Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

Pháp luật về tiền lương thực trạng áp dụng tại công ty cổ phần đầu tư và thương mại TNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (753.55 KB, 113 trang )

Luận văn Thạc sĩ luật học

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT


PHẠM THỊ HỒNG

PHÁP LUẬT VỀ TIỀN LƢƠNG - THỰC TRẠNG ÁP DỤNG
TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN ĐẦU TƢ VÀ THƢƠNG MẠI TNG

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2013

1


Luận văn Thạc sĩ luật học

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT


PHẠM THỊ HỒNG

PHÁP LUẬT VỀ TIỀN LƢƠNG - THỰC TRẠNG ÁP DỤNG
TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN ĐẦU TƢ VÀ THƢƠNG MẠI TNG

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số


: 60.38.50

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
TS. ĐẶNG VŨ HUÂN

HÀ NỘI – 2013

2


Luận văn Thạc sĩ luật học

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin
cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả
các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo
vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƢỜI CAM ĐOAN

Phạm Thị Hồng

3



Luận văn Thạc sĩ luật học

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TIỀN LƢƠNG VÀ
PHÁP LUẬT VỀ TIỀN LƢƠNG
1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TIỀN LƢƠNG
1.1.1 Khái niệm tiền lương
1.1.2. Bản chất của tiền lương
1.1.3. Chức năng của tiền lương
1.1.4. Vai trò của tiền lương
1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ TIỀN
LƢƠNG
1.2.1. Tổng quan chính sách, pháp luật về tiền lương
1.2.2. Đối tượng, phạm vi điều chỉnh của pháp luật tiền lương
1.2.3. Một số nội dung cơ bản của pháp luật về tiền lương
Tiểu kết Chƣơng 1
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ TIỀN LƢƠNG ÁP
DỤNG TRONG DOANH NGHIỆP VÀ TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN
THƢƠNG MẠI & ĐẦU TƢ TNG
2.1. THỰC TRẠNG CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ TIỀN
LƢƠNG ÁP DỤNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP
2.1.1. Quy định về tiền lương và mức lương tối thiểu
2.1.2. Quy định về thang lương, bảng lương, định mức lao động
2.1.3. Chế độ phụ cấp
2.1.4. Chế độ thưởng
2.1.5. Một số quy định của pháp luật về trả lương khác
2.2. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ TIỀN LƢƠNG
TRONG DOANH NGHIỆP VÀ TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN ĐẦU TƢ


4

3
9
9
9
11
14
17
18
18
21
22
38
40

40
40
42
50
53
55
61


Luận văn Thạc sĩ luật học
VÀ THƢƠNG MẠI TNG
2.2.1. Khái quát việc áp dụng pháp luật về tiền lương trong doanh
nghiệp (minh chứng cụ thể qua các doanh nghiệp của ngành Dệt May)

2.2.2. Thực trạng áp dụng pháp luật về tiền lương tại Công ty Cổ
phần Đầu tư và Thương mại TNG

61
72

Tiểu kết Chƣơng 2
Chƣơng 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TIỀN
LƢƠNG ÁP DỤNG TRONG DOANH NGHIỆP VÀ CÔNG TY CỔ
PHẦN ĐẦU TƢ & THƢƠNG MẠI TNG
3.1. MỘT SỐ YÊU CẦU VÀ ĐỊNH HƢỚNG HOÀN THIỆN
CHÍNH SÁCH PHÁP LUẬT VỀ TIỀN LƢƠNG ÁP DỤNG TRONG
CÁC DOANH NGHIỆP
3.1.1. Những yêu cầu từ thực tiễn phát triển nền kinh tế
3.1.2. Một số định hướng hoàn thiện chính sách pháp luật về tiền
lương trong các doanh nghiệp

83

3.2. CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
3.2.1. Hoàn thiện chính sách pháp luật về tiền lương áp dụng cho các
doanh nghiệp
3.2.2. Hoàn thiện việc áp dụng chính sách pháp luật về tiền lương tại
Công ty Cổ phần Đầu tư và Thương mại TNG

89
89

Tiểu kết Chƣơng 3
KẾT LUẬN

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

5

85
85

85
77

99
101
103
106


Luận văn Thạc sĩ luật học

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Pháp luật tiền lương là một bộ phận quan trọng của chính sách kinh tế - xã
hội. Bởi lẽ, tiền lương không chỉ liên quan đến thu nhập và đời sống của người
lao động, mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất, kinh doanh, đến
chi phí sản xuất, đến mối quan hệ giữa tích lũy và tiêu dùng, quan hệ giữa người
lao động và người sử dụng lao động. Xây dựng một hệ thống chính sách, pháp
luật tiền lương đúng đắn, có căn cứ khoa học sẽ là động lực thúc đẩy sản xuất
phát triển, cải thiện và nâng cao đời sống của người lao động, thúc đẩy tăng
trưởng và phát triển kinh tế - xã hội.
Hiện nay, lực lượng lao động của nước ta vào khoảng 43,9 triệu người
trong tổng số 85,789 triệu dân số cả nước, người chiếm 51,1%. Trong đó, lực

lượng lao động làm việc trong khu vực kinh tế nhà nước chiếm một tỷ lệ nhỏ,
khoảng 9,07 %, còn lại chủ yếu là làm việc trong khu vực sản xuất, kinh doanh,
không hưởng lương từ ngân sách nhà nước chiếm một tỷ lệ tương đối lớn 96,2%.
Trong khu vực sản xuất, kinh doanh đó, ngành Dệt May đóng vai trò quan trọng
và được coi là ngành sử dụng một khối lượng lao động khá đông đảo. Với hơn
2.000 doanh nghiệp, sử dụng hơn 2 triệu lao động, kim ngạch xuất khẩu của
ngành này năm 2012 lên tới 10,5 tỷ USD [32]. Chính vì vậy, Dệt May được coi
là ngành xuất khẩu mũi nhọn của nền kinh tế và Dệt May cũng được coi là thế
mạnh xuất khẩu của Việt Nam được nhiều nước trên thế giới biết đến. Tuy
nhiên, có một thực tế là mức lương của lao động ngành Dệt May hiện nay vẫn
được coi là thấp so với những gì mà ngành này mang lại cho nền kinh tế. Mặt
khác, trong tổng số những cuộc đình công diễn ra trong những năm qua, đình

6


Luận văn Thạc sĩ luật học
công trong các doanh nghiệp dệt may chiếm một tỉ lệ lớn, đó chủ yếu là những
cuộc đình công về lợi ích, xoay quanh vấn đề tiền lương.
Với một lực lượng lao động làm việc trong khu vực sản xuất, kinh doanh
nói riêng và trong lĩnh vực dệt may đông đảo như vậy, đã đặt ra cho chúng ta
một thử thách lớn là làm sao và làm như thế nào để ổn định và đáp ứng được vấn
đề tiền lương, ổn định cuộc sống cho họ? Bằng cách nào để khuyến khích họ làm
việc, đóng góp công sức xây dựng đất nước. Vì vậy, yêu cầu cần được đặt ra là
chúng ta cần xây dựng một hệ thống pháp luật tiền lương không chỉ hợp pháp,
mà còn phải hợp lý. Bởi lẽ, mức lương hợp lý sẽ góp phần cân bằng quan hệ lao
động, khuyến khích người dân vào làm việc tại các doanh nghiệp thay vì làm
nghề tự do. Một chính sách tiền lương hợp lý sẽ vừa tạo sự ổn định trong doanh
nghiệp, vừa bảo vệ người lao động trong bối cảnh mối quan hệ cung - cầu lao
động đang bị mất cân đối như hiện nay. Bên cạnh đó, tiền lương được điều chỉnh

phù hợp sẽ khuyến khích người dân học nghề, nâng cao chất lượng nguồn lao
động, góp phần tăng sức cạnh tranh cho nước ta. Điều này cũng sẽ góp phần cho
các doanh nghiệp tháo gỡ nhiều khó khăn trong hoạch định và thực hiện các
chiến lược.
Có thể thấy, vấn đề tiền lương luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm,
được Quốc hội, Chính phủ cho sửa đổi, bổ sung nhiều lần và đã đạt kết quả đáng
kể. Song trong nền kinh tế thị trường, thì những quy định của pháp luật về tiền
lương hiện hành đã bộc lộ nhiều bất cập cả về quy mô, nội dung và hình thức, đã
hạn chế vai trò và động lực của tiền lương, là nguyên nhân làm tăng bất bình
đẳng và cản trở sự phát triển nhanh và ổn định chính trị xã hội của đất nước.
Chính vì vậy, vấn đề tiền lương đòi hỏi cần được nghiên cứu nghiêm túc và toàn
diện để bổ sung, điều chỉnh cho phù hợp.

7


Luận văn Thạc sĩ luật học
Với mong muốn tìm hiểu những quy định của pháp luật về vấn đề tiền
lương, cũng như việc áp dụng những quy định này tại doanh nghiệp, nên tôi đã
mạnh dạn lựa chọn đề tài “Pháp luật về tiền lương - Thực trạng áp dụng tại
Công ty Cổ phần Đầu tư và Thương mại TNG” để làm Luận văn Thạc sĩ luật
học với hy vọng góp một phần nhỏ vào việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về
tiền lương áp dụng trong các doanh nghiệp ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Tiền lương là một trong những hình thức hình thành lợi ích vật chất đối
với người lao động, vì vậy, để sử dụng đòn bẩy tiền lương nhằm đảm bảo sản
xuất phát triển, duy trì một đội ngũ lao động có trình độ kỹ thuật và nghiệp vụ
cao với ý thức kỷ luật vững, đòi hỏi tổ chức tiền lương trong doanh nghiệp phải
được đặc biệt coi trọng. Với ý nghĩa như vậy, nên các vấn đề liên quan đến tiền
lương đã được các nhà khoa học nghiên cứu cả dưới giác độ kinh tế và luật học.

Đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này được công bố như: Đề tài
“Chính sách tiền lương: Thực trạng vấn đề và yêu cầu đặt ra cho giai đoạn 1011
-2015” của Viện Khoa học Lao động và Xã hội do TS. Nguyễn Hữu Dũng làm
chủ nhiệm, năm 2010; “Giải pháp hoàn thiện chế độ tiền lương cho người lao
động khu vực doanh nghiệp” của ThS. Nguyễn Trúc Vân, Viện Nghiên cứu Phát
triển TP. Hồ Chí Minh; “Bàn về chính sách tiền lương, tiền công thời gian qua”
của tác giả Đỗ Văn Tính, Khoa Quản trị kinh doanh Đại học Duy Tân (TP. Hồ
Chí Minh); “Cơ chế thỏa thuận về tiền lương trong doanh nghiệp”, bài viết đăng
trên Cổng Thông tin điện tử của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội... Bên
cạnh đó, cũng có nhiều bài viết, luận văn đại học và luận văn thạc sĩ về vấn đề
này như: “Chế độ tiền lương trong doanh nghiệp” của tác giả Vũ Thị Hà, Tạp
chí Lao động Xã hội, tháng 8 năm 2008; “Chế độ pháp lý về tiền lương trong

8


Luận văn Thạc sĩ luật học
các doanh nghiệp và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Thừa Thiên Huế”, Luận văn của
Đại học Huế, năm 2010; “Hoàn thiện công tác trả lương tại Công ty Cổ phần
VINATEX Đà Nẵng”, Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh của tác giả Phạm
Thị Hà Ly, Đại học Đà Nẵng, năm 2012; “Chế độ tiền lương tối thiểu ở Việt
Nam”, Luận văn Thạc sĩ luật học của tác giả Vũ Thị Là, Khoa Luật Đại học
Quốc gia Hà Nội, năm 2011... và nhiều công trình khác...
Các công trình trên đây đều đã có các nghiên cứu khái quát về tiền lương,
các vấn đề liên quan đến chính sách pháp luật về tiền lương và được coi là tài
liệu tham khảo có giá trị trong quá trình nghiên cứu đề tài “Pháp luật về tiền
lương - Thực trạng áp dụng tại Công ty Cổ phần Đầu tư và Thương mại TNG”.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luận văn khi đề cập nghiên cứu đề tài này là:
- Nghiên cứu một cách có hệ thống chính sách pháp luật về tiền lương

trong các doanh nghiệp thuộc khu vực sản xuất kinh doanh.
- Làm rõ thực tiễn áp dụng pháp luật về tiền lương trong doanh nghiệp và
tại Công ty Cổ phần Đầu tư và Thương mại TNG, qua đó, đề xuất các kiến nghị
góp phần hoàn thiện chính sách pháp luật tiền lương trong các doanh nghiệp.
Để đạt được mục đích nghiên cứu nói trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Phân tích khái niệm, đặc điểm của tiền lương; những nội dung pháp lý cơ
bản của chính sách pháp luật về tiền lương cho các doanh nghiệp thuộc khu vực
sản xuất kinh doanh.
- Đánh giá thực trạng pháp luật về tiền lương trong doanh nghiệp và thực
trạng áp dụng pháp luật tại Công ty Cổ phần Đầu tư và Thương mại TNG.

9


Luận văn Thạc sĩ luật học
- Kiến nghị hoàn thiện pháp luật và áp dụng pháp luật về tiền lương tại các
doanh nghiệp nói chung và Công ty Cổ phần Đầu tư và Thương mại TNG nói
riêng.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi một luận văn thạc sĩ luật học, chuyên ngành Luật Kinh tế,
đề tài tập trung nghiên cứu những nội dung pháp lý cơ bản nhất của chính sách,
pháp luật về tiền lương ở nước ta được áp dụng đối với người lao động trong các
doanh nghiệp. Đồng thời, để làm sáng tỏ thêm đề tài nghiên cứu, Luận văn còn
xem xét thực tiễn áp dụng những quy định về chính sách, pháp luật tiền lương tại
Công ty Cổ phần Đầu tư và Thương mại TNG.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được hoàn thành dựa trên phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác
– Lê Nin; quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Bên cạnh đó, để đạt
được mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra, tác giả luận văn còn sử dụng kết
hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học cơ bản như:

- Phương pháp phân tích: Đây là phương pháp chủ đạo trong luận văn
nhằm làm sáng tỏ và đánh giá tính hiệu quả, cũng như chỉ rõ những bất cập trong
pháp luật hiện hành về tiền lương. Việc phân tích, đánh giá hiệu quả các quy
định này được gắn liền với thực tiễn áp dụng pháp luật và có tính đến sự phù hợp
với xu hướng phát triển trong thời gian tới.
- Phương pháp so sánh: Tác giả đã so sánh việc áp dụng pháp luật tiền
lương với các lĩnh vực pháp luật khác, từ đó, rút ra những nhận xét khách quan
cho việc xây dựng và áp dụng pháp luật tiền lương.
- Phương pháp trao đổi, phỏng vấn và điều tra xã hội học: Được sử dụng
khi gặp gỡ các cán bộ chuyên trách, các cán bộ quản lý – những người trực tiếp

10


Luận văn Thạc sĩ luật học
thực thi những quy định pháp luật về tiền lương trong doanh nghiệp, các chuyên
viên được giao nhiệm vụ xây dựng, áp dụng pháp luật và tiếp thu những kinh
nghiệm vũng như những bài học thực tiễn.
Ngoài các phương pháp nói trên, trong quá trình nghiên cứu tác giả còn sử
dụng phương pháp thống kê, tổng hợp...
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Luận văn là chuyên khảo đầu tiên nghiên cứu có tính hệ thống và tương
đối toàn diện chính sách pháp luật về tiền lương trong doanh nghiệp và áp dụng
pháp luật tiền lương trong một doanh nghiệp cụ thể là Công ty Cổ phần Đầu tư
và Thương mại TNG.
Luận văn có thể làm tư liệu tham khảo trong nghiên cứu và giảng dạy
chính sách pháp luật về tiền lương trong doanh nghiệp, cũng như trong thực tiễn
thực thi pháp luật về vấn đề này tại doanh nghiệp.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung

của luận văn được kết cấu gồm 3 chương.
Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận về tiền lương và pháp luật về tiền lương.
Chƣơng 2: Thực trạng áp dụng pháp luật về tiền lương trong doanh
nghiệp và tại Công ty Cổ phần Đầu tư và Thương mại TNG
Chƣơng 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về tiền lương áp dụng trong
doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Đầu tư & Thương mại TNG

11


Luận văn Thạc sĩ luật học

Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TIỀN LƢƠNG
VÀ PHÁP LUẬT VỀ TIỀN LƢƠNG
1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TIỀN LƢƠNG
1.1.1 Khái niệm tiền lƣơng
Tiền lương không chỉ là một phạm trù kinh tế mà còn là yếu tố hàng đầu
của các chính sách xã hội liên quan đến trực tiếp cuộc sống của người lao động.
Thuật ngữ tiền lương đã được nhiều công trình nghiên cứu đề cập. Có rất nhiều
cách hiểu khác nhau về tiền lương. Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) đã có quan
điểm về tiền lương như sau: “Tiền lương là sự trả công hoặc thu nhập, bất luận
tên gọi hay cách tính thế nào, mà có thể biểu hiện bằng tiền mặt và được ấn định
bằng thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động, hoặc bằng pháp
luật, pháp quy quốc gia, do người sử dụng lao động phải trả cho người lao động
theo một hợp đồng lao động viết hay bằng miệng, cho một công việc đã thực
hiện hay sẽ phải thực hiện, hoặc cho những dịch vụ đã làm hay sẽ phải làm”
(Điều 1- Công ước số 45 năm 1949) [7].
Với định nghĩa này, ILO đã đưa ra các dấu hiệu nhận biết tiền lương, bao
gồm: (i) Tiền lương là sự trả công lao động; (ii) Hình thức biểu hiện của tiền

lương là tiền mặt; (iii) Tiền lương được ấn định bằng sự thỏa thuận của các bên
hoặc bằng pháp luật quốc gia; (iv) Lý do mà người sử dụng lao động phải trả
lương cho người lao động. Có thể thấy, đây là định nghĩa khá toàn diện về tiền
lương. Pháp luật của nhiều quốc gia đã vận dụng định nghĩa này một cách linh
hoạt, phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội hiện tại của quốc gia mình [7].

12


Luận văn Thạc sĩ luật học
Bên cạnh đó tiền lương còn được tiếp cận dưới góc độ về kinh tế, xã hội
và phương diện về pháp lý.
- Dưới góc độ kinh tế: Với sự thừa nhận sức lao động là hàng hóa, có thể
hiểu tiền lương là sự biểu hiện bằng tiền giá trị sức lao động, là giá cả sức lao
động được hình thành thông qua sự thỏa thuận giữa người sử dụng lao động trả
cho người lao động. Như vậy, tiền lương về thực chất là tiền trả cho việc thuê
mướn sức lao động, là một trong các yếu tố đầu vào của sản xuất, cấu thành nên
chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tiền lương vừa là chi phí trong
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vừa là lợi ích kinh tế, thu nhập của người
lao động.
- Dưới góc độ xã hội: Tiền lương là mục đích, là động cơ chủ yếu để
người lao động tham gia quan hệ lao động, bên cạnh đó tiền lương là một vấn đề
nhạy cảm của quan hệ lao động và sự thống nhất, ổn định bền vững của quan hệ
lao động, đảm bảo được cuộc sống ổn định, ấm no của người lao động.
- Dưới góc độ pháp lý: Tiền lương là số tiền tệ mà người sử dụng lao
động trả cho người lao động khi họ hoàn thành công việc theo chức năng, nhiệm
vụ được pháp luật quy định hoặc hai bên đã thỏa thuận theo hợp đồng lao động
trên cơ sở năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả công việc.
Tiền lương của người lao động được nghiên cứu trên 2 góc độ là tiền
lương danh nghĩa và tiền lương thực tế:

Tiền lương danh nghĩa: Là số tiền mà người sử dụng lao động trả cho
người lao động căn cứ trong hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể, như
vậy, tiền lương danh nghĩa có ích cho việc so sánh tiền lương của người lao động
khác nhau tại một thời điểm cho trước. Số tiền này ít hay nhiều phụ thuộc trực

13


Luận văn Thạc sĩ luật học
tiếp vào năng suất lao động và hiệu quả công việc của người lao động, phụ thuộc
vào trình độ, kinh nghiệm làm việc trong quá trình lao động.
Tiền lương thực tế: Được hiểu là các loại hàng hóa tiêu dùng và các loại
dịch vụ cần thiết mà người lao động hưởng lương có thể mua được bằng tiền
lương danh nghĩa. Nếu giá cả tăng lên, thì tiền lương thực tế giảm đi và đời sống
của người hưởng lương sẽ bị ảnh hưởng. Từ đó, đặt ra yêu cầu điều chỉnh tăng
lương danh nghĩa để đảm cho sức mua của nó, tức là đảm bảo giá trị của tiền
lương thực tế.
Kinh tế học vi mô cổ điển coi sản xuất là sự kết hợp giữa hai yếu tố là lao
động và vốn. Vốn thuộc quyền sở hữu của một bộ phận dân cư trong xã hội, còn
một bộ phân dân cư do không có vốn mà chỉ có sức lao động, phải đi làm thuê
cho người có vốn và đổi lại họ nhận được một khoản tiền gọi là tiền lương. Bản
thân tiền lương có liên quan đến vấn đề lý luận lợi ích, lý luận về sự phân phối
và thu nhập của Nhà nước, của doanh nghiệp và người lao động. Tiền lương hàm
chứa nhiều mối quan hệ biện chứng, đó là các mối quan hệ giữa sản xuất và nâng
cao đời sống, giữa tích lũy và tiêu dùng, giữa thu nhập của các tầng lớp dân cư.
Trong khu vực sản xuất kinh doanh, tiền lương là giá cả sức lao động, là yếu tố
đầu vào của sản xuất, tham gia vào hình thành chi phí sản xuất và phân phối theo
kết quả đầu ra của sản xuất kinh doanh. Trong nền kinh tế thị trường và hội
nhập, tiền lương là một trong những chỉ số quan trọng để xem xét một nền kinh
tế được coi là kinh tế thị trường hay chưa.

1.1.2. Bản chất của tiền lƣơng
Trong mỗi giai đoạn khác nhau, thì cách tiếp nhận về bản chất tiền lương
khác nhau. Tuy nhiên, có hai cách nhận thức cơ bản nhất về bản chất tiền lương.
Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, hầu hết các doanh nghiệp đều thuộc sở

14


Luận văn Thạc sĩ luật học
hữu nhà nước và hoạt động sản xuất, kinh doanh để thực hiện các mục tiêu kinh
tế - xã hội do Nhà nước đặt ra. Lúc bấy giờ, sức lao động chưa được coi là hàng
hóa, mà tiền lương được coi là một phần thu nhập quốc dân biểu hiện dưới hình
thức tiền tệ, được Nhà nước phân phối một cách có kế hoạch cho công nhân viên
căn cứ vào số lượng và chất lượng mà họ cống hiến, do đó, người sử dụng lao
động không thương lượng, thỏa thuận với người lao động về tiền lương, tiền
công, mà đơn phương ấn định mức lương của người lao động trên cơ sở thang
lương, bảng lương của Nhà nước. Khi đó, người lao động chỉ biết chấp nhận các
điều kiện lao động do người sử dụng lao động đơn phương đưa ra để đưa vào
làm việc với mức lương được quy định sẵn trong thang lương, bảng lương của
người sử dụng lao động. Kể từ khi nước ta xóa bỏ cỏ chế kế hoạch hóa tập trung,
chuyển sang xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, các nhà hoạch định chính sách tiền lương đã thay đổi nhận thức về lý luận
trong xây dựng chính sách tiền lương. Nhà nước đã công nhận sự tồn tại khách
quan của phạm trù hàng hóa sức lao động, tiền lương không chỉ thuộc phạm trù
phân phối, mà còn là phạm trù trao đổi, phạm trù giá trị...
Trong nền kinh tế thị trường, tiền lương là biểu hiện bằng tiền giá trị sức
lao động, là giá cả sức lao động. Cũng như các thị trường khác, thị trường sức
lao động hoạt động theo quy luật cung cầu. Do đó, người lao động có quyền
thương lượng, thỏa thuận với người sử dụng lao động về việc làm và điều kiện
lao động khác phù hợp với khả năng chuyên môn, năng lực của mình. Tiền

lương của người lao động do hai bên thỏa thuận và được ghi trong hợp đồng lao
động. Người sử dụng lao động trả lương cho người lao động theo năng suất, chất
lượng và hiệu quả công việc. Nhà nước chỉ quy định mức lương tối thiểu và yêu
cầu người sử dụng lao động trả lương cho người lao động không được thấp hơn

15


Luận văn Thạc sĩ luật học
mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định trong từng thời kỳ. Mức lương tối
thiểu ấn định theo giá sinh hoạt, bảo đảm cho người lao động làm công việc giản
đơn nhất trong điều kiện lao động bình thường bù đắp sức lao động giản đơn và
một phần tích lũy tái sản xuất sức lao động mở rộng và được dùng làm căn cứ để
tính các mức lương cho các loại lao động khác. Trên cơ sở mức lương tối thiểu
và mức lương cụ thể đã thỏa thuận với người lao động, người sử dụng lao động
có quyền lựa chọn một trong các hình thức sau để trả lương cho người lao động,
cụ thể là: Trả lương theo thời gian (giờ, ngày, tháng, tuần) hoặc trả lương theo
thỏa thuận khoán sản phẩm. Những người sử dụng lao động phải duy trì hình
thức trả lương đã được các bên thỏa thuận hoặc lựa chọn trong một thời gian
nhất định và phải thông báo cho người lao động. Tiền lương có vai trò to lớn
trong xã hội, luôn gắn liền với người lao động. Chính vì vậy, tiền lương mà các
doanh nghiệp trả cho người lao động theo cơ chế thị trường phải đáp ứng các
điều kiện: Tiền lương phải thực sự là thước đo cho mỗi hoạt động của mỗi cơ sở
kinh tế, từng người lao động và là đòn bẩy kinh tế, tiền lương không phù hợp,
phản ánh sai lệch sức lao động, nó sẽ cản trở tính năng động, sáng tạo của người
lao động và kìm hãm sự phát triển của doanh nghiệp của nền kinh tế [9].
Như vậy, tiền lương trong nền kinh tế thị trường phải bao gồm 3 vấn đề
lớn như sau:
- Tiền lương là giá cả sức lao động, hay biểu hiện bằng tiền của giá trị lao
động mà người sử dụng lao động trả cho người lao động;

- Tiền lương phụ thuộc vào quan hệ cung cầu lao động trên thị trường lao
động, nhưng không thấp hơn mức lương tối thiểu đủ sống mà pháp luật đã quy
định;

16


Luận văn Thạc sĩ luật học
- Tiền lương được xác định thông qua cơ chế thỏa thuận giữa các bên
trong quan hệ lao động.
1.1.3. Chức năng của tiền lƣơng
Tiền lương có vai trò rất quan trọng trong đời sống người lao động cũng
như đối với doanh nghiệp. Tiền lương là cơ sở để các bên thỏa thuận trong hợp
đồng lao động đồng thời tiền lương cũng là căn cứ xác lập và giải quyết tranh
chấp. Tiền lương có rất nhiều chức năng như sau:
1.1.3.1. Chức năng thước đo giá trị sức lao động
Cũng như mối quan hệ của hàng hóa khác, sức lao động cũng được trả
công căn cứ vào giá trị mà nó đã được cống hiến và tiền lương chính là biểu hiện
bằng tiền của giá trị sức lao động trong cơ chế thị trường. Ở nước ta, thì tiền
lương còn thể hiện một phần sức lao động mà mỗi cá nhân đã bỏ ra trong quá
trình sản xuất kinh doanh. Tiền lương là căn cứ để thuê mướn lao động, là cơ sở
để người sử dụng lao động tạo ra sự linh hoạt trong việc thuê mướn lao động, với
những công việc khác nhau sẽ có mức lương khác nhau. Chức năng thước đo giá
trị phản ánh thông qua thang lương, bảng lương,bậc lương và hệ số lương. Với tư
cách là thước đo giá trị sức lao động, một mặt, tiền lương phải bù đắp hao phí
sức lao động của người hưởng lương trong quá trình lao động, mặt khác, phải
tính toán đầy đủ các yếu tố về sinh học và xã hội nhằm bù đắp và bảo đảm cho
đời sống của người làm công trước và sau quá trình lao động.
Trong quá trình phát triển của nền kinh tế xã hội, giá cả tư liệu sinh hoạt
thường xuyên biến động làm cho giá trị sức lao động cũng biến đổi theo. Tiền

lương muốn phản ánh đúng giá trị sức lao động cũng phải thay đổi theo sự biến
động đó. Tuy nhiên, trong thực tế tiền lương chưa thực hiện được chức năng này,
không phản ánh thực tế và ngày càng xa rời giá trị sức lao động.

17


Luận văn Thạc sĩ luật học
1.1.3.2. Chức năng tái sản xuất sức lao động
Tái sản xuất sức lao động là nội dung quan trọng của tái sản xuất sức xã
hội nói chung. Đây là chức năng cơ bản của tiền lương, vì người lao động sau
quá trình sử dụng sức lao động thì họ phải được bù đắp sức lao động đã bỏ ra, họ
cần có thu nhập bằng tiền lương cộng với các khoản thu khác (mà tiền lương là
chủ yếu). Do vậy, tiền lương là cơ sở giúp người lao động bù đắp lại sức lao
động đã hao phí để họ có thể duy trì liên tục quá trình sản xuất kinh doanh. Bên
cạnh đó, trong cơ cấu tiền lương, cần dành một khoản hợp lý cho việc nuôi con
của người lao động, tích lũy dự phòng cho cuộc sống lâu dài của bản thân và gia
đình họ. Nói cách khác, tiền lương phải thực hiện được chức năng tái sản xuất
giản đơn và mở rộng (hay tái sản xuất về số lượng và chất lượng lao động) [9 –
tr.23].
1.1.3.3. Chức năng kích thích và thúc đẩy phân công lao động xã hội
Cùng với tác dụng duy trì cuộc sống bản thân và gia đình người lao động,
tiền lương phải thực sự trở thành đòn bẩy kinh tế, kích thích người lao động phát
huy tinh thần sáng tạo, nâng cao năng suất lao động, góp phần vào sự tăng
trưởng kinh tế của doanh nghiệp và của Nhà nước. Muốn vậy, mức lương trả cho
người lao động không chỉ đủ thanh toán cho các tư liệu sinh hoạt thông thường
trong đời sống hàng ngày, mà còn phải tạo điều kiện cho họ nâng cao đời sống,
nâng cao trình độ tay nghề, tham gia vào các hoạt động xã hội. Khi đó, tiền
lương làm động lực cho người lao động hăng hái làm việc sản xuất, năng suất lao
động tăng lên, đây là tiền đề cho việc phân công lao động xã hội một cách đầy đủ

hơn.
1.1.3.4. Chức năng tích lũy

18


Luận văn Thạc sĩ luật học
Dự phòng cho cuộc sống lâu dài là điều mà con người luôn quan tâm và
tìm cách thực hiện bằng nhiều nguồn và nhiều cách khác nhau. Tuy nhiên, đối
với người lao động mà cuộc sống phụ thuộc phần lớn vào tiền lương, thì tiết
kiệm tiền lương để dự phòng cho cuộc sống lâu dài vẫn là biện pháp chủ yếu. Do
vậy, tiền lương phải có chức năng tích lũy. Để thực hiện chức năng này, thì tiền
lương là phần thu nhập chủ yếu trong tổng số thu nhập của họ. Tiền lương trả
cho người lao động phải đảm bảo duy trì được cuộc sống hàng ngày trong thời
gian làm việc và còn dự phòng cho cuộc sống lâu dài khi họ hết khả năng lao
động hay gặp rủi ro.
1.1.3.5. Chức năng xã hội
Tiền lương là yếu tố kích thích việc hoàn thiện các mối quan hệ lao động.
Thực tế cho thấy, việc duy trì các mức tiền lương cao và tăng không ngừng được
thực hiện trên cơ sở đảm bảo hài hoà các mối quan hệ lao động trong doanh
nghiệp. Việc gắn tiền lương với hiệu quả sản xuất kinh doanh của người lao
động và đơn vị kinh tế sẽ thúc đẩy các mối quan hệ hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau,
nâng cao hiệu quả cạnh tranh của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, tạo tiền đề cho sự
phát triển toàn diện của con người và thúc đẩy xã hội phát triển theo hướng dân
chủ và văn minh. Chức năng xã hội của tiền lương còn được thể hiện ở góc độ
điều phối thu nhập trong nền kinh tế quốc dân, tạo nên sự công bằng xã hội trong
việc trả lương cho người lao động trong cùng một ngành nghề, một khu vực và
giữa các ngành nghề, khu vực khác nhau.
Ngoài các chức năng trên, thì tiền lương còn góp phần làm cho việc quản
lý lao động trong các đơn vị sản xuất, kinh doanh trở nên dễ dàng và tiền lương

còn góp phần hoàn thiện mối quan hệ xã hội giữa con người với con người trong
quá trình lao động. Như vậy, bản chất của tiền lương không chỉ bó hẹp trong

19


Luận văn Thạc sĩ luật học
phạm trù kinh tế đơn thuần được hiểu như một khoản thù lao bù đắp chi phí thực
hiện trong quá trình lao động. Tiền lương còn là một phạm trù kinh tế - xã hội
tổng hợp, phản ánh giá trị sức lao động trong điều kiện kinh tế - văn hoá và lịch
sử nhất định, có tác động quan trọng đến sản xuất, đời sống và mọi mặt kinh tế xã hội. Cho nên, xây dựng một hệ thống chính sách tiền lương đúng đắn, có hiệu
quản là vô cùng quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp, tổ chức nói riêng và toàn
bộ nền kinh tế nói chung.
1.1.4. Vai trò của tiền lƣơng
Tiền lương là một trong những hình thức hình thành lợi ích vật chất đối
với người lao động, vì vậy, để sử dụng đòn bẩy tiền lương nhằm đảm bảo sản
xuất phát triển, duy trì một đội ngũ lao động có trình độ kỹ thuật nghiệp vụ cao
với ý thức kỷ luật cao đòi hỏi tổ chức tiền lương trong doanh nghiệp phải đặc
biệt coi trọng. Đối với chủ sử dụng lao động, tiền lương là một yếu tố dùng để
chi phí sản xuất, còn đối với người lao động tiền lương là nguồn thu nhập chủ
yếu. Mục đích của các nhà sản xuất là lợi nhuận, còn mục đích của người lao
động là tiền lương, với ý nghĩa này, tiền lương không chỉ mang bản chất là chi
phí, mà nó trở thành phương tiện tạo ra giá trị mới hay đúng hơn cung ứng sự
sáng tạo sức sản xuất, năng lực của lao động trong quá trình sản sinh ra các giá
trị gia tăng.
Đối với người lao động, tiền lương nhận thoả đáng sẽ là động lực hình
thành năng lực sáng tạo để làm tăng năng xuất lao động, mặt khác, khi năng suất
lao động tăng thì lợi nhuận doanh nghiệp sẽ tăng, do đó, nguồn phúc lợi của
doanh nghiệp mà người lao động nhận được cũng sẽ lại tăng lên, nó là phần bổ
sung thêm cho tiền lương, làm tăng thu nhập và tăng lợi ích cho cung ứng sức

lao động lên nữa, khi lợi ích của người lao động được bảo đảm bằng mức lương

20


Luận văn Thạc sĩ luật học
thoả đáng, nó sẽ tạo ra sự gắn kết cộng đồng những người lao động với mục tiêu
và lợi ích của doanh nghiệp xoá bỏ sự ngăn cách giữa người chủ doanh nghiệp
và người cung ứng sức lao động, làm cho người lao động có trách nhiệm hơn, tự
giác hơn với các hoạt động của doanh nghiệp. Ngược lại, nếu doanh nghiệp trả
lương người lao động không hợp lý hoặc ở mức tiêu lợi nhuận thuần tuý, không
chú ý đúng mức đến lợi ích của người lao động thì bản thân người lao động có
thể bị kiệt quệ về thể lực, giảm sút về chất lượng công việc, gây hạn chế về động
cơ cung ứng sức lao động. Biểu hiện rõ nhất là tình trạng cắt xén thời gian làm
việc, lãng phí nguyên vật liệu và thiết bị, làm dối, làm ẩu, mâu thuẫn giữa người
lao động và người sử dụng lao động, một trong những nguyên nhân có thể dẫn
đến bãi công, đình công... [28].
Chính vì vậy, có thể khẳng định, tiền lương là một biện pháp kích thích về
mặt vật chất và tinh thần cho người lao động. Nếu có một chế độ trả công hợp lý
để người lao động cho năng suất lao động cao, từ đó, sẽ giúp cho doanh nghiệp
có thể cạnh tranh trên thị trường có hiệu quả. Việc hoàn thiện các hình thức trả
công hợp lý, đối với Nhà nước sẽ bảo đảm tính công bằng, chống lạm phát thất
nghiệp, kích thích tăng trưởng kinh tế... Đối với doanh nghiệp sẽ tiết kiệm tối đa
nguồn lực, thu hút nhiều lao động giỏi, tồn tại và phát triển... Còn bản thân người
lao động, sẽ tạo ra cho họ sự kích thích vật chất lớn nhằm nâng cao hiệu quả quá
trình lao động.
1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ TIỀN
LƢƠNG
1.2.1. Tổng quan chính sách, pháp luật về tiền lƣơng
Trong nền kinh tế thị trường, lao động là yếu tố cơ bản quyết định quá

trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Muốn quá trình sản xuất, kinh

21


Luận văn Thạc sĩ luật học
doanh được diễn ra liên tục, thường xuyên và đạt hiệu quả, doanh nghiệp phải
chú trọng đến vấn đề tái tạo sức lao động, tức là phải trả thù lao cho người lao
động trong thời gian họ tham gia sản xuất kinh doanh. Tiền lương là nguồn thu
nhập chủ yếu của người lao động, ngoài ra, người lao động còn được hưởng một
số nguồn thu nhập khác như: trợ cấp, phụ cấp, tiền thưởng, bảo hiểm... Đối với
doanh nghiệp thì chi phí tiền lương là một bộ phận cấu thành nên giá thành sản
phẩm, dịch vụ do doanh nghiệp sản xuất ra. Tiền lương trả cho người lao động
phải tương xứng với sự đóng góp của lao động (hay trả đúng giá trị sức lao
động) tuỳ theo (hay phụ thuộc vào) năng suất lao động của từng cá nhân (hay
thành tích của từng cá nhân). Đây là vấn đề có tính chất nguyên tắc, là chuẩn
mực cao nhất của chính sách tiền lương trong khu vực sản xuất kinh doanh
(doanh nghiệp).
Chính sách tiền lương là một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính
sách kinh tế - xã hội của đất nước. Chính sách tiền lương như một công cụ hiệu
quả góp phần điều tiết thị trường lao động, thu hút đầu tư nước ngoài, thu hút
công nghệ và góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của quốc gia. Chính
sách này liên quan trực tiếp đến lợi ích của đông đảo người lao động trong xã hội
và được Nhà nước quản lý. Đối với thị trường lao động, thông qua việc ban hành
và sửa đổi chính sách tiền lương trong những năm qua, Nhà nước công nhận tiền
lương và tiền công là giá cả của hàng hóa sức lao động. Thông qua hoạt động
của thị trường lao động chính sách tiền lương góp phần phân bổ điều chỉnh
nguồn nhân lực phạm vi vùng, địa phương và toàn bộ nền kinh tế. Ở tầm vĩ mô,
chính sách tiền lương phải đặt trong tổng thể chính sách việc làm và gắn với việc
làm; do thị trường quyết định bằng sự điều tiết khách quan của quy luật thị

trường, phụ thuộc vào quan hệ cung - cầu lao động trên thị trường lao động;

22


Luận văn Thạc sĩ luật học
được xác định thông qua cơ chế thoả thuận giữa các bên trong quan hệ lao động,
đảm bảo hài hoà lợi ích giữa người lao động, người sử dụng lao động và Nhà
nước; đồng thời có sự quản lý, điều tiết của Nhà nước để đảm bảo mục tiêu phát
triển chung và lợi ích của quốc gia, của cộng đồng [17 – tr.134].
Nhà nước quản lý thống nhất về tiền lương. Các chính sách của Nhà nước
về tiền lương được thể hiện cụ thể qua các quy định của pháp luật về lao động.
Đây là một ngành luật có đối tượng điều chỉnh tương đối rộng vì nó liên quan
trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của người lao động, người sử dụng lao động, các
tiêu chuẩn lao động, các nguyên tắc sử dụng và quản lý lao động, đặc biệt là quy
định về vấn đề tiền lương – một vấn đề quan trọng, liên quan đến đời sống của
hàng triệu lao động trong xã hội. Theo đó, pháp luật về tiền lương được hiểu là
một hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh lĩnh vực về tiền lương.
Pháp luật về tiền lương có ý nghĩa sâu sắc, nó không chỉ liên quan đến thu
nhập và đời sống cho người lao động mà nó còn là nhân tố ảnh hưởng đến họat
động sản xuất kinh doanh, đến tích lũy và tiêu dùng, quan hệ giữa các tầng lớp
lao động. Pháp luật về tiền lương được quy định là nhằm bảo vệ quyền lợi của
người lao động, cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao
động, tạo điều kiện cho mối quan hệ lao động được hài hòa và ổn định, góp phần
phát huy trí sáng tạo và tài năng của người lao động trí óc và lao động chân tay,
của người quản lý lao động, nhằm đạt năng suất, chất lượng và tiến bộ xã hội
trong lao động, sản xuất, dịch vụ, hiệu quả trong sử dụng và quản lý lao động,
góp phần công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì sự nghiệp dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, văn minh [19 – tr. 47].
Kể từ khi ra đời đến nay, pháp luật tiền lương nước ta trải qua gần 70 năm

(từ năm 1945 đến nay) với hàng trăm các văn bản luật, các văn bản dưới luật …

23


Luận văn Thạc sĩ luật học
điều chỉnh các chế độ tiền lương, tiền thưởng, phụ cấp … làm cơ sở để người sử
dụng lao động trả lương cho người lao động. Pháp luật tiền lương nước ta bao
gồm tất cả các quy định của Nhà nước về tiền lương, được xác lập thành một hệ
thống, từ văn bản pháp luật có giá trị cao nhất là Hiến pháp đến Bộ luật Lao
động, các nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành… Pháp luật về tiền lương giúp
cho người lao động và người sử dụng lao động căn cứ vào đó để vận dụng, đồng
thời, cũng là cơ sở để Nhà nước căn cứ vào đó thực hiện công tác quản lý. Nếu
một trong các bên tham gia quan hệ lao động không tuân thủ các quy định của
Nhà nước về tiền lương, thì Nhà nước sẽ áp dụng các biện pháp chế tài để xử lý.
1.2.2. Đối tƣợng, phạm vi điều chỉnh của pháp luật tiền lƣơng
1.2.2.1. Đối tượng điều chỉnh
Tiền lương là số lượng tiền tệ mà người sử dụng lao động trả cho người
lao động khi họ hoàn thành công việc theo chức năng, nhiệm vụ được pháp luật
quy định hoặc hai bên đã thỏa thuận trong hợp đồng lao động dựa trên năng suất,
chất lượng lao động. Do vậy, đối tượng điều chỉnh của pháp luật tiền lương là
quan hệ trả công giữa người sử dụng lao động và người lao động.
Trong đó, quan hệ trả công giữa người sử dụng lao động và người lao
động là tổng hợp các quy định của Nhà nước về tiền lương tối thiểu; quan hệ tiền
lương; hệ thống thang lương, bảng lương và định mức lao động; chế độ thưởng
và chế độ phụ cấp; cơ chế quản lý, phân phối tiền lương và thu nhập.
1.2.2.2. Phạm vi điều chỉnh
Pháp luật tiền lương được áp dụng đối với mọi người lao động, mọi tổ
chức, cá nhân sử dụng lao động theo hợp đồng lao động thuộc các thành phần
kinh tế, mọi hình thức sở hữu, bao gồm: Người lao động và người sử dụng lao

động làm việc trong các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư

24


Luận văn Thạc sĩ luật học
trong nước và các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân; Các cơ quan tổ
chức nước ngoài hoặc quốc tế đóng trên lãnh thổ Việt Nam có tham gia kí kết
hợp đồng thuê mướn lao động là người Việt Nam, người nước ngoài làm việc
trong các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân Việt Nam trên lãnh thổ Việt Nam và
người lao động làm công trong các cơ quan nhà nước, tổ chức khác (gọi chung là
tiền lương thuộc khu vực sản xuất, kinh doanh) [19 – tr. 52].
Pháp luật tiền lương còn áp dụng cho đơn vị hành chính sự nghiệp, bao
gồm công chức, viên chức nhà nước, người giữ chức vụ bầu cử hoặc bổ nhiệm,
người thuộc lực lượng quân đội nhân dân, công an nhân dân, người thuộc các
đoàn thể nhân dân, các tổ chức chính trị xã hội khác và các xã viên hợp tác xã.
Như vậy, đối tượng và phạm vi điều chỉnh của pháp luật về tiền lương
tương đối rộng. Tuy nhiên, do giới hạn về mục đích và phạm vi nghiên cứu của
đề tài, nên luận văn này chủ yếu tập trung nghiên cứu đối với hệ thống pháp luật
và áp dụng pháp luật về tiền lương trong các doanh nghiệp thuộc khu vực sản
xuất kinh doanh.
1.2.3. Một số nội dung cơ bản của pháp luật về tiền lƣơng
1.2.3.1. Tiền lương
Theo quy định của Điều 90 Bộ luật Lao động Việt Nam năm 2012 thì:
“Tiền lương là khoản tiền mà người sử dụng lao động trả cho người lao động để
thực hiện công việc theo thỏa thuận. Tiền lương bao gồm mức lương theo công
việc hoặc chức danh, phụ cấp lương và các khoản bổ sung khác”.
Định nghĩa trên đã bao quát tiền lương và các bộ phận cấu thành cơ bản
của nó gồm: Lương cơ bản (lương chính), phụ cấp lương và các khoản bổ sung
khác (như tiền thưởng). Trong đó, lương cơ bản là phần tính đủ số lượng, chất

lượng lao động đạt được trong điều kiện lao động trung bình. Phụ cấp lương là

25


×