Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Bảo vệ quyền lợi của người nộp thuế thu nhập là cá nhân cư trú theo pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 89 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

TRNH THU HO

BảO Vệ QUYềN LợI CủA NGƯờI NộP THUế THU NHậP
Là Cá NHÂN CƯ TRú THEO PHáP LUậT VIệT NAM

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2015


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

TRNH THU HO

BảO Vệ QUYềN LợI CủA NGƯờI NộP THUế THU NHậP
Là Cá NHÂN CƯ TRú THEO PHáP LUậT VIệT NAM

Chuyờn ngnh: Lut kinh t
Mó s: 60 38 01 07

LUN VN THC S LUT HC

Ngi hng dn khoa hc: PGS. TS. INH DNG S

H NI - 2015



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình khoa học của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất
kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận
văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn
thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài
chính theo quy định của Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Trịnh Thu Hảo


MỤC LỤC

Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Bảng chữ viết tắt
Danh mục các bảng
LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THUẾ TNCN VÀ
BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƢỜI NỘP THUẾ LÀ CÁ NHÂN
CƢ TRÚ .............................................................................................. 6
1.1

Những vấn đề lý luận về thuế TNCN ............................................... 6


1.1.1

Khái niệm thuế TNCN.......................................................................... 6

1.1.2

Đặc điểm của thuế TNCN .................................................................... 9

1.1.3

Nguyên tắc và phương pháp đánh thuế TNCN .................................. 12

1.1.4

Cơ sở xác định thuế TNCN ................................................................ 16

1.2

Khái quát chung về pháp luật thuế TNCN và bảo vệ quyền
lợi của ngƣời nộp thuế là cá nhân cƣ trú ....................................... 19

1.2.1

Các nguyên tắc xây dựng luật thuế TNCN......................................... 20

1.2.2

Khái quát vấn đề bảo vệ quyền của người nộp thuế là cá nhân cư
trú theo quy định của luật thuế TNCN của Việt Nam........................ 24


Chƣơng 2: THỰC TRẠNG BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA NGƢỜI
NỘP THUẾ LÀ CÁ NHÂN CƢ TRÚ THEO LUẬT THUẾ
TNCN VIỆT NAM ........................................................................... 31
2.1

Luật thuế TNCN đƣợc xây dựng và hoàn thiện để bảo vệ
quyền lợi của ngƣời nộp thuế là cá nhân cƣ trú ............................ 31

2.1.1

Từ 1990 đến 2008 ............................................................................... 31

2.1.2

Từ 2009 đến nay ................................................................................. 33


2.2

Thực trạng bảo vệ quyền lợi ngƣời nộp thuế là cá nhân cƣ
trú của pháp luật thuế TNCN ......................................................... 35

2.2.1

Các kết quả đã đạt được...................................................................... 35

2.2.2

Các vấn đề còn bất cập ....................................................................... 54


Chƣơng 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT THUẾ TNCN
ĐỂ BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA NGƢỜI NỘP THUẾ LÀ
CÁ NHÂN CƢ TRÚ ......................................................................... 65
3.1

Những định hƣớng cơ bản trong việc hoàn thiện pháp luật
thuế TNCN ở Việt Nam hiện nay .................................................... 65

3.1.1

Hoàn thiện luật thuế TNCN cần đặt trong tiến trình cải cách hệ
thống thuế quốc gia ............................................................................ 65

3.1.2

Luật thuế TNCN phải công bằng, minh bạch, hiệu quả ..................... 66

3.1.3

Luật thuế TNCN phải là công cụ hữu hiệu để nhà nước đảm bảo
nguồn thu NSNN, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội .......... 67

3.1.4

Điều chỉnh pháp luật thuế TNCN phải đảm bảo nguyên tắc hội nhập...... 68

3.2

Giải pháp hoàn thiện pháp luật thuế TNCN để bảo vệ quyền

lợi của ngƣời nộp thuế là cá nhân cƣ trú ....................................... 68

3.2.1

Sửa đổi, bổ sung quy định về một số loại thu nhập chịu thuế TNCN ... 69

3.2.2

Hoàn thiện quy định về giảm trừ gia cảnh ......................................... 71

3.2.3

Hoàn thiện quy định về thuế suất thuế TNCN ................................... 72

3.2.4

Quy định lại một số thu nhập được miễn thuế ................................... 74

KẾT LUẬN .................................................................................................... 78
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 80


BẢNG CHỮ VIẾT TẮT

CNTT:

Công nghệ thông tin

GTGT:


Giá trị gia tăng

NSNN:

Ngân sách nhà nước

TNCN:

Thu nhập cá nhân

TNDN:

Thu nhập doanh nghiệp

TTCK:

Thị trường chứng khoán


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu
bảng

Tên bảng

Bảng 1.1 Cơ cấu nguồn thu từ thuế TNCN giai đoạn 2009-2011

Trang
28


Bảng 2.1 Biểu thuế lũy tiến từng phần đối với thu nhập thường
xuyên của công dân Việt Nam và cá nhân khác định
cư tại Việt Nam theo Pháp lệnh thuế thu nhập đối với
người có thu nhập cao 2001

35

Bảng 2.2 Biểu thuế lũy tiến từng phần đối với thu nhập thường
xuyên của người nước ngoài cư trú tại Việt Nam và
công dân Việt Nam lao động, công tác ở nước ngoài
theo Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu
nhập cao 2001

36

Bảng 2.3 Thống kê các khoản giảm trừ gia cảnh của Luật thuế
TNCN từ 2009 đến nay
Bảng 2.4 Biểu thuế lũy tiến từng phần

47
50

Bảng 3.1 Bảng dự toán thu NSNN theo lĩnh vực năm 20142015

67-68


LỜI MỞ ĐẦU
1.


Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
“Trong cuộc sống không có gì tất yếu, ngoài cái chết và thuế”. Đó là

một trong những phát biểu bất hủ của Ông Benjamin Franklin, người soạn
thảo tuyên ngôn độc lập của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Nói như vậy để thấy
rằng sự ra đời và hình thành của thuế là tất yếu bên cạnh các hiện tượng kinh
tế - xã hội khác, gắn với sự hình thành và phát triển của Nhà nước. Không
phân biệt là mô hình Nhà nước nào thì quan hệ giữa Nhà nước và người nộp
thuế dường như là không thay đổi. Nộp thuế là nghĩa vụ của công dân đối với
Nhà nước. Về phía Nhà nước, đánh thuế vừa là đặc quyền vừa là một trong
những bài toán khó nhất, đòi hỏi sự xem xét thận trọng và kỹ lưỡng. Liên
quan đến vấn đề này, Adam Smith cho rằng thu thuế phải “bình đẳng, xác
thực, tiện lợi và ít tốn kém”.
Là một trong những loại thuế trực thu cơ bản, thuế TNCN có tác động
mạnh mẽ đối với mỗi công dân bởi vì thuế gắn liền với thu nhập của họ. Nếu
Nhà nước có một chính sách thuế hợp lý sẽ tạo ra một nguồn thu lớn và ổn
định cho ngân sách. Nhưng ngược lại, nếu chính sách thuế TNCN chưa phù
hợp sẽ dẫn đến những hiện tượng tiêu cực như né thuế, trốn tránh nộp thuế
hoặc gian lận trong việc nộp thuế.
Kể từ khi Luật thuế TNCN có hiệu lực thi hành chính thức kể từ ngày
01/01/2009, đã có nhiều ý kiến về những ưu điểm của luật thuế mới này như
thuế đã xóa bỏ sự phân biệt đối xử giữa cá nhân trong nước và cá nhân là
người nước ngoài, tính giảm trừ gia cảnh cho người nộp thuế để giảm bớt
nghĩa vụ đóng thuế của người nộp thuế khi phải chăm sóc, phụng dưỡng
nhiều người phụ thuộc...Những cải thiện đó phần nào rút bớt khoảng cách
giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội. Tuy nhiên, có không ít ý kiến dư luận
vẫn chưa hoàn toàn đồng tình với các quy định của Luật thuế TNCN như mức

1



giảm trừ gia cảnh còn thấp, chưa cập nhật theo tình hình kinh tế xã hội và
bình quân thu nhập tính trên đầu người; quy định khoán doanh thu và thu
nhập tính thuế đối với cá nhân, hộ gia đình kinh doanh nhưng không duy trì
sổ sách kế toán, chế độ hóa đơn chứng từ; quy định tính thuế thu nhập của cá
nhân có thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán chưa hợp lý dẫn đến người
chuyển nhượng chứng khoán bị lỗ vẫn phải nộp thuế, v.v.
Thuế TNCN là một trong những sắc thuế có tính ảnh hưởng sâu sắc đến
xã hội. Trong khi đó đối tượng nộp thuế thì những cá nhân cư trú chiếm tỷ lệ
lớn trong số đối tượng nộp thuế mà trong đó phần lớn là người Việt Nam nên
khi mà vẫn còn những ý kiến về sự bất bình đẳng giữa các đối tượng nộp thuế
hoặc sự bất hợp lý trong cách tính thuế đối với các khoản thu nhập của cá
nhân thì khi ấy hiện tượng tiêu cực như trốn thuế, né thuế, gian lận thuế vẫn
có cơ hội thực hiện và hậu quả là Nhà nước sẽ mất một nguồn thu ngân sách
không nhỏ. Bên cạnh đó, tâm lý tin tưởng ổn định của người dân vào chính
sách nhà nước, yếu tố giúp tạo nên sự ổn định chung cho toàn xã hội khó mà
giữ vững.
Vì vậy, tôi lựa chọn đề tài “Bảo vệ quyền lợi của ngƣời nộp thuế thu
nhập là cá nhân cƣ trú theo pháp luật Việt Nam” để phân tích sâu hơn
những nguyên nhân phải bảo vệ người nộp thuế thu nhập là cá nhân cư trú,
những ưu điểm cũng như những vấn đề còn tồn tại trong việc bảo vệ quyền
lợi của người nộp thuế là cá nhân cư trú theo quy định của pháp luật về thuế
TNCN của Việt Nam từ đó mong muốn đưa ra những giải pháp để hoàn thiện
hơn hệ thống pháp luật thuế TNCN của Việt Nam.
2.

Mục tiêu nghiên cứu

2.1


Mục tiêu tổng quát
Bảo vệ quyền lợi của người nộp thuế thu nhập là cá nhân góp phần

mang lại một cách nhìn toàn diện về những ưu điểm, nhược điểm của Luật

2


thuế TNCN nói chung, những nội dung cần phải sửa đổi, bổ sung để tạo ra
một sắc thuế có tính thực tiễn, được người nộp thuế tự nguyện chấp hành và
nguồn thu của ngân sách nhà nước từ thuế TNCN được bảo đảm.
2.2

Mục tiêu cụ thể
Mục tiêu cụ thể của đề tài là phân tích hiện trạng bảo vệ quyền lợi của

người nộp thuế là cá nhân cư trú của pháp luật thuế TNCN của Việt Nam đặt
trong sự so sánh giữa Việt Nam và một số quốc gia trên thế giới, trong đó sẽ
nêu các kết quả đã đạt được, những quy định còn bất cập và những kiến nghị
để khắc phục các vấn đề đó.
3.

Tính mới và những đóng góp của đề tài
Cho đến nay đã có nhiều luận văn thạc sĩ, công trình khoa học nghiên

cứu về thuế TNCN. Các công trình này được viết ở hai thời kỳ là (i) giai đoạn
Luật thuế TNCN chưa có hiệu lực thi hành như luận án tiến sĩ với đề tài là
“Thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam và định hướng hoàn thiện” năm 1995 của
tác giả Vũ Văn Trường; luận văn thạc sĩ với đề tài là “Hoàn thiện hệ thống

chính sách thuế của Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế” năm
2006 của tác giả Mai Đình Lâm và (ii) giai đoạn Luật thuế TNCN có hiệu lực
thi hành kể từ ngày 01/01/2009 và các văn bản sửa đổi Luật thuế TNCN từ đó
đến nay như luận án tiến sĩ với đề tài là: “Nguyên tắc công bằng trong pháp
luật thuế TNCN ở Việt Nam” năm 2012 của tác giả Trần Minh Đức; luận văn
thạc sĩ với đề tài là: “Xây dựng mức giảm trừ gia cảnh trong thuế thu nhập cá
nhân tại Việt Nam” năm 2011 của tác giả Phan Thị Tố Như, luận văn thạc sĩ
với đề tài là “Hoàn thiện quản lý thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam” năm
2011 của tác giả Lưu Thị Thu An; luận văn thạc sĩ với đề tài là: “Hoàn thiện
thuế thu nhập cá nhân trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hiện nay” năm
2012 của tác giả Nguyễn Thị Thu Huyền; luận văn thạc sĩ với đề tài là: “Hoàn

3


thiện thuế thu nhập cá nhân trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hiện nay”
năm 2012 của tác giả Nguyễn Thị Thu Huyền, v .v.
Phần lớn các công trình đều tiếp cận thuế TNCN dưới góc độ quản lý
thuế nhằm nêu lên những phương hướng, giải pháp để Nhà nước có thể thu đủ
thuế, nhằm giải quyết vấn nạn trốn thuế, né thuế hoặc gian lận trong nộp thuế.
Một cách tiếp cận khác là nghiên cứu phân tích đánh giá từng nội dung trong
quy định của luật thuế như vấn đề công bằng của pháp luật thuế TNCN, thu
nhập chịu thuế TNCN, thu nhập miễn thuế TNCN, phương thức xây dựng
mức giảm trừ gia cảnh của thuế TNCN hoặc thuế TNCN đối với cá nhân
không cư trú, v.v. Tuy nhiên, ít có công trình nào tiếp cận thuế TNCN dưới
góc độ người nộp thuế và bảo vệ quyền lợi của người nộp thuế, cụ thể là cá
nhân cư trú. Ngoài việc làm rõ những vấn đề lý luận, cơ sở bảo vệ quyền lợi
của người nộp thuế TNCN là cá nhân cư trú, phân tích và đánh giá thực trạng
bảo vệ quyền lợi của người nộp thuế là cá nhân cư trú, luận văn cũng so sánh
quy định của pháp luật thuế TNCN của Việt Nam một số quy định về thuế

TNCN đối với cá nhân cư trú như cách xác định đối tượng cư trú, quy định về
loại thu nhập chịu thuế, quy định về các khoản giảm trừ đối với người nộp
thuế của một số quốc gia tại Châu Á và các bài học kinh nghiệm có thể áp
dụng tại Việt Nam.
4.

Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định về thuế TNCN đối với

các cá nhân cư trú (bao gồm người Việt Nam và người nước ngoài) theo quy
định của luật thuế TNCN tại Việt Nam, bao gồm các nội dung chính như sau:
quy định về đối tượng chịu thuế, thu nhập chịu thuế, thu nhập miễn thuế, xác
định chịu thuế và tính thuế đối với cá nhân cư trú, biểu thuế suất lũy tiến từng
phần áp dụng đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công và thu nhập từ kinh
doanh của cá nhân, hộ gia đình, khấu trừ, kê khai và nộp thuế TNCN.

4


Phạm vi nghiên cứu của đề tài không có giới hạn về không gian vì quy
định của luật thuế TNCN được áp dụng chung trên toàn quốc từ năm 1991;
tuy nhiên, về mặt thời gian thì luận văn tập trung phân tích các quy định của
Luật thuế TNCN 2007 có hiệu lực thi hành chính thức ngày 01/01/2009 và
các nội dung sửa đổi, bổ sung của luật thuế TNCN năm 2012, có hiệu lực thi
hành chính thức kể từ ngày 01/7/2013.
5.

Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài sẽ dựa trên phương pháp luận là chủ nghĩa duy


vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ngoài ra, các phương pháp khác
sẽ được sử dụng trong quá trình chuẩn bị luận văn bao gồm: phương pháp so
sánh, phương pháp diễn dịch, phương pháp quy nạp, phương pháp phân tích
và tổng hợp...
6.

Nội dung khóa luận
Ngoài lời mở đầu và kết luận, khóa luận được trình bày thành 3

chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về thuế TNCN và bảo vệ quyền lợi
của người nộp thuế là cá nhân cư trú
Chương 2: Thực trạng bảo vệ quyền lợi của người nộp thuế thu nhập là
cá nhân cư trú theo quy định của pháp luật Việt Nam
Chương 3: Hoàn thiện quy định pháp luật về thuế TNCN để bảo vệ
quyền lợi của người nộp thuế là cá nhân cư trú tại Việt Nam.
Kết luận
Tài liệu tham khảo

5


Chƣơng 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THUẾ TNCN VÀ
BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƢỜI NỘP THUẾ LÀ CÁ NHÂN CƢ TRÚ
1.1

Những vấn đề lý luận về thuế TNCN

1.1.1 Khái niệm thuế TNCN

Để có nguồn vật chất bảo đảm cho sự tồn tại và thực hiện các chức
năng, nhiệm vụ của mình, nhà nước phải dùng quyền lực chính trị vốn có để
huy động một bộ phận của cải của xã hội. Để huy động tập trung nguồn của
cải xã hội, nhà nước có thể thực hiện bằng nhiều cách thức khác nhau như
đóng góp bắt buộc, vận động dân đóng góp tự nguyện hoặc vay, trong đó,
biện pháp huy động, tập trung của cải có tính bắt buộc đối với mọi thành viên
trong xã hội được gọi là thuế.
Với phạm vi tác động rộng rãi lên hầu hết lĩnh vực của đời sống xã hội,
hệ thống thuế của các quốc gia được xây dựng linh hoạt với chức năng và đối
tượng chịu tác động riêng biệt. Cách phân loại phổ biến nhất hiện nay đó là
dựa trên căn cứ đối tượng bị đánh thuế hay đối tượng chịu thuế, theo đó sắc
thuế hiện nay được phân loại thành thuế thu nhập, thuế tiêu dùng và thuế tài
sản.
Thuế thu nhập là tên gọi chỉ những sắc thuế mà nhà nước sử dụng để
điều tiết một phần thu nhập của các tổ chức, cá nhân vào NSNN với mục đích
tạo nguồn thu cho NSNN và thực hiện công bằng xã hội.
Trong hệ thống thuế ở các quốc gia, thuế thu nhập là loại thuế quan
trọng được áp dụng phổ biến ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển.
Thuế thu nhập gồm hai loại là thuế TNDN và thuế TNCN dựa trên cơ sở đối
tượng nộp thuế là cá nhân hay tổ chức có thu nhập chịu thuế. Lần đầu tiên
được biết đến tại Anh năm 1779, thuế TNCN là một sắc thuế nhằm tập trung
của cải nhân dân để phục vụ cuộc chiến tranh chống Napoleon. Về sau, với

6


yêu cầu tự do hóa thương mại để phát triển kinh tế của các nước, hàng rào
thuế quan đánh vào hàng hóa nhập khẩu sẽ phải được xóa bỏ để san bằng thuế
đánh vào hàng hóa trong nước và nhập khẩu khiến cho một phần của khoản
thu của NSNN bị giảm xuống. Trong tình hình đó, để tăng nguồn thu cho

NSNN, nhằm đáp ứng những nhu cầu chi tiêu của chính phủ thì các loại thuế
khác cần phải được phát huy tác dụng.
Khi trình độ kinh tế ngày càng phát triển thì thuế thu nhập ngày càng
chiếm vị trí quan trọng trong tổng số thu về thuế. Trên thế giới, nguồn tài
chính đóng góp lớn nhất vào NSNN của các quốc gia phát triển là khoản thuế
thu được từ TNCN.
Thuế TNCN là sắc thuế đã được áp dụng từ lâu ở các nước phát triển,
đối tượng nộp thuế này mọi cư dân trong nước và người nước ngoài có thu
nhập phát sinh ở nước sở tại không phân biệt nghề nghiệp và địa vị xã hội.
Bất kỳ một quốc gia có nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường đều coi
thuế TNCN là một sắc thuế có tầm quan trọng lớn trong việc huy động nguồn
thu cho ngân sách và thực hiện công bằng xã hội. Sự ra đời của thuế TNCN
bắt nguồn từ các lý do sau đây:
Thứ nhất, thuế TNCN ra đời xuất phát từ yêu cầu bảo đảm sự cộng
bằng trong phân phối thu nhập. Điều này đặc biệt cần thiết trong điều kiện
kinh tế thị trường khi sự phân hóa giàu nghèo là điều khó tránh khỏi, thuế
TNCN sẽ là một biện pháp tốt để rút ngắn khoảng cách giàu nghèo trong xã
hội mà vẫn đảm bảo tính công bằng trong đóng góp của cá nhân cho xã hội.
Thuế TNCN đánh vào thu nhập của cá nhân dựa trên các nguyên tắc “lợi ích”,
“công bằng” và “khả năng nộp thuế”. Theo nguyên tắc lợi ích kinh tế học
công cộng, công dân phải có nghĩa vụ nộp thuế để được hưởng những lợi ích
do nhà nước mang lại, thí dụ hệ thống pháp luật, quốc phòng, an ninh-trật tự,
dịch vụ, hàng hóa công…Thuế TNCN đảm bảo tính “công bằng” theo cả

7


chiều ngang và chiều dọc. Công bằng theo chiều ngang được hiểu là những
người có thu nhập như nhau và có hoàn cảnh tương tự nhau thì phải nộp thuế
như nhau, công bằng theo chiều dọc là những người có thu nhập cao thì phải

nộp thuế nhiều hơn người có thu nhập thấp. Bên cạnh đó, cũng cần phải xem
xét “khả năng nộp thuế” của đối tượng nộp thuế để đảm bảo tính khả thi của
chính sách thuế, vì người dân không thể nộp thuế khi thu nhập của họ còn
chưa đảm bảo được duy trì cuộc sống tối thiểu. Trên ý nghĩa đó, thuế TNCN
là sắc thuế đảm bảo tính công bằng, hợp lý và hiệu quả trong phân phối thu
nhập giữa các cá nhân trong xã hội.
Thứ hai, do nhu cầu chi tiêu của nhà nước ngày càng tăng trong điều
kiện chức năng của nhà nước ngày càng mở rộng. Hơn nữa, cùng với việc ký
kết và tham gia các hiệp định thương mại song phương và đa phương về tự do
hóa thương mại dẫn đến nguồn thu từ thuế xuất khẩu giảm đi đáng kể. Điều
đó đặt ra nhu cầu tăng cường các nguồn thu quan trong trong tổng thu NSNN.
Vì thuế TNCN có diện chịu thuế khá rộng, khả năng tạo nguồn thu cho NSNN
cao nhất, đặc biệt là những quốc gia có nền kinh tế phát triển. Bên cạnh đó,
thuế TNCN có độ co giãn theo thu nhập tương đối lớn nên cùng với sự phát
triển của nền kinh tế, thu nhập của các đối tượng nộp thuế cũng không ngừng
tăng lên, nếu có chính sách động viên hợp lý, ổn định thì không cần phải
thường xuyên thay đổi mà vẫn thu được số thu mong muốn. Do sự ổn định
trong mức huy động thuế đã tạo một môi trường phù hợp với mục tiêu kinh tế
dài hạn của quốc gia, góp phần khuyến khích, thúc đẩy sản xuất kinh doanh
có hiệu quả, thu được nhiều lợi nhuận, tạo ra mức thu nhập ngày càng cao làm
gia tăng nguồn thu cho NSNN.
Thứ ba, thuế TNCN được sử dụng như một công cụ điều tiết vĩ mô,
kích thích tiết kiệm và đầu tư theo hướng nâng cao năng lực hiệu quả xã hội.
Do vậy, để tăng phúc lợi xã hội cần thiết phải điều tiết bớt thu nhập của

8


những đối tượng có thu nhập cao và phân phối lại cho những đối tượng có thu
nhập thấp hơn. Bên cạnh đó, thông qua những chính sách miễn giảm, hỗ trợ,

ưu đãi…thuế TNCN có thể tác động trực tiếp đến định hướng tiêu dùng và
đầu tư theo hướng có lợi, thực hiện mục tieu điều chỉnh kinh tế nhà nước.
Thứ tư, thuế TNCN lũy tiến còn có tác dụng bù lại sự lũy thoái của các
loại thuế tiêu dùng. Tính chất lũy thoái của thuế tiêu dùng được thể hiện: nếu
người giàu và người nghèo cùng một sản phẩm đều chịu thuế tiêu dùng như
nhau. Vì vậy, thuế TNCN được coi là một sắc thuế có vai trò rất lớn trong
việc đảm bảo tính công bằng của hệ thống thuế.
Như vậy, từ các phân tích trên thì có thể định nghĩa: thuế TNCN là sắc
thuế mà nhà nước sử dụng để điều tiết một phần thu nhập của các cá nhân vào
NSNN với mục đích tạo nguồn thu cho NSNN và thực hiện công bằng xã hội.
1.1.2 Đặc điểm của thuế TNCN
Thuế TNCN có những đặc điểm cơ bản như sau:
1.1.2.1 Thuế TNCN là thuế trực thu
Thuế trực thu là loại thuế mà chủ thể nộp thuế cũng đồng thời là chủ
thể phải chịu thuế, nghĩa là chủ thể nộp thuế sẽ mất một phần thu nhập của
chính mình vì thuế.
Thuế TNCN là thuế trực thu bởi cá nhân có thu nhập chịu thuế là người
nộp thuế, việc nộp thuế được tiến hành từ việc khấu trừ trực tiếp từ thu nhập
của cá nhân đó mà không thông qua hành vi tiêu dùng hoặc chủ thể trung gian
khác.
Do thuế trực tiếp tác động vào thu nhập, tài sản của cá nhân, có xem xét
đến hoàn cảnh, điều kiện và khả năng đóng góp của người nộp thuế nên nó rất
có tác dụng trong việc điều hòa thu nhập, góp phần giảm bớt sự chênh lệch về
thu nhập và tài sản giữa các tầng lơp dân cư. Tuy nhiên, thuế trực thu có hạn
chế là dễ gây phản ứng từ phía đối tượng chịu thuế hoặc dễ xảy ra tình trạng

9


trốn, lậu thuế nếu quy định mức thuế suất cao. Hơn nữa, việc theo dõi, tính

toán và thu thuế phức tạp, đặc biệt là thuế TNCN với diện thu thuế rộng và
phân tán. Vì vậy, nếu không có biện pháp quản lý thu thuế hiệu quả thì dễ dẫn
đến hạn chế tác dụng của loại thuế này trong việc tập trung đầy đủ, kịp thời về
cho NSNN.
1.1.2.2 Thuế TNCN có đối tượng chịu thuế là thu nhập của cá nhân
Trong quá trình lao động, con người tạo ra thu nhập dưới nhiều hình
thức khác nhau tùy thuộc vào tiêu chí phân loại. Mục đích của việc phân loại
thu nhập là cơ sở cho việc phân định đối tượng chịu thuế của các sắc thuế
khác nhau cũng như đặt ra cơ chế hành thu hiệu quả.
Khái niệm “thu nhập” hiện nay vẫn chưa được hiểu thống nhất nên vẫn
còn nhiều quan điểm khác nhau. Chính vì vậy, các nhà làm luật thường chỉ
liệt kê các khoản được coi là thu nhập của tổ chức, cá nhân mà không đưa ra
khái niệm thu cụ thể. Trong nền kinh tế thị trường, thu nhập của cá nhân phát
sinh rất đa dạng. Nếu căn cứ vào hoạt động của các giao dịch làm phát sinh
thu nhập thì thu nhập bao gồm: thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh;
thu nhập từ lao động; thu nhập từ tài sản, tiền vốn; thu nhập từ thừa kế quà
tặng, thu nhập từ tiền gửi tiết kiệm, v.v. Các loại thu nhập kể trên không phải
thu nhập nào cũng phải chịu thuế mà chỉ có một số khoản thu nhập được pháp
luật quy định rõ ràng là đối tượng chịu thuế mới là thu nhập chịu thuế. Thí dụ:
Luật thuế TNCN của Hàn Quốc quy định thu nhập chịu thuế toàn cầu bao
gồm (1) Thu nhập từ lao động; (2) thu nhập từ kinh doanh; (3) Thu nhập từ
cho thuê bất động sản; (4) Thu nhập từ tài sản tạm thời; (5) Thu nhập khác và
thu nhập chịu thuế riêng biệt: (6) Thu nhập từ lương hưu; (7) Thu nhập từ
chuyển nhượng tài sản; (8) Thu nhập từ trồng rừng và khai thác gỗ. Luật thuế
TNCN của Nhật Bản quy định thu nhập chịu thuế bao gồm: (1) Thu nhập từ
công việc lao động; (2) Thu nhập từ hoạt động kinh doanh; (3)Thu nhập do

10



buốn bán bất động sản; (4) Thu nhập từ tiền lãi cổ phần; (5) Thu nhập từ lợi
tức; (6) Thu nhập từ các khoản hưu trí; (7) Thu nhập từ buôn bán gỗ; (8) Thu
nhập từ các khoản vốn; (9) Thu nhập bất thường; Thu nhập khác.[15, trang 5]
Pháp luật thuế TNCN nói riêng và thuế thu nhập nói chung ở các nước
đều quy định khoản thu nhập chịu thuế làm cơ sở cho việc đánh thuế. Thông
thường thu nhập chịu thuế phải là thu nhập hợp pháp, thực tế phát sinh, có
tính phổ biến và nhà nước có thể kiểm soát được. Tuy nhiên, quy định về loại
thu nhập chịu thuế sẽ không hoàn toàn giống nhau ở các nước (thí dụ: Trung
Quốc quy định 11 loại thu nhập chịu thuế TNCN, Thái Lan quy định 8 loại
thu nhập chịu thuế TNCN, Philippin quy định 10 loại thu nhập chịu thuế
TNCN [15, trang 4] vì các lý do như sau:
Mỗi quốc gia sẽ có nguyên tắc đánh thuế riêng. Các nguyên tắc đánh
thuế phổ biến bao gồm: đánh thuế theo quốc tịch, đánh thuế theo theo phạm vi
lãnh thổ (nguồn của thu nhập phát sinh từ quốc gia nào) và đánh thuế trên cơ
sở cư trú/không cư trú của đối tượng nộp thuế. Mỗi quốc gia có thể lựa chọn
sử dụng một hoặc hai hoặc phối hợp cả ba phương thức đánh thuế này [16,
trang 178-179].
Thuế TNCN chỉ được áp dụng cho các khoản thu nhập mà nhà nước có
thể kiểm soát và quản lý được. Như vậy, tùy thuộc khả năng và trình độ quản
lý về thuế của mỗi nhà nước mà quy định về loại thu nhập chịu thuế TNCN
cũng khác nhau.
Trong quá trình toàn cầu hóa nền kinh tế và hội nhập sâu rộng, việc xác
định loại thu nhập nào chịu thuế cũng phụ thuộc không nhỏ vào việc các quốc
gia đó có tham gia các hiệp định song phương và đa phương theo đó quy
định, xác nhận các loại thu nhập phải chịu thuế trên lãnh thổ của mình hay
không.
1.1.2.3 Thuế TNCN là loại thuế có tính ổn định không cao và phức tạp

11



Đặc điểm này của thuế TNCN thể hiện ở chỗ các quy định về thu nhập
chịu thuế hoặc không chịu thuế thường xuyên thay đổi theo biến dộng của nền
kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ. Ngoài ra, những quy định về giảm trừ gia
cảnh cho bản thân người nộp thuế và người phụ thuộc cũng có sự thay đổi
linh hoạt do thuế điều tiết trực tiếp vào thu nhập của cá nhân nên có sự tác
động rất lớn đến mức sống của cư dân và chịu tác động của giá cả thị trường.
1.1.2.4 Văn bản điều chỉnh quan hệ về thuế TNCN bao gồm các văn bản pháp
luật của quốc gia và pháp luật quốc tế
Cả ba phương pháp thu thuế phổ biến là đánh thuế theo quốc tịch, đánh
thuế theo theo phạm vi lãnh thổ (nguồn của thu nhập phát sinh từ quốc gia
nào) và đánh thuế trên cơ sở cư trú/không cư trú của đối tượng nộp thuế dẫn
đến hệ quả tất yếu là việc điều chỉnh thuế không chỉ dừng lại ở các văn bản
pháp luật của một quốc gia được thu thuế mà còn liên quan đến văn bản pháp
luật về thuế TNCN của quốc gia khác nơi người nộp thuế là công dân. Pháp
luật quốc tế phổ biến về thuế TNCN là các điều ước quốc tế, hiệp định song
phương về tránh đánh thuế hai lần mà các quốc gia ký kết để tránh đánh trùng
thuế trên một khoản thu nhập của cá nhân khi cá nhân đó đồng thời hiện diện
hoặc có thu nhập từ các quốc gia là thành viên của các hiệp định.
1.1.3 Nguyên tắc và phương pháp đánh thuế TNCN
1.1.3.1 Nguyên tắc đánh thuế TNCN
Trên thực tế, một cá nhân tuy có thu nhập từ nhiều nguồn khác nhau
nhưng không phải tất cả thu nhập phát sinh của cá nhân đều là đối tượng điều
chỉnh của thuế TNCN. Ngoài ra, với ý nghĩa tạo tính công bằng, tăng thu cho
NSNN và thúc đẩy phát triển kinh tế, chính phủ các nước cần phải lựa chọn
phương pháp đánh thuế và thời gian tính thuế hợp lý để đảm bảo thuế TNCN
được áp dụng đúng với ý nghĩa của nó. Có ba nguyên tắc mà các nước áp
dụng thuế TNCN cần phải tuân theo, đó là:

12



(i)

Đánh thuế TNCN trên cơ sở thu nhập thực tế

Trong số các thu nhập phát sinh từ các nguồn khác nhau của một cá
nhân, chỉ có phần thu nhập chịu thuế - cơ sở để đánh thuế thu nhập - là đối
tượng điều chỉnh của thuế TNCN. Để phản ánh đúng khả năng kinh tế của
người nộp thuế, thu nhập chịu thuế của một cá nhân luôn là thu nhập ròng nghĩa là thu nhập thực tế của cá nhân đó sau khi đã trừ đi những chi phí cần
thiết để tạo ra nó và những khoản theo quy định được phép giảm trừ. Các
nước khác nhau có cách xác định thu nhập chịu thuế và thu nhập được miễn
trừ trong tổng thu nhập của một cá nhân khác nhau. Thu nhập không chịu thuế
thu nhập thông thường là những khoản thu nhập sau khi đã nộp thuế thu nhập
hay một loại thuế tương đương ở một khâu nào đó hoặc những thu nhập nằm
trong diện ưu tiên, khuyến khích theo chính sách của nhà nước.
Thu nhập chịu thuế của một cá nhân, về nguyên tắc là tất cả các khoản
thu nhập phát sinh, kể cả tiền và hiện vật, không phân biệt nguồn tạo ra nó
(sản xuất kinh doanh, lao động, đầu tư) sau khi loại bỏ những khoản được
pháp luật quy định không phải chịu thuế TNCN. Ở hầu hết các nước, thu nhập
chịu thuế được xác định trong các trường hợp cụ thể sau đây:
Thu nhập phát sinh từ những giao dịch trên thị trường được quy về hình
thức tiền tệ. Thu nhập phát sinh từ những giao dịch trên thị trường được quy
về hình thức tiền tệ trừ đi các khoản chi phí khách quan gắn liền với quá trình
tạo ra thu nhập (cả chi phí sản xuất và chi phí khách quan khác). Tùy theo
điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của mỗi nước mà các khoản chi phí miễn trừ này
được quy định khác nhau.
Thu nhập của các tổ chức, cá nhân phát sinh từ giao dịch trên thị trường
được miễn trừ thêm một khoản thu nhập để khuyến khích những hoạt động
kinh doanh, đầu tư theo đinh hướng của nhà nước.

(ii)

Áp dụng phương pháp lũy tiến để tính thuế TNCN

13


Thuế suất lũy tiến được coi là phương pháp hiệu quả nhất để đánh thuế
theo "khả năng nộp thuế" của cá nhân và làm tăng tính hữu dụng đối với thu
nhập, giảm thiểu sự mất mát tổng thể của xã hội do tính hữu dụng của thu
nhập đối với chủ càng giảm khi thu nhập càng tăng.
Hiện nay, biểu thuế lũy tiến đã và đang được áp dụng ở hầu hết các
quốc gia trên thế giới vói những hình thức khác nhau. Có những quốc áp dụng
biểu thuế toàn phần đối với từng loại thu nhập riêng biệt của cá nhân nhưng
cũng có những quốc gia áp dụng biểu thuế lũy tiến trên toàn bộ thu nhập của
cá nhân không phân biệt nguồn gốc phát sinh.
(iii)

Xác định đúng thời gian phát sinh thu nhập chịu thuế TNCN

Thu nhập của một cá nhân được hình thành từ rất nhiều nguồn khác
nhau. Chính vì vậy, việc xác định thời gian phát sinh thu nhập chịu thuế chỉ
có tính tương đối về mặt thời gian. Chẳng hạn, khoản lợi tức mà cá nhân nhận
được tại thời điểm hiện tại là kết quả của việc đầu tư của cá nhân đó tại quá
khứ, hay khoản trả trước tiền nhà cá nhân nhận được là thu nhập ứng trước
của hoạt động cho thuê nhà trong tương lai. Do vậy, để đảm báo tính khả thi
và công bằng khi tính thuế, cần phải quy ước một sự phân đoạn về mặt thời
gian để xác định thu nhập chịu thuế thu nhập của cá nhân. Thời gian tính thu
nhập chịu thuế được áp dụng phổ biến trên thế giới thường là một năm tính
thuế trùng với năm tài chính hoặc năm ngân sách. Những khoản thu nhập phát

sinh trong thời gian đó là đối tượng chịu thuế thu nhập trong giai đoạn đó.
1.1.3.2 Phương pháp đánh thuế TNCN
Mỗi quốc gia với những điều kiện kinh tế, xã hội, trình độ quản lý,
phong tục tập quán và chính sách khác nhau có thể chọn cho mình một
phương pháp riêng để đánh thuế TNCN. Trên thế giới, nhìn chung các nước
đều chọn một trong ba phương pháp đánh thuế TNCN là:
(i)

Đánh thuế theo từng nguồn hình thành thu nhập

14


Theo phương pháp này, thuế suất thuế TNCN có rất nhiều mức độ khác
nhau áp dụng cho những thu nhập có nguồn phát sinh khác nhau. Số thuế mà
một cá nhân phải nộp sẽ là tổng số thuế cá nhân đó phải nộp theo từng nguồn.
Vì đánh thuế trên từng loại thu nhập nên thuế TNCN sẽ được áp dụng với
toàn bộ thu nhập chịu thuế của cá nhân và phương pháp này sẽ giúp nhà nước
hạn chế tình trạng trốn thuế. Tuy nhiên, phương pháp đánh thuế trên từng
nguồn hình thành thu nhập vẫn không phải là không có nhược điểm. Thứ
nhất, việc áp dụng mức thuế suất khác nhau đối với từng loại thu nhập khác
nhau sẽ khiến cho việc tính thuế, quản lý thu thuế của nhà nước trở thành
công việc hết sức phức tạp và khó khăn. Thứ hai, một người có thu nhập từ
nhiều nguồn khác nhau, vì vậy, ranh giới để phân chia thu nhập xuất phát từ
nguồn nào là rất khó chính xác. Để được hưởng mức thuế suất thấp hơn,
người nộp thuế có thể sẽ gian lận trong khâu kê khai nguồn hình thành thu
nhập và dẫn đến tình trạng trốn thuế. Ngoài ra, rất khó để áp dụng thuế suất
lũy tiến cho phương pháp này, dẫn đến việc làm giảm tính công bằng khi
đánh thuế TNCN.
(ii)


Đánh thuế trên tổng thu nhập

Đây là phương pháp đang được hầu hết các nước phát triển trên thế giới
áp dụng. Trái với phương pháp trên, ở phương pháp này, thu nhập của một cá
nhân sẽ được tính tổng lại, không phân biệt nguồn hình thành thu nhập và chi
phí tạo ra thu nhập. Sau đó, một biểu thuế suất lũy tiến sẽ được áp dụng chung
cho toàn bộ thu nhập ròng của cá nhân đó. Phương pháp đánh thuế thu nhập
này, về cơ bản, có thể khắc phục được những nhược điểm của phương pháp
đánh thuế thu nhập trên từng nguồn phát sinh, do không có việc phân chia thu
nhập của cá nhân. Bên cạnh đó, nó còn có ưu điểm là đơn giản, áp dụng biểu
thuế lũy tiến một cách dễ dàng và hiệu quả, đạt được ý nghĩa công bằng khi
đánh thuế TNCN. Tuy nhiên, nhược điểm của phương pháp này là không

15


phân chia rõ từng loại thu nhập của một cá nhân nén rất khó để theo sát được
từng nguồn thu nhập, dễ dẫn đến tình trạng trốn thuế của cá nhân.
(iii)

Đánh thuế hỗn hợp

Để hạn chế nhược điểm và phát huy ưu điểm của cả hai phương pháp
trên, thuế TNCN có thể được đánh theo phương pháp hỗn hợp. Nghĩa là ban
đầu đánh thuế trên từng nguồn hình thành thu nhập vổi những mức thuế suất
khác nhau, sau đó tổng hợp tất cả các thu nhập lại và đánh thuế trên thu nhập
tổng đó một mức thuế suất chung khác nữa. Đây là phương pháp lý tưởng
nhất cho việc áp dụng thuế TNCN. Vì nó vừa áp dụng được thuế suất lũy tiến
(cho phần thu nhập tổng) lại vừa đảm bảo được việc theo sát từng nguồn thu

nhập của cá nhân. Nhưng phương pháp này lại quá phức tạp khi tính toán, tốn
kém trong khâu quản lý nên nó chỉ có ý nghĩa là "hình mẫu lý tưởng trên lý
thuyết".
1.1.4 Cơ sở xác định thuế TNCN
Để xác định được số thuế thu nhập một cá nhân phải đóng, điều kiện
cần và đủ là phải xác định được 3 yếu tố sau:
(i)

Thu nhập chịu thuế.

(ii)

Thu nhập được miễn trừ khỏi diện chịu thuế.

(iii)

Thuế suất thuế TNCN.

Một trong những yếu tố quan trọng nhất dể xác định chính xác thuế
TNCN chính là thu nhập tính thuế của cá nhân đó. Thu nhập tính thuế của cá
nhân có thể được tính bằng công thức:
Thu nhập tính thuế = thu nhập chịu thuế - các khoản giảm trừ
Qua đó có thể thấy, để xác định thu nhập tính thuế của cá nhân cần xác
định thu nhập chịu thuế và các khoản giảm trừ trong thu nhập của cá nhân đó.
1.1.4.1 Xác định thu nhập chịu thuế

16


Thu nhập chịu thuế của cá nhân trong công thức trên là tổng thu nhập

của cá nhân không bao gồm các khoản miễn thuế. Việc xác định đâu là thu
nhập chịu thuế và đâu là thu nhập được giảm trừ trong tổng thu nhập của một
cá nhân đối với mỗi quốc gia là khác nhau tùy theo mục đích đánh thuế của
quốc gia đó. Để xác định thu nhập chịu thuế, thông thường các quốc gia sẽ
quy định căn cứ vào nguồn hình thành thu nhập. Thu nhập chịu thuế tại các
nước đang phát triển có thể được xác định khác đi tùy chính sách của từng
nước.
1.1.4.2 Xác định các khoản giảm trừ
Một trong những đặc điểm quan trọng của thuế TNCN là một số khoản
thu nhập của đối tượng nộp thuế được trừ khỏi tổng thu nhập khi tính thuế
TNCN. Thu nhập giảm trừ gồm 2 loại: giảm trừ tiêu chuẩn và giảm trừ cá
nhân. Giảm trừ tiêu chuẩn là đưa ra một mức giảm trừ áp dụng chung cho
toàn xã hội, nó được thực hiện thông qua việc xác định mức khởi điểm chịu
thuế - mức thu nhập trung bình của xã hội đảm bảo trang trải đủ những chi phí
cần thiết về mặt kinh tế - khoản thu nhập khởi điểm chịu thuế của những nước
khác nhau là khác nhau phụ thuộc vào mức sống, quan niệm và tập quán của
từng nước. Việc áp dụng thu nhập giảm trừ tiêu chuẩn sẽ không gây khó khăn
trong quá trình tính toán thuế thu nhập, tiết kiệm chi phí nên đều được hầu hết
các nước trên thế giới hiện nay áp dụng. Giảm trừ cá nhân gồm giảm trừ có
tính chất kinh tế (giảm trừ những chi phí liên quan trực tiếp đến việc tạo ra
thu nhập) và giảm trừ có tính chất xã hội (những khoản chi ủng hộ giáo dục,
giúp đỡ người có hoàn cảnh khó khăn). Đây là đặc điểm giúp thuế TNCN
thực hiện được ý nghĩa tạo ra sự công bằng trong xã hội. Tuy nhiên, do tính
phức tạp và khó khăn trong tính toán, công nghệ nên những khoản giảm trừ cá
nhân mới chỉ được áp dụng rộng rãi tại các nước phát triển và những nước có
nền kinh tế đang chuyển đổi.

17



Ngoài ra, còn có một số thu nhập được trừ khỏi tổng thu nhập trước khi
xác định thu nhập chịu thuế. Đó thường là những chi phí phát sinh thường
xuyên và khách quan như chi y tế, các loại thuế, đóng góp từ thiện, v.v.
1.1.4.3 Thuế suất thuế TNCN
Một yếu tố không kém phần quan trọng để xác định thuế TNCN chính
là thuế suất. Do là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến gánh nặng thuế mà mỗi cá
nhân phải chịu nên biểu thuế của mỗi quốc gia cũng phải đảm bảo được tính
công bằng và kinh tế. Để làm được điều đó, các quốc gia cũng cần tuân thủ
theo những nguyên tắc nhất định về thuế suất thuế TNCN. Trong đó phải đảm
bảo:
(i)

Đánh thuế vào thu nhập tổng hợp với số lượng thuế suất vừa phải

để dễ dàng trong việc quản lý.
(ii)

Mức thuế suất không nên quá cao làm ảnh hưởng đến nỗ lực lao

động, tiết kiệm và đầu tư.
(iii)

Sử dụng thuế suất ưu tiên linh hoạt cho từng loại thu nhập căn cứ

vào đặc điểm kinh tế, xã hội.
Trên thế giới, các nước thường quy định mức thuế suất ưu đãi đối vơi
thu nhập từ lao động nhiều hơn là thu nhập từ vốn. Bên cạnh đó, một đặc
trưng nổi bật nhất của thuế TNCN chính là việc áp dụng mức thuế suất lũy
tiến, gồm thuế suất lũy tiến toàn phần và lũy tiến từng phần. Thuế suất toàn
phần nghĩa là áp dụng một mức thuế suất cho tổng thu nhập chịu thuế. Ví dụ

Luật thuế TNCN quy định mức thuế suất 5% đối với thu nhập từ bản quyền.
Như vậy, một cá nhân có thu nhập 5 triệu đồng/lần phát sinh thu nhập và cá
nhân có thu nhập 50 triệu đồng/lần phát sinh thu nhập từ bản quyền sẽ phải
đóng thuế TNCN với cùng một mức thuế suất. Thuế suất toàn phần có ưu
điểm là đơn giản, dễ tính toán nhưng lại có nhược điểm là có tính dàn trải,
không phần biệt mức thu nhập cao hay thấp. Ngược lại, thuế suất lũy tiến

18


×