Tải bản đầy đủ (.doc) (113 trang)

Một số giải pháp phát triển đội ngũ giảng viên trường Đại học Tây Đô

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (524.53 KB, 113 trang )

B GIO DC V O TO
TRNG I HC VINH

NG MINH NGUYT

MộT Số GIảI PHáP PHáT TRIểN ĐộI NGũ GIảNG VIÊN
TRƯờNG ĐạI HọC TÂY ĐÔ

LUN VN THC S KHOA HC GIO DC

NGH AN - 2013


B GIO DC V O TO
TRNG I HC VINH

NG MINH NGUYT

MộT Số GIảI PHáP PHáT TRIểN ĐộI NGũ GIảNG VIÊN
TRƯờNG ĐạI HọC TÂY ĐÔ
Chuyờn ngnh Qun lý giỏo dc
Mó s: 60.14.05

LUN VN THC S KHOA HC GIO DC

Ngi hng dn khoa hc:

PGS. TS. NGUYN B MINH

NGH AN - 2013



LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn trân trọng đến Ban Giám hiệu, Phòng Sau Đại
học, Khoa Giáo Dục của Trường Đại học Vinh và Ban Giám hiệu, Phòng Tổ
chức cán bộ của Trường Đại học Sài Gòn đã tận tình truyền đạt kiến thức quý
báu và tạo điều kiện cho tôi hoàn thành chương trình học tập và có được
những kiến thức, kỹ năng cần thiết để nghiên cứu, thực hiện Luận văn Thạc sĩ
của mình.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc đến Phó
Giáo sư - Tiến sĩ Nguyễn Bá Minh - người đã tận tâm, nhiệt tình hướng dẫn
và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành Luận văn Thạc sĩ.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn Hội đồng Quản trị, Ban Giám hiệu,
Phòng Quản lý Đào tạo, Phòng Tổ chức - Hành chính, các cán bộ quản lý,
giảng viên và sinh viên Trường Đại học Tây Đô đã tích cực ủng hộ và nhiệt
tình giúp đỡ tôi trong quá trình điều tra, khảo sát, thu thập các dữ liệu liên
quan đến đề tài.
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã
động viên khuyến khích tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, song luận văn này vẫn khó tránh khỏi
những thiếu sót, hạn chế. Tôi kính mong nhận được những ý kiến đóng góp
của quý Thầy Cô, các nhà khoa học, bạn bè, đồng nghiệp và những người
quan tâm để luận văn được hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!
Nghệ An, tháng 09 năm 2013
Tác giả
ĐẶNG MINH NGUYỆT


MỤC LỤC



DANH MỤC SƠ ĐỒ


DANH MỤC BẢNG, BIỂU


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Về mặt lý luận
Nhân loại đang sống trong thời đại của nền kinh tế tri thức, thời đại của
sự bùng nổ các thành tựu khoa học công nghệ, kỹ thuật. Để có thể tồn tại và
phát triển trong nền văn minh trí tuệ này, mỗi con người phải ý thức được
tầm quan trọng của việc trang bị cho mình và cho thế hệ mai sau một nền
tảng giáo dục vững chắc, tiên tiến, chất lượng cao, phù hợp với yêu cầu và
tính chất của nền kinh tế - xã hội thời đại. Giáo dục có chất lượng ở thời đại
ngày nay chính là linh hồn của một xã hội tri thức mà Việt Nam cũng như
nhân loại đang kỳ vọng hướng tới.
Tại Việt Nam, giáo dục từ lâu đã được Đảng và Nhà nước xem là quốc
sách hàng đầu. Trong Văn kiện Đại hội lần thứ IX, Đảng ta khẳng định:
"Phát triển giáo dục - đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc
đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện để phát huy nguồn
lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế
nhanh và bền vững".
Để có thể thực hiện được nhiệm vụ phát triển giáo dục nói trên, Việt
Nam cần phải có chiến lược hợp lý, lâu dài nhằm tạo ra các chuyển biến cơ
bản và toàn diện về giáo dục. Một trong những nhân tố trọng yếu ảnh hưởng
mạnh mẽ đến sự phát triển của giáo dục chính là đội ngũ các nhà giáo, những
người trực tiếp thực hiện sứ mệnh đào tạo nguồn lực con người cho xã hội.

Chỉ thị số 40/CT-TW ngày 15/06/2004 của Ban Bí thư Trung ương Đảng đã
nhấn mạnh: “Mục tiêu của chiến lược phát triển giáo dục đào tạo là xây
dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục được chuẩn hoá, đảm bảo
chất lượng, đủ về số lượng, đồng bộ FAvề cơ cấu, đặc biệt chú trọng nâng
cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất, lối sống, lương tâm, tay nghề của nhà


2
giáo; thông qua việc quản lý, phát triển đúng định hướng và có hiệu quả sự
nghiệp giáo dục để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, đáp ứng
những đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước”. Chỉ thị này được cụ thể hóa trong Giải pháp 2: Phát triển đội ngũ
nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục trong Chiến lược phát triển giáo dục
2011 – 2020 của Thủ tướng Chính phủ ký ngày 13/06/2012.
Từ những định hướng trên, ở tất cả các bậc đào tạo của hệ thống giáo
dục quốc dân, yêu cầu xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên, giảng viên là
nhiệm vụ cấp thiết của ngành giáo dục và của tất cả các đơn vị giáo dục.
1.2. Về mặt thực tiễn
Trường Đại học Tây Đô ra đời ngày 09/03/2006 theo quyết định số
54/QĐ – TTg của Thủ tướng Chính phủ và là trường đại học tư thục đầu tiên
của vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Tuy còn khá non trẻ nhưng trong
những năm hoạt động vừa qua, Hội đồng Quản trị, Ban Giám hiệu cũng như
tất cả các cán bộ quản lý và đội ngũ giảng viên của nhà trường đã không
ngừng phấn đấu nhằm hoàn thành mục tiêu và sứ mệnh của trường trong
công tác đào tạo nguồn nhân lực cho Đồng bằng sông Cửu Long, một trong
những vùng trũng về giáo dục của cả nước. Để có thể hoàn thành được nhiệm
vụ này, trường đã đề ra nhiều chiến lược phát triển, trong đó có các chiến
lược phát triển đội ngũ giảng viên. Tính đến thời điểm hiện nay, công tác xây
dựng đội ngũ giảng viên của trường đã đạt được một số kết quả nhất định.
Tuy nhiên, quá trình phát triển đội ngũ giảng viên vẫn chưa được tiến hành

khoa học, hiệu quả và vẫn còn nhiều bất cập: số lượng giảng viên chưa đủ
đáp ứng cho giảng dạy; chất lượng của đội ngũ giảng viên chưa cao; cơ cấu
giảng viên ở các ngành nghề đào tạo chưa được phân bổ hợp lý …Một trong
những nguyên nhân của tình trạng trên là do nhà trường vẫn còn bị động
trong công tác tuyển dụng và bố trí giảng viên, chưa xây dựng được kế hoạch


3
phát triển đội ngũ giảng viên hợp lý, khoa học. Để có thể đáp ứng kịp thời
nhu cầu đào tạo và phát triển của trường trong những năm tới, việc xây dựng
và phát triển một đội ngũ giảng viên đủ về số lượng, chuẩn về chất lượng và
hợp lý về cơ cấu là nhiệm vụ hàng đầu của trường hiện nay.
Xuất phát từ các cơ sở lý luận và thực tiễn trên, việc nghiên cứu đề tài
“Một số giải pháp phát triển đội ngũ giảng viên Trường Đại học Tây Đô”
mang tính thiết thực cả về mặt giá trị khoa học và thực tiễn, góp phần phát
triển đội ngũ giảng viên và nâng cao chất lượng đào tạo của trường.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất một số giải pháp phát triển đội ngũ giảng viên Trường Đại học
Tây Đô nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng yêu cầu phát triển của
nhà trường trong giai đoạn 2014 – 2018.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Công tác phát triển đội ngũ giảng viên Trường Đại học Tây Đô.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Giải pháp phát triển đội ngũ giảng viên của Trường Đại học Tây Đô.
4. Giả thuyết khoa học
Nếu đề xuất và thực hiện được những giải pháp có cơ sở khoa học, phù
hợp với thực tiễn, thiết thực, có tính khả thi thì sẽ góp phần nâng cao chất
lượng đội ngũ giảng viên Trường Đại học Tây Đô.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu

5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về công tác phát triển đội ngũ giảng viên
trong đào tạo Đại học – Cao đẳng.
5.2. Khảo sát và đánh giá thực trạng đội ngũ giảng viên và công tác
phát triển đội ngũ giảng viên ở Trường Đại học Tây Đô.


4
5.3. Đề xuất và thăm dò một số giải pháp phát triển đội ngũ giảng viên
ở Trường Đại học Tây Đô.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Sử dụng các phương pháp:
− Phương pháp phân tích - tổng hợp tài liệu;
− Phương pháp khái quát hóa các nhận định độc lập.
Thu thập các tài liệu có liên quan, nghiên cứu (phân tích - tổng hợp) và
xử lý các thông tin thu được từ những tài liệu đó.
6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Sử dụng các phương pháp:
− Phương pháp quan sát sư phạm: quan sát và tổng kết thực tiễn các
hoạt động quản lý, giảng dạy và học tập trong trường. Từ đó rút ra một số kết
luận có liên quan đến vấn đề phát triển đội ngũ giảng viên cho trường.
− Phương pháp điều tra: sử dụng các Phiếu câu hỏi, Phiếu trưng cầu ý
kiến, Phiếu khảo sát để thu thập thông tin về thực trạng đội ngũ giảng viên,
thực trạng phát triển đội ngũ giảng viên hiện nay cũng như để đánh giá tính
cấp thiết và tính khả thi của các giải pháp đề xuất.
− Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia: xin ý kiến chuyên gia về các giải
pháp phát triển đội ngũ giảng viên đề xuất.
− Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động: nghiên cứu các tài liệu,
báo cáo của các trường cùng hệ đào tạo về vấn đề phát triển đội ngũ giảng
viên, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm.

6.3. Phương pháp thống kê toán học
7. Những đóng góp mới của đề tài
− Hệ thống được những vấn đề lý luận về phát triển đội ngũ giảng viên
các trường đại học, cao đẳng


5
− Phản ánh được thực trạng công tác phát triển giảng viên và đề xuất giải
pháp phát triển đội ngũ giảng viên Trường Đại học Tây Đô
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Khuyến nghị, nội dung luận văn gồm 3
chương:
− Chương 1: Cơ sở lý luận của công tác phát triển đội ngũ giảng viên
− Chương 2: Thực trạng công tác phát triển đội ngũ giảng viên tại
Trường Đại học Tây Đô.
− Chương 3: Một số giải pháp phát triển đội ngũ giảng viên Trường
Đại học Tây Đô.
Cuối luận văn là phần Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục.


6
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CÔNG TÁC PHÁT TRIỂN
ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN
1.1. Sơ lược lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Một số nghiên cứu ở nước ngoài
Là một lĩnh vực của công tác quản lý và phát triển nguồn nhân lực, công
tác nghiên cứu phát triển đội ngũ giảng viên là một vấn đề hết sức quan trọng
đối với các cơ sở giáo dục đại học trong giai đoạn hiện nay, không chỉ riêng ở
Việt Nam mà ngay cả những nước có nền giáo dục phát triển như Liên minh

Châu Âu, Hoa Kỳ, Úc, Trung Quốc, Thái Lan, Nhật Bản và một số nước
khác.
Giáo sư Philip G.Altbach, Đại học Boston (Hoa Kỳ) với bài tham luận
“Trường đại học và toàn cầu hóa – Thực tế trong một thế giới bất bình đẳng”
đã đưa ra những sáng kiến về công tác quản lý và trao đổi giữa giảng viên
của các trường đại học trên thế giới.
Giáo sư John Murray, Đại học California State Long Beach (Hoa Kỳ),
với đề tài “Sự phát triển và đổi mới đội ngũ giảng viên” đã xác định những
bước thực hiện cụ thể như là chìa khóa dẫn đến thành công.
Tiến sĩ Analy Scorsone, Giám đốc hệ thống Giáo dục toàn cầu và Hợp
tác Quốc tế của Hệ thống Cao đẳng cộng đồng và Công nghệ Kentucky (Hoa
Kỳ) công bố đề án “Nâng cao hiệu quả hoạt động trong các trường đại học và
cao đẳng” tại Hội nghị khu vực Châu Á và Quốc tế cũng đề cập đến vấn đề
phát triển đội ngũ như một bước tiến tất yếu trong chiến lược phát triển của
một cơ sở giáo dục.
1.1.2. Một số nghiên cứu ở trong nước
Trong Chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam, ngành Giáo dục –
Đào tạo đã rất coi trọng công tác xây dựng và phát triển đội ngũ nhà giáo
ở các cấp học, bậc học. Những năm gần đây, có nhiều bài viết của nhiều


7
tác giả đã đề cập đến vấn đề xây dựng đội ngũ nhà giáo, vai trò của đội
ngũ nhà giáo cũng như những yêu cầu về chất lượng của đội ngũ nhà giáo
trong công tác đào tạo thế hệ trẻ và đã đưa ra một số giải pháp để thực
hiện công tác xây dựng và phát triển đội ngũ nhà giáo.
Có thể thấy, ở nhiều cơ sở giáo dục đã có những tác giả của các luận
văn thạc sĩ chuyên ngành Quản lý Giáo dục như: Lâm Văn Koan, Thái
Huy Bảo, Nguyễn Hồng Anh, Nguyễn Văn Dung,... đã đề cập đến công
tác xây dựng và phát triển đội ngũ giảng viên trong các trường từ phổ

thông đến cao đẳng, đại học. Song các đề tài khoa học của các tác giả nói
trên đều mang tính đặc thù ở từng cơ sở giáo dục nhằm đáp ứng yêu cầu
phát triển của sự nghiệp giáo dục. Riêng ở Trường Đại học Tây Đô cho
đến nay theo những tài liệu mà chúng tôi bao quát được chỉ có các đánh
giá chủ yếu dựa trên kinh nghiệm và thực tiễn, chưa có tác giả nào đề cập
đến công tác xây dựng và phát triển đội ngũ giảng viên một cách đầy đủ
và có hệ thống.
Qua tìm hiểu, phân tích đánh giá việc xây dựng và phát triển đội ngũ
giảng viên trên cơ sở lý luận khoa học, trong luận văn này tôi mong muốn
sẽ đưa ra một hệ thống các giải pháp phù hợp với đặc điểm tình hình của
Trường Đại học Tây Đô trước yêu cầu mới và nhiệm vụ mới.
1.2. Một số vấn đề lý luận liên quan đến đề tài
1.2.1. Quản lý nhà trường
1.2.1.1. Quản lý
Xuất phát từ những góc độ nghiên cứu khác nhau, rất nhiều học giả
trong và ngoài nước đã đưa ra giải thích không giống nhau về quản lý. Cho
đến nay, có rất nhiều cách hiểu và định nghĩa về quản lý. Đặc biệt là kể từ thế
kỷ 21, các quan niệm về quản lý lại càng phong phú.
Theo nguồn “Cẩm nang quản lý” của tác giả Nguyễn Hoàng Phương các
nhà quản lý học nước ngoài đã đưa ra các định nghĩa về quản lý:


8
− Harold Koontz: "Quản lý là xây dựng và duy trì một môi trường tốt giúp
con người hoàn thành một cách hiệu quả mục tiêu đã định. Quản lý cũng là một
hoạt động thiết yếu nó đảm bảo phối hợp những nổ lực các nhân nhằm đạt được
những mục đích của nhóm. Mục tiêu của quản lý là hình thành một môi trường
mà con người có thể đạt được các mục đích của nhóm với thời gian, tiền bạc,
vật chất và sự bất mãn ít nhất. Với tư cách thực hành thì quản lý là một nghệ
thuật, còn với kiến thức thì quản lý là một khoa học".

− Peter F. Drucker: "Suy cho cùng, quản lý là thực tiễn. Bản chất của nó
không nằm ở nhận thức mà là ở hành động; kiểm chứng nó không nằm ở sự
logic mà ở thành quả; quyền uy duy nhất của nó là thành tích".
− Karl Marx: “Bất cứ lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào
mà tiến hành trên một quy mô khá lớn đều yêu cầu phải có một sự chỉ đạo để
điều hòa những hoạt động cá nhân, sự chỉ đạo đó phải là những chức năng
chung, tức là những chức năng phát sinh từ sự khác nhau giữa sự vận động
chung của cơ thể sản xuất với những vận động cá nhân của những khí quan
độc lập hợp thành cơ thể sản xuất đó. Một nhạc sĩ độc tấu thì tự điều khiển
lấy mình, nhưng một dàn nhạc thì cần có một nhạc trưởng”.
Cũng theo nguồn “Cẩm nang quản lý” của tác giả Nguyễn Hoàng
Phương, các nhà quản lý học Việt Nam cũng đưa ra những định nghĩa khác
nhau về thuật ngữ quản lý:
− Quản lý là hoạch định, tổ chức, bố trí nhân sự, lãnh đạo và kiểm soát
công việc và những nỗ lực của con người nhằm đạt được những mục tiêu đặt ra.
− Quản lý là sự tác động, chỉ huy, điều khiển, hướng dẫn hành vi, quá
trình xã hội để chúng phát triển hợp quy luật, đạt được mục đích đã đề ra và
đúng ý chí của người quản lý.
− Quản lý là quá trình lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo kiểm tra công
việc của các thành viên thuộc hệ thống đơnvị và việc sử dụng các nguồn lực
phù hợp để đạt được mục đích đã định.


9
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý là tác động có mục đích, có
kế hoạch của chủ thể quản lý đến tập thể những người lao động nói chung là
khách thể của chủ thể quản lý nhằm thực hiện những mục tiêu dự kiến”.
Nhóm tác giả Nguyễn Quốc Chí – Nguyễn Thị Mỹ Lộc thì cho rằng:
“Hoạt động quản lý là tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản
lý đến khách thể quản lý trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành

và đạt được mục đích dự kiến của tổ chức”.
Như vậy, một cách tổng quát nhất quản lý là sự điều khiển, chỉ đạo một
hệ thống hay một quá trình, căn cứ vào những quy luật, nguyên tắc tương ứng
cho hệ thống hay quá trình ấy vận động theo ý muốn của nhà quản lý nhằm
đạt được mục đích đặt ra từ trước.
Quản lý có 04 chức năng cơ bản sau: Lập kế hoạch; Tổ chức; Lãnh đạo,
chỉ đạo và Kiểm tra. Các chức năng này có mối liên hệ mật thiết với nhau, có
thể khái quát thành Sơ đồ 1.1 như sau:
Lập kế hoạch
(1)

Tổ chức

Lãnh đạo, chỉ đạo

(2)

(3)

Sơ đồ 1.1: Sơ đồ các chức năng quản lý
1.2.1.2. Quản lý nhà truờng Kiểm tra
Quản lý nhà trường là quản lý mọi
(4) hoạt động giảng dạy và học tập, cơ
sở vật chất và tất cả các lĩnh vực liên quan đến hoạt động quản lý, giảng dạy
và học tập trong một trường học để tạo điều kiện cho nhà trường phát triển.
Như vậy các lĩnh vực cần phải được quản lý trong nhà trường bao gồm:
− Quản lý giảng viên
− Quản lý cán bộ



10






Quản lý cơ sở vật chất
Quản lý tài chính
Quản lý trang thiết bị dạy học
Quản lý các hoạt động xã hội của giảng viên và sinh viên.
Quản lý sinh viên.

1.2.1.3. Quản lý giáo dục
Giáo dục là một dạng hoạt động đặc biệt có nguồn gốc từ xã hội. Bản
chất của hoạt động giáo dục là quá trình truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm
lịch sử - xã hội của các thế hệ loài người, nhờ có giáo dục mà các thế hệ nối
tiếp nhau phát triển, tinh hoa văn hóa dân tộc, nhân loại được kế thừa, bổ
sung, hoàn thiện và trên cơ sở đó không ngừng phát triển.
Giáo dục là một bộ phận của kinh tế - xã hội, hệ thống giáo dục, mạng
lưới nhà trường là bộ phận kết cấu hạ tầng xã hội. Do vậy, quản lý giáo dục là
quản lý một quá trình kinh tế - xã hội nhằm thực hiện đồng bộ, hài hòa sự
phân hóa xã hội để tái sản xuất sức lao động có kỹ thuật phục vụ các yêu cầu
phát triển kinh tế xã hội.
Quản lý giáo dục đã được các nhà lý luận và quản lý thực tiễn đưa ra
một số định nghĩa dưới các góc độ khác nhau:
− Theo tác giả Đặng Quốc Bảo: “Quản lý giáo dục theo nghĩa tổng quan
là hoạt động điều hành, phối hợp các lực lượng xã hội nhằm đẩy mạnh công
tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển của xã hội”.
− Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý giáo dục là hệ thống

những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý
nhằm làm cho hệ thống vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của
Đảng, thực hiện được các tính chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, mà tiêu điểm tụ hội là quá trình dạy học – giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ
thống giáo dục tới mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất”.
Thực tế cho thấy, quản lý giáo dục là quá trình tác động có ý thức, kế
hoạch, tổ chức và hợp quy luật của các cơ quan quản lý giáo dục tới các khâu


11
của hệ thống giáo dục nhằm làm cho các cơ sở giáo dục vận hành bình
thường và đạt tới các mục tiêu giáo dục đề ra.
Như vậy, quan niệm về quản lý giáo dục có thể có những cách diễn đạt khác
nhau, song trong mỗi cách định nghĩa đều đề cập tới các yếu tố cơ bản sau:





Chủ thể quản lý giáo dục
Khách thể quản lý giáo dục
Mục tiêu quản lý giáo dục
Ngoài ra còn phải kể tới cách thức (phương pháp) và công cụ (hệ

thống văn bản quy phạm pháp luật) quản lý giáo dục.
Quản lý giáo dục có những đặc điểm riêng biệt như sau:
− Quản lý giáo dục gắn với việc điều hành quá trình đào tạo con người,
đặc biệt là lao động sư phạm của các nhà giáo. Đặc thù lao động của người
giảng viên mà đối tượng lao động sư phạm là người học với những đặc điểm
tâm sinh lý lứa tuổi hết sức phức tạp. Người học vừa là đối tượng của hoạt

động giáo dục, vừa là chủ thể của hoạt động giáo dục, do đó kết quả giáo dục
không chỉ phụ thuộc vào bản thân nhà giáo mà còn phụ thuộc vào thái độ của
người học. Đây chính là đặc điểm khác biệt của quản lý giáo dục với các lĩnh
vực quản lý khác.
− Phương tiện lao động của giảng viên chủ yếu là phương tiện tinh thần
bằng lời, bằng tấm gương, bằng thái độ, bằng điểm tựa, bằng cảm hóa… Thời
gian lao động của người giảng viên cũng khác, nó không được tách bạch, rạch
ròi với thời gian không lao động sư phạm. Với bất kỳ lúc nào, ngay cả khi nghỉ
ngơi, giải trí hay làm việc gia đình … người giảng viên vẫn có thể nghĩ về công
việc sư phạm của mình. Vì vậy, trong công tác quản lý giáo dục cần tạo điều
kiện thuận lợi về môi trường sư phạm và đáp ứng nhu cầu chính đáng về vật
chất và tinh thần cho giảng viên, đặc biệt là tạo điều kiện để nâng cao tiềm lực
cho đội ngũ nhà giáo để họ có động lực lao động tốt nhất.


12
− Quản lý giáo dục được gắn liền với quyền lực Nhà nước trong việc
điều hành, điều chỉnh các hoạt động giáo dục, thông qua việc xây dựng, ban
hành và chấp hành các văn bản như luật, điều lệ và các quy định, quy chế
chuyên môn sư phạm. Do đó quản lý giáo dục có tính chất kết hợp chặt chẽ
giữa quản lý hành chính nhà nước với quản lý chuyên môn sư phạm.
− Sản phẩm của giáo dục có tính đặc thù là hình thành và phát triển
nhân cách cho người học, nên quản lý giáo dục phải chú ý phòng ngừa, ngăn
chặn những sai sót trong công việc tạo ra “phế phẩm” trong giáo dục.
− Quản lý giáo dục gắn liền với phát triển quan điểm quần chúng, xã
hội bởi vì hoạt động giáo dục là hiện tượng của xã hội, do đó cần kết hợp
nhân tố bên trong và bên ngoài, trong đó nhân tố bên trong có tính chất quyết
định. Nhà trường và hệ thống các cơ quan quản lý giáo dục phải chủ động
phối hợp chặt chẽ và đồng bộ gia đình và các lực lượng xã hội trong việc điều
hành và điều chỉnh các hoạt động giáo dục và đào tạo

− Quản lý giáo dục là hoạt động mang tính nhân văn sâu sắc, nó khai
thác được các nhân tố tích cực của học sinh, sinh viên và người học trên cơ
sở đó phát huy và lan tỏa những nhân tố tích cực từ học sinh, sinh viên và các
người học tới các khối dân cư khác nhau trong cộng đồng xã hội.
1.2.2. Giảng viên và đội ngũ giảng viên trường đại học
1.2.2.1. Khái niệm giảng viên
Tại Điều 70 Luật Giáo dục của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam năm 2005 đã đưa ra định nghĩa pháp lý đầy đủ về Nhà giáo và những
tiêu chuẩn của một Nhà giáo:
"1. Nhà giáo là người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà
trường hoặc các cơ sở giáo dục khác.
2. Nhà giáo phải có những tiêu chuẩn sau đây:
a. Phẩm chất, đạo đức, tư tưởng tốt;
b. Đạt trình độ chuẩn được đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ;


13
c. Đủ sức khoẻ theo yêu cầu nghề nghiệp;
d. Lý lịch bản thân rõ ràng.
3. Nhà giáo dạy ở cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông,
giáo dục nghề nghiệp gọi là giáo viên; ở cơ sở giáo dục đại học gọi là
giảng viên".
Như vậy, có thể hiểu giảng viên là những người làm nhiệm vụ giảng
dạy, giáo dục tại các cơ sở giáo dục đại học.
Tại Điều 54 Luật Giáo dục Đại học của nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam năm 2012 cũng nêu rõ khái niệm và các yêu cầu, quy định
đối với một giảng viên:
“1. Giảng viên trong cơ sở giáo dục đại học là người có nhân thân rõ
ràng; có phẩm chất, đạo đức tốt; có sức khỏe theo yêu cầu nghề nghiệp; đạt
trình độ về chuyên môn, nghiệp vụ quy định tại điểm e khoản 1 Điều 77 của

Luật giáo dục.
2. Chức danh của giảng viên bao gồm trợ giảng, giảng viên, giảng viên
chính, phó giáo sư, giáo sư.
3. Trình độ chuẩn của chức danh giảng viên giảng dạy trình độ đại học
là thạc sĩ trở lên. Trường hợp đặc biệt ở một số ngành chuyên môn đặc thù
do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định.
Hiệu trưởng cơ sở giáo dục đại học ưu tiên tuyển dụng người có trình
độ từ thạc sĩ trở lên làm giảng viên.
4. Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành chương trình bồi dưỡng
nghiệp vụ sư phạm, quy định việc bồi dưỡng, sử dụng giảng viên”.
1.2.2.2. Khái niệm đội ngũ
Từ điển Bách khoa Việt Nam định nghĩa: "Đội ngũ là khối đông
người cùng chức năng hoặc nghề nghiệp thành lực lượng"


14
hoặc: "Đội ngũ là tập hợp gồm một số đông người cùng chức năng,
nhiệm vụ hoặc nghề nghiệp, hợp thành lực lượng hoạt động trong một hệ
thống (tổ chức)". Ví dụ : Đội ngũ của trường học bao gồm:
− Cán bộ quản lý các cấp trong trường học
− Nhà giáo (giảng viên, giáo viên)
− Nhân viên phục vụ các hoạt động giáo dục trong trường học
Từ đó ta có thể hiểu hơn về đội ngũ:
− Đó là sự gắn kết những cá thể với nhau, hoạt động qua sự phân
công, hợp tác lao động.
− Là những người có chung mục đích, lợi ích và ràng buộc với nhau
bằng trách nhiệm pháp lý.
1.2.2.3. Khái niệm đội ngũ giảng viên
Đội ngũ giảng viên là một tập hợp những người làm nghề dạy học,
giáo dục, được tổ chức thành một lực lượng, cùng chung một nhiệm vụ là

thực hiện các mục tiêu giáo dục đã đề ra cho tập hợp đó. Họ làm việc có
kế hoạch và gắn bó với nhau thông qua lợi ích về vật chất và tinh thần
trong khuôn khổ quy định của pháp luật, thể chế xã hội.
Nói cách khác theo nghĩa hẹp, đội ngũ giảng viên là những thầy cô
giáo, những người làm nhiệm vụ giảng dạy và quản lý giáo dục trong các
trường đại học và cao đẳng.
Theo Quyết định số 538/TCCP-TC ngày 18/12/1995 của Ban Tổ
chức - Cán bộ Chính phủ (nay là Bộ Nội vụ), đội ngũ giảng viên các
trường đại học và cao đẳng được xếp ở 03 ngạch: giảng viên, giảng viên
chính, giảng viên cao cấp.
1.2.3. Phát triển đội ngũ giảng viên
1.2.3.1. Phát triển
Phát triển là sự thay đổi, sự tăng lên về số lượng. Trong Triết học, theo
phép biện chứng duy vật thì phát triển là khái niệm dùng để khái quát quá


15
trình vận động từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ hoàn thiện đến
hoàn thiện hơn.
1.2.3.2. Phát triển đội ngũ giảng viên
Đội ngũ giảng viên là nguồn lực cơ bản của các cơ sở giáo dục đại học.
Phát triển đội ngũ giảng viên chính là phát triển nguồn lực trong nhà trường,
là tạo ra sự tăng trưởng cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu. Tùy theo cách
tiếp cận khác nhau về phát triển đội ngũ giảng viên dẫn đến những quan niệm
về phát triển đội ngũ giảng viên.
Theo tác giả Nguyễn Quang Truyền: “Xây dựng và phát triển đội ngũ
giảng viên đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, loại hình, đoàn kết nhất trí trên
cơ sở đường lối giáo dục của Đảng và ngày càng vững mạnh về chính trị,
chuyên môn nghiệp vụ, đủ sức thực hiện chất lượng mục tiêu và kế hoạch đào
tạo”.

Như vậy, phát triển đội ngũ giảng viên là phải tăng số lượng, không ngừng
nâng cao chất lượng và có cơ cấu hợp lý để nhằm mục đích thực hiện mục tiêu
đào tạo của nhà trường. Phát triển đội ngũ giảng viên thực hiện được tốt khi gắn
kết việc đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng hợp lý với các yếu tố chính sách đãi ngộ
vật chất, tinh thần cho người giảng viên, tạo động lực điều kiện môi trường sư
phạm để người giảng viên đóng góp, gắn bó lâu dài với nhà trường.
1.2.4. Giải pháp
Theo Từ điển tiếng Việt: “Giải pháp được xem là phương pháp giải
quyết một công việc, một vấn đề cụ thể”.
Theo Nguyễn Văn Đạm: “Giải pháp là toàn bộ những ý nghĩa có hệ
thống cùng với những quyết định và hành động theo sau, dẫn tới sự khắc
phục một khó khăn”.
Để hiểu rõ hơn khái niệm giải pháp, chúng ta cần phân biệt với một số
khái niệm tương tự như: phương pháp, biện pháp.


16
Theo Nguyễn Văn Đạm: “Phương pháp được hiểu là trình tự cần theo
trong các bước có quan hệ với nhau khi tiến hành một công việc có mục đích
nhất định”. Còn theo Hoàng Phê: “Phương pháp là hệ thống các cách sử dụng
để tiến hành một công việc nào đó ”.
Về khái niệm biện pháp, theo Từ điển tiếng Việt, đó là “cách làm, cách
giải quyết một vấn đề cụ thể”.
Điểm giống nhau của các khái niệm này đều nói về cách làm, cách tiến
hành, cách giải quyết một công việc, một vấn đề. Còn điểm khác nhau ở chỗ,
biện pháp chủ yếu nhấn mạnh đến cách làm, cách hành động cụ thể, trong khi
đó phương pháp nhấn mạnh đến trình tự các bước có quan hệ với nhau để
tiến hành một công việc có mục đích.
Như vậy, khái niệm giải pháp tuy có những điểm chung với các khái
niệm trên nhưng nó cũng có điểm riêng. Điểm riêng cơ bản của thuật ngữ này

là nhấn mạnh đến phương pháp giải quyết một vấn đề, với sự khắc phục khó
khăn nhất định. Trong một giải pháp có thể có nhiều biện pháp.
1.3. Đội ngũ giảng viên trường đại học
1.3.1. Vị trí, vai trò của đội ngũ giảng viên
Ngay từ những năm đầu hoà bình mới lập lại ở miền Bắc, tại lớp đào
tạo hướng dẫn viên các trại hè cấp I ngày 12 tháng 06 năm 1956, Bác Hồ
đã nói : "Nhiệm vụ giáo dục rất quan trọng và vẻ vang, vì nếu không có
thầy giáo thì không có giáo dục". Trong lần về thăm Trường Đại học Sư
phạm Hà Nội ngày 21 tháng 10 năm 1964, Bác đã nói về tầm quan trọng
của người thầy giáo và phẩm chất người thầy giáo trong sự nghiệp giáo
dục: "Thầy cũng như trò, cán bộ cũng như nhân viên, phải thật thà yêu
nghề mình, thật thà yêu trường mình. Có gì vẻ vang hơn là đào tạo những
thế hệ sau này tích cực xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.


17
Người thầy giáo tốt - thầy giáo xứng đáng là thầy giáo - là người vẻ vang
nhất. Dù là tên tuổi không đăng trên báo, không được thưởng huân
chương, song những người thầy giáo tốt là những anh hùng vô danh. Đây
là một điều rất vẻ vang. Nếu không có thầy giáo dạy dỗ con em nhân dân,
thì làm sao mà xây dựng chủ nghĩa xã hội được? Vì vậy nghề thầy giáo là
rất quan trọng, rất vẻ vang. Ai có ý kiến không đúng về thầy giáo, thì
phải sửa chữa".
Ngày nay đội ngũ giảng viên trong trường đại học, cao đẳng được
coi là một nguồn lực quan trọng thực hiện đổi mới giáo dục đại học, phục
vụ yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước, vì:
– Thứ nhất: giảng viên chính là những người trực tiếp thực hiện và
quyết định việc đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa
học trong nhà trường.
– Thứ hai: trong bối cảnh xã hội đầy biến động như hiện nay, ngày

càng nhiều yêu cầu đặt ra cho nhà trường, thì nhà trường đại học, cao
đẳng chỉ có thể đáp ứng được nhanh nhạy các yêu cầu đó nếu có một đội
ngũ giảng viên đủ mạnh, luôn sẵn sàng điều chỉnh thích ứng trong điều
kiện mới.
– Thứ ba: chính đội ngũ giảng viên, bằng năng lực thực sự, lòng yêu
nghề, say mê nghiên cứu khoa học, mới có thể cung cấp cho xã hội loại
sản phẩm có giá trị nhất, quyết định sự phát triển đó là nguồn nhân lực
được đào tạo, nguồn nhân lực có chất lượng cao.
Trong Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII, Đảng ta đã khẳng định:
"Giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng và được xã hội tôn vinh. ».
Vai trò của nhà giáo được Quốc hội nước ta khẳng định trong Điều
15 Luật Giáo dục năm 2005:
"Nhà giáo giữ vai trò quyết định trong việc đảm bảo chất lượng giáo dục.


18
Nhà giáo phải không ngừng học tập, rèn luyện, nêu gương tốt cho
người học.
Nhà nước tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo, có chính sách sử
dụng, đãi ngộ, đảm bảo các điều kiện cần thiết về vật chất và tinh thần
để nhà giáo thực hiện vai trò và trách nhiệm của mình; giữ gìn và phát
huy truyền thống quý trọng nhà giáo, tôn vinh nghề dạy học".
Ngành Giáo dục và Đào tạo cũng đã khẳng định: "Đội ngũ cán bộ
giảng dạy giữ vai trò quyết định chất lượng đào tạo và là lực lượng chủ
công thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ của
nhà trường".
1.3.2. Nhiệm vụ và quyền hạn của đội ngũ giảng viên
Theo Điều 55 Luật Giáo dục Đại học thì Giảng viên có những nhiệm vụ
và quyền sau đây:
“1. Giảng dạy theo mục tiêu, chương trình đào tạo và thực hiện đầy đủ,

có chất lượng chương trình đào tạo.
2. Nghiên cứu, phát triển ứng dụng khoa học và chuyển giao công nghệ,
bảo đảm chất lượng đào tạo.
3. Định kỳ học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận chính trị,
chuyên môn nghiệp vụ và phương pháp giảng dạy.
4. Giữ gìn phẩm chất, uy tín, danh dự của giảng viên.
5. Tôn trọng nhân cách của người học, đối xử công bằng với người học,
bảo vệ các quyền, lợi ích chính đáng của người học.
6. Tham gia quản lý và giám sát cơ sở giáo dục đại học, tham gia công
tác Đảng, đoàn thể và các công tác khác.
7. Được ký hợp đồng thỉnh giảng và nghiên cứu khoa học với các cơ sở
giáo dục đại học, cơ sở nghiên cứu khoa học theo quy định của pháp luật.
8. Được bổ nhiệm chức danh của giảng viên, được phong tặng danh


19
hiệu Nhà giáo nhân dân, Nhà giáo ưu tú và được khen thưởng theo quy định
của pháp luật.
9. Các nhiệm vụ và quyền khác theo quy định của pháp luật”.
1.3.3. Yêu cầu về số lượng, cơ cấu đội ngũ giảng viên
1.3.3.1. Đảm bảo số lượng
Phát triển đội ngũ giảng viên là quá trình chuẩn bị lực lượng để đáp ứng
với sự phát triển của nhà trường. Trong đó phải chú ý đảm bảo đủ số lượng
giảng viên giảng dạy tương ứng với sự quy đổi số lượng sinh viên. Căn cứ
vào số giảng viên hiện có, xây dựng kế hoạch phát triển lực lượng giảng viên
qua từng thời kỳ, từng giai đoạn, phù hợp với sự phát triển, quy mô đào tạo
của nhà trường.
1.3.3.2. Đảm bảo chất lượng
Yêu cầu phát triển đội ngũ đảm bảo về số lượng phải đi đôi với đảm bảo
nâng cao về chất lượng. Phải xây dựng được một cơ cấu trình độ hợp lý, mỗi

chuyên ngành đào tạo cần phải có cơ cấu hợp lý ở các trình độ Tiến sĩ, Thạc
sĩ tạo động lực cho sự phát triển, phân bố đồng đều ở các ngành, các chuyên
ngành đào tạo.
Về nghiệp vụ sư phạm: đảm bảo cân đối, hài hòa, mỗi bộ môn chuyên
môn đều phải có giảng viên có kỹ năng nghiệp vụ sư phạm vững vàng nhằm
tạo điều kiện, giúp đỡ, bồi dưỡng cho lớp giảng viên trẻ, còn thiếu kinh
nghiệm và phương pháp sư phạm.
Phẩm chất nghề nghiệp: xây dựng đội ngũ giảng viên có phẩm chất đạo
đức và lương tâm nghề nghiệp. Giảng viên có trình độ chuyên môn cao, phong
cách giảng dạy và quản lý tiên tiến, hiện đại. Theo Nghị quyết số 14/NQ-CP
ngày 02 tháng 11 năm 2005 về đổi mới toàn diện giáo dục đại học Việt Nam
giai đoạn 2006 – 2020 của Chính phủ đảm bảo đến năm 2015 có ít nhất 87%


×