Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Vận dụng tư tưởng hồ chí minh vào việc xây dựng con người mới trong học sinh hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.23 KB, 14 trang )

A.PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hồ Chí Minh là nhà lý luận thực tiễn.Người xây dựng lý luận, vạch ra
cương lĩnh, đường lối, chủ trương cách mạng và trực tiếp tổ chức, lãnh đạo thực
hiện. Từ thực tiễn, Người tổng kết, bổ sung để hoàn chỉnh và phát triển lý luận,
cho nên tư tưởng Hồ Chí Minh mang tính cách mạng, luôn sáng tạo, không lạc
hậu. Người là tấm gương vì dân, vì nước, suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp giải
phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người được nhân dân thế giới
thừa nhận. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người mới chiếm một vị trí trọng tâm,
là chiều sâu nhất trong lý luận của Người, chứa đựng những giá trị vô cùng to
lớn.Điều cốt loãi nhất trong tư tưởng, cuộc đời hoạt động của Người là lòng yêu
nước thương dân, yêu thương con người sâu sắc, đấu tranh không mệt mỏi vì
con người, sẵn sàng làm tất cả những gì có thể để đảm bảo tự do, hạnh phúc cho
con người.
Người đã từng nói: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bật, là làm
sao cho nước tôi được hoàn toàn độc lập, dân tôi được hoàn toàn tự do, đồng bào
ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Trong quan niệm của
Người luôn song hành vấn đề về xây dựng con người. Cụ thể về văn hóa thì phải
góp phần giải phóng con người ra khỏi sự nô dịch, nâng cao năng lực, phẩm giá,
tiến lên con người toàn diện. Góp phần thúc đẩy con người, xây dựng hướng tới
chân thiện mỹ. Về giáo dục thì phải đào tạo lớp người có đức, có tài, kế tục sự
nghiệp cách mạng, làm cho nước ta sánh vai với các cường quốc năm châu. Và
chủ nghĩa xã hội được xây dựng bằng sức mạnh của con người mới và con
người mới cũng là mục tiêu, động lực của chủ nghĩa xã hội. Hiểu được đạo lý tre
già măng mọc, con người luôn phải tồn tại trong một cộng đồng, suốt đời Người
luôn trăn trở về xây dựng con người, một thế hệ vừa có đức, vừa có tài.
Hơn nữa, với bối cảnh có những biên đổi như hiện nay, khoa học công nghệ
phát triển mạnh mẽ, mở ra thời đại kinh tế tri thức, thông tin xã hội toàn cầu hóa
thì việc xây dựng con người mới ngày càng phải mạnh mẽ, quan trọng hơn. Đây
cũng là một cơ hội và cũng là một thách thức to lớn của dân tộc Việt Nam ta.
Khi chúng ta mở cửa giao lưu với thế giới thì luồn văn hóa khác sẽ tràn vào, ảnh


hưởng đến xã hội, con người nước ta, đặc biệt là giới trẻ, là học sinh. Cho nên
việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc xây dụng con người mới trong
1


giai đoạn hiện nay rất cần thiết và sâu sắc. Với vai trò là một người trẻ đang
sống trong giai đoạn hiện nay và mong muốn tìm hiểu, học tập thêm tư tưởng
của Người. Tôi xin chọn đề tài: “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc xây
dựng con người mới trong học sinh hiện nay”.
2. Mục đích yêu cầu
Khái quát, phân tích rõ hơn tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người
mới và đường lối của Đảng trong việc vận dụng tư tưởng của Người vào việc
xây dựng con người mới trong học sinh hiện nay.
Tìm hiểu, phân tích, đánh giá thực trạng người học sinh hiện nay, tìm
nguyên nhân, biện pháp khắc phục,
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: học sinh.
- Phạm vi: học sinh trên cả nước.
4. Những đóng góp chính của đề tài
- Giúp nắm được, hiểu rõ hơn các quan điểm, tư tưởng của Người về việc
xây dựng con người mới và đường lối của Đảng trong việc vận dụng tư tưởng ấy
của Người vào việc xây dựng con người mới trong học sinh hiện nay.
- Học tập thêm tư tưởng của Người, qua đó rèn luyện thêm bản thân, hướng
dẫn, tuyên truyền các em nhỏ, các học sinh xung quanh mình cùng phấn đấu để
trở thành một con người hoàn thiện, một con người mới phù hợp với xã hội hiện
nay.
- Góp phần chung tay cùng giải quyết vấn đề, thực trạng xây dựng con
người mới trong học sinh hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận:Quan điểm thực tế và nguyên tắc lý luận gắn với thực

tiễn, quan điểm lịch sử - cụ thể, quan điểm toàn diện và hệ thống, quan điểm kế
thừa và phát triển.
- Phương pháp cụ thể: phân tích, tổng hợp, thống kê.

2


B. NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận và thực tiễn
1. Cơ sở lý luận
1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người mới
1.1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người:
a. Con người được nhìn nhận như một chỉnh thể
- Chỉnh thể thống nhất về tâm lực, thể lực:
Hồ Chí Minh xem xét con người như một chỉnh thể thống nhất về tâm lực,
thể lực và các hoạt động của nó. Con người luôn có xu hướng vươn lên cái
Chân-Thiện-Mỹ, mặc dù “ có thế này, thế khác”. Bên cạnh bồi dưỡng con người
về trí tuệ, bản lĩnh, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống… Người cũng không
quên về bồi dưỡng thể lực. Vì vậy, theo Người, thể lực, sức khỏe là mặt rất quan
trọng đối với cá nhân và cộng đồng. Để phát triển con người toàn diện cần phải
quan tâm đến vấn đề thể lực và sức khỏe. Hồ Chí Minh chỉ rõ mối quan hệ
khăng khít giữa sức khỏe của cá nhân và sức mạnh của cả dân tộc: “Mỗi một
người dân yếu ớt tức là cả nước yếu ớt, mỗi một người dân khỏe mạnh tức là cả
nước khỏe mạnh. Vậy nên luyện tập thể dục, bồi dưỡng sức khỏe là bổn phận
của mỗi người dân yêu nước”.
- Tính đa dạng của con người: trong quan hệ xã hội, tính cách, khả năng, cá
tính, năng khiếu… khác nhau. Cũng như năm ngón tay dài ngắn khác nhau,
không người nào giống người nào nên sử xự của mỗi con người khác nhau nên
cần có cách nhìn đa dạng hơn về con người.
- Tính thống nhất hai mặt đối lập: thiện – ác, tốt – xấu: Hồ Chí Minh xem

xét con người trong sự thống nhất của hai mặt đối lập: thiện và ác, hay và dở, tốt
và xấu… bao gồm cả tính người – mặt xã hội và tính bản năng – mặt sinh học
của con người. Theo Người, con người có tốt, có xấu, nhưng “ dù là xấu tốt, văn
minh hay dã mang đều có tình” [7,t.7,tr.60].Rõ ràng, chúng thuộc hai phía đối lập
nhau, nhưng bên cạnh việc đấu tranh, triệt tiêu nhau thì chúng lại thúc đấy nhau
cùng phát triển. Một điều tưởng chừng như vô lí mà lại hoàn toàn có lí. Bởi đơn
giản, đó là quy luật tất yếu của cuộc sống, đã là người thì ai cũng phải có.
b. Hồ Chí Minh nói tới con người cụ thể, lịch sử
Hồ Chí Minh cũng dùng khái niệm “con người” theo nghĩa rộng trong một
số trường hợp, nhưng đặt trong bối cảnh cụ thể và một tư duy chung, còn phần
3






lớn, Người xem xét con người trong các mối quan hệ xã hội, quan hệ giai cấp,
theo giới tính, lứa tuổi, nghề nghiệp, trong khối thống nhất của cộng đồng dân
tộc. Đó là con người hiện thực, cụ thể, khách quan, mỗi điều kiện,con người
khác nhau, có các mối quan hệ khác nhau, nên Người có lời dạy cho thanh niên,
thiếu nhi, công an, … khác nhau và có sự quan tâm khác nhau.
c. Hồ Chí Minh khẳng định bản chất con người mang tính xã hội
Con người trước hết là một thực thể tự nhiên nhưng về bản chất, con người
mang tính xã hội. Bản chất của con người, xét trên phương diện tính hiện thực
của nó, chính là “tổng hòa những quan hệ xã hội”, bởi vì xã hội chính là xã hội
của con người, được tạo nên từ toàn bộ các quan hệ giữa người với người trên
các phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa..Mỗi con người với tư cách là
“người” chính là xét trong mối quan hệ của các cộng đồng xã hội, đó là các cộng
đồng gia đình, giai cấp, quốc gia, dân tộc. Sự tồn tại của loài người luôn bị chi

phối bởi các nhân tố xã hội và các quy luật xã hội. Xã hội biến đổi thì mỗi con
người cũng có sự thay đổi tương ứng, ngược lại sự phát triển của mỗi cá nhân lại
là tiền đề cho sự phát triển xã hội. Ngoài mối quan hệ xã hội thì mỗi con người
chỉ tồn tại với tư cách là một thực thể sinh vật thuần túy, không thể là con người
với đầy đủ ý nghĩa của nó.
Con người vừa là chủ thể, vừa là sản phẩm của lịch sử;
Trong tác phẩm Biện chứng của tự nhiên, Ph.Ăngghen cho rằng: “Thú vật
cũng có một lịch sử, chính là lịch sử nguồn gốc của chúng và lịch sử phát triển
dần dần của chúng cho tới trạng thái hiện nay của chúng. Nhưng lịch sử ấy
không phải do chúng làm ra và trong chừng mực mà chúng có tham dự vào việc
làm ra lịch sử ấy thì điều đó diễn ra mà chúng không hề biết và không phải do ý
muốn của chúng. Ngược lại, con người càng cách xa con vật, hiểu theo nghĩa
hẹp của từ này bao nhiêu thì con người lại càng tự mình làm ra lịch sử của mình
một cách có ý thức bấy nhiêu”[8,tr 175].Con người là chủ thể để cải tạo, thay đổi tự
nhiên, xã hội, cách mạng,là sản phẩm của lịch sử,xã hội, lịch sử sáng tạo ra con
người trong chừng mực nào thì con người lại cũng sáng tạo lịch sử trong chừng
mực đó.Con người mang tính lịch sử cụ thể, tùy theo từng thời điểm lịch sử, gắn
với thời kỳ cách mạng.Người dùng khái niệm này hay khái niệm khác để chỉ
“con người” và xem xét nó trong những bình diện, những chiều khác nhau.
Con người là tổng hợp các quan hệ xã hội từ hẹp đến rộng:
4




Xét về bản chất, con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội, Hồ Chí
Minh quan niệm “chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu
bạn.Nghĩa rộng là đồng bào cả nước.Rộng hơn cả là loài người”. Nên ta phải
xây dựng môi trường để con người đó được giáo dục, rèn luyện, tiến bộ vì động
lực cơ bản của sự tiến bộ và phát triển xã hội chính là con người. “Hiền dữ phải

đâu là tính sẵn, phần nhiều do giáo dục mà nên”.
1.1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người và chiến
lược “trồng người”
a. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người:
Con người là vốn quý nhất:
Con người là nhân tố quyết định sự thành công của sự nghiệp cách mạng.
Theo Hồ Chí Minh, “trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân, trong thế giới
không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”. Vì vậy, “vô luận việc gì,
đều do người làm ra, và từ nhỏ đến to, từ gần đến xa, đều thế cả” [7, t.5, tr.241.].Người
cho rằng “việc dễ mấy không có nhân dân cũng chịu, việc khó mấy có dân liệu
cũng xong”. Hồ Chí Minh tổng kết ngắn gọn: dân ta tốt lắm. Người phân tích
phẩm chất tốt đẹp của dân từ lòng trung thành và tin tưởng vào cách mạng, vào
Đảng, không sợ gian khổ….Minh chứng cụ thể cho lòng tin ấy là Người đã sử
dụng lại lực lượng quan lại cũ của triều đình Huế nên đã có nhiều nhân tài lớn
cho xã hội nước ta. Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực cách mạng:
- Con người là mục tiêu của cách mạng:
Người làm hết sức để xây dựng, rèn luyện con người và quyết tâm đấu
tranh để đem lại độc lập, tự do, hạnh phúc cho con người. Người xác định con
người là mục tiêu trong điều kiện cụ thể của từng giai đoạn cách mạng. Khi đất
nước còn nô lệ, lầm than thì mục tiêu trước hết là giải phóng dân tộc, giành độc
lập dân tộc. Sau khi chính quyền đã về tay nhân dân, thì mục tiêu ăn, mặc, ở, đi
lại, học hành, chữa bệnh lại được ưu tiên hơn, bởi vì, “nếu nước độc lập mà dân
không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì”. Đến di
chúc, Người viết: “Đầu tiên là công việc đối với con người”. Con người là mục
tiêu của cách mạng nên mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Chính
Phủ đều vì lợi ích chính đáng của con người. Mục tiêu của một cuộc cách mạng
triệt để: đích cuối cùng là để giải phóng con người, đem lại tự do hạnh phúc cho
con người.Con người là mục tiêu của mọi sự phát triển xã hội.
5





- Con người là động lực của cách mạng:
Tiến hành giải phóng, xây dựng chủ nghĩa xã hôi đều vì con người. Hồ Chí
Minh khẳng định rằng sự nghiệp giải phóng là do chính bản thân con người thực
hiện. Không phải mọi con người đều trở thành động lực, mà phải là những con
người được giác ngộ và tổ chức.Họ phải có trí tuệ và bản lĩnh, văn hóa,đạo đức,
được nuôi dưỡng trên nền truyền thống lịch sử và văn hóa hàng ngàn năm của
dân tộc ta…. Chính trị, văn hóa, tinh thần là động lực cơ bản trong động lực con
người. Phải coi trọng, chăm sóc, phát huy nhân tố con người: đào tạo, bồi
dưỡng, xây dựng về phẩm chất, năng lực.
b. Quan điểm về chiến lược “trồng người”:
“Trồng người” là yêu cầu khách quan, một chiến lược:
Sự nghiệp “trồng người” là chiến lược hàng đầu của cách mạng, là yêu cầu
cấp bách và lâu dài. Điều này phản ánh tầm quan trọng có tính chất quyết định
của nhân tố con người, tất cả vì con người, do con người. “Vì lợi ích mười năm
phải trồng cây,vì lợi ích trăm năm phải trồng người”, Người rất quan tâm tới sự
nghiệp giáo dục, đào tạo, rèn luyện con người, đặc biệtlà thiếu niên nhi đồng.
Trước lúc đi xa, Bác để lại muôn vàn tình yêu thương cho dân tộc Việt Nam,
trong đó Người không quên nhắc đến thế hệ thiếu niên, nhi đồng bằng những
tình cảm đặc biệt: “Cuối cùng, tôi để lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân,
toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng. Tôi cũng
gửi lời chào thân ái đến các đồng chí, các bầu bạn và các cháu thanh niên, nhi
đồng quốc tế”. Bởi như lời Bác đã nói: “Ngày nay, các cháu là nhi đồng. Ngày
sau, các cháu là người chủ của nước nhà, của thế giới”.Trên cơ sở khẳng định
con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực cách mạng, con người phải đặt vào
trung tâm của sự phát triển. Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có
những con người xã hội chủ nghĩa.
- Ngay từ đầu phải xây dựng con người có những phẩm chất cơ bản, tiêu

biểu cho con người xã hội chủ nghĩa. Chứ không phải chờ có chủ nghĩa xã hội
thì mới có con người xã hội chủ nghĩa. Vấn đề về xây dựng xã hội chủ nghĩa có
quan hệ biện chứng với xây dựngcon người xã hội chủ nghĩa . Trong quá trình
xây dựng xã hội chủ nghĩa hình thành nên những con người chủ nghĩa xã hội.
Và những con người đó xây dựng lại xã hội chủ nghĩa, hai cái cùng song hành
với nhau.
6







- Con người mới xã hội chủ nghĩa: kế thừa những giá trị con người truyền
thống đồng thời hình thành phẩm chất mới như tư tưởng xã hội chủ nghĩa, đạo
đức xã hội chủ nghĩa, có trí tuệ, bản lĩnh để làm chủ, có lòng nhân ái, vị tha, độ
lượng.
Chiến lược “trồng người” là một trọng tâm, một bộ phận hợp thành của chiến
lược kinh tế - xã hội:
Để thực hiện chiến lược trồng người, cần có nhiều biện pháp nhưng giáo
dục và đào tạo là biện pháp quan trọng nhất. Bởi vì giáo dục tốt sẽ tạo ra tính
thiện, đem lại tương lai sáng cho học sinh, thanh niên và ngược lại giáo dục tồi
sẽ ảnh hưởng xấu đến học sinh.Theo Hồ Chí Minh phải xây dựng con người một
cách toàn diện: đức- trí- thể- mỹ: xây dựng mục đích, lối sống cao đẹp cho con
người; bồi dưỡng về đạo đức cách mạng; bồi dưỡng về trí tuệ, trình độ văn hóa,
ngoại ngữ, khoa học kĩ thuật; nâng cao sức khỏe. Nên “trồng người” là việc
“trăm năm”, không thể nóng vội “một sớm một chiều”.
1.2. Đường lối của Đảng
Nghị quyết hội nghị trung ương 8, khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo

dục và đào tạo – số 29-NQ/TW:
Quan điểm chỉ đạo:
- Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà
nước và của toàn dân.
- Trong quá trình đổi mới, cần kế thừa, phát huy những thành tựu, phát
triển những nhân tố mới, tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của thế giới;
kiên quyết chấn chỉnh những nhận thức, việc làm lệch lạc.
- Phát triển giáo dụcvà đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức
sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành;
lý luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình,
giáo dục xã hội.
Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội
và bảo vệ Tổ quốc; với tiến bộ khoa học và công nghệ; phù hợp quy luật khách
quan.

7










Nghị quyết hội nghị lần thứ 9 Ban chấp hành trung ương khóa XI về xây dựng
và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững
đất nước:

Nhiệm vụ:
+ Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện:
- Chăm lo xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, trọng tâm là
bồi dưỡng tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, đạo đức, lối sống và nhân
cách. Tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý thức tôn trọng pháp luật, mọi
người Việt Nam đều hiểu biết sâu sắc, tự hào, tôn vinh lịch sử, văn hóa dân tộc.
- Hướng các hoạt động văn hóa, giáo dục, khoa học vào việc xây dựng con
người có thế giới quan khoa học, hướng tới chân- thiện- mỹ.
- Nâng cao trí lực, bồi dưỡng tri thức cho con người Việt Nam đáp ứng yêu
cầu nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, của
nền kinh tế tri thức và xã hội học tập. Đúc kết và xây dựng hệ giá trị chuẩn của
con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
- Nâng cao thể lực, tầm vóc con người Việt Nam, gắn giáo dục thể chất với
giáo dục tri thức, đạo đức, kỹ năng sống, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc.
Báo cáo chính trị của Ban chấp hành trung ương Đảng khóa X tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng.
Chất lượng đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, chương trình nội dung
phương pháp dạy và học lạc hậu, đổi mới chậm.
1.3. Văn kiện của Đoàn:
Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh,
nhiệm kỳ 2012 – 2017:
+ Nhiệm vụ trọng tâm:
- Tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức cách mạng, truyền
thống, lịch sử dân tộc, văn hoá, lối sống, ý thức chấp hành pháp luật cho thanh
thiếu nhi. Xác định nội dung xuyên suốt trong công tác giáo dục của Đoàn là bồi
đắp lý tưởng, ước mơ, hoài bão, niềm tin, khát vọng cao đẹp của thanh niên
đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới; góp
phần hình thành lớp thanh niên ưu tú trên mọi lĩnh vực, kế thừa trung thành và
xuất sắc sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, “vừa hồng, vừa chuyên”

8






theo tư tưởng của Bác Hồ. Chú trọng giáo dục thanh thiếu nhi thông qua điển
hình tiên tiến học tập.
- Đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước trong thanh thiếu nhi, phát
huy mạnh mẽ trí tuệ, sức lực, tinh thần xung kích, sáng tạo, tình nguyện, khơi
dậy tiềm năng to lớn của thanh niên trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc; chăm lo tốt hơn nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của tuổi trẻ.
2. Cơ sở thực tiễn
Thực tiễn cuộc sống và hoạt động của Hồ Chí Minh:
- Năm 1941, sau 30 năm xa tổ quốc, Bác về nước trực tiếp lãnh đạo phong
trào cách mạng. Cùng với những công việc đại sự, Người còn chú ý đến phong
trào thiếu nhi. Từ đó xây dựng nghị quyết trung ương đảng lần thứ 8(5-1941),
thành lập Nhi đồng cứu vong Đoàn.
- Người ký săc lệnh số 14 ngày 30-1-1946 thành lập Nha Thể dục trung
ương trong Bộ thanh niên. Cuối tháng 3-1946, Người tự tay viết lời kêu gọi toàn
dân tập thể dục.
II. Thực trạng và giải pháp
1. Thực trạng:
Thực trạng thanh niên, học sinh hiện nay:
Một bộ phận học sinh ở nước ta hiện nay đang có những biểu hiện đáng lo
ngại: phai nhạt lý tưởng, sống buông thả, lười học tập và tu dưỡng đạo đức,
thích hưởng thụ, ngại lao động, chuộng những thứ thiếu lành mạnh hoặc phản
văn hóa, nghiện ngập, thậm chí vi phạm pháp luật.Cụ thể như sau:
-Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ của Bộ Công an, trong năm 2010, trên

địa bàn cả nước có 13.572 đối tượng phạm tội là người chưa thành niên, trong
đó 1.600 vụ học sinh đánh nhau, tăng nhiều lần so với những năm trước về số
lượng phạm tội và các vụ án nghiêm trọng. Đặc biệt, trong vài năm trở lại đây số
vụ vi phạm pháp luật hình sự do người chưa thành niên gây ra tuy có giảm so
với năm 2010, nhưng mức độ phạm tội nghiêm trọng hơn.
- Kỳ thi THPT quốc gia năm 2015 có: 776 thí sinh vi phạm quy chế thi bị
xử lý: cụ thể trong đó số thí sinh bị khiển trách là 49, cảnh báo 27 và đình chỉ
690 thí sinh.
- Qua tổng hợp phiếu khảo sát với hơn 700 học sinh và 120 giáo viên của
nhiều trường phổ thông, có 51,6% số em cho biết các em đã từng liên quan tới
9


bạo lực (bạo lực tinh thần như mắng, chửi, đe doạ, bắt phạt, đặt điều, sỉ nhục…
là hình thức thường gặp nhất với 73%; Bạo lực thể chất như tát, đá, xô đẩy, kéo
tóc, bạt tai, đánh đập… chiếm tới 41%).
- Theo số liệu của Vụ Sức khỏe Bà mẹ- Trẻ em, tỷ lệ vị thành niên có thai
trong tổng số người mang thai tăng liên tục qua các năm: năm 2010 là 2,9%,
năm 2011 là 3,1% và đến năm 2012 là 3,2% tương ứng với tỷ lệ phá thai ở lứa
tuổi này là 2,2%(2010), 2.4%(2011) và 2,3% (2012).
+ Hội thảo Phổ biến kết quả nghiên cứu trẻ em ngoài nhà trường của Việt
Nam do Bộ GDĐT tổ chức ngày 11.9.2014
Theo nghiên cứu này, tổng số trẻ em ngoài nhà trường ở lứa tuổi từ 5 - 14
tại Việt Nam đang là 1.127.345 trẻ em. Trong đó, trẻ em 5 tuổi không được đến
trường là 175.848 em, từ 6 - 10 tuổi là 262.648 em, từ 11 - 14 tuổi là 688.849
em. Đây là những trẻ chưa từng đi học, bỏ học hoặc có nguy cơ bỏ học.
PGS-TS Lê Khánh Tuấn - Phó Vụ trưởng Vụ Kế hoạch tài chính - Bộ
GDĐT cũng thông tin: Tỷ lệ trẻ em đã đi học nhưng sau đó thôi học tăng mạnh
theo độ tuổi. Ở độ tuổi lên 5, tỷ lệ thôi học là 0,2%; tiểu học là 1,16% nhưng lên
đến độ tuổi 14 đã có gần 16% thôi học, độ tuổi 17 tăng lên 39%.





Ưu điểm của học sinh hiện nay:
Học sinh hiện nay được sống trong một môi trường tốt, hiện đại văn minh,
hòa bình, dân chủ.
Được gia đình, nhà trường, xã hội quan tâm.
Có nhiều chính sách ưu tiên từ Đảng, nhà nước, xã hội hơn.
Được tiếp xúc với các mô hình khoa học công nghệ,giáo dục, y tế hiện đại.
Nhược điểm của học sinh hiện nay:
Giáo dục nước ta còn nặng về lý thuyết, nhẹ về thực hành, cải cách chưa
sâu gây áp lực cho học sinh.
Cơ sở vật chất ở một số nơi chưa bảo đảm nhu cầu học tập cho các em, đặc
biệt là vùng sâu, vùng xa.
Phương tiện dạy học ở một số nơi còn thiếu, sơ sài, gây cản trở cho quá
trình học.

10




Nguyên nhân của thực trạng trên:
Thiếu sự quan tâm giáo dục từ gia đình:trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế,
việc mưu sinh kiếm sống rất khó khăn và áp lực nên cha mẹ ít có thời gian chăm
sóc, quan tâm, dạy dỗ con cái.
Trong quá trình hội nhập, phát triển, việc giao lưu văn hóa ngoại ảnh hưởng
trực tiếp đến đạo đức của các em, .
Khoa học công nghệ phát triển, học sinh tiếp xúc với internet và học rất

nhiều điều bổ ích từ nó nhưng cũng có những thông tin, hình ảnh, phim sai lệch
hay không phù hợp với lứa tuổi. Học sinh thiếu định hướng nên dễ nhận thức sai
lầm và hiện tượng nghiện facebook gây ảnh hưởng lớn đến các em.
Mặt trái của sự phát triển kinh tế thị trường gây suy thoái đạo đức, tệ nạn
ngày càng nhiều và tràn lan, xâm nhập vào học đường cũng là nguyên nhân lớn
ảnh hưởng đến nhận thức của các em.
2. Đề xuất giải pháp
Sử dụng linh hoạt, tổng hợp các phương pháp giáo dục, kết hợp giữa nhà
trường, gia đình, xã hội, lý luận đi đôi với thực tiễn,học đi đôi với hành.
Nhà nước nên cải cách giáo trình, sách giáo khoa phù hợp với các bậc học,
đảm bảo văn hóa, khoa học, hiện đại, truyền thống.
Giáo dục nên hướng đến đào tạo học sinh năng lực phê phán, tư duy khoa
học, năng động, sáng tạo, tự chủ.Đầu tư các trang thiết bị, cơ sở vật chất cho dạy
học, các khu thực hành, thí nghiệm nhiều hơn.Trong quá trình dạy nên phối hợp
các trang thiết bị hiện đại, đa phương tiện, truy cập internet.Nên đưa nhiều hơn
các giờ thảo luận, đối thoại với học sinh, với các nhóm trong lớp học.Nên đưa
các trò chơi dân gian vào sinh hoạt cuối tuần và hoạt động ngoại khóa.Cho học
sinh tham gia các hoạt động thực tiễn, đoàn đội nhiều hơn; các hoạt động, cuộc
thi sáng tạo tư duy khoa học cũng như phong trào văn nghệ, đền ơn đáp nghĩa.

11


C. KẾT LUẬN
Tuổi trẻ là tương lai của nhân loại, là lực lượng đi đầu trong đường lối đổi
mới và xây dựng con người mới. Thời học sinh là lứa tuổi đẹp nhất của con
người, cho nên các em phải biết rèn luyện, tu dưỡng bản thân, cố gắng học thật
tốt, nêu gương Bác Hồ vĩ đại để xứng đáng với công lao, tình yêu của Người và
của Đảng ta. “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt
Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu dược

hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”.Tư tưởng về
xây dựng con người mới là một bộ phận rất quan trọng trong hệ thống tư tưởng
Hồ Chí Minh. Từ lâu tư tưởng đó đã trở thành một bộ phận của nền văn hóa dân
tộc và là ngọn đèn soi đường cho công cuộc xây dựng một nền văn hóa và đạo
đức mới ở Việt Nam.
Làm đề tài này thật ra là nó khá rộng với khả năng của tôi. Với sự hiểu biết
còn nông cạn và chưa sâu, tôi đã gặp nhiều khó khăn trong cách diễn đạt, lập đề
cương và tìm hiểu tài liệu nào cho xác thực, đúng với yêu cầu. Nên có lẽ thời
gian làm của tôi còn khá chậm so với các bạn khác. Song với sự cố gắng của bản
thân, sự hướng dẫn tận tình của thầy, tôi đã hoàn thành bài nghiên cứu của mình.
Và thật bổ ích khi tôi biết thêm nhiều thực trạng đáng báo động của học sinh
hiện nay, biết được nguyên nhân và bằng sự nghiên cứu giáo trình, tài liệu khác,
tôi đã rút ra vài cách khắc phục đóng góp cho đề tài. Bên cạnh đó, tôi hiểu thêm
tư tưởng của Người về xây dựng con người mới và đường lối của Đảng trong
việc vận dụng tưởng ấy của Người vào việc xây dựng con người mới trong học
sinh hiện nay. Qua đó tôi có thể rèn luyện, tu dưỡng bản thân để trở thành một
công dân hữu ích cho xã hội, phù hợp với xã hội hiện nay.

12


D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bộ giáo dục và đào tạo: Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Chính
Trị quốc gia- sự thật Hà Nội – 2012.
[2] Tư tưởng Hồ CHí Minh về giáo dục, Nxb Lao động Hà Nôi – 2006.
[3] thuvienphapluat.vn- nghị quyết 29 – NQ/TW 2013.
[4] chinhphu.vn
[5] doanthanhnien.vn.
[6] tuoitre.vn.
[7] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia.

[8] Bộ giáo dục và đào tạo: Giáo trình những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác- Lênin, Nxb chính trị quốc gia - sự thật Hà Nội- 2012.

13


MỤC LỤC



×