Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Đánh giá khả năng thích ứng của một số giống đậu tương trong điều kiện sinh thái tại khu vực Nam Đàn Nghệ An vụ xuân 2011

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.4 MB, 92 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học do tôi trực tiếp
thực hiện dưới sự hướng dẫn của thầy giáo KS. Nguyễn Hữu Hiền.
Những kết quả đạt được đảm bảo tính chính xác và trung thực về khoa
học. Số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa từng
được công bố trong bất cứ công trình khoa học nào khác ở trong nước và ở nước
ngoài.
Tôi xin cam đoan rằng, mọi sự trích dẫn và giúp đỡ trong luận văn này đã
được thông tin đầy đủ và trích dẫn chi tiết và chỉ rõ nguồn gốc. Nếu sai tôi xin
chịu hoàn toàn trách nhiệm trước tổ bộ môn Nông học và nhà trường.
Tác giả
Nguyễn Thị Phương Thảo


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện đề tài khóa luận tốt nghiệp ngoài sự nổ lực của bản
thân, tôi còn nhận được sự hướng dẫn và giúp đỡ của nhiều cá nhân và tập thể.
Nhân dịp này cho phép tôi bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo KS.
Nguyễn Hữu Hiền đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực hiện
cũng như hoàn chỉnh khóa luận.
Tôi xin chân thành cảm ơn tập thể cán bộ khoa Nông Lâm Ngư trường Đại học
Vinh đã giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thiện khóa luận.
Tôi xin chân thành cảm ơn tập thể cán bộ Trạm Bảo Vệ Thực Vật-Giống của
Huyện Nam Đàn đã giúp đỡ, đóng góp ý kiến cho tôi trong suốt quá trình thực tập
tại địa phương.
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè , người dân địa phương
đã giúp đỡ trong thời gian làm khóa luận.
Tất cả sự giúp đỡ trên đây là điều kiện tốt để tôi hoàn thành tốt đề tài khóa
luận của mình.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Vinh, tháng 07 năm 2011


Tác giả
Nguyễn Thị Phương Thảo


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
2. Mụch đích, yêu cầu của đề tài
2.1. Mụch đích
2.2.Yêu cầu
3.Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
3.1.Ý nghĩa khoa học
3.2.Ý nghĩa thực tiễn
CHƯƠNG I.TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1.Tình sản xuất và nghiên cứu đậu tương trên thế giới
1.1.1.Tình hình sản xuất đậu tương trên thế giới
2.1.2.Tình hình nghiên cứu cây đậu tương trên thế giới
2.2.Tình hình sản xuất và nghiên cứu cây đậu tương ở Việt Nam
2.2.1. Tình hình sản xuất cây đậu tương ở Việt Nam
2.2.2.Tình hình nghiên cứu cây đậu tương ở Việt Nam
2.2.3.Tình hình sản xuất và nghiên cứu cây đậu tương ở Nghệ An-Nam Đàn
CHƯƠNG 2. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1.Đối tượng, địa điểm và thời gian nghiên cứu
2.1.1. Đối tượng ngiên cứu
2.1.2. Địa điểm nghiên cứu
2.1.3. Thời gian nghiên cứu
2.2. Nội dung nghiên cứu
2.3. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế-xã hội của vùng nghiên cứu
2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Bố trí thí nghiệm

2.4.2. Quy trình kỹ thuật áp dụng
2.5. Các chỉ tiêu và phương pháp theo dõi
2.5.1. Chỉ tiêu về thời gian mọc và tỉ lệ mọc mầm
2.5.2. Đặc điểm hình thái của các giống tham gia thí nghiệm
2.5.3. Các giai đoạn sinh trưởng của các giống tham gia thí nghiệm
2.5.3. Các giai đoạn sinh trưởng của các giống tham gia thí nghiệm
2.5.5. Xác định chiều cao đóng quả, số đốt, số cành cấp một
2.5.6. Xác định diện tích lá và chỉ số diện tích lá
2.5.7. Khả năng hình thành nốt sần
2.5.8. Khả năng tích lũy chất khô


2.5.9. Chỉ tiêu về tính chống chịu
2.5.10. Chỉ tiêu về năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất
2.5. Phương pháp xử lí số liệu
CHƯƠNG III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Đặc điểm hình thái của các giống đậu tương
3.2. Đặc điểm sinh trưởng và phát triển của các giống đậu tương
3.2.1.Các thời kỳ sinh trưởng, phát triển
3.2.2. Sự tăng trưởng chiều cao thân chính của các giống đậu tương
3.2.3. Xác định số đốt, số cành cấp 1, chiều cao đóng quả
3.3. Kết quả nghiên cứu về các chỉ tiêu sinh lí
3.3.1.Diện tích lá
3.3.2.Chỉ số diện tích lá (LAI): m2lá/m2đất
3.4. Khả năng hình thành nốt sần của các giống đậu tương qua các thời kỳ sinh
trưởng phát triển
3.5. Khả năng tích lũy chất khô của các giống đậu tương qua các thời kỳ sinh
trưởng phát triển
3.6. Khả năng chống chịu của các giống đậu tương thí nghiệm.
3.6.1.Khả năng chống chịu sâu bệnh hại

3.6.2 Khả năng chống đổ của các giống đậu tương nghiên cứu
3.7. Năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất của các giống đậu tương
3.7.1. Các yếu tố cấu thành năng suất
3.7.2. Năng suất
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
2. Kiến nghị
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC:
1.Một số hình ảnh về cây đậu tương
2.Phân tích ANOVA


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DTNN :
NN&PTNT:
KHKT:
SXNN:
KHKTNNVN:
ĐBSH:
ĐBSCL:
TBKT:
THSX:
NS & SL:
KHCN:
NSTB:
TTNC&PTĐĐ:
CLT&TP:

Di truyền nông nghiệp

Nông nghiệp và phát triển nông thôn
Khoa học kĩ thuật
Sản xuất nông nghiệp
Khoa học kĩ thuật nông nghiệp Việt Nam
Đồng bằng Sông Hồng
Đồng bằng sông Cửu Long
Tiến bộ kĩ thuật
Tình hình sản xuất
Năng suất và sản lượng
Khoa học công nghệ
Năng suất trung bình
Trung tâm nghiên cứu và phát triển đậu đỗ
Cây lương thực và thực phẩm


DANH MỤC BẢNG CÁC BẢNG SỐ LIỆU
Bảng 1.1.Diện tích, năng suất và sản lượng đậu tương trên thế giới
Bảng 1.2:Diện tích, năng suất và sản lượng của một số quốc gia trên thế giới
Bảng1. 3:Tình hình xuất nhập khẩu đậu tương trên thế giới
Bảng 1.4:Diện tích, năng suất và sản lượng đậu tương ở Việt Nam
Bảng 1.5. Diện tích, năng suất, sản lượng đậu tương một số tỉnh trong cả nước
Bảng1.6: Khả năng mở rộng diện tích cây đậu tương trên các vùng sinh thái
(ngàn ha)
Bảng 1.7:Diện tích, năng suất, sản lượng đậu tương ở Nghệ An (2001-2005)
Bảng 3.1:Một số đặc điểm hình thái của các giống đậu tương tham gia thí nghiệm
Bảng 3.2.Thời gian và tỉ lệ mọc mầm của các giống đậu tương
Bảng 3.3.Thời gian sinh trưởng của các giống đậu tương (ngày)
Bảng 3.4.Thời gian ra hoa , tổng số hoa, quả/cây của các giống đậu tương
Bảng 3.5:Khả năng tăng trưởng chiều cao thân chính của các giống đậu tương
qua các thời kì sinh trưởng

Bảng 3.6.Khả năng phân cành cấp 1, phân đốt và chiều cao đóng quả của các
giống đậu tương
Bảng 3.7:Diện tích lá bình quân của các giống đậu tương
Bảng 3.8. Chỉ số diện tích lá của các giống đậu tương qua các thời kỳ sinh trưởng
và phát triển
Bảng 3.9. Khả năng hình thành nốt sần của các giống đậu tương
Bảng 3.10. Khả năng tích lũy chất khô của các giống đậu tương
Bảng 3.11.Mức độ nhiễm sâu bệnh hại của các giống đậu tương thí nghiệm
Bảng 3.12. Khả năng chống đổ của các giống đậu tương
Bảng 3.13: Các yếu tố cấu thành năng suất của 10 giống đậu tương
Bảng 3.14. Năng suất của các giống đậu tương tham gia thí nghiệm


DANH MỤC CÁC ĐỒ THỊ HÌNH ẢNH
Hình 3.1. Sự tăng trưởng chiều cao thân chính của các giống đậu tương qua các
thời kỳ sinh trưởng
Hình 3.2. Thể hiện sự phát triển diện tích lá qua các thời kỳ sinh trưởng
Hình 3.3. Biểu hiện sự phát triển chỉ số diện tích lá của 10 giống đậu tương.
Hình 3.4 . Biểu hiện khả năng hình thành nốt sần của 10 giống đậu tương qua các
thời kỳ sinh trưởng
Hình 3.5. Thể hiện khả năng tích lũy chất khô của các giống đậu qua các thời kỳ
sinh trưởng


MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Trên thế giới cây đậu tương đã được biết đến từ rất lâu và được trồng rộng
rãi ở các nước, các miền và các vùng đất khác nhau. Xuất thân từ cây trồng
hoang dại, qua quá trình chọn lọc tự nhiên, chọn lọc nhân tạo mà cây đậu tương
ngày nay đã trở nên đa dạng hơn, có thêm nhiều dòng, nhiều giống mới, có khả

năng thích ứng rộng với nhiều vùng sinh thái khác nhau, cho năng suất cao,
chống chịu được với điều kiện bất lợi của ngoại cảnh.
Cây Đậu Tương(Glycine Max.(L) Merrill) hay còn gọi là cây đậu nành đã
được biết đến và trồng từ rất lâu đời. Cho đến nay, tính đến năm 2009 diện tích
cây đậu tương trên thế giới khoảng 98,8 triệu ha, với năng suất bình quân khoảng
22490kg/ha, sản lượng 221889724 tấn/năm (FAO, 2009), điều đó khẳng định vị
trí và vai trò quan trọng của cây đậu tương trong nền sản xuất nông nghiệp.
Cây đậu tương có giá trị về nhiều mặt, trong nhiều lĩnh vực. Nó đóng vai
trò quan trọng về mặt giá trị dinh dưỡng, giá trị kinh tế và giá trị sử dụng.Trong
cuộc sống hằng ngày cung cấp thức ăn cho người và gia súc,chăn nuôi, đặc biệt
là có chứa thành phần Protein (40-50%) và Lipit(12-24%) cần thiết cho cơ thể
con người.Với tốc độ tăng nhanh về dân số và nền kinh tế thị trường như ngày
nay thì nhu cầu về tiêu dùng của con người ngày càng tăng, trong đó nhu cầu về
ăn uống chiếm phần lớn, vì thế dầu thực vật được chế biến từ đậu tương được
đánh rất cao, có chứa các Protein dễ tiêu hóa và không có Cholesteron, tránh
được xơ vữa động mạch. Trong thành phần Lipit của hạt đậu tương còn chứa các
axit béo chưa no có hệ số đồng hóa cao, mùi vị thơm ngon như: axit oleic chiếm
30-35%; axit lioleic chiếm 45-55% và axit linonic chiếm 5-10%. Trên thị trường
thế giới hiện nay có 8 cây lấy dầu quan trọng là đậu tương, bông, lạc, hướng
dương, cải dầu, lanh, dừa và cọ, những cây này chiếm tới 97% sản lượng cây lấy
dầu trên thế giới, trong đó cây đậu tương chiếm phần lớn 30-35% sản lượng dầu
thực vật. Như vậy với điều kiện như hiện nay thì xu hướng sử dụng dầu thực vật
thay thế cho mỡ động vật ngày càng tăng cao. Trong công nghiệp dầu đậu tương
còn được sử dụng làm xi, sơn, mực in, xà phòng, chất dẻo, cao su nhân tạo, len
nhân tạo, thuốc trừ sâu…
Ngày nay với những tiến bộ về khoa học kỹ thuật người ta đã phát hiện ra
trong hạt đậu tương còn chứa chất Lexithin có tác dụng làm cho cơ thể trẻ lâu,
sung sức, làm tăng thêm trí nhớ và tái sinh các mô, làm cứng xương và tăng sức
đề kháng cho cơ thể. Hạt đậu tương cũng được sử dung nhiều trong y học, có khả
năng ức chế sinh trưởng của các tế bào ung thư, đặc biệt là ung thư tuyền liệt



(Bùi Tường Hạnh, (1997),“Đỗ tương với phụ nữ luống tuổi”, Báo Khoa học và
đời sống số 51 ra ngày 16-22/12/1997) [13]. Và cuối cùng là nó góp phần vào
việc tăng thu nhập, tạo công ăn việc làm cho người nông dân.
Ngoài những tác dụng trên thì cây đậu tương còn đóng vai trò quan trọng
trong hệ thống luân canh cây trồng. Bên cạnh đó, cây đậu tương còn có khả năng
cố định đạm tự do nhờ cộng sinh với vi khuẩn Rhizobium japonicium vừa có tác
dụng cải tạo đất vừa chống xói mòn, tăng nguồn dinh dường cho đất làm đất tốt
lên, vừa có thể che phủ đất, làm cân bằng hệ sinh thái nông nghiệp. Trong điều
kiện thuận lợi các vi khuẩn nốt sần này có thể tích lũy được một lượng đạm 4070kg ure/ha. (Trần Thị Trường, Trần Thanh Bình, Nguyễn Thị Bình (2006), Sản
xuất đậu tương và đậu xanh năng suất cao, NXB NN-Hà Nội,Tr 17-18). Những
nốt sần này được ví như một nhà máy sản xuất đạm. Nó là cây trồng trước đưa lại
hiệu quả cho cây trồng sau. Như vậy, chúng ta có thể nói rằng cây đậu tương
mang nhiều ý nghĩa và giá trị rất lớn trong nông nghiệp và trong các lĩnh vực
khác nhau. Hiệu quả từ việc trồng cây đậu tương là rất lớn và khó có thể tìm thấy
một loại cây trồng nào mang nhiều tác dụng như vậy. Nó xứng đáng là cây trồng
hiện đại có triển vọng trong tương lai góp phần vào việc nâng cao đời sống và
đảm bảo sức khỏe cho con người, đáp ứng được nhu cầu thị hiếu của người tiêu
dùng.
Tuy nhiên, trong quá trình sản xuất và phát triển cây đậu tương thì hay bắt
gặp nhiều vấn đề rủi ro như năng suất, sản lượng thấp, khả năng chống chịu của
các giống kém, đây là một trong những hạn chế lớn.
Ở nước ta, việc phát triển cây đậu tương còn chưa áp dụng đồng bộ. So
với các nước trong khu vực và trên thế giới thì năng suất, sản lượng đậu tương
của nước ta còn nằm ở mức khiêm tốn. Theo nguồn thống kê của Bộ NN &
PTNT năm 2008, diện tích trồng khoảng 191500 ha, năng suất bình quân đạt
26,8tạ/ha, sản lượng 268,8 ngàn tấn, chỉ đạt 39,2% so với năng suất bình quân
thế giới. So với năm 1998, diện tích và sản lượng đều tăng gấp đôi, tuy nhiên vẫn
còn rất chậm chưa đáp ứng đủ nhu cầu trong nước. Nước ta trong những năm gần

đây nhu cầu dùng dầu thực vật ngày càng tăng, mà nguồn cung cấp này chủ yếu
dựa vào nhập khẩu, do đó cần đẩy mạnh sản xuất cây có dầu trong đó có cây đậu
tương.
Nam Đàn là huyện có địa hình thuộc hạ lưu sông Lam, đây là điều kiện rất
thuận lợi để phát triển cây công nghiệp ngắn ngày trong đó có cây đậu tương.
Trên địa bàn huyện có dòng sông Lam chảy qua tạo nên 2 vùng bãi phù sa màu
mỡ cho 9 xã với tổng diện tích đất bãi 942 ha. Trong những năm gần đây Nam


Đàn luôn là huyện đứng đầu về diện tích gieo trồng đậu tương của Nghệ An ,
năm 2005 diện tích trồng là 1188 ha, năng suất bình quân 6,3 tạ/ha, hiện tại thì
năng suất đạt được đang còn thấp (4 - 12 tạ/ha), so với cả nước thì diện tích cũng
như năng suất vào loại thấp nhất. Do có nhiều nguyên nhân như kỹ thuật trồng
không đúng, chế độ dinh dưỡng không đảm bảo, chăm sóc kém, sâu bệnh, người
dân sử dụng các giống địa phương đã bị thoái hóa, phẩm chất kém,không đảm
bảo tiêu chuẩn của hạt giống như như ĐT84, AK03, AK06, giống địa phương
Nam Đàn,… Các giống này đã được người dân sử dụng qua nhiều thế hệ mà
hàng năm lại không được tuyển chọn nên một số giống đã bị thoái hóa làm giảm
năng suất. Hiện nay ở Nam Đàn đậu tương được dùng chủ yếu để chế biến đậu
phụ, sữa đậu nành, làm tương,…tuy nhiên sản lượng đậu còn hạn chế. Hàng năm
huyện còn phải nhập về hàng chục tấn đậu tương để chế biến. Năng suất đậu thấp
đã trực tiếp làm giảm sản lượng đậu tương, không đáp ứng được nhu cầu chế
biến của người dân địa phương. Mặt khác, các quy trình khảo nghiệm, so sánh
giống và việc nhập các giống đậu tương mới cho năng suất cao, có tính chống
chịu tốt để đưa vào sản xuất còn rất ít Chính vì vậy, nhu cầu đòi hỏi bổ sung các
giống đậu tương mới có năng suất cao, chất lượng tốt, thời gian sinh trưởng phù
hợp cơ cấu mùa vụ là vấn đề bức thiết đặt ra hiện nay cho các nhà chọn giống.
Một trong các phương pháp quan trọng trong việc chọn tạo là tuyển chọn, đánh
giá các dòng đậu tương. Vì vậy, công tác đánh giá các dòng đậu tương trong điều
kiện địa phương nhằm tuyển chọn các dòng, giống có ưu điểm vượt trội để đưa

vào so sánh giống chính quy hoặc làm vật liệu cho quá trình chọn tạo là một
bước vô cùng quan trọng và cần thiết. Như vậy điều đặt ra là phải làm gì để vừa
có thể nâng cao năng suất của cây đậu tương lên, vừa có thể đảm bảo được chất
lượng, mẩu mã? Hay nói cách khác phải có biện pháp gì nâng cao năng suất?
Một trong những biện pháp đó là nghiên cứu tìm ra các giống đậu tương tốt, có
tiềm năng ,năng suất cao, phẩm chất tốt, khả năng thích ứng tốt với từng điều
kiện sinh thái khác nhau, đây chính là một yêu cầu rất bức thiết
Xuất phát từ thực tế đó, dưới sự hướng dẫn của Kỹ sư Nguyễn Hữu Hiền
chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Đánh giá khả năng thích ứng của một số
giống đậu tương trong điều kiện sinh thái tại khu vực Nam Đàn, Nghệ An, vụ
Xuân 2011”
2. Mụch đích, yêu cầu của đề tài
2.1. Mụch đích
 Đánh giá khả năng sinh trưởng, phát triển, các yếu tố cấu thành năng
suất và năng suất của các giống tham gia thí nghiệm.


 Đánh giá các chỉ tiêu về sinh lí, sinh hóa của các giống đậu
 Đánh giá khả năng chống chịu và đặc điểm hình thái của các giống thí
nghiệm.
 Dựa vào những cơ sở trên có thể chọn được những giống đậu tương
thích hợp với điều kiện vụ Xuân ở huyện Nam Đàn.
2.2.Yêu cầu
 Theo dõi các chỉ tiêu sinh trưởng, phát triển của các giống đậu tương.
 Tìm hiểu một số đặc điểm hình thái của các giống tham gia thí nghiệm.
 Theo dõi khả năng chống chịu của các giống trong thí nghiệm.
 Theo dõi các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của các giống thí
nghiệm.
3.Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
3.1.Ý nghĩa khoa học

Năng suất của cây trồng nói chung và của cây đậu tương nói riêng đều phụ
thuộc rất nhiều vào các chỉ tiêu sinh trưởng, sinh lí, đặc điểm di truyền và điều
kiên ngoại cảnh.Ở mỗi vùng sinh thái nhất định, các giống đậu tương khác nhau
thì cho năng suất khác nhau. Vì vậy việc nghiên cứu mối quan hệ giữa các chỉ
tiêu sinh lí, sinh trưởng với sự tạo thành năng suất cây đậu tương, sự áp dụng các
biện pháp kỹ thuật một cách hợp lí sẽ giúp thực tiễn chọn lọc ra những giống có
kiểu hình và thích hợp với từng mùa vụ, từng vùng, nhằm phát huy tối đa tiềm
năng năng suất của giống, nâng cao hiệu quả kinh tế trong sản xuất. Các giống
triển vọng được đưa vào nghiên cứu có một số đặc tính phù hợp cho địa phương
nghiên cứu như tính chịu hạn, chống sâu bệnh,…là điều kiện thuận lợi để bố trí
cho mùa vụ khô hạn ở Nam Đàn, Nghệ An.
3.2.Ý nghĩa thực tiễn
- Kết quả nghiên cứu của đề tài này có ý nghĩa thực tiễn hết sức quan
trọng nó sẽ góp phần bổ sung những giống đậu tương vừa có năng suất cao, vừa
phù hợp với điều kiện sinh thái của vùng.
- Làm cơ sở cho việc xây dựng các biện pháp kỹ thuật gieo trồng,chăm
sóc thích hợp cho cây đậu tương.
- Bổ sung cơ sở lí luận và thực tiễn cho việc mở rộng diện tích sản xuất và
định hướng phát triển cây đậu tương trong toàn vùng nói riêng và trong tỉnh
Nghệ An nói chung. Kết quả của đề tài sẽ xác định được một số giống đậu tương
có triển vọng, khả năng thích nghi cao và năng suất ổn định, chất lượng tốt để
đưa vào sản xuất nhằm bổ sung quỹ gen, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của địa
phương, nâng cao hiệu quả kinh tế, chất lượng góp phần vào việc xóa đói, giảm


nghèo, tăng thu nhập cho người dân, bổ sung thêm chất dinh dưỡng cho con
người và gia súc, đặc biệt là phục vụ cho làng nghề tương truyền thống, nâng cao
thương hiệu trên thị trường.



CHƯƠNG I
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1.Tình sản xuất và nghiên cứu đậu tương trên thế giới
1.1.1.Tình hình sản xuất đậu tương trên thế giới
Như chúng ta đã biết, cây đậu tương đã được biết đến từ rất lâu đời và
được trồng trên khắp các Châu lục ở các vùng sinh thái khác nhau. Hiện nay, cây
đậu tương được trồng trên 80 quốc gia trên khắp thế giới, với diện tích và sản
lượng ngày càng tăng. Diện tích và sản lượng đậu tương trên thế giới tăng mạnh
nhất trong những năm 1965-1980 và tương đối ổn định đến nay. Tính đến năm
2001 diện tích đậu tương của thế giới là 76,8 triệu ha, tập trung nhiều nhất ở châu
Mỹ (73,3%), châu Á(23,15%) [19]. Các nước số diện tích đậu tương lớn nhất là
Mỹ, Brazil, Trung Quốc, Indonexia, Nhật Bản, Liên xô cũ ( Theo Trần Đình
Đông, Mai Quang Vinh, Trần Thị Tú Ngà, 1994) [12].
Trong khoảng thời gian từ năm 1990-2003 diện tích trồng đậu tương trên
thế giới là 27,61 triệu ha, sản lượng 81,52 triệu tấn.Trong 5 năm gần đây diện
tích trồng đậu tương tăng bình quân 3,54%/năm (Đề án phát triển đậu tương,
2001) [4].
Năm 1997 sản lượng đậu tương của thế giới đạt 146700 tấn, trong đó 4
nước trồng đậu tương phổ biến nhất là Mỹ, Brazil,Trung Quốc, Acgentina chiếm
tới 90-99% sản lượng .Đây là những nước có năng suất đậu tương cao nhất , Mỹ
(4,62 tấn/ha); Brazil(3,23 tấn/ha); Trung Quốc (3,19 tấn/ha) (Theo số liệu năm
1997 - Tài liệu Cây đậu tương của Ngô Thế Dân và cs).
Về tốc độ phát triển ở Mỹ nhanh hơn ở Trung Quốc , sản lượng đậu tương
của Mỹ tăng từ 60%(1960) đến 75%(1969), trong khi đó sản lượng đậu tương
của Trung Quốc giảm từ 32% xuống còn 16% so với cùng kỳ. Trong những năm
1898-1983 Mỹ đã chiếm 63% tổng sản lượng đậu tương trên thế giới ; Brazil
chiếm 16% ;Trung Quốc chiếm 9%; Acgentina chiếm 6% (Theo Ngô Thế
Dân,Trần Đình Long,Trần Văn Lài và cs,1999).



Bảng 1.1.Diện tích, năng suất và sản lượng đậu tương trên thế giới
Diện tích
Năng suất
Sản lượng
Năm
(triệu ha)
(tạ/ha)
(triệu tấn)
2000

74,36

21,68

161,29

2001

76,79

23,20

178,24

2002

78,96

23,00


181,68

2003

83,66

22,79

190,68

2004

91,60

22,43

205,53

2005

92,50

23,18

214,46

2006

95,24


23,29

221,88

2007

90,08

24,37

219,58

2008

96,18

23,97

230,58

2009

98,82

22,49
222,26
(Theo nguồn:FAOSTART,2010)
Nhìn vào bảng trên cho thấy sản lượng và năng suất đậu tương trên thế
giới tăng từ năm 2000 - 2009 tuy có tăng nhưng vẫn ở mức chậm, và tăng chủ
yếu là do diện tích tăng. Năm 2001 Mỹ vẫn là nước đứng đầu thế giới về sản xuất

đậu tương và chiếm 39,1% về diện tích và 44,6% về sản lượng của thế giới, tiếp
đến là Brazil, Trung Quốc, Acgentina (Nguyến Khắc Trung, 1989, Cây đậu
tương trồng và sử dụng. Tủ sách VACVINA , Hội những người làm vườn Việt
Nam, Hà Nội).
Ở châu Á năm 2003 năng suất đậu tương ở Trung Quốc đạt 1,74
tấn/ha,các nước còn lại trong khu vực có năng suất thấp như Ân Độ (1,05 tấn/ha);
Thái Lan(1,22 tấn/ha); Indonexia(0,8tấn/ha) (Theo Guan Faostart,
Database,2004)
Diện tích và sản lương đậu tương trên thế giới vẫn tiếp tục tăng trong
những năm tiếp theo. Năm 2005 diện tích cây đậu tương trên thế giới là 92,5
triệu ha, tập trung nhiều nhất ở châu Mỹ (73%), tiếp đến là châu Á (22,88%). Về
vị trí gieo trồng trên thế giới thì cây đậu tương đứng hàng đầu trong các loài cây
họ đậu với diện tích là 52 triệu ha.[5].
Theo nguồn thống kê từ FAOSTART Statistics Dvision 2006, sản lượng
đậu tương trên thế giới đạt 221,8 triệu tấn , tăng 4,8% so với 214,4 triệu tấn của
năm 2005, trong đó Mỹ vẫn là nước đứng đầu về sản xuất đậu tương.


Bảng 1.2. Diện tích, năng suất và sản lượng của một số quốc gia trên thế giới
Nước
Năm
Chỉ tiêu
2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008
DT(triệu ha)
NS(tạ/ha)
Mỹ
SL(triệu tấn)
DT(triệu ha)
NS(tạ/ha)
Brazil

SL(triệu tấn)
DT(triệu ha)
Trung
NS(tạ/ha)
Quốc
SL(triệu tấn)
DT(triệu ha)
Acgenti
NS(tạ/ha)
na
SL(triệu tấn)
DT(triệu ha)
NS(tạ/ha)
Ấn Độ
SL(triệu tấn)
DT(triệu ha)
Thái
NS(tạ/ha)
Lan
SL(triệu tấn)

29,3
25,5
75
18,5
28
51,9
87,2
18,9
16,5

11,4
26,3
30
6,1
7,6
4,6
0,174
14,8
0,259

29,3
22,7
66,7
18,5
28
51,9
93,1
16,5
15,3
12,4
28
34,8
6,5
11,9
7,8
0,158
15
0,238

29,9

28,8
30,1
25,9
30,2
28,4
28,9
28,8
28
26,7
85,01 83,5
86,9
72,8
80,7
21,15 22,9
22
20,5
21
23
22,3
23,7
28,1
28
49,54 51,1
52,4
57,8
59,2
95,8
95,9
93
87,5

91
18,1
17
16,6
14,5
17
17,4
16,3
15,5
12,7
15,5
14,3
14
15,1
15,9
16,3
22
27,2
26,7
29,7
28,2
31,5
38,2
40,5
47,4
46,2
7,5
7,7
8,8
8,8

9,5
9
10
10,6
12,3
10,4
6,8
8,27
8,85
10,9
9,9
0,145 0,14
0,13
0,12
0,11
14,9
14,9
15,6
15,9
15,9
0,21
0,22
0,21
0,2
0,18
(Theo nguồn:FAOSTART, 2010)
Nhìn vào bảng trên ta thấy được sự biến động về cả diện tích, năng suất và
sản lượng từ năm 2000-2009, có lúc tăng lên lúc giảm xuống.Về sản lượng năm
2006 là 86,9 triệu tấn xuống 80 triệu tấn (2008) và lại tăng 91,4 triệu tấn (2009).
Tương tự đối với các nước khác cũng vậy. Nguyên nhân của sự biến động này rất

nhiều. Có thể là do diện tích đất nông nghiệp đang bị thu hẹp dần, tập quán canh
tác lâu đời, hoặc bộ giống không tốt, bị sâu bệnh, hoặc do điều kiện sinh thái
không phù hợp
Hiện nay các nước vẫn tiếp tục phát triển và tăng diện tích cây đậu tương,
song do nhu cầu thị trường quá lớn nên tình hình xuất nhập khẩu khá cao.

2009
30,9
29,5
91,4
21,7
26,6
56,9
88
16,4
14,5
16,7
18,4
30,9
9,6
10,6
102,1
0,11
16,3
0,18


Bảng 1.3.Tình hình xuất nhập khẩu đậu tương trên thế giới
Năm
Xuất khẩu (triệu tấn) Nhập khẩu (triệu tấn)

2000
49,96
47,74
2001
58,69
57,35
2002
57,42
54,99
2003
66,5
65,19
2004
60,15
57,69
2005
67,28
64,58
2006
(Theo nguồn:FAO,2007)
Tính đến năm 2005, lượng đậu tương xuất khẩu trên thế giới và lượng
nhập khẩu là 64 triệu tấn. Các nước xuất khẩu đậu tương hàng đầu thế giới như:
Mỹ (25 triệu tấn), Braxin (22 triệu tấn), Acgentina 99 triệu tấn). Các nước nhập
khẩu đậu tương với số lượng lớn như:Cộng đồng kinh tế châu Âu (EEC) (17 triệu
tấn), Nhật Bản (4 triệu tấn), Tây Ban Nha, Đông Âu.Lượng đậu tương nhập vào
EEC chiếm tới 90% tổng lượng hạt nhập vào. Các nước này nhập đậu tương chủ
yếu để sản xuất dầu và chế biến thức ăn gia súc, còn Nhật Bản, và các nước khác
thì làm thức ăn cho người, ngay cả ở Trung Quốc dù sản lượng đứng thứ 3 thế
giới nhưng do lượng tiêu dùng làm thức ăn lớn nên cũng trở thành nước nhập
khẩu đậu tương với số lượng 29 triệu tấn.

Như vậy cây đậu tương trên thế giới đang có những chuyển biến lớn về cả
diện tích, năng suất và sản lượng, và sự biến động này phụ thuộc rất nhiều yếu
tố…
2.1.2.Tình hình nghiên cứu cây đậu tương trên thế giới
Song song với công tác sản xuất là việc nghiên cứu, tuyển chọn ra những
giống đậu tương cho năng suất cao, phẩm chất tốt đáp ứng được nhu cầu của
người tiêu dùng. Cùng với sự tiến bộ về KHKT hiện nay trên thế giới có rất
nhiều công trình nghiên cứu về cây đậu tương.
Cây đậu tương có thời gian sinh trưởng ngắn, hệ rễ có nốt sần mang vi
khuẩn cố định đạm nên cây đâu tương được trồng luân canh với cây trồng lúa và
ngô để tăng vụ và cải tạo đất bạc màu. Với những giá trị to lớn như vậy mà cây
đậu tương được trồng phổ biến ở nhiều nơi từ vùng ôn đới cho đến vùng nhiệt
đới, từ 55o vĩ Bắc đến 55o vĩ Nam, từ vùng thấp hơn mực nước biển cho đến
vùng cao trên 2000m so với mực nước biển, với diện tích khoảng hơn 75 triệu ha,
trong đó chúng đươc trồng nhiều nhất ở Mỹ, Brazil, Trung Quốc, Acgentina.


Để tạo ra các giống đậu tương mới người ta có thể sử dụng nhiều phương
pháp khác nhau như: Phương pháp truyền thống (nhập nội, thuần hóa), chọn lọc,
lai hữu tính, đột biến, chuyển nạp gen,…Hiện nay có rất nhiều phương pháp ứng
dụng trong phân tích sự đa dạng di truyền của các giống cây trồng nói chung và
cây đậu tương nói riêng như: RFLP, AFLP, SSR, RAPD, các phương pháp này
không những phát huy hiệu quả mà còn khắc phục nhược điểm của các phương
pháp chọn lọc truyền thống bởi hiệu quả sàng lọc cao nhanh và tin cậy.
Theo thống kê trên thế giới thì số lượng nguồn gen khá phong phú và đa
dạng, được lưu trữ ở nhiều nơi, nhiều nước trên thế giới và tập trung nhiều nhất ở
các nước: Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Indonexia, Thái Lan, Thụy Điển, Nam
Phi, Liên Xô cũ, Hàn Quốc, Ấn Độ, Pháp, Nigeria, Đài Loan, Úc, và có khoảng
45038 mẫu giống (Trần Đình Long,1997) [15].
Mỹ là nước luôn đứng đầu thế giới về diện tích và sản lượng đậu tương.

Nhờ có các phương pháp lai tạo, gây đột biến, chọn lọc các dòng nhập nội Mỹ
đã tạo ra được nhiều dòng, giống đậu tương mới năng suất, chất lượng. Hiện nay
Mỹ đã đưa vào sản xuất trên 100 giống đậu tương khác nhau. Hiệu quả chủ yếu
của công tác chọn giống là sử dụng các tổ hợp lai cũng như chọn lọc các dòng
nhập nội thuần hoá trở thành giống thích ứng với từng vùng sinh thái, đặc biệt bổ
sung vào quỹ gen làm vật liệu dự trữ. Mục tiêu đối các nhà chọn giống của Mỹ là
chọn lọc các giống có khả năng thâm canh cao, chống chịu tốt điều kiện bất
thuận, hàm lượng Protein cao, dễ bảo quản và chế biến. Brazil cũng là một trong
những nước sản xuất đậu tương lớn trên thế giới. Ấn Độ là quốc gia có diện tích
trồng đậu tương đạt 8% diện tích trồng đậu tương của thế giới nhưng là quốc gia
đứng thứ năm về công tác nghiên cứu và chọn tạo. Năm 1963 Ấn Độ bắt đầu
khảo nghiệm các giống địa phương và nghiên cứu các giống nhập nội tại trường
đại học tổng hợp Pathga. Châu Á được coi là khu vực sản xuất đậu đỗ quan
trọng của thế giới. Do vậy các tổ chức Quốc tế như Viện Nông nghiệp Nhiệt đới
Quốc tế, Trung Tâm Nghiên Cứu và Phát triển Rau Màu châu Á, Viện nghiên
cứu lúa Quốc tế cùng tham gia nghiên cứu về đậu tương để xác định và chọn tạo
được các giống có khả năng thích ứng rộng rãi với điều kiện của các nước trong
khu vực. Gần đây Viện nghiên cứu Lúa Quốc tế IRRI đã mở ra triển vọng nghiên
cứu về cây đậu đỗ, đặc biệt là cây đậu tương cho vùng canh tác lúa, góp phần cải
tạo đất, cải tạo khẩu phần dinh dưỡng cho người dân. Trung Quốc là nước có
diện tích và sản lượng đậu tương lớn nhất Châu Á, là nước rất chú trọng đến
công tác chọn tạo giống, đặc biệt vấn đề thu thập nguồn gen từ nhiều quốc gia
cũng như các vùng sinh thái khác nhau làm vật liệu cho chọn, tạo giống. Nhờ đó


họ đã tạo ra hàng loạt các giống đậu tương năng suất chất lượng cao, chống chịu
tốt.
Ngày nay công tác trao đổi thông tin và hợp tác nghiên cứu quốc tế đã trở
thành nhân tố tiến bộ trong công nghệ chọn giống đậu đỗ của nhiều nước. Dưới
đây là một số phương pháp nghiên cứu chọn tạo giống đậu tương trên thế giới.

 Nghiên cứu chọn tạo giống bằng phương pháp truyền thốn
Chọn giồng bằng phương pháp này có thể bằng cách nhập nội, tuyển chọn
những giống từ các vùng khác về hoặc thuần hóa từ cây đậu tương hoang dại
trong thiên nhiên. Những năm gần đây việc đưa các giống đậu tương hoang dại
vào quá trình chọn giống đã được tiến hành mạnh, trước hết phải kể đến Trung
Quốc, Oxtraylia, các nhà chọn giống cho rằng một số dạng hoang dại có các đặc
tính quý như chống chịu tốt với sâu bệnh, khô hạn, ít mẫn cảm với quang chu kỳ
hơn [2].
Bằng phương pháp này nước Mỹ đã chọn ra được nhiều giống mới, những
dòng nhập nội có năng suất cao đều được sử dụng làm vật liệu trong các công
trình lai tạo và chọn lọc. Năm 1909 cơ quan nông nghiệp Mỹ đã nhập 175 mẫu
giống đậu tương. Năm 1925 số giống nhập nội lên tới 1133 giống và đến năm
1983 Mỹ đã có trên 10000 giống nhập từ khắp nơi trên thế giới và đã có một tập
đoàn giống đậu tương ưu tú (Đoàn Thị Thanh Nhàn và cs, (1996), Giáo trình cây
Công Nghiệp, Trường Đại học NN I, Bộ GD&ĐT Hà Nội.)
Hiện nay Mỹ đã đưa vào sản xuất trên 100 dòng, giống đậu tương, đã tạo
ra một số giống có khả năng chống chịu tốt với bệnh Phyzoctonia và thích ứng
rộng như:Amsoy 71, Lê 36, Herkey 63, Clark 63. Hướng chủ yếu của công tác
nghiên cứu chọn giống là sử dụng tổ hợp lai cũng như nhập nội, thuần hóa trở
thành giống thích nghi với từng vùng sinh thái, đặc biệt là nhập nội để bổ sung
vào nguồn gen. Mục tiêu của công tác chọn giống ở Mỹ là chọn ra những giống
có khả năng thâm canh, phản ứng với quang chu kỳ, chống chịu với điều kiện
ngoại cảnh, hàm lượng Protein cao, dễ bảo quản,dễ chế biến.
Ở châu Á thì Trung Quốc là quốc gia đứng hàng đầu về sản xuất cây đậu
tương. Bên cạnh đó thì Trung Quốc rất chú trọng đến công tác chọn giống. Từ
việc thu thập nguồn gen của nhiều quốc gia và các vùng sinh thái khác nhau mà
họ đã tạo ra hàng loạt các giống đậu tương có năng suất cao, chất lượng tốt,
chống chịu với điều kiện ngoại cảnh. Điển hình là giống CN001, CN002, HTF18,
YAT12, đạt năng suất trên diện rộng 24-42 tạ/ha [22]. Ngoài ra còn có giống Tạp
Hoàng, khi Việt Nam nhập khẩu vào có tiềm năng năng suất 40-45 tạ/ha [18].



(Dương Đình Tường(2006), giống Đậu Tương Tạp Hoàng số 4, Báo Nông
Nghiệp Việt Nam, Số 115(2446) ngày 9/6/2006).
 Nghiên cứu chọn tạo giống bằng phương pháp chọn lọc
Theo Nguyễn Huy Hoàng và Trần Đình Long (1992) khi nghiên cứu các
giống đậu tương theo nguồn gốc Lesenko (1978) cho rằng: Các giống dậu tương
có nguồn gốc từ Triều Tiên và Ấn Độ chịu hạn kém nhất, các giống có nguồn gốc
từ Trung Quốc chịu hạn khá. Nghiên cứu các giống đậu tương từ Trung Quốc
Selko và Prestaco(1998) đã phân lập được các giống có đặc điểm quý, có khả
năng chống chịu với điều kiện bất lợi, điển hình là các giống: Palmeto, VNHISK1, Sevenaia-5…khi khảo sát 200 mẫu giống có nguồn gốc khác nhau, Selko và cs
(1989) đã chọn được 40 mẫu giống có khả năng chịu nắng và chịu hạn ở giai
đoạn cây con. Đây là nguồn gen quý phục vụ lai tạo giống cho vùng khô hạn có
năng suất cao như các giống: Chinaturs, Kayaperemoga, Black bean…[7].
 Nghiên cứu chọn tạo giống bằng phương pháp gây đột biến
Đây là phương pháp đem lại nhiều biến dị phong phú, giảm thời gian chọn
tạo, cho năng suất cao, chất lượng như mong muốn. Gây đột biến nhân tạo là một
trong các phương pháp chọn giống thực vật hiện đại và có hiệu quả cao, góp
phần tạo nên những tính trạng quý ở cây trồng. Gây tạo đột biến bằng xử lí tia
bức xạ Gama, Anpha, Beeta…lên hạt, chồi mầm…để cải tiến giống cây trồng.
Theo thông báo của cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế IAEA, có khoảng
3500 giống cây trồng (tính đến năm 2003) có năng suất cao, chống chịu sâu
bệnh…được tạo ra bằng phương pháp này.
Tại Mỹ: đã tiến hành nghiên cứu về chất lượng hạt đậu tương như hàm
lượng Protein, Lipit, tinh dầu…Theo kết quả nghiên cứu cho thấy hàm lượng dầu
và Protein ở hạt đậu tương có sự tương quan nghịch. Khi nước Mỹ tiến hành sản
xuất đậu tương, người ta đã chú ý tới hàm lượng dầu. Trong những năm gần đây
60% giá trị của đậu tương là ở hàm lượng Protein, dầu chỉ tham gia vào 40% giá
trị sản lượng. Điều đó nói lên sự cần thiết phải phát triển các giống Protein cao.
Theo đó có hai giống được tạo ra là Prova (1970) và Protana(1972) có

Protein/dầu cao, so với các loại cây trồng tại điều kiện thích nghi, hai giống này
có hàm lượng Protein cao hơn 5% và năng suất thấp hơn một chút. Ngoài ra một
só giống cải tiến thuộc nhóm VI có hàm lượng Protein và năng suất cao hơn các
giống Lee lần lượt là 6%-8% và 9%. Điều đó có thể chọn được các giống vừa có
hàm lượng Protein cao lại vừa có năng suất cao [21]. (FAO-1990, Sản xuất đậu
tương ở vùng nhiệt đới, NXB ĐH và Giáo dục chuyên nghiệp). Như vậy hiện nay
Protein trên thế giới sản xuất ra chỉ mới đạt được 1/4 nhu cầu của nhân loại chính


vì vậy, mở rộng và phát triển cây đậu tương có ý nghĩ chiến lược trong sản xuất
nông nghiệp của nhiều quốc gia (Đậu Quốc Anh,1989) [1].
Công trình nghiên cứu của Santons và cs đã nghiên cứu những đột biến
Protein của giống Licon được xử lí notron nhiệt thấy hàm lượng Protein biến đổi
từ 36,5%-53,4% Enken đã quan sát thấy sự tăng hàm lượng Protein trong quần
thể phóng xạ đạt gấp 10 lần so với giống đối chứng [11]. (Trần Long(1978) , Sử
dụng nhân tố đột biến để tạo tư liệu chọn giống đối với đậu tương. Luận án PTS
sinh học)
Tại châu Á, viện KHNN Đài Loan đã bắt đầu chương trình chọn giống từ
năm 1961 và đưa vào sản xuất các giống Kaohsinh 3, Tai nung 3, Tai nung
4…các giống được xử lí notron và tia X cho các giống đột biến Tai nung 1,Tai
nung 2 có năng suất cao hơn giống khởi đầu,vỏ quả không bị nứt. Các giống này
đã được dùng làm nguồn gen kháng bệnh trong các chương trình tạo giống ở các
cơ sở khác nhau như trạm thí nghiệm Mario (Thái Lan); Trường Đại Học
Philipines (Vũ Tuyên Hoàng và cs,1995) [10].
Ở trạm giống Cuban người ta đã sử dụng liều 7000R gây đột biến lên cây
đậu tương và đã nâng tổng số đột biến từ 3% lên 16%, tuy nhiên việc gây đột
biến này còn tùy thuộc vào từng loại giống khác nhau. Có rất nhiều công trình
nghiên cứu ở phòng thí nghiệm của Enken với các giống khác đã nhận được các
dạng đột biến quý như chín sớm, năng suất cao, hàm lượng protein cao, hệ rễ
khỏe (Theo V.B.Enken) [11].

 Nghiên cứu, chọn tạo giống bằng phương pháp lai tạo và lai hữu tính
Trong tất cả các phương pháp chọn tạo giống thì phương pháp lai hữu tính
là mang lại hiệu quả tốt nhất. Bằng phương pháp này người ta có thể tạo ra các tổ
hợp mới do khả năng tái tổ hợp các gen vốn có của bố mẹ nhằm tạo ra các kiểu
gen mới khác bố mẹ và có tính năng vượt trội hơn hẳn bố mẹ
Năm 1963, Ấn Độ đã bắt đầu khảo nghiệm các giống địa phương và nhập
nội tại Trường Đại học Tổng hợp Pathaga. Năm 1967 thành lập chương trình đậu
tương toàn Ấn Độ với nhiệm vụ lai tạo và thử nghiệm giống mới và họ đã tạo ra
được một số giống mới có triển vọng như: Birsasoil, DS 74-24-2, DS 73-16.
Năm 1970 Wiliam và Rexon đã tiến hành chọn lọc liên tiếp đến F4, từ
quần thể năng suất cao F3 đã tạo ra giống EFL thuộc nhóm chín III thấp cây
(55cm) hơn hẳn so với Wiliam(93cm) chống đổ tốt, năng suất cao (Theo Sohn
Son H.W, Bernard,1967) [2].
Theo Chrlen A.Srin đã phát hiện ra cây đậu tương bất dục đực nhưng
nhụy vẫn có khả năng thụ tinh tốt .Có thể sử dụng dòng bất dục đực làm cây mẹ


khi lai giống, bằng cách này cho phép lai được nhiều hơn , tăng nhanh các giống
đậu tương mang những đặc điểm kinh tế quan trọng như có sức chống chịu, năng
suất cao…
 Nghiên cứu, chọn tạo giống bằng phương pháp canh tác cải tiến
Đây cũng là một phương pháp có hiệu quả bằng cách sử dụng các biện
pháp canh tác như kỹ thuật thâm canh, bón phân, gieo đúng thời vụ…khảo
nghiệm ở các vùng sinh thái khác nhau nhằm thử nghiệm tích thích nghi của các
giống ở từng điều kiện môi trường khác nhau tạo điều kiện so sánh giống địa
phương với giống nhập nội, đánh giá phản ứng của các giống trong những môi
trường khác nhau.
Trong thời gian qua đã có rất nhiều cơ quan tổ chức quốc tế cùng tham gia
nghiên cứu ở nhiều lĩnh vực trong nông nghiệp nhằm tạo ra những giống tốt,
năng suất cao…Viện nghiên cứu lúa Quốc tế IRRI Philipines đã nghiên cứu và

tạo ra những giống đậu tương thích hợp cho những vùng canh tác lúa nhằm phá
vỡ thế độc canh của cây lúa, góp phần cải tạo đất, tạo khẩu phần dinh dưỡng cho
người dân.
Về thời vụ gieo trồng cũng được xác định là có những tương tác chặt chẽ
với các giống đậu tương. Khi nghiên cứu sự tương tác của 4 giống và 44 dòng,
được chia ra thành 3 nhóm ở 3 địa điểm khác nhau trong 2 năm cho thấy :
khoảng 50% của sự tương tác giữa giống với môi trường cho năng suất hạt được
xác định đối với nhóm có năng suất thấp và 25% đối với nhóm có năng suất cao
và năng suất trung bình. Khi nghiên cứu các các dòng,giống ở các thời vụ và nền
phân bón khác nhau đã cho thấy sự tương tác rất có ý nghĩa đối với tất cả 12 tính
trạng nghiên cứu, trong đó có năng suất hạt.
 Nghiên cứu, chọn tạo giống bằng phương pháp nghiên cứu gen và chuyển
nạp gen từ cây này sang cây khác.
Ngày nay với sự tiến bộ của KHKT người ta đã chuyển được những gen
quý, thể hiện các tính trạng sinh lí tốt vào cây đậu tương hoặc làm thay đổi chúng
nhằm mụch đích tạo năng suất , phẩm chất tốt, chống chịu với điều kiện bất lợi
của ngoại cảnh, sâu bệnh.
Bằng công nghệ này, Zhiwu Li và các cs trường Đại Học bang Kansas đã
đưa gen từ cây ngô vào giống đậu tương Jack để sản xuất ra loại protein giàu lưu
huỳnh có chứa Methionine và Cysteine. Kỹ thuật này đem lại 3 giống đậu tương
chuyển gen trong đó có 2 giống có hàm lượng Methionine và Cysteine đáng kể,
chúng có thể sản sinh ra hàm lượng Cysteine cao hơn 30% và Methionine cao
hơn 18,6% với giống ban đầu.


Theo thông báo của hệ thống đậu tương châu Á ở Ấn Độ tổ chức quốc gia
về chương trình nghiên cứu cây đậu tương AICRPS (The All India Coordinated
Research Porject on Soybean) và NRCS (Nationa Research Centre for Soybean)
được thành lập năm 1967 với mụch đích tập trung nghiên cứu về kiểu gen và đã
phát hiện 50 tính trạng phù hợp với khí hậu nhiệt đới , đồng thời phát triển những

giống chống chịu cao với bệnh khảm Virus.Chương trình này đưa ra một số
giống có triển vọng như: KH213, J231, J202, DS4-24…

Nghiên cứu về các chỉ tiêu sinh lí, sinh trưởng, bệnh hại và năng suất
của các giống đậu tương
Ở Indonexia khi nghiên cứu tập đoàn giống đậu tương đã phân lập được
bộ giống theo mụch đích nhóm có TGST ngắn, đạt năng suất cao từ 1,5-1,7
tấn/ha; nhóm giống cây cứng chống đổ. Kết quả điển hình đã chọn được giống
đậu Wills và giống hiện đang phổ biến trong sản xuất [28].
Năm 1968 Weber C-R đã nghiên cứu về ảnh hưởng của các yếu tố quang
hợp đến quá trình tạo chất khô để hình thành năng suất. Kết quả nghiên cứu cho
thấy chỉ khoảng 20% được tổng hợp được chuyển vào hạt, 80% đường còn lại
được sử dụng cho cấu trúc mô cây và dùng cho hô hấp của cây [15]. Kết quả
nghiên cứu về sự tương quan giữa diện tích lá với sự tích lũy chất khô của cây
đậu tương. Theo Stuart L, Kaplan và H.R.Koller (1997) thì có sự tương quan chặt
chẽ giữa diện tích lá và sự tích lũy chất khô..Khi mà tốc độ phát triển của lá lớn
thì tốc độ sinh trưởng cũng lớn. Còn theo nghiên cứu của Cooper R.L (1981) thì
không phải sự tích lũy chất khô cao sẽ dẫn đến năng suất hạt cao mà còn phụ
thuộc vào sự phân bố chất khô được tích lũy vào cơ quan kinh tế là bao nhiêu,
tức là phụ thuộc vào hệ số kinh tế [15].
Theo Đặng Thị Dung (2006) thì các loại sâu hại nguy hiểm đối với đậu
tương là: giòi đục thân Melamgromyza Soja; và sâu xanh Heliothiolis armigera;
sâu đục quả Etiella Zickenella và bọ xít xanh Neza Viridulal. Ở vùng nhiệt đới
thì loài giòi đục thân là phổ biến như Thái Lan; Indonexia, tỷ lệ giòi đục thân phá
hoại lên tới 90-100% cây bị hại [3].
Bên cạnh các công trình nghiên cứu về sâu bệnh hại, các chỉ tiêu sinh lí thì
hiện nay trên thế giới còn hướng tới việc nghiên cứu các chỉ tiêu về các yếu tố
cấu thành năng suất của cây đậu tương. Theo B.D Chaudhary và T.P.Yadava
(1980) đã chỉ rõ rằng năng suất đậu tương có tương quan dương với số hạt/cây;
số quả/cây và số cành/cây [15]

Còn theo Sichcar (1987) thì những giống có chiều cao trung bình và thấp
thường là những giống chín sớm, độ phủ lông thưa. Những giống chín muộn và


loài hoang dại có chiều cao lớn, có số lá nhiều nhất. Số lá trên thân chính có
tương quan chặt chẽ với thời gian sinh trưởng. Khi diện tích lá dinh dưỡng tăng
thì số lượng lá sẽ tăng [8].
2.2.Tình hình sản xuất và nghiên cứu cây đậu tương ở Việt Nam
2.2.2. Tình hình sản xuất cây đậu tương ở Việt Nam
Đậu tương là cây trồng truyền thống ở nước ta. Cây đậu tương mang lại
nhiều giá trị như vậy nên được dùng làm thức ăn giàu đạm và chất béo cho
người, chế biến thức ăn gia súc và cung cấp nguyên liệu cho nghành chế biến dầu
thực vật ở nước ta. Do vị trí địa lí nước ta nằm sát Trung Quốc, có sự giao lưu
nhiều mặt từ lâu đời nên cây đậu tương được biết đến và trồng từ rất sớm, ngay
từ thời vua Hùng ông cha ta đã biết trồng cây đậu tương cùng với nhiều loại đậu
khác (Cây Đậu Nành - Phạm Văn Biên và cs, 1996)
So với trên thế giới thì ở Việt Nam việc trồng cây đậu tương đang còn rất
ít, năng suất và sản lượng còn hạn chế. Còn ở châu Á thì Việt Nam đứng thứ 6 về
sản xuất đậu tương sau các nước Trung Quốc, Ấn Độ, Indonexia, Triều Tiên, và
Thái Lan (Đề án phát triển Đậu Tương năm 2011) [4].
Mặc dù có lịch sử từ lâu đời nhưng trải qua một thời gian dài cây đậu
tương vẫn chiếm một vị trí rất khiêm tốn trong nền SXNN nước ta. Trước ngày
giải phóng cây đậu tương trồng chủ yếu ở: Long Khánh, An Giang, Châu Đốc,
Bình Định trong đó Long Khánh chiếm tới 70% diện tích [17]. Tổng diện tích
trồng cây đậu tương của cả nước trước CMT8 là 32200 ha, năng suất 4,1tạ/ha.
Sau ngày giải phóng diện tích trồng cây đậu tương tăng lên 39594 ha, năng suất
đạt 5,2 tạ/ha [13]. Năm 1976, diện tích cây đậu tương của cả nước chỉ đạt gần 40
nghìn ha, năng suất 5,2 tạ/ha, sản lượng 20,7 nghìn tấn.
Theo số liệu thống kê chỉ trong thời gian ngắn (1979-1985) cây đậu tương
ở nước ta đã có những chuyển biến lớn. Về diện tích tăng gấp hai lần (từ 36,2

nghìn ha lên 102 nghìn ha) và sản lượng tăng từ 19,9 nghìn tấn lên 79,1nghìn tấn,
tuy nhiên năng suất đạt được còn thấp (5,4 đến 7,7 tạ/ha). Từ 1990-1995 nhờ
chương trình nghiên cứu chọn giống đậu đỗ quốc gia, năng suất bình quân của
đậu tương nước ta tăng lên 10 tạ/ha (Nguồn: FAOSTAT, Statistic Divison
2010/22 november).
Đánh giá về tình hình sản xuất và phát triển cây đậu tương trong nước thời
gian qua, theo Niên giám thống kê 2008 cho thấy: năm 2000 diện tích trồng đậu
tương là 124,1 nghìn ha, năng suất bình quân đạt 12,0 tạ/ha và sản lượng đạt
được là 149,3 nghìn tấn đậu tương, năm 2005 diện tích tăng lên 204,1 nghìn ha
và năng suất bình quân đạt được là 14,3 tạ/ha (năng suất cao nhất trong khối


ASEAN và bằng 66,5% so với năng suất bình quân của thế giới), sản lượng đạt
được là 292,7 nghìn tấn. Như vậy sau 5 năm, diện tích đậu tương cả nước đã tăng
80,0 nghìn ha (tăng 64,5%), năng suất bình quân tăng 2,3 tạ/ha (tăng 19,2%) và
sản lượng tăng 143,4 nghìn tấn (gần gấp 2 lần). Từ năm 2006 đến 2008 diện tích
có biến động giảm do điều kiện thiên tai ảnh hưởng (bão, lũ, hạn hán...), sau đó
có xu hướng lại tăng dần, nhưng sản lượng đậu tương của cả nước vẫn tương đối
ổn định. Điều đó cho thấy KHCN mới về giống và kỹ thuật canh tác đối với cây
đậu tương của nước ta đã có ảnh hưởng lớn đến sản xuất. Tuy vậy, sản lượng đậu
tương trong nước cũng mới chỉ đáp ứng đủ cho khoảng 15% nhu cầu tại chỗ.
Bảng1.4. Diện tích, năng suất và sản lượng đậu tương ở Việt Nam
Diện tích
Năng suất
Sản lượng
Hạt giống
Năm
(nghìn ha)
(tạ/ha)
(nghìn tấn)

(nghìn tấn)
1979
36,2
5,4
19,9
1,7
1980
48,9
6,5
32,1
2,6
1985
102
7,7
79,1
3,7
2000
124,1
12,0
149,3
4,9
2001
140,3
12,4
173,7
5,5
2002
158,6
12,9
205,6

5,7
2003
165,6
13,2
219,7
6,4
2004
183,8
13,3
245,9
7,1
2005
204,1
14,3
292,7
6,4
2006
185,6
13,9
258,1
6,5
2007
187,4
14,7
275,5
6,7
2008
191,5
14,0
268,6

5,1
2009

146,2

14,6

213,6

5,1

(Theo nguồn: FAO Statistic Divison 2010/22 november)
Xu hướng tăng vào các năm 2007-2008, tuy nhiên mức tăng không đáng
kể. Đến năm 2009 diện tích trồng đậu tương đột ngột giảm xuống còn 146,2
nghìn ha, kèm theo đó là NS & SL đều giảm xuống còn 14,6 tạ/ha và 213,6 nghìn
tấn. Điều này cho thấy NS & SL tăng là do diện tích tăng , mà nguyên nhân của
việc giảm diện tích là do người dân không mặn mà với việc trồng cây đậu tương,
họ chưa hiểu hết giá trị của nó, do sâu bệnh,do giống…
Như vậy qua bảng trên cũng cho ta thấy được sau 30 năm (1979-2009)
tình hình sản xuất cây đậu tương có nhiều chuyển biến lớn, tốc độ tăng trưởng
khá cao: Về diện tích tăng từ 36,2-146,2 nghìn ha; năng suất tăng từ 5,4-14,6
tạ/ha; sản lượng tăng từ 19,9-213,6 nghìn tấn.


Ở Việt Nam hiện nay cây đậu tương được gieo trồng ở 43/62 tỉnh, thành
phố, thuộc 7 vùng sinh thái nông nghiệp. Những năm gần đây do tập quán canh
tác và đặc biệt là do năng suất đậu tương đạt thấp, hiệu quả kinh tế sản xuất đậu
tương không cao cho nên đậu tương chưa được chú ý phát triển ở cả nước, nhất
là các tỉnh phía Nam. Tuy nhiên, do nhu cầu sử dụng ngày càng cao, sản lượng
đậu tương sản xuất hằng năm không đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước dẫn

đến tình trạng hàng năm nước ta phải nhập khoảng 400-500.000 tấn đậu tương để
chế biến dầu ăn và thức ăn chăn nuôi. Theo Cục chăn nuôi: năm 2006, chỉ riêng
ngành chăn nuôi đã phải nhập 1,5 triệu tấn khô dầu đậu tương (tương đương 2,0
triệu tấn đậu tương hạt) để chế biến làm thức ăn chăn nuôi, ngoài ra còn chưa kể
các nguồn nhập khác. Dự kiến trong vài năm tới sẽ thiếu hụt từ 2,5-3,0 triệu
tấn/năm kim nghạch nhập khẩu đậu tương sẽ cân bằng kim nghạch xuất khẩu
gạo.
Bảng 1.5. Diện tích, năng suất, sản lượng đậu tương một số tỉnh trong cả nước
Diện tích
(nghìn ha)

Tỉnh
2005

2006

Năng suất
(tạ/ha)

Sản lượng
(nghìn tấn)

2007

2005

2006 2007

2005


2006

2007

Cả nước

204,1 185,8 190,1

14,3

13,9

14.6

292,7 258,2 275,1

Hà Tây

27,5

31,8

33,6

15,5

15,0

15,4


42,5

47,7

51, 7

Hà Giang

15,7

15,9

18,2

09,4

08,9

09,5

14,7

14,1

17,3

Đắk Nông

15,1


13,7

14,8

19,2

19,5

19,8

29,0

26,7

29,3

Đắk Lắk

11,5

9,6

9,9

11,3

10,8

10,3


13,0

10,4

10,2

Sơn La

12,1

9,2

9,2

11,2

12,1

12,4

13,6

11,1

11,4

Đồng Tháp

11,5


6,7

7,3

20,9

20,9

22,7

24,1

14,0

16,0

(Nguồn: Niên giám thống kê, 2008)
Qua bảng 1.5 cho ta thấy năng suất đậu tương ở các vùng trên cả nước nhìn
chung đang còn thấp. Việc sử dụng giống có ảnh hưởng rất lớn đến năng suất do
đó các địa phương chưa sử dụng nhiều về các giống đậu mới và các giống biến
đổi gen cũng là nguyên nhân trực tiếp làm hạn chế năng suất đậu tương.
Theo số liệu thống kê thì diện tích, NS & SL ở mỗi vùng sinh thái là khác
nhau. Vùng có diện tích trồng lớn nhất là đồng bằng sông Hồng (507,17 ha-năm
2005). Đây là vùng có điều kiện thời tiết khí hậu, địa hình, đất đai màu mỡ...
thích hợp cho nhiều loại cây, đặc biệt là cây đậu tương.


×