Tải bản đầy đủ (.doc) (61 trang)

Quản lý hoạt động đầu tư Quỹ BHXH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (384.83 KB, 61 trang )

Môc lôc
+ Sö dông quü BHXH.................................................................................
Sè tiÒn ®Çu t..................................................................................................41
KÕt luËn

1


Lời mở đầu
Hệ thống ASXH là một phương tiện quan trọng trong việc thực hiện các
mục tiêu phát triển kinh tế và công bằng xã hội. Là một bộ phận cấu thành của
hệ thống ASXH, BHXH ra đời, phát triển gắn liền với lịch sử phát triển của
Nhà nước Việt Nam. Từ 1945, sau khi cách mạng tháng tám thành công và
Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, mặc dù với một nền tài chính
hết sức eo hẹp, kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, nhưng chính sách BHXH lúc đó đã
phản ánh được những mặt tiến bộ và trở thành một công cụ hữu hiệu, mang
tính nhân văn sâu sắc để giúp con người vượt qua những khó khăn, rủi ro phát
sinh trong cuộc sống và quá trình lao động.
Từ năm 1986, Việt Nam tiến hành cải cách kinh tế và chuyển đổi nền
kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường. Sự đổi mới về cơ
chế kinh tế đòi hỏi có những thay đổi tương ứng về lĩnh vực BHXH. Văn kiện
Đại hội Đảng lần thứ VII đã nêu rõ: “ Cần đổi mới chính sách BHXH theo
hướng mọi người lao động và đơn vị kinh tế thuộc các thành phần kinh tế đều
đóng góp quỹ BHXH. Từng bước tách quỹ BHXH đối với công nhân viên
chức ra khỏi ngân sách, trở thành quỹ BHXH chung cho người lao động thuộc
mọi thành phần kinh tế”.
Ngày 26/01/1995, Chính phủ ban hành Nghị Định số 12/CP về Điều lệ
BHXH và Nghị định 19/NĐ-CP ngày 16/02/1995 quy định việc thành lập quỹ
BHXH chung, tách quỹ BHXH ra khỏi NSNN, từ đây quỹ BHXH được thành
lập đánh dấu sự đổi mới về chính sách BHXH, và là sự tiếp nối truyền thống
bảo hiểm xã hội ngay từ khi thành lập nước. Vai trò của Quỹ ngày một tăng


cường cùng với sự trưởng thành của quỹ, đóng góp một phần không nhỏ vào
việc thực hiện các chính sách xã hội của nước ta. Ngoài việc đảm bảo và chủ
động kinh phí chi cho đối tượng, BHXH Việt Nam còn sử dụng số tiền tồn
tích của quỹ BHXH để đầu tư. Đây là nhiệm vụ có ý nghĩa rất quan trọng, bởi

2


vì ngoài việc bảo tồn giá trị và phát triển quỹ thì việc đầu tư của quỹ BHXH
còn góp phần vào việc phát triển kinh tế của đất nước; các dự án do quỹ đầu
tư đã tạo việc làm và thu nhập ổn định cho hàng vạn lao động.
Tuy nhiên, Quỹ bảo hiểm còn non trẻ, đặc biệt là thiếu kinh nghiệm hoạt
động trong nền kinh tế thị trường. Nguyên nhân căn bản của những yếu kém
này là do những bất cập trong quản lý Quỹ BHXH. Vì vậy, để góp phần hình
thành và phát triển Quỹ BHXH phù hợp với những yêu cầu phát triển kinh tế
xã hội của đất nước đòi hỏi phải hoàn thiện những cơ chế, chính sách quản lý
Quỹ trong thời gian tới.
Trong chuyên đề của mình em xin trình bày những hiểu biết về:
“Quản lý hoạt động đầu tư Quỹ BHXH”
Em rất mong nhận được sự nhận xét và đóng góp ý kiến của thầy để bài
viết đầy đủ và hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn.

3


PHẦN I: LÝ THUYẾT CƠ BẢN VỀ QUỸ BHXH VÀ HOẠT
ĐỘNG ĐẦU TƯ QUỸ BHXH
1.1.


Tổng quan về BHXH
1.1.1. Tính tất yếu khách quan của BHXH
1.1.1.1. BHXH là nhu cầu của người lao động

Con người muốn tồn tại và phát triển cần phải lao động tạo ra của cải vật
chất để thoả mãn những nhu cầu của mình. Khi sản xuất ngày càng phát triển,
sản phẩm tạo ra ngày càng nhiều thì đời sống của mọi người sẽ dần được
nâng cao. Tuy nhiên trong cuộc sống cũng như trong quá trình lao động, bên
cạnh những lúc thuận lợi, có đầy đủ thu nhập và mọi điều kiện sinh sống bình
thường, con người cũng gặp phải những khó khăn, rủi ro như bị ốm đau,
chăm sóc y tế, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, mất việc làm, mất
khả năng lao động, già cả hoặc bị chết... Để bảo vệ mình, vượt qua khó khăn,
từ xưa con người đã biết đùm bọc, san sẻ lẫn nhau trong nội bộ cộng đồng, đi
vay, xin viện trợ từ các nhà hảo tâm... Tuy nhiên, sự tương trợ này chỉ mang
tính tự phát, trong phạm vi hẹp. Chính vì vậy, nguồn tài chính để khắc phục
rủi ro là không chắc chắn.
Vào thế kỷ XIX, công nghiệp hoá diễn ra rất mạnh mẽ ở châu Âu. Thành
thị trở thành nơi có công nghiệp phát triển và thương mại sầm uất. Nhiều
nông dân đã bỏ thôn quê ra thành phố làm thuê, và mối quan hệ kinh tế giữa
người lao động làm thuê và giới chủ cũng trở nên phức tạp. Giờ đây, những
người công nhân làm thuê chỉ còn dựa được vào tiền lương hàng tháng để có
ăn, có mặc, có chỗ ở mà không còn dựa được vào họ hàng, làng xã như trước
nữa. Trong bối cảnh đó, các hội tương tế đã xuất hiện, tổ chức việc để dành
tiền tiết kiệm; bảo hiểm tư nhân giúp người tham gia bảo hiểm cả lúc sống và
khi chết. Đồng thời, với sự đấu tranh mạnh mẽ của những người làm thuê,
Nhà nước đã phải đứng ra can thiệp và điều hoà mâu thuẫn gay gắt của giới
4


chủ và giới thợ. Sự can thiệp này một mặt làm tăng được vai trò của Nhà

nước, mặt khác buộc cả giới chủ và giới thợ phải đóng góp một khoản tiền
nhất định hàng tháng được tính toán chặt chẽ dựa trên cơ sở xác suất rủi ro
xảy ra đối với người làm thuê. Số tiền đóng góp của cả chủ và thợ hình thành
một quỹ tiền tệ tập trung trên phạm vi quốc gia. Quỹ này còn được bổ sung từ
NSNN khi cần thiết nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động khi gặp phải
những biến cố bất lợi.
Toàn bộ những hoạt động với những mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ
trên được thế giới quan niệm là bảo hiểm xã hội đối với người lao động. Có
nhiều khái niệm về BHXH nhưng theo tổ chức Lao động quốc tế thì BHXH
là: " sự bảo vệ của cộng đồng xã hội đối với các thành viên của mình thông
qua sự huy động các nguồn đóng góp vào quỹ bảo hiểm xã hội để trợ cấp
trong các trường hợp ốm đau, tai nạn, thương tật, già yếu, thất nghiệp.
Đồng thời chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình đông con để ổn định
đời sống của thành viên và đảm bảo an toàn xã hội ".
Đối tượng của BHXH chính là thu nhập của người lao động bị biến động
giảm hoặc mất đi do bị mất hoặc giảm khả năng lao động, mất việc làm của
những người lao động tham gia BHXH.
Đối tượng tham gia BHXH là người lao động và người sử dụng lao
động. Tuy vậy, tuỳ theo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước mà
đối tượng này có thể là tất cả hoặc một bộ phận những người lao động nào đó.
Nếu xem xét trên mối quan hệ ràng buộc trong BHXH, ngoài người lao
động còn có người sử dụng lao động và cơ quan BHXH, dưới sự bảo trợ của
Nhà nước. Người sử dụng lao động đóng góp vào quỹ BHXH là trách nhiệm
của họ để bảo hiểm cho người lao động mà họ sử dụng. Còn cơ quan BHXH
nhận sự đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động phải có
trách nhiệm quản lý, sử dụng quỹ để thực hiện mọi công việc về BHXH đối
với người lao động. Mối quan hệ ràng buộc này chính là đặc trưng riêng có
5



của BHXH.
1.1.1.2. BHXH là một bộ phận cấu thành và là bộ phận quan
trọng nhất trong chính sách xã hội
Chính sách xã hội là loại chính sách được thể chế hoá bằng pháp luật
của Nhà nước thành một hệ thống các quan điểm, chủ trương, phương hướng
và biện pháp để giải quyết những vấn đề xã hội nhất định, trước hết là những
vấn đề xã hội liên quan đến công bằng xã hội và phát triển ASXH, nhằm góp
phần ổn định, phát triển và tiến bộ xã hội.
Trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta đã
khẳng định: " Chính sách xã hội bao trùm mọi mặt của cuộc sống con người:
điều kiện lao động và sinh hoạt, giáo dục và văn hoá, quan hệ gia đình, quan
hệ giai cấp, quan hệ dân tộc... Coi nhẹ chính sách xã hội tức là coi nhẹ yếu tố
con người trong sự nghiệp xây dựng XHCN ".
BHXH nằm trong hệ thống các chính sách xã hội của Đảng và Nhà
nước, là chính sách có tính nhân văn sâu sắc, có tầm quan trọng và vai trò to
lớn đối với cuộc sống con người. Mục đích chủ yếu của chính sách này nhằm
đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ, khi người lao động bị
giảm hoặc mất thu nhập do bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc
làm. Thực chất, đây là một trong những loại chính sách đối với con người,
nhằm đáp ứng một trong những quyền và nhu cầu hiển nhiên của con người,
nhu cầu an toàn về việc làm, an toàn lao động, an toàn xã hội ...
Các bên tham gia BHXH đều phải đóng góp vào quỹ BHXH. Quỹ này
dùng để trợ cấp cho một số người lao động tham gia khi họ bị giảm hoặc mất
thu nhập. Số lượng những người này thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số
những người tham gia đóng góp. Như vậy, BHXH thực hiện phân phối lại thu
nhập giữa những người tham gia. Có thể là phân phối lại theo chiều dọc được
thực hiện giữa những người có thu nhập cao và người có thu nhập thấp. Có
thể là phân phối lại thu nhập theo chiều ngang được thực hiện giữa những
6



người lao động trẻ, khoẻ với những người lao động già, ốm yếu, giữa những
người đang làm việc và những người đã về hưu...
BHXH có quan hệ chặt chẽ với toàn bộ nền kinh tế quốc dân, huy động
một khối lượng tiền đáng kể đầu tư vào nền kinh tế. Nguồn thu BHXH là một
nguồn tiết kiệm nội bộ quan trọng vì các khoản chi trợ cấp, nhất là trợ cấp
tuổi già, tử tuất chưa thực hiện ngay. Nguồn thu được tích tụ tạo thành quỹ
nhàn rỗi khổng lồ. Vì vậy khi dùng quỹ BHXH để đầu tư, hoạt động kinh
doanh - tức là cung ứng vốn vào nền kinh tế sẽ tạo ra những biến đổi về cung
và cầu vốn trong nền kinh tế. Theo đó sẽ có tác động đến hướng vận động,
chuyển dịch các nguồn tài chính trong nền kinh tế, tất yếu sẽ làm thay đổi các
quỹ tiền tệ của các chủ thể khác theo các quy luật thị trường; góp phần kích
thích, thúc đẩy nền kinh tế - xã hội phát triển tạo ra nhiều của cải vật chất và
tinh thần nhằm phục vụ ngày càng tốt hơn nhu cầu đời sống và sinh hoạt của
mọi người trong xã hội.
Có thể nói, chính sách BHXH là một bộ phận quan trọng của chính
sách xã hội, góp phần ổn định, phát triển và tiến bộ xã hội, thực hiện được các
mục tiêu mà chính sách xã hội đã đề ra.
1.1.2. Bản chất, vai trò của BHXH
BHXH là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với
người lao động khi họ gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng
lao động, mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ tập
trung nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ, góp phần
bảo đảm an toàn xã hội.
1.1.2.1. Bản chất của BHXH:
Bản chất của BHXH được thể hiện ở những nội dung chủ yếu như sau:
Thứ nhất, BHXH là nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp của xã
hội, nhất là trong xã hội mà sản xuất hàng hoá hoạt động theo cơ chế thị
trường, mối quan hệ thuê mướn lao động phát triển đến một mức độ nhất
7



định. Kinh tế càng phát triển thì BHXH càng đa dạng và hoàn thiện. Chính
sách BHXH thể hiện trình độ văn minh, tiềm lực và sức mạnh kinh tế, khả
năng và quản lý của mỗi quốc gia. Trong một chừng mực nhất định, nó còn
thể hiện được tính ưu việt của một chế độ xã hội. Do đó có thể nói kinh tế là
nền tảng của BHXH hay BHXH không vượt quá trạng thái kinh tế của mỗi
nước.
Thứ hai, Mối quan hệ giữa các bên trong BHXH phát sinh trên cơ sở
quan hệ lao động và diễn ra giữa ba bên: Bên tham gia BHXH, bên BHXH và
bên được BHXH. Trong đó, bên tham gia BHXH có thể chỉ là người lao động
hoặc cả người lao động và người sử dụng lao động. Người sử dụng lao động
thực chất là các tổ chức, các doanh nghiệp và các cá nhân có thuê mướn lao
động. Bên BHXH thông thường là cơ quan chuyên trách do Nhà nước lập ra
và bảo trợ. Nhà nước sử dụng các công cụ chủ yếu như luật pháp và bộ máy
tổ chức để quản lý BHXH. Nhìn chung, hầu hết các nước trên thế giới, việc
quản lý vĩ mô BHXH đều được Nhà nước giao cho Bộ Lao động hoặc Bộ Xã
hội trực tiếp điều hành. Bên được BHXH là người lao động và gia đình họ khi
có đủ các điều kiện ràng buộc cần thiết.
Thứ ba, Những biến cố xảy ra trong BHXH dẫn đến giảm hoặc mất khả
năng lao động, mất việc làm của người lao động có thể là những rủi ro ngẫu
nhiên ngoài ý muốn chủ quan của con người như: ốm đau, tai nạn lao động,
bệnh nghề nghiệp... nhưng đôi khi là những trường hợp xảy ra không hoàn
toàn ngẫu nhiên như tuổi già, thai sản... đồng thời những biến cố đó có thể
diễn ra cả trong và ngoài quá trình lao động.
Thứ tư, Phần thu nhập của người lao động bị giảm hoặc mất đi khi gặp
phải những biến cố, rủi ro sẽ được bù đắp hoặc thay thế từ một nguồn quỹ tiền
tệ tập trung được tồn tích lại. Nguồn quỹ này do các bên tham gia BHXH
đóng góp là chủ yếu, ngoài ra còn được sự hỗ trợ từ phía Nhà nước.
1.1.2.2. BHXH được thực hiện dựa trên các nguyên tắc cơ bản sau:

8


Thứ nhất, BHXH cần thể hiện sự công bằng, bình đẳng: mọi người lao
động bằng sức lao động của mình đã tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Họ đã
có những đóng góp nhất định cho sự phát triển và tiến bộ của xã hôi. Vì vậy,
xã hội cũng phải quan tâm đến đời sống của người lao động và gia đình họ
khi họ bị giảm hoặc mất nguồn thu nhập từ lao động: như ốm đau, tuổi
già....BHXH chính là một công cụ của nhà nước nhằm thực hiện mục tiêu
này, do đó, BHXH cần thực hiện với mọi người lao động. Hơn thế, để đảm
bảo sự công bằng giữa người lao động, chính sách BHXH phải quy định
người lao động có đóng góp BHXH mới được hưởng và mức lương phải
tương xứng với mức đóng góp.
Thứ hai, Người lao động, người sử dụng lao động, Nhà nước đều phải
tham gia BHXH: người lao động là người trực tiếp hưởng khoản tiền chi trả
từ quỹ BHXH, trách nhiệm phải gắn liền với quyền lợi, vì vậy người sử dụng
lao động, một mặt vì trách nhiệm đối với người lao động mà mình đang trực
tiếp sử dụng, mặt khách vì sự ổn định trong doanh nghiệp, làm cho người lao
động yên tâm đem hết tài trí và trí lực làm việc, nâng cao năng suất lao động
cũng như buộc phải đóng góp vào quỹ BHXH. Nhà nước, vì sự ổn định xã
hội, phải tham gia BHXH bằng việc ban hành các văn bản pháp luậtt về
BHXH và trợ giúp quỹ khi cần thiết.
Thứ ba, BHXH thực hiện trên cơ sở số đông bù số ít: cũng giống như
các loại hình bảo hiểm khác, BHXH được thực hiện trên cơ sở lấy số đông
người tham gia đóng góp để bù cho số ít người không may gặp rủi ro. Trong
số những người lao động tham gia đóng góp vào quỹ BHXH, chỉ có những
người bị giảm hoặc mất thu nhập trong những trường hợp nhất định và có đủ
điều kiện cần thiết thì mới được hưởng khoản tiền chi trả từ quỹ BHXH, hơn
nữa, ngoài phần đóng góp của người lao động còn có phần đóng góp của
người sử dụng lao động. Như vậy,số lượng người hưởng BHXH chỉ chiếm tỷ

trọng nhỏ trong tổng số người đóng góp. Nguyên tắc lấy số đông bù số ít
9


trong BHXH còn thể hiện ở việc đảm bảo thực hiện các chế độ BHXH đối với
người lao động ở các vùng, miền, ngành nghề có mức độ rủi ro trong lao động
cần BHXH khác nhau.
Thứ tư, Mức hưởng BHXH nói chung phải thấp hơn mức tiền lương
khi đang làm việc nhưng phải đảm bảo mức sống tối thiểu cho người được
BHXH. Việc quy định như thế này nhằm tạo sự công bằng giữa những người
đang làm việc và những người đang nghỉ việc hưởng BHXH, mặt khác, còn
khuyến khích người lao động tham gia vào quá trình lao động lâu hơn, tăng
thời gian đóng BHXH, giảm thời gian hưởng BHXH để thực hiện triệt để
nguyên tắc lấy số đông bù số ít.
1.1.2.3. Vai trò của Bảo hiểm xã hội
BHXH có vai trò to lớn đối với đời sống xã hội;
Thứ nhất, Góp phần ổn định cuộc sống cho người tham gia bảo hiểm.
Như chúng ta biết, để thỏa mãn như cầu cuộc sống con người phải lao động
sản xuất, trong quá trình đó, người lao động có thể gặp rất nhiều rủi ro làm
giảm hoặc mất nguồn thu nhập từ lao động như ốm đau, tai nạn lao động, tuổi
già, thấtt nghiệp.....Hơn nữa, con người không thể tránh khỏi quy luật : sinh ,
lão, bệnh , tử. Khi rơi vào những trường hợp đó, thu nhập của người lao động
bị giảm sút, hoặc mất đi và gia đình sẽ lâm vào cảnh khó khăn về kinh tế và
khoản tiền BHXH sẽ là thu nhập chính.
Thứ hai, Xét về mặt xã hội, BHXH có vai trò trong việc ổn định đời
sống xã hội. Chính sách BHXH được thực hiện cho phần lớn người lao động
thuộc mọi thành phần kinh tế do vậy đã góp phần thực hiện công bằng xã hội
giữa "làm" và "hưởng", giữa người lao động trong các ngành nghề kinh tế,
làm lành mạnh hóa thị trường lao động, tạo điều kiện cho người lao động tự
do di chuyển từ nơi này tới nơi khác, củng cố lòng tin của người dân vào chế

độ, tạo nền tảng cho một thể chế chính trị xã hội vững chắc. Mặt khác, gia
đình là tế bào của xã hội, gia đình ổn định sẽ góp phần ổn định xã hội.
10


Th ba, Xột v mt kinh t, BHXH gúp phn thỳc y kinh t tng
trng v phỏt trin. Hot ng BHXH gii quyt c cỏc ri ro xy ra i
vi ngi lao ng, giỳp ngi lao ng nhanh chúng phc hi sc khe,
nõng cao nng sut lao ng, thỳc y tng trng kinh t. Hn na, phn qu
tm thi nhn ri s cú th s dng u t vo nn kinh t quc dõn, gúp
phn lm tng trng kinh t.
1.2. Qu Bo him xó hi
1.2.1. Khỏi nim v vai trũ ca qu bo him xó hi
+ Khỏi nim: Qu BHXH l mt qu tin t tp trung, c hỡnh thnh
t úng gúp ca cỏc bờn tham gia BHXH v cỏc ngun thu khỏc, s dng
bự p, hoc thay th thu nhp cho ngi tham gia bo him khi h gp phi
nhng bin c ri ro lm suy gim sc kho, mt kh nng lao ng, mt vic
lm, cht; nhm n nh i sng cho h v gia ỡnh h, gúp phn m bo
an ton xó hi v phỏt trin kinh t ca t nc.
+ Vai trũ
Đối với bản thân hệ thống BHXH
Quỹ BHXH đợc coi là xơng sống của hệ thống BHXH. Hệ thống
BHXH có ổn định và phát triển đợc hay không, phụ thuộc vào sự hoạt động
của quỹ BHXH.
Quỹ BHXH là một quỹ tiền tệ tập trung đợc hình thành từ sự đóng góp
của các bên tham gia BHXH bao gồm ngời lao động, ngời sử dụng lao động
và Nhà nớc trong một số trờng hợp và các nguồn thu hợp pháp khác, đợc dùng
để chi trả trợ cấp cho những trờng hợp đợc hởng trợ cấp BHXH theo quy định
của pháp luật BHXH và chi phí cho các hoạt động nghiệp vụ BHXH. Nh vậy,
vai trò của quỹ BHXH đợc thể hiện ở những điểm sau:

Thứ nhất, đối với ngời lao động: Ngời lao động khi tham gia BHXH,
nếu gặp những biến cố hay những rủi ro xã hội nh thai sản, ốm đau, tai nạn
lao động, thất nghiệp thông qua hệ thống trợ cấp BHXH, đợc nhận những
khoản tiền bảo hiểm để trang trải cho những chi phí do những biến cố hoặc
rủi ro xã hội này gây ra. ở đây, quỹ BHXH có vai trò rất lớn là bù đắp/ hỗ
trợ cho những thiếu hụt về thu nhập của ngời lao động khi họ bị giảm hoặc
11


mất thu nhập từ lao động nghề nghiệp do bị giảm hoặc mất khả năng lao động
do những biến cô hoặc những rủi ro xã hội nêu trên. Nói cách khác, quỹ
BHXH giữ vai trò góp phần đảm bảo an toàn thu nhập cho ngời lao động và
gia đình họ. Tuy nhiên, mức độ đảm bảo thu nhập đến đâu và đợc thực hiện
nh thế nào phụ thuộc vào khả năng thanh toán của quỹ BHXH và phụ thuộc
vào chính sách BHXH của quốc gia trong mỗi thời kỳ, trên cơ sở nguyên tắc
trợ cấp BHXH không đợc cao hơn so với tiền lơng/thu nhập từ nghề nghiệp trớc khi nghỉ hởng trợ cấp BHXH, nhng không đợc thấp hơn tiền lơng tối thiểu
do Nhà nớc quy định. Nếu nh quỹ BHXH thu đợc nhiều (thu đúng, thu đủ và
đầu t tăng trởng tốt) và số ngời bị rủi ro ít (số ngời thu hởng) thì mức độ đáp
ứng của quỹ BHXH cao hơn; ngc li, nếu nh nguồn thu của quỹ thấp (thu
không đợc đủ v u t tăng trởng của quỹ kém) và số ngời bị rủi ro nhiều thì
mức độ đáp ứng của quỹ sẽ bị thấp đi. Hn na, nh đã nêu, quỹ BHXH không
chỉ là một quỹ ti chính mà còn là một quỹ xã hội, nên dù muốn hay không
thỡ trợ cấp BHXH cũng phải đảm bảo ở mức độ nhất định i vi ngời lao
động. Đây là vai trò nổi trội, hơn hẳn của qu BHXH so với các loại quỹ tài
chính khác.
Thứ hai, đối với hệ thống BHXH: Để cả hệ thống BHXH hoạt động đợc
bình thờng, các hoạt động nghiệp v các hoạt động quản lý đòi hỏi phải có
những chi phí nhất định. hầu hết các nớc, các chi phí này, trong đó cú c chi
lơng cho các nhân viên trong bộ máy BHXH, đều c .quỹ BHXH đảm bảo.
Các chi phí này, tuỳ theo từng nm đợc tính bằng một tỷ lệ nhất định trên tổng

thu của qu BHXH, hoặc đợc ấn định bằng một mức nào đó trên c sở những
chi phí của những năm trớc đó. Tuy nhiên, tính theo cách nào thì những chi
phí này đều do qu BHXH đảm bảo. Nh vậy, hiệu quả hoạt động của bộ
BHXH, đời sống của các nhân viên ngành BHXH ở mc độ nào đó, phụ thuộc
vào tình hình hoạt động (bao gồm c cỏc hoạt động đầu t) của quỹ BHXH.
Mặt khác, quỹ BHXH do tính đặc thù của hoạt động BHXH nên có một bộ
phận cu thnh của quỹ tạm thời nhàn rỗi. Phần nhàn rỗi này của qu BHXH
đợc đầu t vào các lĩnh vực khác nhau của nn kinh tế. Thông qua hoạt động
đầu t của quỹ BHXH s to nờn thêm nguồn lực tài chính để duy trì và phát
12


triển hệ thống qu BHXH, đồng thời việc đầu t tăng trởng quỹ sẽ tng cờng
khả năng chi trả thờng xuyên cho các đối tợng đợc hởng chế độ BHXH.
Vai trò của quỹ BHXH đối với nền tài chính quốc gia
Nh đã nêu, với t cách là một quỹ tài chính, dòng vn của quỹ BHXH
luôn luôn đợc đa vào lu thông v vỡ vậy có ảnh hởng đến nền tài chính chung
của quốc gia. Hoạt động của quỹ BHXH đợc thể hiện ở hai dòng di chuyển
của tiền tệ là dòng di chuyển vào và dòng di chuyển ra. Dòng di chuyển vào
thông qua sự đóng góp của ngời sử dụng lao động và ngời lao động và cỏc
nguồn thu khác của quỹ. Dòng tiền tệ này về cơ bản l một phần trong thu
nhập của dân c hoặc của doanh nghiệp đa vào quỹ BHXH (trên cơ sở đóng phí
BHXH). Nói cách khác, quỹ BHXH (từ giác độ dòng tiền vào) đã thúc đẩy
quá trình lu thông tiền tệ trong dân c có chủ định và vì vậy có vai trò điều
chỉnh nhất nh dòng tài chính quốc gia. Dòng di chuyển ra của quỹ BHXH là
các chi phí BHXH, bao gồm chi trả các trợ cấp BHXH và các chi phí cho hoạt
động của bộ máy BHXH. Các chi phí này rất lớn và nh th quỹ BHXH có vai
trò máy bơm tiền vào lu thông, tạo ra thúi quen về tiêu dùng. Mặt khác, thông
qua việc đầu t vốn vo các chơng trình, dự án phát triển kinh tế, quỹ BHXH
cung cấp một lợng vốn lớn và đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy

và tăng trởng nền kinh tế. Đặc biệt trong điều kiện nhu cầu vốn cho đầu t phát
triển kinh tế không ngừng tăng lên, thì việc cung ứng vốn từ nội bộ nn kinh tế
thông qua các tụ điểm tài chính nh quỹ BHXH cú ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Nói cách khác, thông qua dòng di chuyển ra, quỹ BHXH đã làm tăng quy mô
tài chính ca nền kinh tế; không những thế, quỹ BHXH còn góp phần điều
chỉnh cơ cấu tài chính, cơ cấu đầu t, thúc đẩy phát triển kinh tế của đất nớc
Ngoài ra, thông qua vic đầu t nh mua tín phiếu, trái phiếu kho bạc Nhà nớc,
công trái xây dựng tổ quốc hoặc cho ngân hàng và các tổ chức tín dụng vay,
quỹ BHXH đã tham gia một cách đắc lực vào việc thực hiện các chính sách
tiền tệ, giữ vững sự ổn định tiền tệ và góp phần kiểm soát lạm phát.
1.2.2. c im ca qu bo him xó hi.
Th nht, l tớnh ch th ca qu BHXH.
Nh nc l ch th duy nht quyt nh vic to lp v s dng qu

13


BHXH, nhằm phục vụ mục đích đảm bảo an toàn xã hội. Bằng các đạo luật
được ban hành, nhà nước quy định mức đóng góp của các bên tham gia
BHXH để tạo lập quỹ, đồng thời cũng quy định những điều kiện hưởng, mức
hưởng đối với từng loại chế độ trợ cấp. Theo đó sẽ điều chỉnh toàn bộ mọi
đơn vị, cá nhân trong cộng đồng xã hội phải thực hiện. Nhận thức đầy đủ đặc
điểm này có ý nghĩ rất to lớn trong việc đảm bảo quyền lãnhd dạo tập trung,
thống nhất của nhà nước về đảm bảo xã hội, trên cưo sở đó góp phần thực
hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội của nhà nước.
Mặc dù quỹ BHXH được hình thành từ nhiều nguồn (đóng góp của chủ
sử dụng lao động và người tham gia bảo hiểm, lãi từ hoạt động đầu tư tăng
trưởng quỹ, nhà nước hỗ trợ, tài trợ, đánh giá lại tài sản của quỹ...) nhưng chỉ
có những người tham gia BHXH được hưởng thụ các nguồn tài chính đó. Do
đó, người tham gia BHXH là chủ thể duy nhất có quyền sở hữu quỹ BHXH

hay nói cách khác, quyền sở hữu quỹ BHXH là của những người tham gia
BHXH đồng sở hữu.
Để tổ chức thực hiện các hoạt động nghiệp vụ như thu BHXH, giải
quyết chế độ chính sách, chi BHXH, hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ cần
phải có một hệ thống tổ chức bộ máy - đó chính là hệ thống cơ quan BHXH.
Hệ thống tổ chức đó được mọi người tham gia BHXH uỷ quyền quản lý quỹ
BHXH cho họ theo các quy định của pháp luật. Theo đó, cơ quan BHXH
được quyền quản lý, sử dụng quỹ BHXH theo các chế độ, tiêu chuẩn, định
mức mà nhà nước đã ban hành, đảm bảo chính xác, trung thực, công bằng và
hiệu quả. Như vậy, Cơ quan BHXH là người đại diện chủ sở hữu có quyền sử
dụng, quản lý quỹ BHXH theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, là sự kết hợp giữa tính bắt buộc và tự nguyện, giữa tính bồi
hoàn và không bồi hoàn.
Một tỷ trọng lớn quỹ BHXH mang tính bắt buộc và bồi hoàn. Nhà nước
ban hành các đạo luật buộc mọi đối tượng phải tham gia BHXH dưới hình
14


thức bắt buộc nhằm bảo đảm an toàn xã hội, đáp ứng nhu cầu sống cơ bản khi
người tham gia BHXH gặp phải rủi ro trong cuộc sống. Chẳng hạn, người lao
động và người sử dụng lao động phải tham gia đóng và để hưởng chế độ hữu
trí và tử tuất theo hình thức bắt buộc và bồi hoàn. Cũng có loại chế độ BHXH
với hình thức tham gia là bắt buộc nhưng lại không mang tính chất bồi hoàn,
mà chỉ khi nào người tham gia bảo hiểm gặp rủi ro mới được trợ cấp, ví dụ
như: chế độ ốm đau, khám chữa bệnh, tai nạn lao động... Có trường hợp là đối
tượng phải bắt buộc tham gia đóng vào quỹ BHXH nhưng lại không được thụ
hưởng trực tiếp từ quỹ, đó là trường hợp đối với các đơn vị sử dụng lao động.
Ngoài hình thức bắt buộc, nhà nước còn quy định loại hình bảo hiểm tự
nguyện để cho mọi người tham gia bổ sung ngoài loại hình bắt buộc nhằm
đảm bảo thêm nhu cầu bù đắp tổn thất khi họ gặp rủi ro. Nhận thức đặc điểm

này giúp cho các nhà quản lý có phương pháp tuyên truyền, vận động, giải
thích và hình thức quản lý thu, chi BHXH linh hoạt phù hợp với từng đối
tượng.
Thứ ba là một quỹ tiền tệ mang tính cộng đồng xã hội cao.
Quỹ BHXH được hình thành từ sự đóng góp của người sử dụng lao
động, của người tham gia bảo hiểm, NSNN hỗ trợ và bảo trợ. Khoản kinh phí
do người sử dụng lao động đóng góp vào quỹ BHXH được hạch toán vào chi
phí sản xuất, hình thành nên giá thành sản phẩm và dịch vụ. Những sản phẩm
và dịch vụ đó được mọi người trong xã hội cả trong và ngoài nước tiêu dùng
và đương nhiên họ phải trả chi phí tương ứng với số sản phẩm và dịch vụ họ
đã tiêu dùng. Như vậy, thông qua việc chi trả tiền mua sản phẩm, dịch vụ mà
mọi người trong cộng đồng xã hội đã gián tiếp đóng góp vào quỹ BHXH. Bất
kỳ nhà nước nào cũng đều có chính sách và trách nhiệm hỗ trợ và bảo trợ quỹ
BHXH, trong trường hợp quỹ BHXH không đảm bảo khả năng thanh toán.
Mà NSNN được hình thành chủ yếu stừ sự đóng góp của toàn thể nhân dân
trong nước. Quỹ BHXH được sử dụng để bù đắp và trợ cấp cho người tham
15


gia bảo hiểm rủi ro, chế độ trợ cấp được thực hiện thống nhất trong toàn quốc.
Chế độ có được xây dựng trên nguyên tắc tương trợ, theo truyền thống đạo lý
"lá lành đùm lá rách", theo xu hướng chuyển dịch thu nhập từ người có thu
nhập cao cho người có thu nhập thấp, của người khoẻ mạnh cho người ốm
yếu, của người may mắn gặp rủi ro. Nhờ sự tương trợ và chuyển dịch đó mà
cuộc sống của mọi người trong xã hội được đảm bảo an toàn. Nhận thức đầy
đủ đặc điểm này của quỹ, để thấy được tính nhân văn, tính cộng đòng của quỹ
BHXH mà từ đó để có những phương pháp quản lý thích hợp, đảm bảo hiệu
quả hoạt động của quỹ.
Thứ tư, là quỹ BHXH có phạm vi hoạt động rộng, đối tượng phục vụ
lớn.

Có thể nói ở đâu có con người sinh sống thì quỹ BHXH sẽ có mặt tại
đó để phục vụ họ tham gia và hưởng các chế độ bảo hiểm. Do đó, quỹ BHXH
có phạm vi hoạt động trải rộng khắp quốc gia, thậm chí xuyên quốc gia để
đảm bảo an toàn xã hội. Nhà nước bắt buộc phần lớn mọi người đều phải
tham gia bảo hiểm bắt buộc; ngoài ra còn quy định chế độ bảo hiểm tự
nguyện, do đó hầu hết mọi người dân đều tham gia bảo hiểm. Vì vậy, đối
tượng tham gia và hưởng các chế bộ BHXH chiếm đại đa số dân số của đất
nước. Cần phải nắm vững đặc điểm này để có phương án tổ chức bộ máy
quản lý và phương pháp quản lý khoa học phù hợp với thực tế nhằm phục vụ
tốt nhất cho mọi người tham gia và hưởng các chế độ BHXH.
Thứ năm, là một quỹ tiền tệ tập trung lớn, tồn tại trong thời gian dài,
luôn vận động và có dư tạm thời nhàn rỗi lớn.
Quỹ BHXH được tạo lập từ sự đóng góp của đông đảo người tham gia
và của hầu hết các đơn vị sử dụng lao động trong quốc gia. Vì vậy, nguồn lực
tài chính tập trung vào quỹ là vô cùng lớn. Mặt khác, qũy bảo hiểm được thiết
kế theo mô hình tồn tích sẽ có số dư tồn tích từ năm nay qua năm khác, thế hệ
này sang thế hệ khác, do đó só dư sẽ tăng lên hàng năm.
16


Vì có số đông người tham gia hình thành quỹ, nên chính họ lại là
những người được hưởng thụ, quỹ phải chi ra khi họ gặp rủi ro. Số người
tham gia càng đông thì tần suất xảy ra rủi ro càng lớn, vì vậy mà quỹ bảo
hiểm phải thường xuyên cung cấp tài chính cho người gặp rủi ro, điều đó tác
động làm cho quỹ bảo hiểm luôn vận động và biến đổi. Nhận thức đầy đủ đặc
điểm này giúp cho người quản lý trong công tác kế hoạch hoá cân đối quỹ, sử
dụng quỹ sao cho có hiệu quả, vừa đảm bảo đủ nguồn chi trả kịp thời cho đối
tượng, vừa tham gia đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, nếu để quỹ tồn đọng
quá lớn sẽ gây ra lãng phí.
Thứ sáu, lã quỹ BHX H luôn chịu tác động của nhiều nhân tố trong nền

kinh tế - xã hội.
Mỗi một sự vận động của nền kinh tế - xã hội đều tác động đến quỹ
BHXH. Có những nhân tố tác động trực tiếp đến quỹ BHXH, những nhân tố
đó thường có liên quan trực tiếp đến đời sống kinh tế và xã hội của con người,
chẳng hạn như việc làm, thu nhập, tình trạng sức khoẻ... Việc làm nhiều sẽ
thu hút được nhiều lao động, do đó mức đóng góp vào quỹ BHXH cũng tăng
lên. Sức khoẻ của con người tăng lên, giúp cho con người sẽ ít bị ốm đau
hơn, một mặt lao động của họ sẽ có hiệu quả hơn, mặt khác quỹ BHXH sẽ
giảm được khoản chi khám, chữa bệnh và tiền bảo hiểm thay lương của họ.
Những nhân tố tác động gián tiếp đến quỹ BHXH như: tăng trưởng kinh tế,
tiến bộ và công bằng xã hội... Nền kinh tế tăng trưởng do kết quả của việc đầu
tư phát triển kinh tế tăng, theo đó là việc tăng quy mô sản xuất, kéo theo là
lực lượng lao động có cơ hội việc làm nhiều hơn và thu nhập cũng được cải
thiện hơn. Tiến bộ và công bằng xã hội được nâng cao làm cho con người
được cải thiện về mọi mặt, đặc biệt là vấn đề xã hội. Vì vậy, làm cho chất
lượng cuộc sống của con người được nâng cao, sức khoẻ con người tốt hơn...
Những yếu tố đó tác động làm tăng quy mô quỹ BHXH. Kinh tế đất nước
trình trệ, sản xuất không phát triển dẫn đến quy mô sản xuất giảm, làm cho
17


ngi lao ng gp khú khn (mt vic lm, tin lng gim...) s tỏc ng
lm gim qu BHXH.
c im ny ca qu BHXH t ra cho cỏc nh qun lý phi quan tõm n
hot ng d bỏo qu theo k hoch ngn hn, trung hn v di hn trờn c s
d bỏo tỡnh hỡnh chớnh tr, kinh t v xó hi ca t nc trong mi thi k
ch ng qun lý, iu hnh hot ng ca qu t hiu qu cao.
1.2.3. Ngun hỡnh thnh v mc ớch s dng
+ Nguồn hình thành quỹ BHXH
Quỹ BHXH đợc hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, tuỳ thuộc vào

pháp luật BHXH và tuỳ thuộc vào mục đích của hệ thống BHXH của mỗi nớc.
Nhìn chung, nguồn hình thành quỹ BHXH có thể gồm sự tham gia của Nhà nớc, sự đóng góp của ngời lao động tham gia BHXH, sự đóng góp của ngời sử
dụng lao động, thu nhập từ lãi đầu t của quỹ BHXH và các khoản thu nhập
khác. Trong các nguồn trên, khoản đóng góp của ngời lao động và ngời sử
dụng lao động là chủ yếu. Đối với một hệ thống BHXH đã có thời gian hoạt
động đủ lớn thì khoản lãi từ các hoạt động đầu t là nguồn khá quan trọng. Tuy
nhiên, việc quyết định hình thành các thành phần của nguồn quỹ BHXH
không thuần tuý mang tính kỹ thuật mà còn phụ thuộc vào các điều kiện kinh
tế, chính trị và xã hội của mỗi quốc gia. một số quốc gia phát triển quỹ
BHXH phần lớn là thu từ các khoản thuế, nhất là các khoản thuế đặc biệt nh rợu, thuốc lá đợc dùng để chi trả các dịch vụ y tế và chăm sóc sức khoẻ. Quỹ
BHXH đợc hình thành trên cơ sở thuế thờng đợc áp dụng cho hệ thống BHXH
toàn dân, cho cả những ngời tham gia lực lợng lao động và không tham gia lực
lợng này.
Đa số các nớc có nền kinh tế thị trờng, quỹ BHXH đợc hình thành trên
cơ sở có sự đóng góp của ngời lao động và ngời sử dụng lao động. Ngời lao
động khi tham gia BHXH phải đóng góp một khoản trên cơ sở tiền lơng/ thu
nhập của mình. Lu ý rằng khoản đóng góp BHXH của ngời lao động khác với
đóng thuế ở chỗ đóng góp BHXH để tăng phúc lợi của bản thân ngời lao động.
Ngời sử dụng cũng có nghĩa vụ đóng góp BHXH cho ngời lao động mà mình
thuê mớn hoặc sử dụng khoản đóng góp của ngời sử dụng lao động thờng đợc
tính trên cơ sở bằng một tỷ lệ nào đó trên tổng quỹ lơng của đơn vị và đợc tính
vào chi phí trong giá thành sản phẩm.
18


Một hệ thống BHXH trong đó quỹ BHXH chủ yếu từ sự đóng góp của
ngời lao động và ngời sử dụng lao động, không có sự đóng góp hoặc hỗ trợ từ
ngân sách Nhà nớc đợc gọi là hệ thống tự trang trải. Các khoản đóng góp của
ngời lao động và ngời sử dụng lao động có thể là tỷ lệ nào đó theo thu nhập
hoặc bằng một tỷ lệ theo một mức cố định (mức cố định có thể là mức lơng tối

thiểu hoặc mức lơng trung bình xã hội). ở nhiều nớc, nếu các mức đóng góp
dựa theo thu nhập cá nhân thì thờng có quy định mức giới hạn thu nhập (sàn
và trần). Ngời có thu nhập dới mức sàn thì không tham gia BHXH mà do Nhà
nớc hỗ trợ (theo hệ thống trợ giúp xã hội của an sinh xã hội). Ngời có thu nhập
cao hơn mức trần thì cũng chỉ tham gia BHXH theo mức trần đó hoặc không
tham gia BHXH mà tham gia vào hệ thống bảo hiểm thơng mại (bảo hiểm
nhân thọ).
Có những nớc, ngoài hệ thống cung còn có hệ thống BHXH chỉ có ngời
lao động đóng góp theo các quy định của pháp luật (thờng là hệ thống BHXH
tự nguyện). Hệ thống này áp dụng cho những đối tợng cha tham gia BHXH
theo quy định chung (thờng ở những nơi không có quan hệ lao động chủ thợ); cũng có nớc áp dụng cho cả những ngời đã tham gia vào hệ thống chung,
nhng có nhu cầu thoả mãn cao hơn.
Nh vậy, xét về mặt bản chất, dù có thực hiện theo nhiều mô hình khác
nhau, chỉ có hai cách tạo nguồn BHXH là không phải đóng góp (Nhà nớc tài
trợ thông qua thuế) và đóng góp (của ngời lao động và hoặc của ngời sử dụng
lao động)
Cả hai cách thức tạo nguồn quỹ BHXH (thuế và đóng góp) đều đợc đa vào tiêu
chuẩn lao động của Tổ chức lao động quốc tế (ILO). Trong công ớc số 102 về
các tiêu chuẩn tối thiểu về BHXH của ILO đã quy định:
Các chi phí cho các trợ cấp BHXH và các chi phí về quản lý của hệ
thống BHXH phải đợc tài trợ từ quỹ BHXH bằng cách đóng góp BHXH hoặc
bằng thuế hoặc kết hợp từ cả hai cách đó, theo những thể thực để giảm bớt
tình trạng khó khăn cho ngời thiếu thốn phơng tiện sinh sống có lu ý tới tình
hình kinh tế từng nớc thành viên và những nhóm ngời đợc bảo vệ.
Hiện nay, đại đa số các nớc có BHXH đều thực hiện theo cách ngời lao
động và ngời sử dụng lao động đóng góp BHXH. Với cách thức này, một cách
chung nhất, cơ cấu nguồn thu của quỹ BHXH nh sau:
Qt = Đlđ + Đsdlđ + Đnn + Tnp + Lđt + Tk (1)
Trong đó:


19


Đ/đ: Khoản đóng góp của ngời lao động lơng/ thu nhập;
Đsdlđ: Khoản đóng góp của ngời SDLĐ
Đnn: Sự đóng góp/ hỗ trợ của Nhà nớc trong trờng hợp.
Tnp: Khoản nộp phạt của các doanh nghiệp do chậm nộp BHXH.
Lđt: Khoản lãi do đầu t phần nhàn rỗi của .BHXH.
Tk: Các nguồn thu hợp pháp khác của quỹ BHXH ..
Một đặc điểm rất cơ bản của BHXH trong cơ chế th trờng là sự đóng
góp của ngời lao động diễn ra trong thời gian khá dài (20 đến 30 năm đối với
các qu BHXH dài hạn) và thời gian thụ hởng của họ cũng tng i lâu (từ
10 - 15 hoặc 20 năm sau). Vì vậy, các khoản đóng góp của ngời lao động, ngời
sử dụng lao động (các nguồn cơ bản hình thành quỹ BHXH) phải c tính
toán, điều chỉnh cho phù hợp, có tính đến các yếu tố lạm phát, đầu t và sự thay
đổi mức sống của dõn c. Hơn nữa, cũng phải tính đến mức hởng của ngi
nghỉ hu sau 15 - 20 năm, khi mức sống chung của dõn c đã thay đổi rất nhiều
(nâng lên). Đây là những bi toán cơ bản của quá trình cân đối quỹ BHXH
theo mụ hình quỹ có sự đóng góp của các bên tham gia BHXH
Quỹ BHXH hình thành và hoạt động đã tạo ra kh năng giải quyết
những rủi ro của tất cả những ngi tham gia với tổng dự trữ ít nhất, giúp cho
việc gii quyt rủi ro đợc thực hiện theo cả hai chiều không gian ca ngời sử
dụng lao động, tiết kiệm chi cho cả ngõn sách Nhà nớc và ngân sách gia đình.
+ Sử dụng quỹ BHXH
Theo mục đích của BHXH, quỹ BHXH phải nhận chi những khoản chủ
yếu nh: trả trợ cấp theo chế độ BHXH (khoản chi này chiếm tỷ trọng lớn trong
chi phí cho bộ máy hoạt động BHXH chuyên nghiệp (tiền lơng, đào tạo) chi
phí bảo đảm các cơ sở vt chất cần thiết và chi phí quản lý khác.
Quỹ BHXH phải đợc tính toán nhằm mục đích m bảo các nhu cầu về
BHXH, đảm bảo đủ chi trả các khon cấp BHXH cho những ngời thụ hởng

hiện tại cng nh .những ngời thụ hởng trong tơng lai gần và xa tựy thuc
mức độ và các khoản chi trả cho các chế độ cng cũn ph thuộc vào chính
sách BHXH của mỗi quốc gia c luật pháp hoá, trên cơ sở phù hợp với các

20


quy định ca các Công ớc Quốc tế. Đồng thời, để các hoạt động của cả hệ
thống BHXH đợc diễn ra bình thờng phải có các chi phí quản lý và các chi phí
này cũng đợc chi ra từ quỹ BHXH. Chung nhất, có thể nêu các khoản chi của
quỹ BHXH nh sau:
- Chi trả các trợ cấp BHXH: Đây là khoản chi chủ yếu của quỹ BHXH.
Tuỳ theo quy định của từng nớc, các chế độ BHXH có thể khác nhau. Tuy
nhiên, theo ILO, có thể có các loại trợ cấp sau:
+ Các trợ cấp ngắn hạn: dùng để chi cho các chế độ ngắn hạn nh
ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, BHYT, thất nghiệp,
trợ cấp gia đình
+ Các trợ cấp dài hạn: dùng để chi trả các chế độ dài hạn nh ..;
tử tuất, tai nạn lao động và BNN nặng;
Các trợ cấp ngày đợc xác định theo những căn cứ kinh tế - xã hội và các
điều kiện sinh học của mỗi nớc trong những giai đoạn nhất định và đợc pháp
luật quy định.
- Chi phí quản lý: Đây là khoản chi cho các hoạt động thờng xuyên của
tổ chức BHXH, bao gồm:
+ Chi lơng cho đội ngũ làm công tác BHXH trong toàn hệ thống
+ Chi phí nghiệp vụ BHXH;
+ Chi nghiên cứu phát triển BHXH;
+ Chi phí hành chính (điện nớc, văn phòng phẩm)
+ Chi mua sắm, sửa chữa nhỏ
Những khoản chi phí quản lý nêu trên có thể khác nhau tuỳ theo từng nớc. Ví dụ, có nớc chi trả lơng cho bộ máy do ngân sách Nhà nớc đảm nhận,

không nằm trong các khoản chi của quỹ BHXH
- Chi phí đầu t: khoản chi này để đảm bảo các hoạt động đầu t . phần
nhàn rỗi của quỹ BHXH đợc diễn ra bình thờng và đạt hiệu quả cao. Về mặt
kế toán, khoản chi này có đợc trích ra trong tổng thu đợc từ lợi nhuận đầu t.
- Chi dự phòng: Đây là khoản dự trữ có thể phát sinh trong năm ngoài
dự liệu.
- Chi phí khác có liên quan đến hoạt động BHXH.
Nh vậy, nếu gọi tổng chi của quỹ BHXH là Qc, cơ cấu chi của quỹ
BHXH nh sau:
Qc = Ctc + Cql + Cđt+ Cdf + Ck (2)
Trong đó:
21


- Ctc: là các khoản chi trợ cấp BHXH.
- Cql: Là các khoản chi phí quản lý
- Cđl: là các khoản chi phí cho hoạt động đầu t.
- Cdf: là các khoản chi dự phòng cho nững phát sinh trong năm
- Ck: là các khoản chi khác có liên quan đến hoạt động BHXH.
Cần lu ý cơ cấu thu và cơ cấu chi nêu trên của quỹ BHXH là cơ cấu
chung nhất. Tuỳ từng nớc các thành phần trên có thể thay đổi có thể có hoặc
không.
1.3. Hot ng u t qu BHXH
1.3.1. Vai trò của hoạt động đầu t quỹ BHXH.
Đầu t vốn nhàn rỗi là một mặt hoạt động bảo toàn và tăng trởng quỹ
BHXH. ở nớc ta quỹ BHXH đợc hình thành và hoạt động độc lập từ cuối năm
1995, thay cho trớc đó là một khoản thu và chi của ngân sách Nhà nớc. Đầu t
vốn nhàn rỗi đã trở thành một trong 3 hoạt động chính của quỹ BHXH. Có rất
nhiều lý do dẫn đến cần phải đầu t tăng trởng quỹ BHXH nhng có những lý do
chủ yếu sau:

- Hiện nay, mặc dù các chế độ ngắn hạn luôn có kết d song trong các
chế độ dài hạn nh hu trí và tử tuất thì tốc độ tăng của thu luôn thấp hơn tốc độ
tăng của chi, nh vậy trong vòng 30 năm tới nếu chỉ dựa vào các khoản thu thì
quỹ có nguy cơ mất cân đối và không ổn định vì vậy cần phải có biện pháp
bảo toàn và tăng trởng quỹ.
- Do quỹ BHXH hiện nay đợc hạch toán theo mô hình tồn tích, mỗi một
lao động sau một khoảng thời gian đóng bảo hiểm nhất định mới đợc hởng trợ
cấp, nh vậy trong khoảng thời gian đó, quỹ luôn tích luỹ một lợng tiền rất lớn,
nếu không tích cực đầu t thì yếu tố lạm phát sẽ làm giảm giá trị của tổng quỹ.
- Đầu t quỹ BHXH để có kinh phí trang trải các hoạt động của cơ quan
BHXH. Theo Quyết định số 144/2005/QĐ-TTg quy định nguồn kinh phí hoạt
động của hệ thống BHXH Việt Nam hàng năm đợc trích từ tiền sinh lời do
thực hiện biện pháp đầu t bảo toàn các quỹ theo tỉ lệ phần trăm trên số thực
thu BHXH và BHYT hàng năm. Tỉ lệ trích là 3,6% và ổn định trong 3 năm 2005 2007.
- Khi quỹ đợc tăng trởng thì ngân sách Nhà nớc không phải bù thiếu do
sự mất cân đối của các quỹ thành phần, do đó hoạt động đầu t giúp giảm gánh
nặng cho ngân sách Nhà nớc.
- Quỹ BHXH là một khâu tài chính trung gian cùng với ngân sách Nhà
22


nớc và tài chính doanh nghiệp hình thành nên một hệ thống tài chính quốc gia,
chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau, phản ánh thế mạnh của hệ thống tài
chính quốc gia. Vì vậy cần phải thực hiện đầu t tăng trởng quỹ để bổ sung vào
nguồn quỹ BHXH cho lớn mạnh hơn.
- Hơn nữa, cổ đông của quỹ là những ngời lao động và ngời chủ sử
dụng lao động, nếu hoạt động đầu t quỹ BHXH có hiệu quả thì họ sẽ có nhiều
niềm tin hơn vào sự an toàn của quỹ, và sẽ ủng hộ cho sự phát triển của quỹ.
Đây sẽ là động lực lớn mạnh cho sự phát triển của quỹ BHXH.
- Nâng cao hiệu quả đầu t sẽ hạn chế đợc nguy cơ tăng mức đóng của

quỹ BHXH.
- Nâng cao hiệu quả đầu t tức là nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của quỹ
nói riêng và nguồn vốn cuả xã hội nói chung.
1.3.2. Các nhân tố ảnh hởng đến hoạt động đầu t quỹ BHXH.
Hoạt động đầu t chịu ảnh hởng của các nhân tố sau:
- Hệ thống pháp luật nói chung và hệ thống pháp luật về đầu t nói riêng
sẽ là cơ sở đầu tiên để hoạt động đầu t quỹ đợc thực hiện có hiệu quả hay không.
- Đặc điểm của thị trờng vốn: khi nền kinh tế phát triển ổn định, các
hoạt động đầu t sẽ đợc thuận lợi rất nhiều, các nhà đầu t yên tâm hơn khi bỏ
một lợng vốn lớn vào trong lu thông, làm gia tăng giá trị của đồng vốn ban
đầu, và khi đó quỹ BHXH sẽ đợc đầu t vào nhiều lĩnh vực hơn.
- Sự phát triển của loại hình bảo hiểm thơng mại khác tơng tự nh BHXH
có tính u việt hơn sẽ là những đối thủ cạnh tranh khá là quyết liệt đối với sự
phát triển của quỹ BHXH nói chung và đối với hoạt động đầu t nói riêng.
- Quy mô quỹ BHXH: nếu quy mô lớn thì quỹ có thể đầu t vào các lĩnh
vực có độ rủi ro cao, thu đợc lãi cao. Ngợc lại nếu quy mô quỹ nhỏ thì quỹ chỉ
có thể đầu t vào các lĩnh vực có độ an toàn cao hơn và phải chịu mức lãi thấp
hơn.
- Chính sách của Nhà nớc: Nhà nớc quy định danh mục đầu t nhằm đảm
bảo an toàn cho quỹ, đảm bảo cho quỹ có khả năng chi trả trong những năm
nghiệp vụ tiếp theo. Một chính sách BHXH quy định về hoạt động đầu t của
Nhà nớc phù hợp là nhân tố quan trọng làm tăng trởng quỹ.
- Trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ trong hoạt động đầu t: để
hoạt động đầu t hiệu quả thì rất cần thiết phải có những ngời am hiểu về thị trờng tài chính của Việt Nam. Có nh vậy mới phân tích đợc loại hình đầu t nào
là phù hợp hơn trong hiện tại, vừa an toàn vừa có lãi, đồng thời họ sẽ có những

23


kiến nghị với cấp trên về việc thay đổi quy định đầu t cho thích ứng với thực tế.

- Điều kiện làm việc và quyền lợi của ngời cán bộ BHXH đợc tốt thì họ
sẽ có điều kiện phát huy tốt khả năng lao động sáng tạo của mình.
Khi môi trờng vi mô và vĩ mô ổn định thì hoạt động đầu t sẽ rất hiệu
quả, và ngợc lại nếu hai môi trờng này có nhiều biến động thì hoạt động đầu t
cũng có những biến động và trở nên kém hiệu quả. Vì vậy khi đã xác định đợc
những yếu tố ảnh hởng đến hoạt động đầu t của quỹ BHXH thì Chính phủ và
cơ quan BHXH cần có những biện pháp hạn chế những tác động xấu và tận
dụng những tác động tốt từ môi trờng xung quanh.
1.3.3. Cỏc nguyờn tc u t:
m bo an ton cho qu BHXH thỡ qu phi c u t theo cỏch
thc b trng nhiu gi cú ngha l phi la chn nhiu hỡnh thc u t.
Mc ớnh hot ng u t tng trng qu BHXH l nhm m bo
an ton v tng trng giỏ tr vn ca qu, m bo thc hin mc ớch an
sinh xó hi. Ngun thu t hot ng u t bự p cho cỏc khon chi
BHXH. Nu hot ng õu t tng trng qu BHXH thc s cú hiu qu thỡ
õy l ngun thu b sung ln cho qu, m bo cõn i thu v chi ca qu.
Chớnh vỡ vy, trong quỏ trỡnh u t tng trng qu BHXH phi cú
nhng nguyờn tc nht nh ú l:
- An ton: õy l iu kin u tiờn cõn nhc u t. T chc BHXH
c giao phú qun lý ti sn ca i b phn ngi lao ng nờn vic u t
phi m bo an ton v cú th kim soỏt c.
- Li nhun: li nhun t u t cng l yu t quan trng. Nu khụng
tớnh n lói sut u t thỡ khụng bo ton c giỏ tr thc t ca qu trong
trng hp nn kinh t cú lm phỏt.
- Kh nng thanh toỏn: trong cỏc khon mc u t phi cú nhng
khon cú th d dng chuyn sang tin mt m bo kh nng thanh toỏn
ca h thng ti mi thi im.
- Li ớch kinh t v xó hi: vỡ bn cht ca BHXH l mang tớnh nhõn
o v xó hi nờn qu BHXH khụng nhng mang li li ớch kinh t cho t
24



nước mà còn phải có đóng góp vào việc cải thiện điều kiện sức khỏe, giáo dục
và mức sống của người tham gia. Do vậy, quỹ BHXH phải xem xét đầu tư và
các lĩnh vực này.
1.3.4. Các hình thức đầu tư:
Dựa trên các nguyên tắc đầu tư trên, quỹ BHXH có thể được đầu tư vào
những lĩnh vực sau:
- Gửi tiền ngân hàng
Đối với việc gửi tiền ngân hàng này, mức độ an toàn tương đối cao, có
thể rút tiền bất cứ lúc nào để đảm bảo khả năng chi trả nhưng lợi nhuận
thuđược tương đối thấp.
- Đầu tư vào trái phiếu
Đối với việc mua trái phiếu ( TPCP, TP công ty....) các nhà dầu tư có
thể biết trước lãi suất và thời hạn. Đầu tư vào trái phiếu có độ an toàn tương
đối

cao, đặc biệt TPCP. Còn đối với trái phiếu công ty thì chỉ bị thiệt hại

khi công ty phá sản hay giải thể. Mức độ an toàn của việc đầu tư vào trái
phiếu công ty so với gửi ngân hàng hoặc mua TPCP thì thấp hơn nhưng lãi
suất thị trường thường cao hơn. Mặt khác, để đầu tư vào trái phiếu công ty,
khi cần có thể bán lại trên thị trường chứng khoán với lãi suất chiết khấu theo
thời hạn nắm giữ. Để đảm bảo an toàn cho quỹ BHXH thì ở phần lớn các
nước trên thế giới, quỹ BHXH bắt buộc đầu tư vào trái phiếu chính phủ. Các
khoản đầu tư vào trái phiếu, tín phiếu chính phủ thường chiếm tỷ trọng lớn
trong tổng số tiền đầu tư của quỹ, đây là hình thức đầu tư được xem là có
mức độ an toàn nhất vì vậy nó đáp ứng được yêu cầu đặt ra đối với hoạt
động đầu tư quỹ BHXH.
- Đầu tư vào cổ phiếu

Cổ phiếu là laọi chứng khoán không có thời gian đáo hạn và lãi suất
( cổ tức) hưởng theo lợi nhuận của công ty. Đầu tư vào cổ phiếu, nhà đầu tư
BHXH có thể thu được lợi nhuận khá cao nhưng không ổn định và mứcđọ rủi
25


×