Tải bản đầy đủ (.doc) (114 trang)

thực trạng bệnh sâu răng, viêm quanh răng và nhu cầuđiều trị của cán bộ nhân viên Tổng công ty tư vấn thiết kế Giaothông vận tải - Bộ GTVT năm 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.89 MB, 114 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh sâu răng và viêm quanh răng là những bệnh phổ biến trong chuyên
ngành Răng Hàm Mặt. Bệnh có thể mắc từ rất sớm và có tỷ lệ mắc bệnh khá
cao, qua các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước cho thấy tỷ lệ bệnh
sâu răng dao động từ 50% đến 90%, bệnh viêm quanh răng có tỷ lệ mắc tới
90% dân số [1], [2]. Bệnh sâu răng và viêm quanh răng là nguyên nhân chính
gây mất răng làm ảnh hưởng nặng nề đến chức năng ăn nhai, phát âm và thẩm
mỹ. Ngoài ra bệnh còn có thể là nguyên nhân của những bệnh nhiễm trùng
khác như: viêm cầu thận, viêm nội tâm mạc, viêm khớp. Về kinh phí điều trị
bệnh sâu răng và viêm quanh răng rất lớn mà không có quốc gia nào có đủ
khả năng giải quyết được những bệnh này. Tổ chức y tế thế giới (WHO) và
chính phủ các nước, đặc biệt là các nhà khoa học trong lĩnh vực răng miệng
đã khuyến cáo chăm sóc sức khỏe răng miệng phải được tiến hành sớm [3],
[4]. Chính vì thế công tác dự phòng bệnh sâu răng và viêm quanh răng được
các quốc gia đặc biệt quan tâm. Việc xác định thực trạng bệnh sâu răng và
viêm quanh răng cũng như phân tích các yếu tố liên quan đã được nhiều quốc
gia trên thế giới cũng như ở Việt Nam nghiên cứu trong những năm gần đây.
Trong các đối tượng được nghiên cứu, phần lớn tập trung vào các lứa tuổi học
đường và một số đối tượng khác trong cộng đồng, riêng đối với việc khảo sát
sức khỏe răng miệng cho cán bộ công nhân viên ngành Giao thông vận tải
(GTVT) chưa có nhiều. Cán bộ công nhân viên (CBCNV) ngành Giao thông
vận tải có những đặc điểm tính chất nghề nghiệp riêng: hay phải đi xa nhà,
đến những nơi khó khăn, điều kiện chăm sóc vệ sinh răng miệng thiếu thốn
(nước sạch, thuốc chải răng, bàn chải đánh răng, các vật dụng khác,...). Họ
cũng thường xuyên có các hành vi ảnh hưởng đến việc vệ sinh răng miệng
như uống nước có ga, bia, rượu, hút thuốc lá, ăn ngủ không đúng giờ v.v...


2


Ngoài ra họ tiếp xúc với một số hóa chất độc hại trong quá trình thiết kế và thi
công như bitum, các loại khói bụi xi măng, bột đá... Chính những yếu tố trên
đã góp phần làm thay đổi tình trạng bệnh răng miệng của họ. Công tác dự
phòng cho cán bộ công nhân viên ngành Giao thông vận tải cần được quan
tâm một cách thích đáng, song rất tiếc chưa có nhiều công trình nghiên cứu
nào đề cập đến vấn đề này. Mặt khác, việc tìm hiểu thực trạng bệnh sâu răng,
viêm quanh răng và những yếu tố có nguy cơ đến bệnh sâu răng và viêm
quanh răng của một bộ phận cán bộ Giao thông vận tải cũng là một vấn đề
cần được nghiên cứu, vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài này, nhằm
hai mục tiêu sau:
1. Xác định thực trạng bệnh sâu răng, viêm quanh răng và nhu cầu
điều trị của cán bộ nhân viên Tổng công ty tư vấn thiết kế Giao
thông vận tải - Bộ GTVT năm 2014.
2. Phân tích một số yếu tố nguy cơ với bệnh sâu răng, viêm quanh
răng ở các đối tượng trên.


3

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. GIẢI PHẪU, MÔ HỌC RĂNG VÀ VÙNG QUANH RĂNG

1.1.1. Giải phẫu và mô học răng [5]
1.1.1.1. Cấu phần của răng:
Răng gồm ba phần là thân răng, cổ răng và chân răng. Giữa thân và chân
răng là cổ răng. Cổ răng giải phẫu là đường nối men - xương chân răng. Thân
răng được bao bọc bởi men răng, chân răng được bao bọc bởi xương răng. Vùng
quanh răng bao gồm lợi, xương ổ răng, dây chằng quanh răng, xương răng.


Hình 1.1. Giải phẫu răng và vùng quanh răng
1.1.1.2. Cấu tạo của răng


4
Bao gồm: men răng, ngà răng và tuỷ răng:
a) Men răng
Men răng là mô cứng nhất trong cơ thể, có nguồn gốc từ ngoại bì. Men
răng phủ toàn bộ thân răng, dày mỏng tuỳ từng vị trí khác nhau, men răng dày
nhất ở núm răng là khoảng 1,5 mm và mỏng nhất ở cổ răng. Men răng không
có sự bồi đắp mà chỉ mòn dần theo tuổi, tuy nhiên có sự trao đổi về vật lý,
hoá học với môi trường trong miệng.
Về mặt hoá học, chất vô cơ chiếm 96% chủ yếu là Hydroxy Apatitc
{3[(PO4)2Ca] Ca (OH)2}, còn lại là muối cacbonat Magiê và một lượng nhỏ
hữu cơ chiếm khoảng 1% trong đó chủ yếu là Protid.
Về mặt lý học, men răng cứng, giòn, trong và cản tia X với tỷ trọng 2,3-3
so với ngà răng.
Đường Retzius: Trên bản cắt ngang là các đường chạy song song nhau và
song song với đường viền ngoài của lớp men cũng như với đường ranh giới men
- ngà ở phía trong. Trên bản cắt dọc thân răng, đường Retzius hợp với đường
ranh giới men - ngà cũng như với mặt ngoài của men thành 1 góc nhọn.
Đường trụ men: chạy suốt chiều dày men răng và hướng thẳng góc với
đường ngoài, trong của men răng, đôi khi có sự gấp khúc và thay đổi hướng
đi của trụ men. Khi cắt ngang qua trụ men ta thấy tiết diện có các loại hình
thể: vẩy cá 57%, lăng trụ 30%, không rõ ràng 10%. Hướng đi của trụ men tạo
ra các dải sáng tối xen kẽ là dải Hunter - Schrenge.
b) Ngà răng:
- Ngà răng được phủ bởi men răng và xương răng
- Ngà răng có nguồn gốc từ trung bì, kém cứng hơn men răng.

- Ngà răng có tỷ lệ chất vô cơ là 70%, chủ yếu là 3 [(PO4)2Ca3)2H2O].
- Về tổ chức học: Ngà răng được chia làm 2 loại:


5
Ngà tiên phát: Chiếm khối lượng chủ yếu và được tạo nên trong quá
trình hình thành răng, nó bao gồm: ống ngà, chất giữa ống ngà, dây tôme.
Ngà thứ phát: được sinh ra khi răng đã hình thành rồi, gồm ngà thứ phát
sinh lý, ngà phản ứng và trong suốt.
c) Tuỷ răng:
Là mô liên kết nằm trong hốc tuỷ chân và tuỷ thân. Tuỷ răng trong buồng
tuỷ gọi là tuỷ thân hay tuỷ buồng, tuỷ răng trong ống tuỷ gọi là tuỷ chân.
1.1.2. Giải phẫu và mô học vùng quanh răng [5]
Vùng quanh răng là vùng nâng đỡ răng. Vùng này bao gồm: xương ổ
răng, xương răng, dây chằng và lợi.
1.1.2.1. Xương ổ răng:
Xương ổ răng là một bộ phận của xương hàm gồm lá xương thành trong
huyệt ổ răng và tổ chức đó xung quanh huyệt răng. Xương ổ răng tạo thành
huyệt có hình dáng và kích thước phù hợp với chân răng. Bề mặt ổ răng, nơi
đối diện với chân răng là mô xương đặc biệt có nhiều lỗ thủng để cho mạch
máu, thần kinh từ xương xuyên qua để nuôi dây chằng quanh răng gọi là
xương ổ răng.
Xuơng ổ răng liên quan đến sự chắc chắn của răng trên cung hàm. Trong
bệnh viêm quanh răng thì xương ổ răng sẽ bị tổn thương.
1.1.2.2. Xương răng:
Là tổ chức bao phủ ngà chân răng, trên bề mặt có những sợi của dây
chằng quanh răng bám vào.
1.1.2.3. Dây chằng:
Dây chằng quanh răng nằm ở khe giữa xương ổ răng và xương răng,
bình thường khe này rộng khoảng 0,15 - 0,25 mm. Dây chằng có chức năng

gắn cho răng vào xương ổ răng và có chức năng làm lớp đệm, tránh tác dụng
có hại của lực nhai đối với răng và vùng quanh răng.


6
1.1.2.4. Lợi:
Bao gồm lợi bám dính và lợi tự do.
- Lợi bám dính: là vùng lợi bám dính một phần vào chân răng và một
phần vào mặt ngoài xương ổ răng. Mặt ngoài lợi là lớp biểu mô sừng hoá.
- Lợi tự do: có bờ lợi tự do (đường viền lợi) và nhú lợi (núm lợi) bình
thường lợi tự do có hình lượn sóng ôm sát vào vùng xung quanh của một phần
thân răng và cổ răng và cùng với cổ răng tạo thành một rãnh gọi là rãnh lợi.
Chiều sâu của rãnh lợi bình thường là 1-2 mm.
1.2. BỆNH SÂU RĂNG VÀ VIÊM QUANH RĂNG

1.2.1. Bệnh sâu răng
1.2.1.1. Định nghĩa [6], [7]
Bệnh sâu răng là một bệnh tổn thương không hồi phục, trong đó tổ chức
cứng của răng bị phá hủy tạo thành hố ở trên răng. Sâu răng là kết quả của
quá trình hủy khoáng ở tổ chức cứng.

Hình 1.2: Hình ảnh mang tính chất minh họa về sâu răng
1.2.1.2. Bệnh căn, bệnh sinh[6], [8], [9]
Trước năm 1970 bằng sơ đồ key để giải thích bệnh căn sâu răng, người
ta chú ý nhiều đến chất đường và vi khuẩn Streptôccus Mutans. Vi khuẩn ở
trong miệng lên men chất tinh bột và đường còn dính lại trên bề mặt răng tạo


7
thành acid và acid này phá huỷ tổ chức cứng của răng tạo thành lỗ sâu, qua lỗ

sâu vi khuẩn xâm nhập vào tuỷ răng gây viêm tuỷ và viêm quanh cuống răng.

Hình 1.3: Sơ đồ key
Ngày nay White giải thích sinh bệnh học sâu răng bằng cách thay vòng tròn
chất đường trong sơ đồ key bằng vòng tròn chất nền, nhấn mạnh vai trò bảo vệ
trung hoà của nước bọt và pH của dòng chảy nước bọt quanh răng. Theo cơ chế
hoá học và vật lý sinh học thì sâu răng là sự huỷ khoáng lớn hơn sự tái khoáng,
nếu quá trình huỷ khoáng lớn hơn tái khoáng thì sẽ gây sâu răng.
Sâu răng = huỷ khoáng > tái khoáng.
- Các yếu tố bảo vệ bao gồm:
+ Nước bọt
+ Khả năng kháng acid của men
+ Fluor có ở bề mặt men răng
+ Trám bít hố rãnh
+ Nồng độ Ca++; NPO4 quanh răng
+ pH > 5,4


8
- Các yếu tố gây mất ổn định làm sâu răng:
+ Mảng bám vi khuẩn
+ Chế độ ăn nhiều đường
+ Thiếu nước bọt hay không có độ pH thấp (< 5,5)
+ Trào ngược dịch vị dạ dày
+ pH < 5
- Sự huỷ khoáng là sự chuyển muối khoáng quá nhiều từ men ra dịch
miệng. Ở giai đoạn này khi các Matric protein chưa bị huỷ thì thương tổn có
khả năng hồi phục nếu muối khoảng từ dịch miệng và cơ thể lắng đọng trở lại.
- Sự tái khoáng: Nước bọt là nguồn cung cấp chất khoáng cho sự tái
khoáng. Nếu sự tái khoáng mạnh mẽ tạo thành lớp rắn sâu vài micro, có khả

năng ngăn chặn các yếu tố sâu răng.
Như vậy vai trò bảo vệ của nước bọt rất quan trọng. Ở những bệnh nhân
khô miệng, Hội chứng trào ngược dịch vị sẽ rất dễ mắc sâu răng.

pH và dòng chảy nước bọt

Vi khuÈn

Chất nền
SR

Răng
Nước bọt
Hình 1.4: Sơ đồ White [8]


9
1.2.1.3. Tình hình bệnh sâu răng:
a) Trên thế giới:
Theo một số nghiên cứu ở nước ngoài cho thấy tỷ lệ sâu răng ở người
trưởng thành là khá cao. Năm 2002, Wang Hong - Ying và CS nghiên cứu
trên 140712 người ở các lứa tuổi (5, 12, 15, 18, 35-44 và 65-74) tại Trung
Quốc cho thấy tỷ lệ sâu răng chung là 76,6% trong đó: ở lứa tuổi 18 tỷ lệ sâu
răng là 55,3%; ở lứa tuổi 35-44 tỷ lệ sâu răng là 63,0%; ở lứa tuổi 65-74 tỷ lệ
sâu răng là 64,8% [10].
N. Namal và CS nghiên cứu trên 2183 người trong độ tuổi từ 18-74 tại
Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ năm 2008 cho thấy tỷ lệ sâu răng chung là 62,0%, trong
đó: tỷ lệ sâu răng ở lứa tuổi 18-19 tuổi là 85,0%; tỷ lệ sâu răng ở lứa tuổi 2034 là 76,6%; tỷ lệ sâu răng ở lứa tuổi 35-54 là 49,9%; tỷ lệ sâu răng ở lứa tuổi
55-64 là 25,2%; tỷ lệ sâu răng ở lứa tuổi từ 65 trở lên là 16,7% [11].
Chu CH và CS nghiên cứu trên 600 sinh viên từ 18 - 21 tuổi ở Hồng

Công, Trung Quốc năm 2014 cho thấy tỷ lệ sâu răng là 69% [12].
Tại thời điểm năm 1997, chỉ số SMT ở lứa tuổi trung niên (35-44 tuổi) ở
các nước công nghiệp hoá vẫn còn ở mức cao: ở Canada, Nhật, Australia và
các nước Bắc Âu chỉ số SMT cao ở mức trên 13,9 Mỹ từ 9,0 đến 13,9.
Qua các công trình nghiên cứu cho thấy ở Anh, Mỹ, Canada, Thụy
Điển,...những thập niên 60-70 có tỷ lệ sâu răng cao trên 90% dân số, trung
bình mỗi người ở lứa tuổi 20-50 có chỉ số SMT từ 7,4-12. Đến thập niên 90
thì tỷ lệ này đã được giảm rất nhiều, dao động từ 0,8 đến 4,5 [2], [13], [14],
[15], [16].


10
Bng 1.1. Ch s SMT ca mt s nc phỏt trin trờn th gii
Tên nớc
Thụy Điển
Na-uy
Mỹ
Australia
Canada
Thụy Sĩ
New Zealand
Phần Lan
Nhật Bản

Năm
1980
1979
1980
1982
1979

1980
1982
1981
1979

SMT
1,7
4,5
2,0
2,1
2,9
1,7
2,0
4,0
2,4

Năm
2005
2004
2002
2000
1997
2004
2005
2000
1999

SMT
1,0
1,7

1,75
0,8
2,1
0,86
1,7
1,2
2,0

Trong khi ú, mt s nc ang phỏt trin (thp niờn 70 n nay), tỡnh
trng sõu rng v ch s SMT cú xu hng tng cao dao ng t 1,6 n 6,3.
Bng 1.2 Ch s SMT mt s nc ang phỏt trin
Tên nớc
Chi Lê
Thái Lan
Mexico
Iran

Năm
1978
1977
1976
1976

SMT
6,3
2,7
5,3
4,9

Năm

1999
2004
2001
2001

SMT
3,4
1,6
2,0
1,8

b) Ti Vit Nam
Ti tng thi im iu tra t 1983 n 1991 thỡ sõu rng cỏc tnh phớa
Nam cao hn cỏc tnh phớa Bc, nhng mc gia tng sõu rng cỏc tnh
phớa Bc cao hn cỏc tnh phớa Nam. Nhỡn chung, t thp k 1980 sang thp
k 1990 thỡ sõu rng Vit Nam cú xu hng gia tng [17].
Nm 2001, Trn Vn Trng v CS cụng b tỡnh trng sõu rng Vit
Nam sau iu tra sc kho rng ming ton quc ln th 2, cú kt qu: sõu
rng gia tng theo tui t 75,2% (la tui 18-34) n 89,7% (la tui t 45
tui tr lờn), t trung bỡnh cú 2,84 rng sõu tui 18 n 8,93 rng sõu tui
45 tr lờn. S trung bỡnh rng mt gia tng theo tui t 0,52 rng tui 18 lờn
ti 6,64 rng tui 45 tr lờn v cú rt ớt rng c hn cỏc nhúm tui. Ch


11
số SMT tăng theo độ tuổi, ở lứa tuổi 18-34 là 3,29; ở lứa tuổi 35-44 là 4,70; ở
lứa tuổi từ 45 tuổi trở lên là 8,93 [18].
Năm 2006, Trần An Định nghiên cứu trên 400 người tại Trung tâm giáo
dục lao động xã hội Hà Nội cũng nhận định tỷ lệ người nghiện ma túy bị sâu
răng là khá cao, chiếm tới 77,6% và gia tăng theo nhóm tuổi, tỷ lệ sâu răng ở

nhóm tuổi 18-24 là 67,3%; 83,7% ở nhóm từ 35 tuổi trở lên. Chỉ số SMT
chung là 3,32; trong đó: chỉ số SMT ở nhóm tuổi 18-24 là 2,69; ở nhóm tuổi ≥
35 là 4,44 [19].
Lê Thị Thanh Thủy nghiên cứu trên 415 công nhân đang làm việc tại
công ty sản xuất vật liệu xây dựng CMC tỉnh Phú Thọ năm 2009 cho thấy tỷ
lệ sâu răng chung là 43,9%, trong đó: ở nữ là 46,5%, ở nam là 42,7%. Trung
bình có 1 răng sâu/người, có 1 răng được hàn/người và có 0,4 răng mất/người.
Cũng theo kết quả nghiên cứu này, tác giả cho thấy ở lứa tuổi 18-34 tỷ lệ sâu
răng là 45,9%; 41,5% ở lứa tuổi 35-44; 41,7% ở lứa tuổi 45-60. Tác giả cũng
cho thấy chỉ số SMT chung là 1,5 [20].
Phạm Anh Dũng nghiên cứu trên 403 công nhân làm việc tại công ty
than Thống Nhất, thị xã Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh năm 2010 cho thấy tỷ lệ
sâu răng chung là 8,7%, trong đó: ở lứa tuổi ≤ 34 tỷ lệ sâu răng là 10,4%; ở
lứa tuổi 35-44 tỷ lệ sâu răng là 7,7%; ở lứa tuổi từ 45 trở lên tỷ lệ sâu răng là
6,7%. Số răng sâu trung bình/người ở nhóm tuổi ≤ 34 là 0,32; ở nhóm tuổi 3544 là 0,21; ở nhóm tuổi từ 45 trở lên là 0,5. Chỉ số SMT chung là 0,94 [21].
Nguyễn Hoài Bắc nghiên cứu trên 450 công nhân đang làm việc tại nhà
máy giấy Bãi Bằng, tỉnh Phú Thọ năm 2008 cho thấy tỷ lệ sâu răng chung là
80,7%. Tác giả cũng cho thấy chỉ số SMT chung là 3,5 [22].
1.2.2. Bệnh viêm quanh răng
1.2.2.1. Định nghĩa:
a. Viêm lợi:


12
Viêm lợi là những dạng bệnh lý chỉ liên quan đến lợi mà không kèm
theo mất bám dính và tiêu xương ổ răng. Viêm lợi được chẩn đoán khi có các
dấu hiệu dưới đây:
+ Độ sâu rãnh lợi thăm dò dưới 4mm hoặc có túi lợi (còn gọi là túi giả)
+ Phản ứng viêm rõ rệt, chảy máu lợi tự phát hay kích thích
+ Không có mất bám dính

+ Không có dấu hiệu tiêu xương trên phim X-quang
+ Có mảng bám và cao răng
Sau khi điều trị, lợi viêm khỏi hẳn nên bệnh viêm lợi có tính hoàn
nguyên [23].
b. Viêm quanh răng:
Viêm quanh răng là những dạng bệnh lý liên quan đến phá hủy tổ chức
quanh răng, sau khi điều trị, tình trạng mô quanh răng không phục hồi được
như ban đầu nên viêm quanh răng có tính không hoàn nguyên. Có hai dạng
tổn thương cơ bản là viêm quanh răng mạn tính và viêm quanh răng tiến triển.
Cả hai đều có dạng khu trú hoặc toàn thể [24].
Viêm quảnh răng mạn tính có các biểu hiện sau đây:
+ Lợi có viêm, chảy máu, đôi khi có mủ
+ Túi quanh răng không quá 5mm
+ Mất bám dính rõ ràng
+ Răng lung lay không quá độ II
+ Có tiêu xương ổ răng trên phim X-quang, thường theo chiều ngang
+ Có thể có tổn thương vùng chẽ chân răng ở các răng nhiều chân
Túi quanh răng là một dấu hiệu cơ bản và đặc biệt đề chẩn đoán viêm
quanh răng. Bệnh có tiến triển chậm, từng đợt xảy ra với thời gian dài, ít gây
đau nhức cho bệnh nhân. Không có sự khác nhau về nguyên nhân và bệnh
sinh đối với thể khu trú và toàn thể.


13
Viêm quanh răng tiến triển có các biểu hiện sau đây:
+ Tình trạng sức khỏe chung của bệnh nhân tốt
+ Bệnh nhân có tiêu xương ổ răng trầm trọng và mất bám dính rõ rệt
+ Túi quanh răng sâu ít nhất 5,5mm
+ Răng lung lay độ II, III
+ Có yếu tố gia đình

+ Bệnh tiến triển nhanh
Ngoài ra, có thể có các đặc điểm khác như:
+ Lượng mảng bám vi khuẩn trên răng không tương xứng với mức độ
trầm trọng của sự phát hủy mô quanh răng.
+ Tỷ lệ Actinobacillus actinomycetemcomitans và Porphyromonas
gingivalis trong các dòng vi khuẩn dịch lợi lên rất cao.
+ Có bất thường của hệ thống thực bào, đáp ứng quá mức đại thực bào
dẫn đến gia tăng xuất tiết PGE-2 và I1-1b.
+ Có thể xảy ra ngưng mất bám dính và tiêu xương một cách tự phát.
Giữa hai thể khu trú và toàn thể có sự khác nhau về nguyên nhân và
bệnh sinh [25].
1.2.2.2. Những hiểu biết về bệnh viêm quanh răng
Trong những năm 1960 đa số các giả thuyết cho rằng VQR là do nguyên
nhân toàn thân và các yếu tố tại chỗ (vi khuẩn và sang chấn khớp cắn) Green
(1960) Ramfjord (1961) và Loe (1965) đã chứng minh ảnh hưởng của mảng
bám răng tới viêm lợi [13]. Rosling (1976) kết luận nếu kiểm soát được mảng
bám răng và vệ sinh răng tốt bệnh sẽ ổn định [26], [27].
Ngày nay người ta nhấn mạnh vai trò của vi khuẩn trong mảng bám răng
và sự đáp ứng miễn dịch của từng cá thể, đây là hai yếu tố chính khởi phát
bệnh viêm lợi và VQR [28], [29]. Mảng bám răng là một sản phẩm có thành
phần cấu tạo hết sức phức tạp và được hình thành dần trong suốt quá trình


14
thay đổi môi trường ở vùng răng miệng. Về bản chất mảng bám răng là vi
khuẩn, có tới 500 loại vi khuẩn khác nhau, trung bình 1g (ướt) có 2.10 11 vi
khuẩn [30].
Những loại vi khuẩn liên quan đến thể bệnh viêm lợi và VQR
+ Bacterordes Inter medins
+ Actinobacillus Actinomycetemcominitans

+ Capbocytophage
+ B. Gingivalis.
Trong mảng bám còn gồm chất gian khuẩn là acid hữu cơ, đường và các
protein, là chất tựa để vi khuẩn sống và phát triển.
Mảng bám răng được hình thành sau 2-4 giờ (nếu răng không được chải
kỹ) do các vi khuẩn trong nước bọt với các men cabohyaza và neuraminidaza
tác động lên acid sialic trong muxin của nước bọt. Sản phẩm của quá trình
này lắng đọng trên bề mặt răng tạo nên một màng tựa hữu cơ đầu tiên. Hai
ngày đầu tiên các màng tựa đã xuất hiện các vi khuẩn Gram (+) và Gram (-).
Từ ngày thứ 2 đến ngày thứ 4 trên mảng bám thấy xuất hiện các thoi trùng và
các vi khuẩn có dạng hình sợi. Từ ngày thứ 4 đến ngày thứ 9 thấy có sự xuất
hiện của các xoắn khuẩn, như vậy bề mặt vi khuẩn không hoàn toàn giống
nhau trên các mảng bám răng già và non. Trong môi trường điều kiện sinh lý
và nhiệt độ thích hợp các vi khuẩn sống và chết (chủ yếu là các vi khuẩn giàu
polýacbyrit và glycoprotein) cùng với những sản phẩm mà chúng phân giải
tạo nên mảng bám răng ngày càng dày với khối lượng 70% là vi khuẩn và
30% là chất tựa hữu cơ. Các vi khuẩn có mặt trên mảng bám răng, một mặt
sản sinh ra các men chuyển hoá đạm và đường tạo thành các sản phẩm có khả
năng thay đổi PH ở các màng bám răng, gây ra hiện tượng lắng đọng canxi
tạo thành cao răng gây kích thước lợi gây ra hiện tuợng viêm lợi. Mặt khác
kháng nguyên của vi khuẩn có thể kết hợp với tổ chức quanh răng tạo thành


15
những phức hợp kháng nguyên và với cơ chế bảo vệ thông qua kháng thể làm
tổn thương đến các tế bào biểu mô lợi đã có gắn các thành phần kháng nguyên
của vi khuẩn. Bên cạnh những cơ chế miễn dịch dịch thể, thông qua các phản
ứng kháng nguyên, kháng thể thì cơ chế miễn dịch tế bào với sự xuất hiện của
lysozim, histamin, heparin, lymphokin, tổ chức lợi cũng bị tổn thương dẫn tới
thoái hoá và trong một số trường hợp dẫn tới tiêu xương ổ răng.

Việc ngăn chặn hình thành mảng bám răng có thể khống chế được bệnh
VQR. Đã có nhiều nghiên cứu chú ý đến vai trò của vi khuẩn MBR và tìm ra
các vi khuẩn của mảng bám đó. Mặt khác, bệnh VQR không ảnh hưởng tới
mọi người như nhau vì vậy người ta nghĩ đến vai trò cá thể. Ngày nay người
ta cho rằng sự khởi phát bệnh tổ chức quanh răng cũng như sự chuyển tiếp từ
viêm lợi sang bệnh VQR phụ thuộc vào hai yếu tố chính:
- Vi khuẩn mảng bám răng, vai trò của nó đã được chứng minh từ những
công trình gây bệnh thực nghiệm viêm lợi ở người.
- Sự đáp ứng của cơ thể, đó là sự đáp ứng miễn dịch và các yếu tố làm
bệnh nặng thêm như sang chấn khớp cắn, hoặc bệnh toàn thân như cao huyết
áp, đái tháo đường, béo phì.
Như vậy MBR là nguyên nhân chính trong bệnh tổ chức quanh răng.
Nhiều nghiên cứu đã cho thấy mối liên quan giữa MBR và bệnh vùng quanh
răng. Nếu vệ sinh răng miệng tốt, kiểm soát được MBR có thể dự phòng được
bệnh vùng quanh răng.
1.2.2.2. Tình hình bệnh viêm quanh răng
a) Trên thế giới:
Các nghiên cứu về dịch tễ học trước đây đã nhấn mạnh đến tính chất phổ
biến của bệnh. Năm 1955, Marshall - Day cho thấy 90% người ở dưới tuổi 40
mắc bệnh quanh răng [28].


16
Các nghiên cứu gần đây đã chứng minh được bệnh VQR không tới mức
phổ biến, lưu hành rộng rãi cũng như không nặng như người ta nghĩ trước
đây. Năm 1997, tổ chức y tế thế giới cho biết có trên 50 nước có từ 5-20%
người VQR nặng ở tuổi 40 [31].
Năm 1989, Brown báo cáo một điều tra ở Mỹ cho thấy tỷ lệ người mắc
bệnh viêm quanh răng tăng theo tuổi, từ 29% ở tuổi 19-44 tăng lên 50% ở tuổi
từ 45 trở lên [28].

Về mức độ trầm trọng của bệnh, trung bình Sextants lành/người thì ở
châu Ácó số trung bình lành (Code 0) thấp (8%) và số trung bình sextants
bệnh lý/người còn ở mức báo động [32].
Các nước Đông Nam Á cũng không nằm ngoài tình trạng trên. Điển hình
như Thái Lan là một nước có công tác chăm sóc sức khỏe răng miệng cộng
đồng tốt, nhưng theo kết quả điều tra thì chỉ có 1% lợi hoàn toàn khỏe mạnh,
58% có túi lợi nông và 11% có túi lợi sâu [33].
Tất cả các nghiên cứu đều chỉ ra rằng vệ sinh răng miệng kém là yếu tố
quan trọng nhất liên quan đến mức độ lưu hành và mức độ nặng của phá huỷ
quanh răng.
b) Tại Việt Nam:
Đã có nhiều công trình nghiên cứu điều tra về bệnh viêm quanh răng với
các phương pháp, mục tiêu và quy mô khác nhau. Các cuộc điều tra này đều
có kết quả là tỷ lệ mắc bệnh viêm quanh răng ở nước ta rất cao.
Trong một số điều tra riêng rẽ về bệnh viêm quanh răng ở các tỉnh phía
Nam và thành phố Hồ Chí Minh, Nguyễn Cẩn và CS cho thấy tỷ lệ người có
cao răng rất cao, gặp ở hầu hết các lứa tuổi, viêm lợi luôn đi đôi với cao răng,
1/3 số viêm lợi sẽ tiến triển sang viêm quanh răng [34].
Kết quả điều tra sức khỏe răng miệng ở các tỉnh phía Bắc năm 1997 cho
thấy tỷ lệ người có tổ chức quanh răng hoàn toàn khỏe mạnh ở nhóm tuổi 12-15,


17
35-44 là rất thấp chưa quá 3%. Ở Việt Nam năm 2001 khi nghiên cứu dịch tễ
học viêm lợi và viêm quanh răng trong phạm vi toàn quốc đã cho thấy tỷ lệ
người mắc bệnh VQR trong phạm vi toàn ở mức rất cao 90,7%. Trong đó có
31,8% người có túi lợi sâu. Tỷ lệ người có sức khoẻ vùng quanh răng từ trung
bình trở lên (tức là có từ 3 vùng lục phân lành mạnh trở lên) ở mức rất thấp,
dưới 10% [18].
Năm 2006, Trần An Định nghiên cứu trên 400 người nghiện ma túy tại

Trung tâm giáo dục lao động xã hội Hà Nội số 02 cho thấy tỷ lệ người có cao
răng là 57,0%; tỷ lệ người có túi lợi nông là 11,2% và tỷ lệ người có túi lợi
sâu là 1,2% [19].
Năm 2008, Nguyễn Hoài Bắc nghiên cứu trên 450 công nhân nhà máy
giấy Bãi Bằng, tỉnh Phú Thọ cho thấy tỷ lệ người chảy máu lợi khi thăm
khám là 21,2%; tỷ lệ người có cao răng là 30,3% [22].
Năm 2009, Lê Thị Thanh Thủy nghiên cứu trên 415 công nhân nhà máy sản
xuất vật liệu xây dựng tỉnh Phú Thọ cho thấy tỷ lệ người có cao răng là 81,4%; tỷ lệ
người có túi lợi nông là 9,9% và tỷ lệ người có túi lợi sâu là 1,2% [20].
Năm 2010, Phạm Anh Dũng nghiên cứu trên 403 công nhân tại công ty
than Thống Nhất, thị xã Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh cho thấy tỷ lệ người có
cao răng là 62,5%; tỷ lệ người có túi lợi nông là 9,4% và tỷ lệ người có túi lợi
sâu là 2,0% [21].
Qua nghiên cứu một số y văn trên thế giới và Việt Nam cho thấy viêm
lợi gặp hầu hết ở mọi người trong cộng đồng, có khoảng 15-20% người từ 35
tuổi trở lên bị mắc. Bằng việc tăng cường vệ sinh răng miệng có thể làm giảm
tỷ lệ mắc bệnh vùng quanh răng [15], [20], [22], [35], [36].
1.3. CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ CỦA BỆNH SÂU RĂNG VÀ VIÊM QUANH RĂNG


18
Trong phần này chúng tôi gộp chung các yếu tố nguy cơ liên quan đến
bệnh sâu răng và viêm quanh răng vì hầu như tất cả các yếu tố sẽ nghiên cứu
dưới đây đều liên quan đến 2 bệnh này. Theo một số tác giả trên thế giới cũng
như trong nước các yếu tố nguy cơ được chia thành các nhóm sau [18], [37],
[38]:
- Nhóm yếu tố nguy cơ về tập quán ăn uống.
- Nhóm yếu tố nguy cơ về chăm sóc vệ sinh răng miệng.
- Nhóm yếu tố nguy cơ về các đặc trưng cá nhân.
Tuy nhiên các tác giả thường mô tả các yếu tố nguy cơ chứ không phân

tích sâu mối liên quan giữa các yếu tố nguy cơ và bệnh sâu răng, viêm quanh
răng [18], [39], [40], [41].
1.3.1. Nhóm yếu tố nguy cơ về tập quán ăn uống
Một số tác giả trong và ngoài nước đã nghiên cứu các tập quán ăn uống
có liên quan đến bệnh sâu răng, viêm quanh răng như tần suất sử dụng các đồ
ăn thức uống có nhiều đường, ăn thêm bữa phụ buổi tối, đồ ăn thức uống
nóng lạnh, đồ ăn cứng, khẩu phần ăn như sau.
Al Ghanin trong một phân tích đa biến về mối liên quan giữa chế độ ăn
có nhiều sữa hộp, tần suất sử dụng đồ ăn uống ngọt,... với bệnh sâu răng và
viêm quanh răng, kết luận rằng những yếu tố này liên quan chặt chẽ tới bệnh
sâu răng, viêm quanh răng (có ý nghĩa thống kê với giá trị p < 0,0001) [42].
Rao và cộng sự nghiên cứu tình trạng dinh dưỡng trong việc phát triển
bệnh sâu răng, viêm quanh răng. Tác giả kết luận rằng có mối liên quan thuận
chiều giữa suy dinh dưỡng với 2 bệnh trên. Không có nhiều nghiên cứu trên
thế giới về vấn đề này [41].
Một nghiên cứu tại thành phố Kerala, Ấn Độ năm 2005 do David và
cộng sự thực hiện cho biết người ăn nhiều đồ ngọt có nguy cơ mắc bệnh sâu


19
răng cao gấp 1,4 lần những người ăn ít đồ ngọt, sự khác biệt này mang ý nghĩa
thống kê [39].
Okeigbemen nghiên cứu ở Nigeria năm 2004 cho thấy tỷ lệ người có ăn
phụ buổi tối là rất cao 87,5% nhưng tỷ lệ sâu răng ở đây lại thấp. Điều này
cần phải được tiếp tục nghiên cứu [43].
Petersen và cộng sự nghiên cứu ở Thái Lan (2001) công bố tỷ lệ sử dụng
đồ uống ngọt hàng ngày rất cao như sữa đường (34%), chè đường (26%),
nước ngọt (24%) liên quan đến tỷ lệ sâu răng rất cao 70-96,3%, tùy độ tuổi.
Đồng thời tác giả cũng nêu lên tập quán sử dụng đồ ngọt nhiều ở những người
theo đạo Hồi và đặc biệt là phụ nữ [40].

Theo Trần Văn Trường và cộng sự, tỷ lệ người sử dụng đồ uống có ga,
có đường,... là khá phổ biến, dao động từ 35,3% (nước chè) đến 83,0% (nước
hoa quả) [18].
1.3.2. Nhóm yếu tố nguy cơ về chăm sóc vệ sinh răng miệng
Một số tác giả nước ngoài và trong nước đã nghiên cứu về các yếu tố
chăm sóc răng miệng như hiểu biết về chăm sóc răng, khám định kỳ răng, thói
quen chải răng, tuổi sử dụng bàn chải, thuốc, vật liệu chải răng như sau:
Rao và cộng sự cho biết tại Ấn Độ, có đến 59,2-62% người có chải răng ít
nhất 1 lần/ngày nhưng chỉ có 5,7-13,6% sử dụng thuốc chải răng, 3,1% dùng
tay làm sạch răng và 21,1% dùng tro và than để đánh răng hàng ngày [41].
Okeigbemen và cộng sự thông báo 81,4% người chưa bao giờ được
khám răng tại các cơ sở y tế, 95,8% có sử dụng bàn chải răng [43].
Petersen và cộng sự cũng thông báo tỷ lệ người chải răng 1 lần/ngày là
88% [40].
David và cộng sự cho rằng người không sử dụng bàn chải răng thì có
nguy cơ sâu răng cao gấp 1,9 lần những người khác [39].


20
1.3.3. Nhóm yếu tố nguy cơ về các đặc trưng cá nhân
Các nghiên cứu trong và ngoài nước cho thấy nam mắc bệnh sâu răng,
viêm quanh răng cao hơn nữ, tuy nhiên cũng có một số tác giả lại thấy không
có sự khác biệt về sâu răng giữa nam và nữ [44], [45]. Có nghiên cứu nhấn
mạnh đến sự khác biệt hay không khác biệt giữa nam và nữ còn phụ thuộc vào
một số yếu tố khác như lứa tuổi và hành vi chăm sóc sức khỏe răng miệng [46].
Rao và cộng sự cho rằng người nội thành có tỷ lệ sâu răng cao hơn ở
ngoại thành (22,8% so với 15%), người dân tộc thiểu số có chất răng tốt hơn
người không là người dân tộc thiểu số [41]. Bajomo và cộng sự lại cho rằng
người da đen bị sâu răng nhiều hơn người da trắng. Okeigbemen và cộng sự
cho biết người thành thị có chỉ số SMT cao hơn người nông thôn (0,72 so với

0,53), chỉ số SMT ở nữ lại cao hơn nam (0,7 so với 0,59) [43].
David và cộng sự thông báo người sống ở thành phố có nguy cơ sâu răng
coa hơn 1,5 lần người ở nông thông, người nghèo cũng có nguy cơ sâu răng
cao gấp 1,7 lần so với người giàu [35]. Ciuffolo và cộng sự cho rằng tỷ lệ sâu
răng ở nam cao hơn ở nữ [47].
Tại Việt Nam, Trần Văn Trường và cộng sự thông báo một số yếu tố
nguy cơ của sâu răng [18]. Kết quả cho thấy:
- Tuổi càng cao thì chỉ số SMT càng cao
- Chỉ số SMT của nam cao hơn nữ
- Chỉ số SMT ở người thành thị thấp hơn nông thôn
Theo tác giả Trần Ngọc Thành, năm 2005, ở học sinh lứa tuổi 6-12, tại
trường tiểu học Khương Thượng, nghiên cứu mối liên quan giữa yếu tố nguy cơ
và sâu răng vĩnh viễn trên mô hình hồi qui đa biến, cho thấy học sinh lứa tuổi 912 có nguy cơ bị sâu răng cao gấp 2 lần học sinh lứa tuổi 6-8, sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê. Còn các yếu tố khác như giới, chải răng sáng, chải răng tối, chải


21
răng sau khi ăn, súc miệng sau khi ăn đồ ngọt, cách chải răng và thời gian chải
răng chưa có mối liên quan có ý nghĩa thống kê với sâu răng [48].
1.4. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA CÁN BỘ CÔNG NHÂN VIÊN TỔNG CÔNG
TY TƯ VẤN THIẾT KẾ GIAO THÔNG VẬN TẢI

Tổng công ty tư vấn thiết kế Giao thông vận tải là một doanh nghiệp
khảo sát thiết kế, tư vấn xây dựng các công trình giao thông vận tải; có phạm
vi hoạt động trong cả nước và liên doanh với nước ngoài, có các chức năng,
nhiệm vụ chính và chủ yếu như sau [49]:
- Lập quy hoạch tổng thể các công trình giao thông, dân dụng, công nghiệp.
- Khảo sát, nghiên cứu thiết kế, thẩm định và tư vấn các công trình
GTVT như: Giao thông công chính, đường sắt, đường bộ, đường thủy, cảng
và các công trình xây dựng khác.

- Cung cấp dịch vụ tư vấn đầu tư xây dựng và quản lý dự án đầu tư xây
dựng các công trình giao thông, dân dụng, công nghiệp.
- Thiết kế các công trình cầu, hầm, đường bộ, đường sắt, công trình cảng,
đường thủy, thủy lợi, đường sắt trên cao, lập hồ sơ dự báo GTVT.
- Khảo sát điều tra, thu thập số liệu cơ bản: Khảo sát địa hình, khảo
sát đường bộ, đường sắt, đường thủy, khảo sát địa chất công trình và địa
chất thủy văn,...
- Giám sát thi công và kiểm định chất lượng: Tư vấn giám sát thi công
xây dựng, kiểm định, thử tải công trình.
- Nghiên cứu ứng dụng, xây dựng thực nghiệm và chuyển giao công
nghệ mới các công trình giao thông, dân dụng, công nghiệp như: thi công cọc
khoan nhồi bê tông cốt thép đường kính đến 1000 mm, thi công cọc cát để xử
lý nền đất yếu trong các công trình xây dựng.


22
- Tham mưu với Bộ Giao thông vận tải về các lĩnh vực chuyên ngành
giao thông vận tải như quy hoạch chiến lược phát triển mạng lưới GTVT.
Với các nhiệm vụ công việc như trên, cán bộ công nhân viên của Tổng
công ty tư vấn thiết kế Giao thông vận tải hay phải đi xa nhà, đến những nơi
khó khăn, điều kiện chăm sóc vệ sinh răng miệng thiếu thốn (nước sạch,
thuốc chải răng,...). Họ cũng thường xuyên có các hành vi ảnh hưởng đến việc
vệ sinh răng miệng như uống nước có ga, bia rượu thường xuyên; hút thuốc lá
thường xuyên. Ngoài ra họ tiếp xúc với một số hóa chất độc hại trong quá
trình thiết kế và thi công như bitum. Chính những yếu tố trên đã ảnh hưởng
trực tiếp đến việc vệ sinh răng miệng của họ. Tuy có tính đặc thù như thế,
nhưng việc tuyên truyền giáo dục cũng như chăm sóc vệ sinh răng miệng của
họ chưa được quan tâm. Mặt khác, chưa có công trình nghiên cứu nào đi sâu
đánh giá tình hình dịch tễ học của bệnh sâu răng và viêm quanh răng cho các đối
tượng trên, đây là một khó khăn khi chúng tôi cần tham khảo tài liệu, nhưng đây

cũng chính là điều thúc đẩy chúng tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài này.


23

CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU

Cán bộ công nhân viên đang làm việc tại Tổng công ty tư vấn thiết kế
Giao thông vận tải - Bộ GTVT.
2.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn:
- Cán bộ công nhân viên hiện đang làm việc tại Tổng công ty tư vấn thiết
kế GTVT - Bộ GTVT.
- Tự nguyện tham gia nghiên cứu.
2.1.2 Tiêu chuẩn loại trừ:
- Cán bộ công nhân viên không đồng ý hợp tác.
- Không phải là cán bộ công nhân viên Tổng công ty tư vấn thiết kế
GTVT.
2.2. ĐỊA ĐIỂM VÀ THỜI GIAN NGHIÊN CỨU

- Địa điểm: Tại Tổng công ty tư vấn thiết kế GTVT
Bệnh viện Răng Hàm Mặt TW Hà Nội
- Thời gian: Từ tháng 02/2014 đến tháng 12/2014.
2.3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.3.1. Thiết kế nghiên cứu:
Đây là một nghiên cứu mô tả cắt ngang nhằm xác định tỷ lệ hiện mắc
bệnh sâu răng, viêm quanh răng, nhu cầu điều trị và một số yếu tố nguy cơ.
Cỡ mẫu và phương pháp nghiên cứu: Chọn mẫu toàn bộ. Toàn bộ

CBCNV của Tổng công ty tư vấn thiết kế GTVT đều là đối tượng nghiên cứu.
Những đối tượng bị ốm, đi công tác hoặc vì lý do nào đó mà nghỉ trong buổi
khám sẽ được khám vào buổi khác.


24
2.3.2. Kỹ thuật, phương pháp, phương tiện thu thập thông tin
Về phương pháp thu thập thông tin gồm 2 phần:
2.3.2.1. Phỏng vấn
Nhằm mục đích thu thập thông tin về các đặc trưng cá nhân, thực hành
vệ sinh răng miệng và các yếu tố nguy cơ. Chúng tôi tiến hành phỏng vấn
theo bộ câu hỏi được chuẩn bị sẵn bao gồm kiến thức, thực hành vệ sinh răng
miệng của cá nhân (Phụ lục 2).
2.3.2.2. Khám lâm sàng:
Nhằm mục đích phát hiện bệnh sâu răng, viêm quanh răng.
a. Cách tổ chức khám:
- Lấy danh sách số đối tượng điều tra, đánh số thứ tự theo đơn vị công tác.
- Khám lâm sàng răng miệng.
b. Dụng cụ khám:
Dụng cụ khám thông thường gồm: khay, gương, gắp, thám châm, bông,
găng tay và các phương tiện tiệt khuẩn dụng cụ.

Hình 2.1: Bộ khay thám thông thường
Dụng cụ đo túi lợi: Dùng cây thăm dò quanh răng theo tiêu chuẩn của Tổ
chức Y tế thế giới OMS 11,5mm.


25

Hình 2.2: Cây thăm dò quanh răng

+ Đầu có hình cầu có đường kính 0,5mm và có dấu thanh với các khoảng
cách là 3,5; 2,0; 3,0; 3,0mm (tổng 11,5mm).
+ Giới hạn dưới của vạch màu đen cách đầu cùng là 3,5mm.
+ Giới hạn trên của vạch màu đen cách đầu cùng là 5,5mm.
Ngoài ra, có 1 số cơ số thuốc, cây lấy cao răng, nạo ngà,... để lấy cao
răng, nhổ răng lung lay,...
Khám dưới ánh sáng tự nhiên đủ sáng.
c. Biện pháp vô khuẩn:
+

Trang phục bảo vệ: bao gồm áo blouse, mũ, khẩu trang, kính đeo

mắt, găng khám vô khuẩn.
+
Rửa tay trước khi mang găng bằng xà phòng nước có chất khử
khuẩn, không kích thích da của Lifebuoy.
+
Sử dụng Hydroperoxyde 6% để khử khuẩn dụng cụ (ngâm dụng
cụ 30 phút).
+
Sử dụng Autoclave và lò hấp khô tiệt khuẩn dụng cụ.
+
Bảo quản từng loại dụng cụ trong những hộp đựng bằng kim
loại.
d. Người khám:
Là các bác sỹ chuyên khoa răng hàm mặt đã được tập huấn thống nhất
cách khám và phương pháp đánh giá.
Ghi chép vào phiếu khám theo mẫu (Phụ lục 1)
e. Tiêu chuẩn xác định sâu răng và viêm quanh răng:
* Tiêu chuẩn xác định sâu răng: Chỉ số sâu mất trám (SMT)



×