Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

đánh giá khả năng sản xuất của tổ hợp lai nái f1 (landraceyorkshire) với đực giống landrace, pietrain, pidu trong các trang trại chăn nuôi tại huyện văn giang hưng yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.66 MB, 105 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
------------------

NGUYỄN THỊ BÍCH VÂN

ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG SẢN XUẤT CỦA TỔ HỢP LAI NÁI F1
(LANDRACE×
× YORKSHIRE) VỚI ĐỰC GIỐNG LANDRACE,
PIETRAIN, PIDU TRONG CÁC TRANG TRẠI CHĂN NUÔI
TẠI HUYỆN VĂN GIANG - HƯNG YÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ NÔNG NGHIỆP

Chuyên ngành: CHĂN NUÔI
Mã số

: 60.62.40

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. ĐẶNG VŨ BÌNH

HÀ NỘI - 2008

Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sỹ khoa học Nông nghiệp ………………………i


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này
là trung thực và chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn đã


được cám ơn và các thông tin trích dẫn đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Bích Vân

i


LỜI CẢM ƠN
Nhân dịp hoàn thành luận văn, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu
sắc nhất tớí GS.TS Đặng Vũ Bình, người đã trực tiếp hướng dẫn và chỉ
bảo tận tình tôi trong quá trình thực hiện đề tài và hoàn thành luận văn
tốt nghiệp.
Tôi xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc tới Lãnh đạo và các cán bộ thuộc
Trung tâm Nghiên cứu liên ngành và PTNT đã nhiệt tình giúp đỡ tôi
trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới các Thầy cô giáo trong
Bộ môn Di truyền - Giống vật nuôi – Khoa Chăn nuôi Thủy sản đã giúp
đỡ và đóng góp nhiều ý kiến quý báu trong quá trình nghiên cứu và thực
hiện đề tài.
Lời cảm ơn chân thành của tôi xin được gửi tới các gia đình có
trang trại chăn nuôi ở huyện Văn Giang - Hưng Yên đã hợp tác và giúp
đỡ tôi trong quá trình thực hiện đề tài.
Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới ban lãnh đạo Sở nông
nghiệp & PTNT Hưng Yên nơi tôi công tác, gia đình cùng bạn bè đồng
nghiệp đã giúp đỡ động viên tôi trong suốt thời gian qua.

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Bích Vân


ii


MỤC LỤC
Lời cam đoan

i

Lời cảm ơn

ii

Mục lục

iii

Danh mục chữ viết tắt

v

Danh mục các bảng

vi

Danh mục các biểu đồ

vii

1.


Mở đầu

i

1.1

Tính cấp thiết của đề tài

1

1.2

Mục đích đề tài

2

2.

Tổng quan tài liệu

3

2.1

Cơ sở khoa học

3

2.2


Các chỉ tiêu sinh sản và các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh
sản của lợn nái

2.3

12

Các chỉ tiêu đánh giá sinh trưởng, khả năng cho thịt, chất lượng
thịt và các yếu tố ảnh hưởng

19

2.4

Tình hình nghiên cứu ở ngoài nước và trong nước

24

3.

Đối tuợng, địa điểm , nội dung và phương pháp nghiên cứu

31

3.1

Đối tượng nghiên cứu

31


3.2

Địa điểm nghiên cứu

32

3.3

Thời gian nghiên cứu

32

3.4

Điều kiện nghiên cứu

32

3.5

Nội dung và các chỉ tiêu nghiên cứu

33

3.6

Phương pháp nghiên cứu

35


4.

Kết quả nghiên cứu và thảo luận

42

4.1

Năng suất sinh sản

42

iii


4.1.1

ảnh hưởng của một số yếu tố đến năng suất sinh sản

4.1.2

Năng suất sinh sản của lợn nái lai F1(LxY) phối với đực giống
L,P và (PxD)

4.2

42
43


Sinh trưởng và tiêu tốn thức ăn của lợn con theo 3 công thức lai
(từ sơ sinh đến 60 ngày tuổi)

51

4.3

Năng suất nuôi thịt

55

4.4

Các chỉ tiêu chất lượng thịt xẻ và chất lượng thịt

59

4.4.1

Chỉ tiêu chất lượng thịt xẻ của các con lai

59

4.4.2

Chất lượng thịt

65

4.5


Hiệu quả kinh tế của các công thức lai

69

5.

Kết luận và đề nghị

76

5.1

Kết luận

76

5.2

Đề nghị

77

Tài liệu tham khảo

79

iv



DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

CS

Cai sữa

CTV

Cộng tác viên

D

Giống lợn Duroc

H

Giống lợn Hampshire

KL

Khối lượng

MC

Giống lợn Móng Cái

L hoặc LR

Giống lợn Landrace


LW

Giống lợn LargeWhite

P

Giống lợn Pietrain

Y

Giống lợn Yorkshire

PxD hoặc PiDu

Lợn lai giữa Pietrain và Duroc



Thức ăn

TT

Tăng trọng

TTTĂ

Tiêu tốn thức ăn

TLN


Tỷ lệ nạc

ƯTL

Ưu thế lai

v


DANH MỤC CÁC BẢNG
STT
4.1

Tên bảng

Trang

Mức độ ảnh hưởng của một số yếu tố đến khả năng sinh sản của
nái F1(L×Y)phối với lợn đực L, P, (P×D)

4.2

42

Kết quả năng suất sinh sản của lợn nái lai F1(L×Y) phối với đực
L, P và (P×D)

43

4.3


Sinh trưởng và tiêu tốn thức ăn của lợn con theo 3 công thức lai

51

4.4

Các chỉ tiêu sinh trưởng và tiêu tốn thức ăn của lợn thịt

56

4.5

Các chỉ tiêu chất lượng thịt xẻ của 3 công thức lai

61

4.6

Các chỉ tiêu chất lượng thịt theo ba công thức lai

65

4.7

Hiệu quả kinh tế chăn nuôi lợn theo các công thức lai

70

vi



DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
STT

Tên biểu đồ

Trang

4.1

Khối lượng lợn con ở các thời điểm theo các công thức lai

51

4.2

Tăng trọng của lợn con ở các thời điểm

53

4.3

Tiêu tốn thức ăn/kg tăng trọng ở các thời điểm

55

4.4

Tốc độ tăng trọng của các con lai


58

4.5

Tỷ lệ móc hàm, tỷ lệ thịt xẻ, tỷ lệ nạc theo các công thức lai

63

4.6

Độ dày mỡ lưng của con lai theo ba công thức lai

64

4.7

Độ pH 45 và pH 24 của các công thức lai

67

4.8

Tỷ lệ mất nước sau 24 giờ ở ba công thức lai

68

4.9

Cơ cấu chi phí chăn nuôi lợn theo công thức L× (L×Y)


72

4.10

Cơ cấu chi phí chăn nuôi lợn theo công thức P× (L×Y)

72

4.11

Cơ cấu chi phí chăn nuôi lợn theo công thức (P×D)×(L×Y)

73

4.12

So sánh lợi nhuận chăn nuôi lợn theo ba công thưc lai

75

vii


1. MỞ ĐẦU
1.1

Tính cấp thiết của đề tài
Thời gian qua, ngành chăn nuôi lợn ở nước ta có nhiều chuyển biến tích


cực về năng suất, chất lượng, qui mô cũng như hình thức chăn nuôi. Tổng đàn
lợn tăng bình quân 4,9% /năm, từ 21,8 triệu con năm 2001 tăng lên 26,9 triệu
con năm 2006. Đặc biệt là sản lượng thịt tăng nhanh hơn số lượng đầu con, từ
1,51 triệu tấn năm 2001 tăng lên 2,50 triệu tấn năm 2006, tăng 10,1%/năm.
Chất lượng giống đã được cải thiện một bước, nhiều giống mới có năng suất
và chất lượng cao được nhập khẩu vào Việt Nam. Tỷ lệ lợn lai nuôi thịt tăng
từ 60% năm 2001 lên 75% năm 2005, tỷ lệ thịt nạc từ khoảng 40-42% năm
2001 lên trên 46% năm 2006 (Bộ Nông nghiệp &PTNT, 2007)[3].
Cơ cấu giống ở Việt Nam hiện nay đã được cải thiện tích cực. Các
giống lợn có năng suất và chất lượng cao đã được nhập vào nước ta như
Yorkshire, Landrace, Duroc, Piertrain để nuôi thuần chủng hoặc cho lai để tạo
ra những tổ hợp lai mới, có năng suất, chất lượng thịt cao, được ứng dụng rộng
rãi và mang lại hiệu quả thiết thực.
Văn Giang là huyện đồng bằng, nằm ở phía tây bắc tỉnh Hưng Yên,
nằm cách quốc lộ 5 khoảng 6 km, đây là điều kiện thuận tiện để Văn Giang có
thể giao lưu với 2 trung tâm kinh tế, văn hoá quan trọng là Hà Nội, Hải Phòng
cũng như các tỉnh phía bắc.Trong những năm qua, chăn nuôi ở Văn Giang
phát triển khá toàn diện và ổn định, nổi bật là chăn nuôi lợn. Theo báo cáo
chăn nuôi của phòng Nông nghiệp Văn Giang (2006)[2], đàn lợn của Văn
Giang tăng nhanh với tốc độ 7,7%/năm, năm 2001 tổng đàn lợn là 44.082
con, đến năm 2005 tổng đàn lợn đạt 58.178 con, sản lượng thịt tăng nhanh
hơn số đầu con, năm 2001 sản lượng thịt xuất chuồng đạt 3.559 tấn đến năm

1


2005 đã xuất chuồng 8.386 tấn, tăng 20,9% năm. Văn Giang hiện có 287
trang trại chăn nuôi lợn. Các trang trại chăn nuôi tại Văn Giang ngày càng
được mở rộng cả về hình thức và qui mô theo hướng sản xuất hàng hoá. Để có
lợn thương phẩm với khả năng cho thịt và tỷ lệ nạc cao, các trang trại và nông

hộ thường tạo ra con lai thương phẩm ba, bốn máu là D(LY), D(YL), L(LY),
P(LY), (PD)(LY)...
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về các tổ hợp lợn lai cho tốc độ sinh
trưởng nhanh, tiêu tốn thức ăn thấp, tỷ lệ nạc cao. Tuy nhiên, cho tới nay vẫn
chưa có các nghiên cứu cụ thể về tổ hợp lai giữa lợn nái F1(LY) phối giống
đực thuần Landrace, Pietrain hoặc đực lai như (Pietrain×Duroc)... được nuôi
trong các trang trại tại Hưng Yên. Với mục tiêu phát triển nông nghiệp toàn
diện, tăng nhanh tổng sản lượng thịt và nâng cao chất lượng thịt phục vụ cho
nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu, nghiên cứu các công thức lai nhằm xác định
những cặp lai phù hợp là yêu cầu cấp thiết đối với sản xuất hiện nay, đặc biệt
là phát triển chăn nuôi lợn ngoại ở các trang trại chăn nuôi ở địa phương.
Xuất phát từ cơ sở thực tế trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Đánh
giá khả năng sản xuất của tổ hợp lai nái F1 (Landrace×
× Yorkshire) với đực
giống Landrace, Pietrain, PiDu trong các trang trại chăn nuôi tại huyện
Văn Giang- Hưng Yên”.
1.2

Mục đích đề tài
- Đánh giá khả năng sinh sản của một số công thức lai được sử dụng tại

các trang trại chăn nuôi tại huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên.
- Đánh giá năng suất và chất lượng thịt lợn của một số công thức lai.
- Đánh giá hiệu quả kinh tế của các công thức lai.
- Trên cơ sở đó xác định công thức lai phù hợp và có hiệu quả trong
chăn nuôi lợn trang trại tại huyện Văn Giang – Hưng Yên.

2



2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU

2.1

Cơ sở khoa học
Bản chất sinh học của mỗi giống vật nuôi được thể hiện qua kiểu hình

đặc trưng riêng của nó. Kiểu gen, dưới tác động của các yếu tố môi trường cụ
thể sẽ biểu hiện thành kiểu hình tương ứng của vật nuôi đó. Để công tác chọn
lọc giống vật nuôi đạt kết quả tốt, trước hết cần có những kiến thức cơ bản về
di truyền, đặc biệt là bản chất của di truyền và ưu thế lai của các tính trạng.
2.1.1 Tính trạng số lượng và các yếu tố ảnh hưởng
Tính trạng số lượng là những tính trạng được qui định bởi nhiều cặp
gen, trong đó mỗi cặp gen chỉ tác động, đóng góp một hiệu ứng nhỏ nhất
định. Tính trạng số lượng bị tác động rất lớn bởi các yếu tố môi truờng. Sự sai
khác giữa các cá thể là sự sai khác về mức độ hơn sự sai khác về chủng loại,
đó là bản chất của tính trạng đa gen .
Các tính trạng sản xuất của vật nuôi là các tính trạng số lượng do nhiều
gen điều khiển, mỗi gen đóng góp một mức độ khác nhau vào cấu thành năng
suất của con vật. Giá trị kiểu hình của các tính trạng sản xuất có sự phân bố
liên tục và chịu tác động nhiều bởi yếu tố ngoại cảnh.
Phần lớn các tính trạng có giá trị kinh tế của vật nuôi đều là các tính
trạng số lượng.
2.1.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến tính trạng số lượng
Giá trị kiểu hình (P) của bất kỳ tính trạng số lượng nào cũng có thể
phân chia thành giá trị kiểu gen (G) và sai lệch môi trường (E). Giá trị kiểu
hình (P) được biểu thị như sau:
P=G+E

3



P: Giá trị kiểu hình (Phenotypic value).
G: Giá trị kiểu gen (Genotypic value).
E: Sai lệch môi trường (Enviromental deviation).
Giá trị kiểu gen (G)
Giá trị kiểu gen của tính trạng số lượng do nhiều cặp gen qui định. Giá
trị kiểu gen bao gồm các thành phần khác nhau :giá trị cộng gộp A (Additive
value) hoặc giá trị giống (Breeding value), sai lêch trội D (Dominance
deviation) và sai lệch tương tác gen hoặc sai lệch át gen I (Interaction
deviation hoặc Epistatic deviation).
G=A+D+I
Giá trị cộng gộp (A): Bố mẹ chỉ truyền cho con cái các gen của chúng
chứ không phải truyền kiểu gen cho thế hệ sau. Để đo lường giá trị truyền đạt
từ bố mẹ sang đời con phải có một giá trị đo lường có quan hệ với gen chứ
không phải có liên quan với kiểu gen.Trong một tập hợp các gen qui định một
tính trạng số lượng nào đó thì mỗi gen đều có một hiệu ứng nhất định đối với
tính trạng số lượng đó. Tổng các hiệu ứng mà các gen nó mang (tổng các hiệu
ứng được thực hiện với từng cặp gen ở mỗi locus và trên tất cả các locus)
được gọi là giá trị cộng gộp hay còn gọi là giá trị giống của cá thể.
Giá trị giống là thành phần quan trọng của kiểu gen vì nó cố định và có
thể di truyền được cho thế hệ sau. Do đó, nó là nguyên nhân chính gây ra sự
giống nhau giữa các con vật thân thuộc, nghĩa là nó là yếu tố chủ yếu sinh ra
đặc tính di truyền của quần thể và sự đáp ứng của quần thể với sự chọn lọc.
Hơn nữa, đó là thành phần duy nhất mà người ta có thể xác định được từ sự
đo đạc các tính trạng đó ở quần thể.
Tác động của các gen được gọi là cộng gộp khi giá trị kiểu hình của
kiểu gen dị hợp luôn là trung gian so với kiểu hình của hai kiểu gen đồng hợp,

4



bố mẹ luôn truyền một nửa giá trị cộng gộp của mỗi tính trạng của chúng cho
đời con. Tiềm năng di truyền do tác động cộng gộp của gen bố và mẹ tạo nên
gọi là giá trị di truyền của con vật hay giá trị giống. Chọn lọc căn cứ vào giá
trị giống nghĩa là chọn lọc khả năng di truyền cho đời sau.
Sai lệch trội (D): là sai lệch được sản sinh ra do sự tác động qua lại
giữa các cặp alen ở cùng một locus, đặc biệt là các cặp alen dị hợp tử (Đặng
Hữu Lanh và cộng sự, 1999 [19]). Sai lệch trội cũng là một phần thuộc tính
của quần thể. Sai lệch trội có thể là: trội hoàn toàn: AA=Aa >aa; siêu trội: Aa
>AA>aa và trội không hoàn toàn: AA >Aa > aa. Quan hệ trội của bố mẹ
không truyền được sang con cái.
Sai lệch át gen (I): là sai lệch được sản sinh ra do sự tác động qua lại
giữa các gen thuộc các locus khác nhau. Sai lệch át gen không có khả năng di
truyền cho thế hệ sau.
Sai lệch môi trường (E)
Sai lệch môi trường được thể hiện thông qua sai lệch môi trường chung
(Eg) và sai lệch môi trường riêng (Es).
Sai lệch môi trường chung (Eg): là sai lệch do loại môi trường tác động
lên toàn bộ con vật trong suốt đời của nó.
Sai lệch môi trường riêng (Es): là sai lệch do loại môi trường chỉ tác
động lên một số con vật trong một giai đoạn nào đó trong đời sống của chúng.
Như vậy, kiểu hình của một cá thể được cấu tạo từ hai locus trở lên có
giá trị kiểu hình chi tiết như sau:
P = A + D + I + Eg + Es
Qua việc phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới tính trạng số lượng cho
thấy, muốn nâng cao năng suất vật nuôi cần phải:
- Tác động về mặt di truyền (G) bao gồm:
+ Tác động vào hiệu ứng cộng gộp (A) bằng cách chọn lọc.


5


+ Tác động vào các hiệu ứng trội (D) và át gen (I) bằng cách lai
giống.
- Tác động về mặt môi trường (E) bằng cách cải tiến điều kiện chăn
nuôi: thức ăn, chuồng trại, quản lý, thú y,...
2.1.3 Giá trị kiểu hình của tính trạng số lượng
Khi lai tạo giữa các cá thể thuộc hai quần thể với nhau thì giá trị kiểu
hình của một tính trạng số lượng ở các tổ hợp lai bao gồm hai thành phần
chính:
- Giá trị trung bình của trung bình giá trị kiểu hình của quần thể thứ
nhất X P1 và trung bình giá trị kiểu hình của quần thể thứ hai X P2 ( X P1P2).
X P1P2 =

X P1 + X P2

2

Do đó: X F1 = X P1P2 + H
Tùy theo nguồn gốc đóng góp của các thành phần trên, người ta chia
chúng thành:
- Di truyền cộng gộp: bao gồm di truyền cộng gộp trực tiếp (Ad), di
truyền cộng gộp của bố (Ab) và di truyền cộng gộp của mẹ (Am).
- Ưu thế lai: bao gồm ưu thế lai trực tiếp (Dd), ưu thế lai của bố lai (Db)
và ưu thế lai của mẹ lai (Dm)...
2.1.4 Lai giống và ưu thế lai
2.1.4.1 Lai giống
Lai giống là cho giao phối giữa những động vật thuộc hai hay nhiều
giống khác nhau. Lai khác dòng là cho giao phối giữa những động vật thuộc

các dòng khác nhau trong cùng một giống. Mặc dù lai khác giống xa nhau về
huyết thống hơn lai các dòng, song hiệu ứng di truyền của cả hai kiểu lai lại

6


tương tự nhau (Nguyễn Hải Quân và cộng sự, 1995 [26]).
Lai giống làm cho tần số kiểu gen đồng hợp tử ở thế hệ sau giảm đi, còn
tần số kiểu gen dị hợp tử ở thế hệ sau tăng lên.
Lai giống là phương pháp chủ yếu nhằm khai thác biến đổi di truyền
của quần thể gia súc. Lai giống có những ưu việt vì con lai thường có ưu thế
lai đối với một số tính trạng nhất định.
2.1.4.2 Ưu thế lai
Ưu thế lai là từ ngữ biểu thị sức sống của con lai vượt trội hơn cha mẹ.
Khi cha mẹ là những cá thể không có quan hệ huyết thống. Ưu thế lai không
chỉ thể hiện ở sức chịu đựng mà còn bao gồm cả ưu thế về sức sống, tốc độ
sinh trưởng, khả năng cho sữa, khả năng sinh sản và tỷ lệ chết (Trần Thế
Thông và cộng sự, 1979 [27]).
Ưu thế lai hay sức sống con lai hoàn toàn ngược với suy hoá cận huyết
và sự suy giảm sức sống do cận huyết được khắc phục trở lại khi lai giống
(Falconer, 1993)[ 52]).
Thuật ngữ ưu thế lai được nhà di truyền học người Mỹ Shull (1914) đưa
ra và được Snell (1961) thảo luận trong nhân giống (Nguyễn Hải Quân và
cộng sự, 1995 [26]) như sau: Ưu thế lai là sự hơn hẳn của đời con so với trung
bình của đời bố mẹ. Có thể ưu thế lai là sức sống, sức miễn kháng đối với
bệnh tật và tính trạng sản xuất của con lai được nâng cao, khả năng lợi dụng
thức ăn tốt.
Có thể giải thích ưu thế lai bằng các giả thiết sau:
- Thuyết trội: Giả thiết này cho rằng mỗi bên cha mẹ có những cặp gen
trội đồng hợp tử khác nhau. Khi tạp giao ở thế hệ F1 sẽ có các gen trội ở tất cả

các locus. Nếu bố có kiểu gen AABBCCddeeff và mẹ có kiểu gen
aabbccDDEEFF thì thế hệ F1 có kiểu gen là: AaBbCcDdEeFf.

7


Do tính trạng số lượng được quyết định bởi nhiều gen, nên xác suất thể
hiện một kiểu gen đồng hợp hoàn toàn là thấp. Ngoài ra, vì sự liên kết giữa
các gen trội và gen lặn trên cùng một nhiễm sắc thể, nên xác suất tổ hợp được
kiểu gen tốt nhất cũng thấp. Jones (1917) đã chứng minh được hiện tượng này
và thuyết trội đã được bổ sung thông qua giả thiết sự liên kết của các gen.
- Thuyết siêu trội: Mỗi alen trong một locus sẽ thực hiện chức năng
riêng của mình. Ở trạng thái dị hợp tử thì cả hai chức năng này đồng thời
được biểu lộ. Mỗi gen có khả năng tổng hợp riêng, quá trình này được thực
hiện trong những điều kiện môi trường khác nhau. Do vậy, kiểu gen dị hợp tử
sẽ có khả năng thích nghi tốt hơn với những thay đổi của môi trường.
Ưu thế lai có thể do hiện tượng siêu trội của một locus, hiện tượng trội
tổ hợp nhiều locus hoặc do các nguyên nhân khác gây ra. Khả năng thích ứng
với môi trường của các thể dị hợp tử tạo nên hiện tượng siêu trội là cơ sở của
ưu thế lai.
- Tương tác gen: Tương tác gen trong cùng một locus dẫn tới hiện
tượng trội không hoàn toàn. Tương tác giữa các gen trong cùng các locus
khác nhau, bao gồm vô số các kiểu tương tác phức tạp, đa dạng, phù hợp với
tính chất phức tạp, đa dạng của sinh vật.
Cơ sở thống kê của ưu thế lai
Cơ sở thống kê của ưu thế lai do Falconer đưa ra từ năm 1964. Ưu thế
lai ở F1: HF1 = dy2, trong đó d là giá trị của kiểu gen dị hợp, y là sai khác về
tần số gen giữa hai quần thể bố, mẹ. Ưu thế lai sinh ra bởi ảnh hưởng đồng
thời của tất cả các giá trị riêng rẽ của từng locus: H F = ∑ dy 2 . Như vậy, ưu thế
1


lai ở F1 phụ thuộc vào giá trị của các kiểu gen dị hợp và sự khác biệt giữa hai
quần thể.
Cơ sở thống kê này cho phép tính toán được ưu thế lai ở các thế hệ lai

8


khác nhau. Ưu thế lai ở F2: HF2 = 1/2dy2, Do đó HF2 = 1/2 HF1.
Thay đổi trung bình từ F1 đến F2 cũng được coi là hiện tượng suy hoá
cận huyết. Theo Falconer (1993) [ 52], ưu thế lai ở F1, F2 có thể phức tạp do
ảnh hưởng của mẹ. Chẳng hạn, tính trạng số con trong ổ của lợn. Ưu thế lai
quan sát được ở F1 không có đóng góp của mẹ ở F2, mặc dù ưu thế lai mất đi
một nửa nhưng lại có ảnh hưởng ưu thế lai của mẹ, do mẹ là con lai của F1.
Ảnh hưởng của mẹ bao gồm tất cả những đóng góp, những ảnh hưởng
tốt xấu do kiểu hình mẹ gây ra đối với kiểu hình của đời con. Ảnh hưởng của
mẹ đối với kiểu hình của đời con có thể do sự khác nhau về di truyền, về
ngoại cảnh hoặc sự phối hợp giữa di truyền và ngoại cảnh. Ảnh hưởng của mẹ
có thể được thực hiện trong quá thụ tinh, có chửa, tiết sữa và nuôi con. Các
ảnh hưởng này chỉ có thể xuất hiện tức thời, song cũng có thể kéo dài suốt đời
của con vật và được thể hiện ở nhiều cơ chế sinh học khác nhau. Theo Đặng
Vũ Bình (2002)[ 6], có 5 loại ảnh hưởng của mẹ:
- Ảnh hưởng của nguyên sinh chất nhưng không phải là ADN ngoài
nhân.
- Ảnh hưởng của nguyên sinh chất do ADN ngoài nhân.
- Ảnh hưởng của mẹ trong giai đoạn trước khi đẻ.
- Ảnh hưởng của mẹ thông qua sự truyền kháng thể từ mẹ sang con.
- Ảnh hưởng của mẹ sau khi sinh.
Theo Dickerson (1974)[50], khi lai giữa hai giống con lai chỉ có ưu thế
lai cá thể. Khi lai 3 giống, nếu dùng đực của giống thuần giao phối với nái lai,

con lai có cả ưu thế lai cá thể và ưu thế lai của mẹ, do mẹ là con lai F1. Nếu
dùng đực lai giao phối với nái của giống thứ 3, con lai có ưu thế lai cá thể và
ưu thế lai của bố, do bố là con lai F1. Trong lai 4 giống, con lai có cả ưu thế
lai cá thể, cả ưu thế lai của mẹ và ưu thế lai của bố.

9


Sử dụng các phương pháp của Dickerson (1972)[49], phương trình dự
tính năng suất ở con lai với các công thức lai như sau:
- Lai 2 giống:
I
+
♂ A ♀ B = H AB

1 M
g B + g AM + g AP + g BP )
(
2

10


- Lai 3 giống:
♂ C ♀ AB =

1
( H CAI + H CBI ) + H ABM + 14 rABI + 12 ( g ABM + gCM + gCP + g ABP )
2


Trong đó, I: cá thể; H: ưu thế lai; M: mẹ; r: hiệu quả tái tổ hợp; P: bố; g:
năng suất của các giống sử dụng để lai.
Để tính toán ưu thế lai đối với một số tính trạng nhất định từ các giá trị
trung bình của đời con và giá trị trung bình của bố mẹ, Minkema (1974) [80]
đã đưa ra công thức sau:
1
1
( BA + AB) − ( AA + BB )
2
H (%) = 2
1
( BA + AB)
2

Trong đó, H: ưu thế lai; BA: F1(bố B, mẹ A); AB: F1(bố A, mẹ B); AA:
bố A, mẹ A; BB: bố B, mẹ B.
Các yếu tố ảnh hưởng đến ưu thế lai
Công thức lai:
Ưu thế lai đặc trưng cho mỗi công thức lai. Theo Trần Đình Miên và
cộng sự (1994)[19], mức độ ưu thế lai đạt được có tính cách riêng biệt cho
từng cặp lai cụ thể. Theo Trần Kim Anh (2000)[1], ưu thế lai của mẹ có lợi
cho đời con, ưu thế lai của lợn nái ảnh hưởng đến số con/ổ và tốc độ sinh
trưởng của lợn con. Ưu thế lai cá thể ảnh hưởng đến sinh trưởng và sức sống
của lợn con, đặc biệt ở giai đoạn sau cai sữa. Ưu thế lai của bố thể hiện tính
hăng của con đực, kết quả phối giống, tỷ lệ thụ thai. Khi lai hai giống, số lợn
con cai sữa/nái/năm tăng 5 - 10%, khi lai 3 giống hoặc lai trở ngược số lợn
con cai sữa /nái /năm tăng tới 10 - 15%, số con cai sữa/ổ nhiều hơn 1,0 - 1,5
con và khối lượng cai sữa/con tăng được 1 kg ở 28 ngày tuổi so với giống
thuần (Colin, 1998) [46].


11


Tính trạng
Ưu thế lai phụ thuộc vào tính trạng, có những tính trạng có khả năng di
truyền cao nhưng cũng có những tính trạng có khả năng di truyền thấp.
Những tính trạng liên quan đến khả năng nuôi sống và khả năng sinh sản có
ưu thế lai cao nhất. Các tính trạng có hệ số di truyền thấp thường có ưu thế lai
cao, vì vậy để cải tiến các tính trạng này, so với chọn lọc, lai giống là một
biện pháp nhanh hơn, hiệu quả hơn.
Một số tính trạng ở lợn có ưu thế lai khác nhau; số con đẻ ra/ổ có ưu thế
lai cá thể là 2%, ưu thế lai của mẹ là 8%; số con cai sữa có ưu thế lai cá thể
9%, ưu thế lai của mẹ là 11%; khối lượng cả ổ ở 21 ngày tuổi có ưu thế lai cá
thể 12%; ưu thế lai của mẹ 18% (Richard, 2000)[92].
Sự khác biệt giữa bố và mẹ
Ưu thế lai phụ thuộc vào sự khác biệt giữa hai giống đem lai, hai giống càng
khác biệt với nhau về di truyền bao nhiêu thì ưu thế lai thu được khi lai giữa chúng
càng lớn bấy nhiêu. Lasley (1974)[20] cho biết: nếu các giống hay các dòng đồng
hợp tử đối với một tính trạng nào đó thì mức dị hợp tử cao nhất ở F1, với sự phân li
của các gen trong các thế hệ sau mức độ dị hợp tử sẽ giảm dần.
Các giống càng xa nhau về điều kiện địa lý thì ưu thế lai càng cao. Ưu
thế lai của một tính trạng nhất định phụ thuộc đáng kể vào ngoại cảnh. Có
nhiều yếu tố ngoại cảnh ảnh hưởng đến gia súc, cũng như ảnh hưởng đến biểu
hiện của ưu thế lai.
2.2 Các chỉ tiêu sinh sản và các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của
lợn nái
2.2.1 Các chỉ tiêu sinh sản của lợn nái
Hiệu quả của chăn nuôi lợn nái sinh sản được đánh giá bằng số lợn con cai
sữa /nái/ năm và tổng khối lượng lợn con cai sữa. hai chỉ tiêu này phụ thuộc vào


12


tuổi thành thục về tính, tỷ lệ thụ thai, số con đẻ ra, số lứa đẻ/ năm, tỷ lệ nuôi sống
con theo mẹ. Sản lượng sữa của mẹ, kỹ thuật nuôi dưỡng, chăm sóc. Do đó để
tăng hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi lợn nái sinh sản thì phải cải tiến nâng cao
số lợn con cai sữa, khối lượng lợn con lúc cai sữa. Đồng thời cũng phải làm
giảm khoảng cách giữa hai lứa đẻ bằng cách cai sữa sớm lợn con và làm giảm số
ngày động dục lại sau cai sữa của lợn mẹ ở những lứa sau.
Ian Gordon (2004)[65] cho rằng: trong các trại chăn nuôi hiện đại, số lợn
con cai sữa do một nái sản xuất trong một năm là chỉ tiêu đánh giá đúng đắn
nhất năng suất sinh sản của lợn nái.
Trần Đình Miên và cộng sự (1997)[22] cho biết: việc tính toán khả năng
sinh sản của lợn nái cần xét đến các chỉ tiêu như chu kỳ động dục, tuổi thành
thục về tính, tuổi có khả năng sinh sản, thời gian chửa và số con đẻ ra /lứa.
Theo Van der Steen (1986)[100], sức sinh sản của lợn nái bao gồm các
chỉ tiêu về tuổi động dục lần đầu, tỷ lệ thụ thai, số con đẻ ra /ổ và thời gian từ
khi cai sữa đến động dục lại, phối giống có kết quả.
Mabry và cộng sự (1997)[78] cho rằng: các tính trạng năng suất sinh
sản chủ yếu của lợn nái bao gồm: số con đẻ ra /ổ, số con cai sữa/ổ, khối lượng
toàn ổ ở 21 ngày tuổi và số lứa đẻ/nái/năm. Các tính trạng này ảnh hưởng lớn
đến lợi nhuận của người chăn nuôi lợn nái.
2.2.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của lợn nái
2.2.2.1 Yếu tố di truyền
Giống là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến các chỉ tiêu sinh sản của lợn
nái (Đặng Vũ Bình, 1999 [4]), Trần Tiến Dũng và cộng sự, 2002[13 ]
Theo Legault (trích từ Rothschild và cộng sự, 1998)[93], căn cứ vào
khả năng sinh sản và sức sản xuất thịt, các giống lợn được chia làm bốn nhóm
chính như sau:


13


- Các giống đa dụng như Y, L và một số dòng nguyên chủng được xếp
vào loại có khả năng sản xuất thịt và sinh sản khá.
- Các giống chuyên dụng "dòng bố" như P, L của Bỉ, Hampshire, Poland
China có khả năng sinh sản trung bình nhưng khả năng sản xuất thịt cao.
- Các giống chuyên dụng "dòng mẹ", đặc biệt một số giống chuyên sản
của Trung Quốc như Taihu (điển hình là Meishan) có khả năng sinh sản đặc
biệt cao nhưng khả năng cho thịt kém.
- Các giống địa phương có đặc tính chung là khả năng sinh sản và sức
sản xuất thịt kém, song có khả năng thích nghi tốt với môi trường.
- Các giống "dòng bố" thường có khả năng sinh sản thấp hơn so với các
giống đa dụng, ngoài ra chúng có chiều hướng hơi kém về khả năng nuôi con,
tỷ lệ lợn con chết trước khi cai sữa của các giống này cao hơn so với L và
Large white (Blasco và cộng sự,1995) [40]
Giống Meishan (Trung Quốc) có khả năng sinh sản đặc biệt cao, đạt 1418 lợn sơ sinh, trên 12 lợn con cai sữa /ổ ở lứa để thức 3 đến lứa đẻ 10 (Vũ
Kính Trực, 1998[33]). Người ta đã không phát hiện thấy trong quần thể lợn
Meishan có kiểu gen halothan nn. Trong khi đó, các giống chuyên dụng "dòng
bố" như P và L Bỉ có khả năng sinh sản bình thường song rất nhạy cảm với stress
do tần số gen halothan nn cao.
Lengerken và cộng sự (1987)[108] cho biết lợn nhạy cảm với stress có
khả năng cho nạc cao, song khả năng sinh sản bị hạn chế, giảm thời gian sử
dụng đối với gia súc giống, kết quả thụ thai thấp và tỷ lệ hao hụt cao trong
quá trình chăn nuôi và vận chuyển. Nhưng Biederman và cộng sự (1998)[39]
không thấy ảnh hưởng của gen halothan đối với khả năng sinh sản ở lợn nái .
Tỷ lệ lợn con bị chết sau khi để trung bình là 11% ( 6-13%), trong đó 7% là
do bị mẹ đè (Katja Grandinson và cộng sự , 2003)[67]. Lợn con có khối lượng

14



sơ sinh thấp sẽ có tỷ lệ chết cao hơn so với lợn con có khối lượng sơ sinh cao.
Tỷ lệ lợn con chết trước khi cai sữa chiếm 60,10 % ở ngày đẻ đầu tiên, 23,60
% từ 2 đến 7 ngày sau khi đẻ, 16,20 % ở sau 7 ngày ( I an Gordon, 2004[65]).
2.2.2.2 Các yếu tố ngoại cảnh
Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của lợn nái như: chế độ
nuôi dưỡng, tuổi, khối lượng phối, phương thức phối, lúa đẻ, mùa vụ, nhiệt dộ
môi trường, bệnh tật,...(Martinez Gamba, 2000 [79])
Chế độ nuôi dưỡng
Để đảm bảo khả năng sinh sản của lợn nái thì một trong những yếu tố
quan trọng đó là dinh dưỡng. Lợn nái và lợn cái hậu bị có chửa cần được cung
cấp đủ về số và chất lượng các chất dinh dưỡng để có kết quả sinh sản tốt.
Các mức ăn khác nhau trong giai đoạn từ cai sữa đến phối giống có ảnh
hưởng đến tỷ lệ thụ thai. Nuôi dưỡng hạn chế lợn cái trong giai đoạn hậu bị sẽ
làm tăng tuổi động dục lần đầu, tăng tỷ lệ loại thải so với nuôi dưỡng đầy đủ.
Nuôi dưỡng tốt lợn nái trước khi động dục có thể làm tăng số lượng trứng
rụng, tăng số phôi sống.
Do đó áp dụng chế độ dinh dưỡng "Flushing" trong pha sinh trưởng của
buồng trứng của lợn nái nên đã làm tăng số lượng trứng rụng (85% so với
64%) và tăng lượng progesteron trong máu (10,5 ng so với 4,5 ng/ml) (Cox và
cộng sự, 1987, Flowers và cộng sự, 1989, Rhoder và cộng sự, 1991, Cassar và
cộng sự, 1994, dẫn từ Ian Gordon, 1997)[64].
Tăng lượng thức ăn thu nhận trong thời kỳ động dục có ảnh hưởng đến
số trứng rụng (Brooks và Cole ,1972, dẫn từ Ian Gordon, 1997, [64] ), lợn nái
ăn gấp đôi lượng thức ăn ở giai đoạn trước khi phối giống và ở ngày phối
giống so với bình thường có tác dụng làm tăng số lượng trứng rụng và số con

15



đẻ ra/ổ.
Nuôi dưỡng lợn nái với mức cao ở thời kỳ chửa đầu có thể làm tăng tỷ
lệ chết phôi ở lợn nái mới đẻ (Kirkwood và Thacker, 1988, dẫn từ Ian
Gordon, 1997 [ 64].
Việc cung cấp năng lưọng theo nhu cầu của lợn nái cho từng giai đoạn
có ý nghĩa rất quan trọng, vừa đảm bảo cho sinh lý bình thường và nâng cao
được năng suất sinh sản. Pettigrew và Tokach (1991) (dẫn từ Ian Gordon,
1997)[64] cho biết nuôi dưỡng lợn nái với mức năng lượng cao trong thời kỳ
có chửa sẽ làm giảm mức thu nhận thức ăn trong thời kỳ tiết sữa nuôi con và
ngăn cản sự phát triển của tuyến vú.
Nên cho lợn nái nuôi con ăn tự do để đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng.
Giảm lượng thức ăn thu nhận khi nuôi con sẽ làm giảm khối lượng cơ thể, hậu
quả là thời gian động dục trở lại dài, giảm tỉ lệ thụ tinh và giảm số phôi sống
(Zak và cộng sự, 1995, Reese và cộng sự, 1984, Carrol và cộng sự, 1993,
Kirkwood và cộng sự, 1987, dẫn từ Ian Gordon, 1997[64]. Theo Chung và
cộng sự (1998)[43], tăng lượng thức ăn thu nhận ở lợn nái tiết sữa sẽ làm tăng
sản lượng sữa và tăng khả năng tăng trọng của lợn con. Ian Gordon
(2004)[65] cho biết: tăng lượng thức ăn thu nhận cho lợn nái tiết sữa ở giai
đoạn đầu và giữa chu kỳ tiết sữa sẽ có tác dụng giảm thời gian động dục trở
lại hơn là tăng lượng thức ăn thu nhận cho lợn nái tiết sữa ở giai đoạn cuối,
tăng lượng thức ăn thu nhận cho lợn nái tiết sữa ở giai đoạn giữa và cuối chu
kỳ tiết sữa sẽ có tác dụng tăng trọng cai sữa hơn là tăng ở giai đoạn đầu.
Nuôi dưỡng lợn nái trong thời kỳ tiết sữa nuôi con với mức protein thấp
trong khẩu phần sẽ làm tăng thời gian động dục trở lại (Robinson, 1990, dẫn
từ Ian Gordon, 1997)[64]. Mức dinh dưỡng protein thấp trong thời kỳ chửa
cuối sẽ làm cho lợn nái phải huy động dinh dưỡng của cơ thể để nuôi thai

16



(Close và cộng sự, 1985, Cole, 1990, dẫn từ Clowes và cộng sự, 2003)[44],
do đó làm giảm khả năng sống của thai và lợn con khi đẻ cũng như sau khi đẻ
(Pond và cộng sự 1968, 1969, 1987, 1992; Shields và cộng sự, 1985), làm
giảm khả năng tiết sữa của lợn mẹ (Pike và Boaz,1969), do đó dẫn đến lợn nái
sinh sản kém (dẫn từ Ian Gordon, 1997)[64]. Nuôi dưỡng lợn nái trong thời
kỳ tiết sữa nuôi con với mức lyzin thấp và protein thấp sẽ làm suy yếu sự phát
triển của bao noãn, giảm khả năng trưởng thành của tế bào trứng, giảm số con
đẻ ra và số con còn sống trên ổ, tăng tỷ lệ hao hụt của lợn mẹ và giảm tốc độ
sinh trưởng của lợn con (Yang và cộng sự, 2000)[106], Podtereba (1997)[87]
xác nhận có 9 axit amin cần thiết đóng vai trò quan trọng trong quá trình sinh
sản và trong quá trình phát triển của phôi. Song mức protein quá cao trong
khẩu phần sẽ không tốt cho lợn nái.
Mùa vụ
Mùa vụ là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của lợn
nái. Gaustad -Aas và cộng sự (2004)[54] cho biết mùa vụ có ảnh hưởng đến
số con đẻ ra/ổ. Mùa có nhiệt độ cao là nguyên nhân làm kết quả sinh sản ở lợn
nái nuôi chăn thả thấp, tỷ lệ chết ở lợn con cao. Theo Quiniou và cộng sự
(2000)[89], nhiệt độ cao làm lợn nái thu nhận thức ăn thấp, tỷ lệ hao hụt lợn
nái tăng và tỷ lệ động dục trở lại sau cai sữa giảm.
Tỷ lệ thụ thai bị ảnh hưởng bởi nhiệt độ và mùa vụ. Lợn nái phối giống
vào các tháng nóng có tỷ lệ thụ thai thấp, làm tăng số lần phối giống, giảm
khả năng sinh sản từ 5 - 20%.
Stress nhiệt có thể làm giảm tỷ lệ thụ thai tới 20%, giảm số phôi sống
2% và do đó làm giảm thành tích sinh sản của lợn nái (Peltoniemi và cộng sự,
2000)[84]
Tuổi và lứa đẻ

17



×