyện Châu Thành tỉnh An Giang hiện tai chưa có một
nghiên cứu nào về quản lý GDĐĐ cho HS THPT. Do đó, việc nghiên cứu đề
tài này là một vấn đề hết sức cần thiết, góp phần vào công cuộc xây dựng nền
GD toàn diện cho địa phương, cho quê hương Châu Thành.


10

1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Đạo đức
Có nhiều quan điểm khác nhau về đạo đức
Theo Từ điển Triết học, đạo đức là “Một trong những hình thái ý thức
xã hội, phản ánh sự tồn tại về mặt tinh thần của cá nhân, một trong những đòn
bẩy tinh thần cho quá trình phát triển xã hội”. Về nghĩa hẹp, đạo đức là sản
phẩm của quá trình lịch sử, xã hội thể hiện qua sự nhận thức và quyền tự do
của con người” [32, tr 290,291].
Theo Từ điển chính tả Tiếng Việt, đạo đức có hai nghĩa, đạo đức là
những tiêu chuẩn, những nguyên tắc được xã hội thừa nhận, quy định hành vi,
quan hệ của con người đối với nhau và đối với xã hội (nghĩa tổng quát). Đạo
đức là phẩm chất tốt đẹp của con người do tu dưỡng theo những tiêu chuẩn
đạo đức mà có (nghĩa hẹp) [26, tr 290].
PGS.TS Trần Hậu Kiêm quan niệm: “Đạo đức là tổng hợp những nguyên
tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi của
mình vì lợi ích xã hội, hạnh phúc của con người trong mối quan hệ giữa con
người và con người, giữa cá nhân và tập thể hay toàn xã hội” [19, tr 3].
PGS.TS Phạm Khắc Chương cho rằng: “Đạo đức là một hình thái ý
thức xã hội, là tổng hợp những quy tắc, nguyên tắc, chuẩn mực xã hội, nhờ đó
con người tự điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với lợi ích, hạnh
phúc của con người và tiến bộ xã hội trong quan hệ xã hội giữa con người với
con người, giữa cá nhân và xã hội”.

- Tác giả Nguyễn Ngọc Long cho rằng: “Đạo đức là một trong những
hình thái ý thức xã hội, là hệ thống các quan niệm về cái thiện, cái ác trong
các mối quan hệ của con người, thực hiện chức năng điều chỉnh hành vi của
con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội” [22, tr 8]. Thật vậy:


11

- Đạo đức nảy sinh từ nhu cầu của xã hội điều hòa và thống nhất các
mâu thuẫn giữa lợi ích chung và lợi ích riêng nhằm đảm bảo trật tự xã hội và
khả năng phát triển của xã hội và cá nhân.
- Với tư cách là một lĩnh vực ý thức xã hội, đạo đức bao gồm tri thức
về các khái niệm, chuẩn mực và phẩm chất đạo đức, nguyên tắc đạo đức, các
xúc cảm và tình cảm đạo đức, đánh giá đạo đức. Với tư cách là một mặt của
hoạt động xã hội, đạo đức bao gồm các hành vi, thói quen đạo đức. Với tư
cách là một hình thái quan hệ xã hội, đạo đức bao gồm các quan hệ đạo đức,
biểu hiện trong hiện thực giao lưu giữa cá nhân-cá nhân, cá nhân-tập thể.
- Đạo đức tồn tại xen kẻ trong mọi lĩnh vực ý thức xã hội, trong mọi
hoạt động xã hội, mọi loại quan hệ xã hội, nó luôn tồn tại và phát triển cùng
với đời sống xã hội. Đạo đức mang tính lịch sử, tính giai cấp.
Như vậy, đạo đức là một phạm trù phản ánh hiện thực khách quan bằng
hệ thống các chuẩn mực xã hội, các qui tắc điều chỉnh sự ứng xử của con
người trong tất cả các mối quan hệ xã hội, trong tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội.
Cũng có thể nói: Đạo đức hiểu theo nghĩa chung nhất, là một hình thái
ý thức xã hội, bao gồm những nguyên tắc, chuẩn mực, định hướng giá trị
được xã hội thừa nhận, có tác dụng chi phối, điều chỉnh hành vi của con
người trong quan hệ với người khác và toàn xã hội [2, tr 9].
Các tác giả trên tuy có cách lý luận khác nhau về khái niệm đạo đức,
tuy nhiên về mặt tổng quát, các ý kiến trên đều có những điểm cơ bản thống

nhất nhau về các vấn đề sau: Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, phản ánh
tồn tại xã hội, phản ánh hiện thực đời sống đạo đức xã hội. Đạo đức là một
phương thức điều chỉnh hành vi của con người, giúp con người ngày càng
hoàn thiện hơn, thúc đẩy xã hội ngày càng phát triển.


12

- Đạo đức là một hệ thống các giá trị, các quy tắc, chuẩn mực mà mọi
người phải tuân theo trong quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân và
xã hội. Đạo đức là một hiện tượng xã hội, mang tính chuẩn mực: mệnh lệnh,
đánh giá rõ rệt. Sự hình thành phát triển và hoàn thiện hệ thống giá trị đạo đức
không tách rời sự phát triển và hoàn thiện của ư thức đạo đức và sự điều chỉnh
đạo đức. Nếu hệ thống giá trị đạo đức phù hợp với sự phát triển, tiến bộ, thì
hệ thống ấy có tính tích cực, mang tính nhân đạo. Ngược lại, nếu hệ thống ấy
mang tính tiêu cực, phản động, phản nhân đạo.
Qua đây cho thấy, với các lý luận trên chúng ta có thể hiểu một cách tổng
quát, đạo đức là một hình thức ý thức xã hội. Nó là một hệ thống các quy tắc,
chuẩn mực, nguyên tắc xã hội về cái chân - thiện - mỹ và cái ác nhằm điều chỉnh
mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với xã hội.
1.2.2. Giáo dục đạo đức
GDĐĐ cho HS là một quá trình lâu dài, liên tục về thời gian, rộng khắp
về không gian, từ mọi lực lượng xã hội. Trong đó, nhà trường giữ vai trò rất
quan trọng. GDĐĐ trong nhà trường THPT là một quá trình GD bộ phận của
quá trình sư phạm tổng thể. Nó có quan hệ biện chứng với các quá trình GD
bộ phận khác như: GD trí tuệ, GD thẩm mỹ, GD thể chất, GD lao động, GD
hướng nghiệp...
GDĐĐ cho HS là quá trình hình thành và phát triển các phẩm chất đạo
đức của nhân cách HS dưới những tác động và ảnh hưởng có mục đích được
tổ chức có kế hoạch, có sự lựa chọn về nội dung, Phương pháp và hình thức

GD phù hợp với lứa tuổi và với vai trò chủ đạo của nhà GD. Từ đó, giúp HS
có những hành vi ứng xử đúng mực trong các mối quan hệ giữa cá nhân với
cá nhân, với cộng đồng - xã hội, với lao động, với tự nhiên... Bản chất của
GDĐĐ là chuỗi tác động có định hướng của chủ thể GD và yếu tố tự GD của
HS, giúp HS chuyển những chuẩn mực, quy tắc, nguyên tắc đạo đức...từ bên


13

ngoài xã hội vào bên trong thành cái của riêng mình mà mục tiêu cuối cùng là
hành vi đạo đức phù hợp với những yêu cầu của các chuẩn mực xã hội.
GDĐĐ không chỉ dừng lại ở việc truyền thụ những khái niệm, những tri thức
đạo đức, mà quan trọng hơn hết là kết quả GD phải được thể hiện qua tình
cảm, niềm tin, hành động thực tế của HS.
Như vậy, GDĐĐ là quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch, có tổ
chức của nhà GD và yếu tố tự GD của người học để trang bị cho HS tri thức,
ý thức đạo đức, niềm tin, tình cảm đạo đức và quan trọng nhất là hình thành
ở các em hành vi, thói quen đạo đức phù hợp với các chuẩn mực xã hội. Hay
nói một cách khác, GDĐĐ là một quá trình sư phạm được tổ chức một cách
có mục đích, có kế hoạch nhằm hình thành và phát triển ở HS ý thức, tình
cảm, hành vi và thói quen đạo đức.
1.2.3. Quản lý GD và quản lý nhà trường
1.2.3.1. Quản lý
Quản lý đã xuất hiện và được áp dụng rất sớm của cuộc sống cộng
đồng, khi con người làm việc theo nhóm để thực hiện những mục tiêu nhất
định. Cho đến nay, có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm quản lý.
Tác giả Đặng Quốc Bảo cho rằng từ quản lý có gốc Hán, lột tả được
bản chất của vấn đề chính, đó là hoạt động chăm sóc, giữ gìn và sửa sang, sắp
xếp để cho cộng đồng theo sự phân cong hợp tác lao động được ổn định và
phát triển.

Tác giả Trần Kiểm định nghĩa: “Quản lý là những tác động của chủ thể
quản lý trong việc huy động, phát huy, kết hợp, sử dụng, điều chỉnh, điều phối
các nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực) trong và ngoài tổ chức với hiệu quả
cao nhất.
Tác giả Nguyễn Minh Đạo cho rằng: “Quản lý là sự tác động liên tục,
có tổ chức, có định hướng của chủ thể (người quản lý, người tổ chức quản lý)


14

lên khách thể (đối tượng quản lý) về các mặt chính trị, xã hội, văn hóa, kinh
tế… bằng một hệ thống các luật lệ, các chính sách, các nguyên tắc, các
phương pháp, các biện pháp cụ thể, nhằm tạo ra môi trường và điều kiện cho
sự phát triển của đối tượng”.
Tác giả Thái Văn Thành cho rằng: “Quản lý một hệ thống xã hội là sự
tác động có mục đích đến tập thể người-thành viên của hệ, nhằm làm cho hệ
vận hành thuận lợi và đạt tới mục đích dự kiến. Quản lý là sự tác động có
định hướng, có mục đích, có kế hoạch và có hệ thống thông tin của chủ thể
đến khách thể của nó”.
Tuy các cách định nghĩa trên có khác nhau, nhưng tựu trung các tác giả
đều xoay quanh các yếu tố của nội hàm quản lý: Ai quản lý (chủ thể quản lý);
quản lý ai hoặc quản lý cái gì (khách thể); quản lý bằng cách nào (phương
thức, công cụ); nhằm để làm cái gì (mục tiêu).
Như vậy, chúng ta có thể hiểu: Quản lý là sự tác động có mục đích, có
kế hoạch của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu
đề ra.
1.2.3.2. Quản lý GD
Từ khi hoạt động GD ra đời, tất yếu kéo theo sự xuất hiện của QLGD.
Theo lý luận của PGS.TS Đặng Quốc Bảo: QLGD theo nghĩa tổng quan là
hoạt động điều hành, phối hợp các lực lượng xã hội nhằm đẩy mạnh công tác

đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển của xã hội. Ngày nay, với sứ mệnh
phát triển GD thường xuyên, công tác GD không chỉ giới hạn ở thế hệ trẻ mà
còn cho mọi người. Tuy nhiên, trọng tâm vẫn là GD thế hệ trẻ cho nên QLGD
được hiểu là sự điều hành của hệ thống GD quốc dân, các trường trong hệ
thống GD quốc dân” [3, tr 124].


15

PGS.TS Trần Kiểm chia QLGD thành hai cấp độ: Quản lý vĩ mô và
quản lý vi mô. QLGD cấp vĩ mô là quản lý nền GD hoặc hệ thống GD; quản
lý GD cấp vi mô là quản lý nhà trường [20, tr 36].
- Đối với cấp vĩ mô:
Quản lý GD được hiểu là hệ thống những tác động tự giác (có ý thức,
có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp quy luật) của chủ thể quản lý đến
tất cả các mắc xích của hệ thống (từ cấp cao nhất đến các cơ sở GD là nhà
trường) nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu phát triển GD-đào
tạo thế hệ trẻ mà xã hội đặt ra cho ngành GD.
- Đối với cấp vi mô:
Quản lý GD được hiểu là hệ thống những tác động tự giác (có ý thức,
có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống , hợp quy luật) của chủ thể quản lý đến
tập thể GV, công NV, tập thể HS, CMHS và các lực lượng xã hội trong và
ngoài nhà trường nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu GD của
nhà trường.
Quản lý GD nằm trong quản lý văn hóa - tinh thần.
Quản lý hệ thống GD có thể xác định là tác động của hệ thống có kế
hoạch, có ý thức và hướng đích của chủ thể quản lý ở các cấp độ khác nhau
đến tất cả các mắt xích của hệ thống (từ Bộ đến trường) nhằm mục đích đảm
bảo việc hình thành nhân cách cho thế hệ trẻ trên cơ sở nhận thức và vận dụng
những quy luật chung của xã hội cũng như các quy luật của quá trình GD, của

sự phát triển thể lực và tâm lý trẻ em [11, tr 3].
Từ các định nghĩa trên, dù ở cấp vĩ mô hay vi mô ta thấy, quản lý có
các yếu tố: chủ thể quản lý, đối tượng quản lý, khách thể quản lý, mục tiêu
quản lý. Vì vậy, chúng ta có thể hiểu một cách tổng quát, QLGD là sự tác
động có ý thức của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý nhằm đưa hoạt
động sư phạm của hệ thống GD đạt được mục tiêu quản lý đã đề ra.


16

1.2.3.3. Quản lý nhà trường
Trong giáo trình Đạo đức học định nghĩa: “Quản lý trường học là hoạt
động của các cơ quan quản lý GD nhằm tập hợp và tổ chức các hoạt động của
GV, HS và các lực lượng GD khác, huy động tối đa các nguồn lực GD để
nâng cao chất lượng GD và đào tạo trong nhà trường”.
Theo GS.TS Phạm Minh Hạc: Quản lý nhà trường là thực hiện đường
lối của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận
hành theo nguyên lý GD để tiến tới mục tiêu GD, mục tiêu đào tạo đối với
ngành GD. Quản lý nhà trường là quản lý vi mô, nó là một hệ thống con của
quản lý vĩ mô, là một chuỗi tác động (có mục đích, tự giác, hệ thống, có kế
hoạch) mang tính tổ chức-sư phạm của chủ thể quản lý đến tập thể GV và HS,
đến những lực lượng GD trong và ngoài nhà trường nhằm huy động họ cùng
cộng tác, phối hợp, tham gia vào mọi hoạt động của nhà trường nhằm làm cho
quá trình này vận hành tối ưu để đạt được những mục tiêu dự kiến đã đề
ra [15, tr 3].
Như vậy, quản lý nhà trường bao gồm quản lý nhiều hoạt động:
- Quản lý đội ngũ CB-GV-NV và HS; Quản lý nội dung, chương trình,
phương pháp dạy học; Quản lý hoạt động GDĐĐ; Quản lý hoạt động xã hội,
đoàn thể; Quản lý cơ sở vật chất-thiết bị GD của nhà trường; Quản lý tài
chính, hành chính trường học, quản lý mối quan hệ giữa nhà trường và xã hội.

Mục tiêu cao nhất của quản lý nhà trường là từng bước nâng cao chất
lượng GD toàn diện cho HS, đáp ứng yêu cầu đổi mới quản lý GD và sự
nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa của đất nước.
1.2.4. Nội dung quản lý công tác GDĐĐ
Quản lý GDĐĐ là một quá trình chỉ đạo, điều hành công tác GDĐĐ của
chủ thể GD tác động đến đối tượng GD để hình thành những phẩm chất đạo đức


17

của HS, đảm bảo quá trình GDĐĐ đúng hướng, phù hợp với chuẩn mực, quy tắc
đạo đức được xã hội thừa nhận.
Quản lý GDĐĐ cho HS còn là quá trình huy động các lực lượng GD,
các điều kiện, các phương tiện GD; phối hợp với các môi trường GD, giúp HS
có tri thức đạo đức, tình cảm đạo đức và hình thành hành vi đạo đức phù hợp
với yêu cầu của xã hội.
Nói một cách tổng quát, quản lý GDĐĐ là quản lý mục tiêu, nội dung,
phương pháp, hình thức, phương tiện GDĐĐ, đảm bảo quá trình GDĐĐ được
tiến hành một cách khoa học, đồng bộ, phù hợp với những quy tắc, chuẩn
mực xã hội, góp phần hình thành nhân cách toàn diện cho HS.
Quản lý GDĐĐ trong nhà trường phổ thông, đó là quá trình tác động
của HT lên tất cả các thành tố tham gia vào quá trình GDĐĐ cho HS. Mục
đích của quá trình này là hình thành ở các em những tri thức, tình cảm, niềm
tin đạo đức, hình thành thiện chí, nghị lực và thói quen đạo đức. Đó chính là
hệ thống phẩm chất và năng lực, là toàn bộ nhân cách của HS. Để đạt được
mục đích đó công tác GDĐĐ phải hướng tới mọi lực lượng tham gia vào quá
trình GD có nhận thức đúng đắn vế tầm quan trọng đặc biệt của công tác này.
1.2.5. Giải pháp quản lý GD
Giải pháp quản lý GD là loại giải pháp hành chính nhằm giải quyết một
vấn đề nào đó trong công tác quản lý GD, để chủ thể quản lý tác động đến đối

tượng quản lý theo mục tiêu đào tạo của nhà trường.
Như vậy, giải pháp quản lý GDĐĐ cũng là giải pháp quản lý GD
nhưng nó hướng vào một đối tượng, hoạt động cụ thể chính là công tác
GDĐĐ cho HS trong nhà trường. Hoạt động này cần phải thực hiện nghiêm
túc từ khâu lập kế hoạch, triển khai thực hiện, giám sát thực hiện cho đến
công đoạn kiểm tra, đánh giá kết quả thực hiện như thế nào.


18

1.3. Một số vấn đề về GDĐĐ cho HS
1.3.1. Một số đặc điểm tâm lý của HS
Tuổi của HS THPT có độ tuổi từ 15, 16 đến 18 tuổi. Đây là thời kỳ
chuyển từ tuổi thơ ấu sang tuổi trưởng thành. Trong thời kỳ này, các em có sự
phát triển mạnh mẽ, thiếu cân đối về cơ thể, sự phát dục và sự hình thành
những phẩm chất mới về các mặt trí tuệ, đạo đức. Do đó, trong mỗi hoạt động
các em có những đặc điểm nhân cách chủ yếu của lứa tuổi HS THPT là:
- Sự phát triển của ý thức: Đây là một đặc điểm nổi bật trong sự phát
triển nhân cách của thanh niên mới lớn nó có ý nghĩa to lớn đối với sự phát
triển của tâm lý của tuổi thanh niên. Sự hình thành tự ý thức là một quá trình
lâu dài, trải qua nhiều mức độ khác nhau. Ở tuổi thanh niên quá trình phát
triển tự ý thức diễn ra mạnh mẽ sôi nổi, và tính cách đặc thù riêng: Thanh
niên có nhu cầu tìm hiểu và đánh giá những đặc điểm tâm lý của mình theo
quan điểm về mục đích cuộc sống và hoài bão của mình. Đặc điểm quan trọng
trong sự tự ý thức của thanh niên là, sự tự ý thức của họ xuất phát từ yêu cầu
của cuộc sống và hoạt động. Nội dung của tự ý thức cũng khá phức tạp. Các
em không chỉ nhận thức về cái tôi của mình trong hiện tại như thiếu niên mà
còn nhận thức về vị trí của mình trong xã hội, trong tương lai. Thanh niên
không chỉ đánh giá những cử chỉ hành vi riêng lẻ, từng thuộc tính riêng biệt
mà còn biết đánh giá nhân cách của mình nói chung trong toàn bộ thuộc tính

nhân cách. Thanh niên không chỉ có nhu cầu đánh giá, mà còn có khả năng
đánh giá sâu sắc và tốt hơn thiếu niên về những phẩm chất, mặt mạnh, mặt
yếu của những người cùng sống và của chính mình. Chúng ta phải thừa nhận
là thanh niên mới lớn có thể sai lầm khi tự đánh giá. Do vậy, khi sự tự đánh
giá đã được suy nghĩ thận trọng thì dù có sai lầm thì chúng ta cũng phải có
thái độ nghiêm túc khi nghe các em phát biểu, không được chế giễu ý kiến tự


19

đánh giá của họ. Cần phải giúp đỡ thanh niên một cách khóe léo để họ hình
thành một biểu tượng khách quan về nhân cách của mình.
- Sự hình thành thế giới quan: Tuổi thanh niên mới lớn là lứa tuổi quyết
định của sự hình thành thế giới quan, hệ thống quan điểm về xã hội, về tự
nhiên, về nguyên tắc và về quy tắc cư xử....Sự hình thành thế giới quan là nét
chủ yếu trong sự phát triển tâm lý của tuổi thanh niên HS. Chỉ số đầu tiên của
sự hình thành thế giới quan là sự phát triển của hứng thú nhận thức đối với
những vấn đề thuộc nguyên tắc chung nhất của vũ trụ. Những quy luật phổ
biến của tự nhiên xã hội và của sự tồn tại xã hội loài người. Việc hình thành
thế giới quan không chỉ giới hạn ở tính tích cực nhận thức, mà còn thể hiện ở
phạm vi nội dung nữa. Các em quan tâm nhiều nhất đến các vấn đề liên quan
đến con người, vai trò của con người trong lịch sử, quan hệ giữa con người và
xã hội, quyền lợi và nghĩa vụ, nghĩa vụ và tình cảm.
Tuy vậy, một bộ phận thanh niên chưa được GD đầy đủ về thế giới
quan. Thế giới quan của họ còn chịu nhiều ảnh hưởng của tàn dư tiêu cực của
quá khứ (Say mê những sản phẩm nghệ thuật “Không lành mạnh”, đánh giá
quá cao cuộc sống hưởng thụ...) hoặc một bộ phận khác chưa chú ý đến vấn
đề xây dựng thế giới quan sống thụ động...
- Hoạt động giao tiếp: Tuổi thanh niên mới lớn là lứa tuổi mang tính tập
thể nhiều nhất. Điều quan trọng đối với các em là được sinh hoạt với các bạn

bè cùng lứa tuổi, là cảm thấy mình cần cho nhóm, có uy tín và có vị trí nhất
định trong nhóm. Ở tuổi này, quan hệ với bạn bè chiếm vị trí lớn hơn hẳn so
với quan hệ với người lớn tuổi hoặc ít tuổi hơn. Điều này do lòng khát khao
muốn có vị trí bình đẳng trong cuộc sống chi phối. Cùng với sự trưởng thành
nhiều mặt quan hệ dựa dẫm phụ thuộc vào cha mẹ dần dần cũng thay thế bằng
quan hệ bình đẳng tự lập. Sự mở rộng phạm vi giao tiếp và sự phức tạp hóa
hoạt động riêng của thanh niên HS khiến cho số lượng nhóm quy chiếu của


20

các em tăng lên rõ rệt. Việc các em tham gia vào nhóm sẽ dẫn đến sự khác
nhau nhất định và có thể có xung đột về vai trò nếu cá nhân phải lựa chọn
giữa các vai trò khác nhau giữa các nhóm.
Trong công tác GD cần chú ý đến ảnh hưởng của nhóm, hội tự phát
ngoài nhà trường. Nhà trường không thể tự quán xuyến toàn bộ cuộc sống của
thế hệ đang trưởng thành. Ta cũng không thể loại trừ được các nhóm tự phát
và các đặc tính của chúng. Nhưng có thể tránh được hậu quả xấu của nhóm tự
phát bằng cách tổ chức hoạt động của các tập thể (Nhóm chính thức) thật
phong phú sinh động... khiến cho các hoạt động đó phát huy được tính tích
cực của thanh niên mới lớn. Vì vậy tổ chức ĐTN có vai trò đặc biệt quan
trọng.
- Đời sống tình cảm: Đời sống tình cảm của lứa tuổi HS THPT rất
phong phú và nhiều vẻ. Đặc điểm đó được thể hiện rõ nhất trong tình bạn của
các em, vì đây là lứa tuổi mà những hình thức đối xử có lựa chọn đối với mọi
người trở nên sâu sắc và mặn nồng. Trong quan hệ với các bạn các em rất
nhạy cảm, không chỉ có khả năng xúc cảm thân tình, mà còn có khả năng đáp
ứng lại xúc cảm của người khác (Đồng cảm). Tình bạn của thanh niên mới
lớn rất bền vững. Tình bạn ở tuổi này có thể vượt được mọi thử thách và có
thể kéo dài suốt cuộc đời. Ở thanh niên mới lớn, sự khác biệt giữa các cá nhân

trong tình bạn rất rõ. Quan niệm của thanh niên về tình bạn và mức độ thân
tình trong tình bạn có sự khác nhau.
1.3.2. Ý nghĩa và nhiệm vụ của GDĐĐ cho HS
1.3.2.1. Ý nghĩa của GDĐĐ cho HS
GDĐĐ cho HS THPT là nhằm củng cố và tiếp nối GDĐĐ của cấp
THCS. Công tác này, được thực hiện thường xuyên và lâu dài trong mọi tình
huống chứ không phải chỉ thực hiện khi có tình hình phức tạp hoặc có những


21

đòi hỏi cấp bách, nhằm để hình thành nhân cách của các em theo lý tưởng xã
hội chủ nghĩa phù hợp với tiến trình lịch sử cách mạng của dân tộc.
1.3.2.2. Nhiệm vụ của GDĐĐ cho HS
Với tầm quan trọng và ý nghĩa như trên nên việc GDĐĐ có những
nhiệm vụ như sau:
- GD ý thức đạo đức: Nhằm hình thành ở HS một hệ thống các tri thức
đạo đức mà các em cần phải có. Cụ thể:
+ Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, phẩm chất và tấm gương đạo đức
của Người. Từ đó giúp HS học tập và làm theo tấm gương của Người, niềm
tin và lý tưởng sống của thanh niên, giúp HS xác định đúng đắn động cơ học
tập và rèn luyện đạo đức, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà
nước, qui chế Ngành, nội qui nhà trường.
+ Hệ thống các khái niệm cơ bản của phạm trù đạo đức XHCN: cái tốt,
cái xấu, cái thiện, cái ác.
+ Hệ thống các chuẩn mực đạo đức được quy định cho HS.
+ Cách ứng xử trong các tình huống khác nhau phù hợp với các chuẩn
mực đạo đức đã quy định.
- GD thái độ và tình cảm đạo đức: GD tình cảm đạo đức cho HS là
thức tỉnh ở họ những rung động trái tim với hiện thực xung quanh, làm cho họ

biết yêu, biết ghét rõ ràng, không vô cảm, có thái độ đúng đắn với các hiện
tượng trong đời sống xã hội và tập thể.
- GD hành vi và thói quen đạo đức: Mục đích cuối cùng của GDĐĐ là
hình thành hành vi đạo đức trong cuộc sống hằng ngày của trẻ. Hành vi đạo
đức được thực hiện bởi sự chỉ đạo của ý thức và sự thôi thúc của tình cảm
mới là hành vi đích thực, mới trở thành thói quen thành thuộc tính của con
người. Hành vi, đặc biệt là thói quen hành vi chỉ có thể hình thành thông qua


22

tập luyện. Trong cuộc sống sinh hoạt, cần GD cho các em hành vi có văn hóa,
tức là hành vi đó chẳng những đúng về mặt đạo đức mà còn đẹp về thẫm mỹ.
1.3.3. Nội dung GDĐĐ cho HS
Ngoài việc GD thế giới quan khoa học, tư tưởng chính trị, pháp luật
cho HS, GDĐĐ trong nhà trường còn phải hướng đến GD cho HS cách ứng
xử có văn hóa trong các mối quan hệ, cụ thể:
- GD quan hệ cá nhân của HS đối với xã hội như: GD lòng yêu hương
đất nước, yêu Chủ nghĩa xã hội, sẵn sàng hy sinh để bảo vệ Tổ quốc. GD
niềm tự hào về truyền thống anh hùng của dân tộc, GD lòng tôn trọng, giữ gìn
các di sản văn hóa của dân tộc, có thái độ tiến bộ đối với các giá trị truyền
thống và tinh thần quốc tế vô sản. Biết ơn các vị tiền liệt có công dựng nước
và giữ nước, GD lòng tin yêu Đảng Cộng sản Việt Nam và kính yêu Bác Hồ.
- GD quan hệ cá nhân của HS đối với lao động: GD HS có thái độ đúng
đắn đối với lao động, biết yêu thích lao động, chăm chỉ học tập, say mê khoa
học, biết quý trọng người lao động dù lao động chân tay hay lao động trí óc.
- GD quan hệ cá nhân HS đối với tài sản xã hội, di sản văn hóa và thiên
nhiên: GD yêu cầu bản thân các em phải có ý thức giữ gìn, tiết kiệm, bảo vệ của
công, không xâm phạm tài sản chung và của cải riêng của người khác. Biết bảo vệ
môi trường tự nhiên nơi cư trú, học tập và nơi công cộng.

- GD quan hệ cá nhân của HS đối với mọi người xung quanh: GD các em
biết kính trọng ông bà, cha mẹ, anh chị và những người lớn tuổi; Biết kính trọng,
lễ phép, lòng biết ơn đối với Thầy Cô giáo và những người dạy dỗ mình. Đối với
em nhỏ phải có sự cảm thông, nhường nhịn, giúp đỡ, vị tha. GD tình bạn chân
thành, tình yêu chân chính, dựa trên sự cảm thông, hết sức tôn trọng và có cùng
mục đích lý tưởng chung. Có tinh thần khiêm tốn, luôn lắng nghe và biết học hỏi.
GD tính thông cảm, đoàn kết tương trợ, tôn trọng lợi ích và ý chí tập thể.


23

- GD quan hệ cá nhân đối với bản thân: Phải luôn tự nghiêm khắc đối
với bản thân mình khi có sự sai phạm; bản thân có đức tính khiêm tốn, thật
thà, có tính kỷ luật, có ý chí, có nghị lực, có tinh thần dũng cảm, lạc quan yêu
đời…
- GD cho HS có tính nhân văn, biết cảm thụ với cái đẹp, biết bảo vệ
hòa bình, sống thân thiện với môi trường,…
1.3.4. Phương pháp GDĐĐ cho HS
Phương pháp GDĐĐ trong nhà trường là cách thức hoạt động gắn bó
với nhau của người GD và người được GD, nhằm hình thành và phát triển
nhân cách, phẩm chất theo mục tiêu GD.
Phương pháp GDĐĐ là một thành tố quan trọng và tác động trực tiếp
đến kết quả của quá trình GDĐĐ cho HS. Có các nhóm phương pháp cơ bản
sau đây:
- Nhóm phương pháp tác động đến ý thức, tình cảm, ý chí: Nhóm
phương pháp này nhằm hình thành ý thức cá nhân cho HS, nhằm cung cấp
cho HS những tri thức về đạo đức. Đó là những chuẩn mực, những quy tắc,
cách ứng xử giao tiếp, thái độ hành vi đối với con người, tự nhiên, xã hội về
cái đúng-cái sai; Cái tốt-cái xấu trong cuộc sống. Nhóm phương pháp này
gồm có các phương pháp sau:

+ Phương pháp đàm thoại: Trao đổi ý kiến với nhau về một đề tài nào
đó thuộc lĩnh vực đạo đức nhằm GDĐĐ cho HS. Phương pháp này nhằm lôi
cuốn HS vào việc phân tích, đánh giá sự kiện, hành vi, các hiện tượng trong
đời sống xã hội. Trên cơ sở đó, HS ý thức một cách sâu sắc thái độ đúng đắn
của mình với hiện thực xung quanh và trách nhiệm về các hành vi, thói quen,
lối sống của chính bản thân HS.


24

+ Phương pháp nêu gương: Nêu gương cụ thể những điển hình mẫu
mực về người tốt việc tốt, những lý tưởng sống đẹp. Đây là phương pháp
quan trọng GDĐĐ cho HS có hiệu quả nhất.
+ Phương pháp tổ chức hoạt động xã hội: Tham gia các buổi lao động
công ích, tham gia thể dục thể thao chung cho toàn trường hoặc ở địa phương,
tham gia giao lưu học tập, giao lưu văn hóa, tham gia tặng quà cho các bà mẹ
Việt Nam Anh hùng,…Qua đó, hình thành và phát triển những hành vi, thói
quen, phù hợp với chuẩn mực đạo đức.
- Nhóm phương pháp kích thích hoạt động và điều chỉnh hành vi ứng
xử. Nhóm này gồm có các phương pháp sau:
+ Phương pháp thi đua: Phương pháp không thể thiếu ở trường THPT,
là phương pháp kích thích HS thi đua để tự khẳng định mình. Trong thi đua,
mỗi tập thể lớp và cá nhân phải cố gắng vươn lên, có ý thức trách nhiệm, thực
hiện đầy đủ nội dung thi đua, phấn đấu lập thành tích cao nhất.
+ Phương pháp khen thưởng - phê bình - động viên: Khen thưởng cá nhân
và tập thể có quá trình phấn đấu, đạt thành tích cao, có những hành động và việc
làm tốt. Qua đây có tác dụng kích thích, tác động quá trình tu dưỡng đạo đức của
mỗi cá nhân. Còn phê bình và động viên, vừa biểu hiện sự nghiêm khắc, vừa uốn
nắn điều chỉnh những hành vi đạo đức chưa chuẩn mực của HS.
1.3.5. Hình thức tổ chức GDĐĐ cho HS

GDĐĐ cho HS trường THPT được tiến hành dưới nhiều hình thức như:
- Thông qua các môn học, đặc biệt là môn khoa học xã hội và nhân văn
(GDCD, Lịch sử, Ngữ văn....).
- Thông qua việc học tập nội qui nhà trường, sinh hoạt dưới cờ, sinh
hoạt tập thể, sinh hoạt ngoài giờ lên lớp, giờ chủ nhiệm, thông qua các cuộc
hội thảo....


25

- Thông qua các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, hoạt
động xã hội, từ thiện, du khảo về nguồn, tham quan, dã ngoại.
- Thông qua con đường tự tu dưỡng bản thân ở mỗi HS, làm cho HS từ
chỗ là đối tượng GD dần trở thành chủ thể GD, tự tu dưỡng, rèn luyện, hoàn
thiện đạo đức, nhân cách của mình.
1.4. Quản lý công tác GDĐĐ cho HS
1.4.1. Mục tiêu quản lý công tác GDĐĐ cho HS
Mục tiêu quản lý GDĐĐ cho HS thể hiện trên ba phương diện sau:
- Về nhận thức: HT phải tuyên truyền, GD để mọi người, mọi ngành,
mọi cấp,… nhận thức đúng đắn về vai trò và tầm quan trọng của đạo đức và
GDĐĐ cho thế hệ trẻ nói chung, cho HS THPT nói riêng.
- Về thái độ: Bằng nhiều biện pháp tác động, giúp cho mọi lực lượng
trong và ngoài nhà trường đồng tình và ủng hộ những việc làm đúng cho công
tác GDĐĐ cho HS THPT. Lên án, phê phán, điều chỉnh những hành vi trái
đạo đức, vi phạm pháp luật của HS.
- Về hành vi: Từ nhận thức và thái độ đồng thuận, thu hút mọi lực
lượng cùng tham gia công tác GDĐĐ cho HS cũng như hổ trợ công tác quản
lý GDĐĐ HS đạt kết quả cao nhất.
Tóm lại: Mục tiêu quản lý công tác GDĐĐ cho HS là làm cho quá trình
GDĐĐ tác động đến người học một cách đúng hướng, phù hợp với các chuẩn

mực xã hội; Thu hút được các lực lượng trong và ngoài nhà trường cùng tham
gia GDĐĐ cho HS.Trên cơ sở đó, trang bị cho HS những tri thức về đạo đức,
xây dựng cho các em niềm tin, tình cảm đạo đức để có được những hành vi
đạo đức đúng đắn.
1.4.2. Nội dung quản lý công tác GDĐĐ cho HS
1.4.2.1. Quản lý việc xây dựng nội dung, chương trình, hình thức,
biện pháp GDĐĐ HS


×