Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

Đánh giá kết quả của thuốc tra mắt bésifloxacin 0,6% (besivance) trong điều trị viêm loét giác mạc do vi khuẩn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.74 MB, 91 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh viêm loét giác mạc là một trong những bệnh phổ biến trong
bệnh về mắt, đặc biệt ở các nước có khí hậu nóng ẩm như Việt Nam, để lại
hậu quả rất nghiêm trọng gây mờ đục giác mạc, thị lực giảm có thể dẫn đến
mù lòa [1],[4].
Rất nhiều nguyên nhân gây ra bệnh viêm loét giác mạc như nấm, vi rút,
vi khuẩn, trong đó đặc biệt viêm loét giác mạc do vi khuẩn chiếm một tỷ lệ
khá cao: 42,11% [4]. Theo Hoàng Thị Phúc (1996) [15] bệnh viêm loét giác
mạc do vi khuẩn chiếm tỷ lệ 32,7% trong tổng số bệnh nhân điều trị tại khoa
kết - giác mạc bệnh viện mắt Trung Ương.
Viêm loét giác mạc do vi khuẩn thường diễn biến nhanh dẫn đến hậu
quả hết sức nặng nề. Trong nhiều năm gần đây các tác giả trong và ngoài
nước đã có những nghiên cứu về tác nhân gây bệnh, hình thái lâm sàng và kết
quả điều trị đối với viêm loét giác mạc do vi khuẩn. Việt Nam chúng ta viêm
loét giác mạc do vi khuẩn là bệnh khá nặng nề vì nhận thức của nhân dân còn
hạn chế. Đặc biệt ở các tuyến xã, huyện, tỉnh nơi điểm khởi đầu tiếp nhận
bệnh nhân thì việc điều trị chưa được triệt để, thậm chí dùng kháng sinh lạm
dụng và nguy hiểm hơn còn dùng cả corticoid. Do vậy nhiều bệnh nhân
chuyển lên tuyến trung ương có bệnh cảnh lâm sàng hết sức nặng nề phức tạp
như: áp xe, hoại tử toàn bộ giác mạc, có nguy cơ thủng giác mạc, làm giảm
hoặc mất chức năng thị giác. Việc sử dụng kháng sinh kịp thời dựa trên kết
quả chẩn đoán lâm sàng và xét nghiệm rất là cần thiết để loại trừ tác nhân gây
bệnh, bảo vệ tổ chức khỏi sự hủy hoại, tổn thương giác mạc ở mức thấp nhất.
Vấn đề điều trị viêm loét giác mạc do vi khuẩn với việc sử dụng kháng
sinh mới phổ rộng chống lại cả vi khuẩn gram (-) và vi khuẩn gram (+) là cần
thiết để hạn chế đến mức thấp nhất biến chứng.


2


Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về tác dụng của Besivance
(bésifloxacin ophthalmic suspension, 0.6%) là một fluoroquinolone thế hệ IV
tác dụng tốt hơn những kháng sinh Quinolon thế hệ trước chống lại vi khuẩn
gram (+) trong khi vẫn duy trì hiệu quả chống lại vi khuẩn gram (-) và vi
khuẩn không điển hình [46].
Có một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng dung dịch nhỏ mắt Besivance
(bésifloxacin ophthalmic suspension, 0.6%), có độ an toàn cao và độ dung
nạp tốt.
Những kết quả nghiên cứu của nhiều tác giả trên thế giới cung cấp
thêm bằng chứng về hiệu quả của Besivance (bésifloxacin ophthalmic
suspension, 0.6%) trong điều trị dự phòng trước phẫu thuật và điều trị nhiễm
trùng gây đe dọa thị lực như: viêm loét giác mạc, viêm nội nhãn,...
Besivance (bésifloxacin ophthalmic suspension, 0.6%) là dung dịch
nhỏ mắt vô trùng, là Fluoroquinolon 8-chloride được sử dụng để điều trị trong
nhãn khoa.
Ở Việt Nam chưa có tài liệu nào nghiên cứu sử dụng thuốc này ở bệnh
nhân viêm loét giác mạc do vi khuẩn. Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài
này: “Đánh giá kết quả của thuốc tra mắt Bésifloxacin 0,6% (Besivance)
trong điều trị viêm loét giác mạc do vi khuẩn” nhằm hai mục tiêu:
1.

Đánh giá kết quả điều trị viêm loét giác mạc do vi khuẩn của
Bésifloxacin 0,6% (Besivance).

2.

Nhận xét một số yếu tố đến kết quả điều trị trong nhóm bệnh nhân
nghiên cứu.



3

Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Giải phẫu và cấu trúc mô học giác mạc.

Nhu mô

Hình 1.1. Sơ đồ các thành phần tổ chức học giác mạc bình thường[48]
Giác mạc chiếm 1/5 trước vỏ ngoài của nhãn cầu. Giác mạc là một
màng trong suốt gồm 5 lớp đi từ ngoài vào trong.
1.1.1. Biểu mô
Lớp này rất đều, có cấu trúc tiếp với kết mạc và dễ tách ra khỏi màng
Bowman ở dưới. Là một biểu mô lát tầng gồm có 4 tầng tế bào ở trẻ sơ sinh
và có 5 đến 7 tầng ở trẻ trên 4 tháng tuổi. Toàn bộ biểu mô dựa trên một màng
đáy mỏng. Biểu mô giác mạc có 3 lớp tế bào là: lớp tế bào nông, lớp tế bào


4
trung gian và lớp tế bào đáy. Lớp tế bào đáy là nơi diễn ra quá trình gián
phân. Khi diễn ra sự phân chia tế bào, các tế bào con chuyển về phía bề mặt
giác mạc và ngày càng trở nên khác biệt hơn. Cuối cùng các tế bào bề mặt
thoái hóa và bong ra khỏi bề mặt giác mạc.
1.1.2. Màng Bowman
Đây là một màng trong suốt, đồng nhất, có tính đàn hồi, không có tế
bào, dày 12µm. Mặt trước có giới hạn rõ rệt, mặt sau khó phân cách với lớp
nhu mô giác mạc. Khi bị tổn thương sẽ bị tế bào xơ xâm nhập làm cho giác
mạc mất tính trong suốt.
1.1.3. Nhu mô
Chiếm 9/10 chiều dày giác mạc. Các tổn thương loét giác mạc đến lớp

nhu mô thường sẽ để lại sẹo vĩnh viễn. Nhu mô giác mạc là tổ chức liên kết
có sự sắp xếp đặc biệt để đảm bảo tính trong suốt của giác mạc. Đây là một tổ
chức liên kết dạng bào thai nhưng có đủ các yếu tố của tổ chức liên kết khác:
các sợi tập trung chất căn bản, các sợi đàn hồi.
1.1.4. Màng Descemet
Đây là một màng đai và đàn hồi, mặc dù chỉ dày xấp xỉ 1/2 màng
Bowman (6µm). Trong trường hợp loét giác mạc sâu làm mất tổ chức 3 lớp trên,
dưới áp lực của thủy dịch, màng Descemet có thể bị đẩy phồng ra phía trước.
1.1.5. Nội mô
Gồm một lớp tế bào bao phủ mặt sau của giác mạc. Các tế bào có hình
6 cạnh sắp xếp sát nhau ở mặt trong của màng Descemet. Nội mô có tầm quan
trọng đặc biệt bảo vệ tính trong suốt của giác mạc.
Quá trình dinh dưỡng cho giác mạc hầu hết được cung cấp bởi thủy
dịch. Các nhánh thần kinh của giác mạc đến từ nhiều nơi nhưng chủ yếu từ
các nhánh thần kinh mi dài. Các nhánh thần kinh này đều xuất phát từ dây
thần kinh VI của dây thần kinh sinh ba.


5
Ngoài ra giác mạc còn có đám rối thần kinh dồi dào nằm dưới biểu mô
và các dây thần kinh đan xem nhau giữa các tế bào biểu mô giác mạc, giúp
giác mạc bảo vệ tổ chức nhãn cầu nhưng không làm ảnh hưởng đến sự trong
suốt của giác mạc.
1.2. Bệnh viêm loét giác mạc do vi khuẩn.
1.2.1. Đặc điểm chung
Loét giác mạc do vi khuẩn thường mang tính chất cấp tính, có triệu
chứng lâm sàng rầm rộ, gây tổn thương nặng để lại hậu quả nghiêm trọng là
giảm sút thị lực, có thể mất chức năng thị giác.
1.2.2. Nguyên nhân
Viêm loét giác mạc thường xuất hiện trên những mắt có một số tổn

thương giác mạc trước đó. Các nguyên nhân có thể là biến chứng của bệnh
mắt hột (lông xiêu, lông quặm), khô mắt do thiếu Vitamin A, chấn thương
trong nông nghiệp, công nghiệp, tổn thương thần kinh (liệt thần kinh VII gây
nhắm mắt không kín)
Viêm loét giác mạc do vi khuẩn thường do liên cầu, tụ cầu vàng, tụ cầu
epidermidis, phế cầu, trực khuẩn mủ xanh, mycobacteria. Trên thế giới các
loại vi khuẩn gây bệnh thường gặp là: Tụ cầu vàng, tụ cầu epidermidis, phế
cầu và các liên cầu khác, trực khuẩn mủ xanh, Enterobacteria. Tác nhân hiếm
gặp: Neisseria, Moraxella, Mycobacteria, Nicardia, vi khuẩn hiếm khi không
sinh bào tử [4], [5], [6], [7], [8].
Ở Việt Nam, theo Nguyễn Hiền (1957 - 1977) [3] các loại vi khuẩn tìm
thấy trong bệnh loét giác mạc là tụ cầu, liên cầu, trực khuẩn mủ xanh,
moraxella, một số vi khuẩn khác... Gần đây, khi phân lập các tác nhân gây
loét giác mạc (1991 - 1996), Lê Hồng Nga và cộng sự đã đưa ra kết quả là


6
trong tổng số 5771 bệnh phẩm của bệnh nhân được nuôi cấy thì có 2255 mẫu
(39,08%) có vi khuẩn hoặc nấm mọc. Đặc biệt trong đó có 1060 mẫu vi khuẩn
gây bệnh (18,37%), trực khuẩn mủ xanh chiếm 13,05% (91 mẫu),... [12]
Khi nghiên cứu tình hình điều trị viêm loét giác mạc do vi khuẩn tại
Bệnh viện Mắt trung ương năm 1996, Hoàng Thị Phúc và cộng sự đã chỉ ra vi
khuẩn chính gây loét giác mạc là (dựa vào kết quả soi tươi và soi trực tiếp
trong số 351 mắt loét giác mạc do vi khuẩn) (có những trường hợp nhiễm cả
Gram (+) và Gram (-) [15]:
- Vi khuẩn Gram (+): 285 mawts (91,2%)
- Vi khuẩn Gram (-) : 170 mắt (48,4%)
Các loại vi khuẩn này gặp điều kiện thuận lợi sẽ gây loét giác mạc với
đặc điểm lâm sàng của mỗi loại.
Năm 1997, các tác giả nghiên cứu tình hình viêm loét giác mạc tại tỉnh

Thái Bình thấy trên 219 bệnh nhân chấn thương mắt nông nghiệp có 53,2% bị
viêm loét giác mạc (trong đó trực khuẩn mủ xanh 62,1%, Staphylococcus.sp.
là 20,7%, Moraxella là 6,9%) [9], [16].
1.2.3. Đặc điểm của vi khuẩn thường gây viêm loét giác mạc
Các loại vi khuẩn gây viêm loét giác mạc thường gặp là: Trực khuẩn
mủ xanh, tụ cầu, liên cầu.
1.2.3.1. Trực khuẩn mủ xanh (Pseudomonas aeruginose)
Trực khuẩn mủ xanh thuộc họ pseudomonadaceae được Schroeter mô
tả năm 1872, tác giả đã phát hiện ra một loại vi khuẩn Gram âm khi soi mủ có
màu xanh ri đồng và đã đặt tên cho trực khuẩn Gram âm này là Bacterium
aeruginnosum. Năm 1882, Gessard đã phân lập được vi khuẩn này. Năm
1894, Migula xếp vi khuẩn này vào giống Pseudomonas và gọi là
Pseudomonas pyocyanin. Năm 1952, vi khuẩn này được đặt tên và có danh


7
pháp thống nhất là Pseudomonas aeruginosa. Trực khuẩn mủ xanh sống trong
thiên nhiên và thường có mặt ở môi trường ẩm ướt trong bệnh viện. Trực
khuẩn mủ xanh có thể sống và phát triển tự do trong các thuốc nhỏ mắt như:
corticoid, fluorescein hoặc các thuốc khác, ở trong dụng cụ y tế hoặc kính tiếp
xúc nếu không được rửa sạch sẽ và hấp sấy kỹ.
Trực khuẩn mủ xanh là trực khuẩn Gr (-), di động, hình gậy, kích thước
0.6µm - 2µm.
Trực khuẩn mủ xanh mọc tốt trong các môi trường nuôi cấy thông
thường, ở nhiệt độ 37 - 42°C. Trực khuẩn mủ xanh sinh ra chất thơm như:
mùi táo và có sắc tố. Có hai loại sắc tố chính là Pryocyanin có mầu xanh lam,
tan trong nước, làm cho môi trường nuôi cấy và khuẩn lạc có màu xanh lá mạ
và Pyoverdis là sắc tố huỳnh quang, phát màu xanh khi chiếu tia cực tím có
bước sóng 450n.m. Tính chất hóa sinh của trực khuẩn mủ xanh là có phản
ứng oxydase, catalase dương tính, phân giải Gluxit bằng hình thức ôxy hóa.

Trực khuẩn mủ xanh sinh ra các men ngoài tế bào ngoài tế bào gồm
elastase, Proteinase, 2 enzym tan máu là phospholipase C không bền vững với
nhiệt và glycolipase bền vững với nhiệt, men tiêu collagen gọi là collagenase.
Trực khuẩn mủ xanh tạo ra độc tố exotoxin A gây hoại tử mô và gây chết súc vật.
Trực khuẩn mủ xanh sống ký sinh trong túi kết mạc nhưng không làm
ảnh hưởng đến tổ chức giác mạc còn nguyên vẹn.
Khi bề mặt biểu mô của giác mạc bị tổn thương, trực khuẩn mủ xanh
xâm nhập biểu mô gây tổn thương bằng những sợi lông ở bề mặt của vi
khuẩn, các enzym và độc tố gây viêm giác mạc, hoại tử giác mạc, áp xe giác
mạc, ổ loét thường bắt đầu ở một khu vực trung tâm, kích thước nhỏ và lan ra
một cách nhanh chóng, nếu không được điều trị kịp thời thường gây ra thủng
giác mạc và mất nhãn cầu trong vòng 48h.


8
Nhiễm khuẩn do trực khuẩn mủ xanh hết sức nghiêm trọng, phá hủy tổ
chức giác mạc và gây biến chứng nặng nề, do đó khi đã phất hiện nhiễm khuẩn
do trực khuẩn mủ xanh phải điều trị sớm và tích cực [2], [10], [11], [12].
1.2.3.2. Tụ cầu (Staphylococcus)
Tụ cầu là một trong những vi khuẩn đứng hàng đầu gây nên những
nhiễm khuẩn ở mắt. Tụ cầu có nhiều loại, thường gặp là tụ cầu vàng
(Staphylococcus aureus) và tụ cầu kí sinh ở trên da, niêm mạc không gây
bệnh gọi là tụ cầu da Staphylococcus Epidermidis), nhưng khi gặp điều kiện
thuận lợi có thể trở thành tụ cầu gây bệnh. Tụ cầu là những cầu khuẩn Gr(+),
đường kính 1µm, thường sắp xếp thành từng đám như chùm nho, chúng
không di động, không sinh nha bào và thường không có vỏ [13]. Khuẩn lạc có
mầu vàng da cam, vàng sẫm hay mầu trắng. Tụ cầu phát triển tốt trong các
môi trường nuôi cấy thông thường. Các ngoại độc tố của tụ cầu là exotoxin
gây hoại tử tổ chức, leucoeidin gây phá hủy bạch cầu, exfoliativetoxin làm
khô bong vẩy da. Các enzym của tụ cầu gồm: Catalase gây phá hủy nước ôxy,

colagenase gây lạnh đông huyết tương và các enzym khác như lipase,
proteinase. Đặc điểm tổn thương gây ra do tụ cầu là tạo các ổ áp xe.
Ở mắt, tụ cầu thường ở trong túi kết mạc, bình thường chúng có thể gây
bệnh cho từng bộ phận của nhãn cầu hoặc các bộ phận phụ thuộc. Tụ cầu
thường gây ra các ổ áp xe, loét gần rìa, bệnh nặng hơn lan rộng vào nhu mô
giác mạc, có thể gây viêm toàn nhãn. Bệnh nhiễm khuẩn do tụ cầu không tự
giới hạn và điều trị khó khăn trong những trường hợp mạn tính và có biến
chứng. Vì vậy việc điều trị sớm ngay từ lúc mới nhiễm bệnh là rất quan trọng.
Bệnh nhân bị nhiễm tụ cầu bệnh thường hay tái phát.
1.2.3.3. Liên cầu (Streptococcus)
Liên cầu gây bệnh được T.Blooth phát hiện năm 1978, sau đó được
Pasteur phát hiện vào năm 1880 và phân lập được vi khuẩn này ở bệnh nhân


9
nhiễm khuẩn huyết. Liên cầu là những cầu khuẩn xếp thành đôi hay từng
chuỗi, uốn khúc dài ngắn khác nhau hình bầu dục bắt mầu Gr(+), đường kính
là 0,6 - 1µm, bên ngoài vỏ có nhiều lông giúp vi khuẩn dễ dàng xâm nhập vào
biểu mô giác mạc, liên cầu mọc trong môi trường giàu dinh dưỡng. Liên cầu
có thể gây tổn thương ở nhiều bộ phận trên người gây viêm họng, viêm da,
viêm phổi, nhiễm trùng huyết, viêm nội tâm mạc, viêm khớp. Liên cầu
thường gây bệnh ở nhiều bộ phận khác nhau của cơ thể con người gây biến
chứng nặng nên cần điều trị sớm.
Tại mắt: gây viêm bờ mi, loét bờ mi, viêm da mi có quầng tím. Có thể
gây phù kết mạc, xuất huyết có giả mạc hoặc viêm kết mạc có mủ. Trên giác
mạc làm giảm cảm giác của giác mạc, gây loét giác mạc và gây thẩm lậu rộng.
Liên cầu có thể là nguyên nhân gây viêm thị thần kinh, viêm tuyến lệ,
viêm mi, nặng hơn có thể viêm toàn nhãn. Liên cầu là một tác nhân gây bệnh
nguy hiểm đối với con người, bệnh do liên cầu thường xuất hiện như một
bệnh dịch [14].

1.2.3.4. Quá trình nhiễm khuẩn:
Trong cơ thể người và động vật có một lượng lớn các loại vi khuẩn mà
bình thường không gây bệnh cho vật chủ. Sự cân bằng giữa vi khuẩn và vật
chủ đảm bảo cho sự sống sót và phát triển của vật chủ và vi khuẩn.
Quá trình nhiễm khuẩn xảy ra khi cơ thể vật chủ bị tổn thương và giảm
sức đề kháng, khi đó vi khuẩn sẽ tấn công hoặc kết dính với tế bào vật chủ,
thông thường là tế bào biểu mô. Sau khi đã tạo được sơ nhiễm ban đầu vi khuẩn
sẽ lan rộng trực tiếp vào tổ chức hoặc theo đường hệ thống bạch huyết đến mạch
máu. Quá trình nhiễm khuẩn này có thể mất đi hoặc phát triển mạnh lên. Dòng
máu mang vi khuẩn cho phép chúng đi khắp nơi trong cơ thể và xâm nhập vào
các tổ chức đặc biệt thích hợp với sự sinh sản và phát triển của chúng [15].


10
1.2.4. Điều kiện thuận lợi và yếu tố nguy cơ
Các yếu tố nguy cơ thường gặp viêm loét giác mạc do vi khuẩn đó là
chấn thương nông nghiệp, công nghiệp, dị vật giác mạc, các phương pháp
điều trị phản khoa học, các biến chứng của bệnh mắt hột: lông quặm, lông
xiêu. Viêm loét giác mạc nói chung và do vi khuẩn nói riêng có thể phát triển
trên những người thường xuyên đeo kính tiếp xúc. Người ta ước tính tỷ lệ
viêm loét giác mạc do vi khuẩn ở người đeo kính tiếp xúc là 0,21%. Tỷ lệ này
tăng gấp 10 lần ở người đeo kính tiếp xúc qua đêm [16],[17], [20].
Các biến đổi cấu trúc, dị dạng mi mắt bẩm sinh hoặc mắc phải, viêm lệ
đạo cũng có thể gây loét giác mạc. Viêm loét giác mạc còn liên quan đến
bệnh toàn thân (bệnh basedow...), bệnh thần kinh (liệt dây TK VII..).
1.2.5. Triệu chứng lâm sàng
1.2.5.1. Triệu chứng cơ năng.
Bệnh nhân sau khi bị nhiễm bệnh thường có cảm giác chói, cộm, đau
nhức mắt, chảy nước mắt, nhìn mờ hoặc mất hẳn thị lực. Toàn thân có thể sốt
nhẹ, kém ăn, kém ngủ.

1.2.5.2. Dấu hiệu thực thể
Dấu hiệu thực thể bắt đầu là đỏ và phù mi. Kết mạc có tiết tố, có thể có
xuất huyết, phù, cương tụ kết mạc và cương tụ rìa. Giác mạc phù, mờ đục do
thâm nhiễm của tế bào viêm. Bề mặt giác mạc gồ ghề, nhuộm fluorescein bắt
màu (+). Ổ loét giác mạc có thể ở vùng rìa, cạnh trung tâm, trung tâm hoặc
toàn bộ giác mạc. Hình thái ổ loét: tròn, oval hoặc không có hình thù rõ rệt.
Kích thước ổ loét có thể nhỏ từ 1 đến 2mm, có thể 4 đến 5 mm hoặc rộng hơn
chiếm toàn bộ bề mặt giác mạc [7], [18], [19].


11
Giác mạc có thể có tủa ở mặt sau, thủy dịch có thể đục (dấu hiệu tyndal
(+), có thể có mủ tiền phòng, dính mống mắt vào mặt sau giác mạc hoặc mặt
trước thủy tinh thể. Dựa vào các tổn thương ở giác mạc, viêm loét giác, mạc
được chia thành ba mức độ ” [48]:
Mức độ

Đường kính ở loét

Nhẹ

< 3mm

Vừa

3mm-6mm

Mức độ thẩm lậu
Độ sâu ổ loét
Độ I: còn nhìn rõ các chi tiết < 1/3 bè dày

mống mắt, diện đồng tử.

Độ II: Nhìn không rõ các chi dày giác mạc,
tiết mống mắt, diện đồng tử. không có nguy

Độ III. Không nhìn được các
Nặng

> 6mm

giác mạc
Từ 1/3 - 2/3 bê

chi tiết mống mắt, diện đồng
tử

cơ dọa thủng.
> 2/3 bê dày
giác

mạc,



nguy



dọa


thủng giác mạc

1.2.6. Quá trình liền sẹo của giác mạc
1.2.6.1. Quá trình liền biểu mô giác mạc.
Biểu mô giác mạc được duy trì bởi chu trình cân bằng của số lượng các
tế bào bề mặt giác mạc bong ra và tăng số lượng tế bào ở màng đáy. Biểu mô
giác mạc cũng được duy trì bằng sự di cư chậm về phía trung tâm giác mạc
của tế bào đáy. Ở giác mạc, bình thường tốc độ của các tế bào đáy di cư vào
khoảng 123µm trong một tuần. Nguồn cung cấp tế bào đáy mới là biểu mô
vùng rìa, đó là một dải tế bào rộng 0,5 - lµm. Tại vùng rìa tập trung các tế bào
nguồn, các tế bào nguồn phân chia vào trong màng đáy và di cư về phía trên
giác mạc và tạo ra tế bào mới một cách hằng định để cung cấp cho màng dày.
Các tế bào nguồn nằm tại vùng đáy của vùng rìa giác mạc. Các dữ kiện này đã
ủng hộ cho giả thuyết của Richard Thoft: giả thuyết x, y, z của sự duy trì biểu
mô giác mạc: Biểu mô giác mạc được duy trì bằng sự cân bằng giữa tế bào


12
bong ra ở bề mặt giác mạc, sự phân chia tế bào đáy và sự di cư hướng tâm của
các tế bào từ vùng rìa giác mạc. Biểu mô giác mạc sẽ bị tổn thương khi mất
sự cân bằng đó dưới tác động của bệnh tật hoặc chấn động giác mạc gây nên.
Khi có sự tổn hại của biểu mô, giác mạc cần có một đáp ứng liền sẹo để bao
phủ màng đáy bằng các tế bào. Ngay sau khi tổn thương, quá trình phân bào
ngừng lại và các tế bào tại rìa vết thương rút lại, dầy lên và mất nửa cầu nối
gian bào kết dính với màng đáy. Các tế bào trương lên và lá biểu mô bắt đầu
di cư để che phủ vùng tổn thương bằng chuyển động amip. Rìa của màng tế
bào xù lên và đưa ra ngoài các chân giả, dạng như lá mỏng hướng về phía tổn
thương. Vùng tổn thương sẽ được bao phủ bằng nhiều lớp tế bào đáy và tế
bào vẩy. Sau khi liền sẹo vết thương, quá trình phân bào lại tiếp tục xảy ra để
phục hồi lại hình thể bình thường của biểu mô. Trên thực nghiệm, một tổn

thương biểu mô có đường kính 6µm được liền sẹo lại trong vòng 48h và tốc
độ di chuyển của tế bào biểu mô khoảng từ 60 - 80 µm/giờ. Trong quá trình
liền sẹo của giác mạc, nối tiếp với sự liền vết thương một quy trình chuyển
đổi khác nhau của sinh hóa và hình thái học diễn ra cùng với việc mất đi của
các tế bào có chân và thành lập biểu mô giác mạc [22], [48], [57].
Sơ đồ giả thiết sự toàn vẹn của biểu mô giác mạc
X+Y=Z
X = Tế bào đáy mới được tạo ra
Y = Các tế bào di chuyển hướng tâm của vùng rìa
z = Các tế bào bề mặt bong ra
1.2.6.2. Quá trình liền tổn thương nhu mô:
Quá trình liền vết thương nhu mô liên quan tới sự phục hồi và trao đổi
chéo của các sợi collagen. Sự thay đổi trong quá trình tổng hợp glucoprotein
dẫn đến sự liền vết thương xảy ra một cách từ từ và đưa đến sự duy trì tính dai
bền của sợi collagen. Ở vết thương thủng giác mạc trong vòng các tế bào bạch
cầu hạt xuất hiện quanh các tế bào tổn thương, theo sau là các bạch cầu đơn


13
nhân. Các tế bào giác mạc cạnh tổn thương trải qua một quá tình trao đổi dẫn
đến sự tích tụ các tế bào sợi. Các tế bào nhu mô giác mạc tạo ra các hợp bào
và các đám tế bào này bắt đầu mất đi liên kết bên trong và đi đến những biến
đổi hình thái. Một vài tế bào khác phình to ra, tăng nhanh số lượng và nối lại
những liên kết hổng. Các sợi collgen mới được tạo ra có thể cài vào các sợi
collgen cũ ở sẹo giác mạc [15], [22].
Người ta thấy rằng trong phẫu thuật các đường rạch giác mạc ở xa vùng
rìa không có mạch máu liền chậm hơn các đường rạch ở vùng rìa hoặc ở giác
mạc viêm mạn tính có tân mạch. Sử dụng corticoid mạnh tại chỗ sau phẫu
thuật có thẻ làm trì hoãn sự liền sẹo sớm của tổn thương giác mạc.
Trong ổ loét giác mạc do vi khuẩn xảy ra sự kết dính, xâm nhập và sinh

sản của vi khuẩn. Các protein của vi khuẩn hướng sự di chuyển của bạch cầu
theo cơ chế hóa ứng động. Các độc tố của vi khuẩn gây thoái hóa chất collgen
và glycosaminoglycan của nhu mô giác mạc, làm vỡ các mảng tế bào như
(collagenase, proteoglycanase và elastase) và các peptit khác ức chế sự sinh
sản của vi khuẩn và góp phần vào sự tiêu mô tại chỗ. Tất cả các quá trình này
ảnh hưởng đến thời gian và tốc độ của quá trình liền sẹo giác mạc.
1.2.7. Sự ngấm thuốc của giác mạc
1.2.7.1. Các yếu tổ ảnh hưởng đến sự ngấm của thuốc.
- Dung tích của film nước mắt của người trưởng thành là từ 7 - 9 µm
và dung lượng tối đa của dịch chứa trong túi kết mạc có thể duy trì từ 20 30µm. Như vậy, với dung tích của thuốc tra tại chỗ trung bình là 50µm sẽ bị
tràn ra ngoài ngay sau khi tra mắt và phần còn lại bị hòa tan bởi nước mắt.
- Sự kích thích của thuốc và dịch ưu trương sẽ là kết quả của việc tăng
nhanh hiện tượng hòa tan của nước mắt.
- Việc gia tăng nồng độ tập trung protein trong mắt viêm nhiễm có thể


14
làm giảm sút khả năng tác dụng của thuốc.
- Biểu mô giác mạc là hàng rào đầu tiên hạn chế sự hấp thu của các
chất ưa nước, các ion hóa, nhưng cho phép thấm được các chất tan trong lipid.
Sự mất chất của biểu mô giác mạc sẽ làm tăng sự thấm của các chất ưa nước,
các loại thuốc hòa tan trong nước. Kích thước phân tử quyết định tới sự thấm
của thuốc qua nội mô giác mạc. Sự ngấm của thước còn phụ thuộc vào sự bền
vững của việc tiếp xúc của thuốc và bề mặt giác mạc. Một số chất bảo quản
như benzalkonium chlorid làm tăng khả năng thấm của thuốc qua hàng rào
biểu mô giác mạc [23], [26].
1.2.7.2. Các ảnh hưởng của chất bảo quản
Trong thành phần của các thuốc tra mắt tại chỗ có các chất bảo quản
như benzalkonium chlorid, chlorhexidin digluconat và thimcrosal. Chúng có
tác dụng ngăn chặn sự phát triển của vi khuẩn bằng cách phá vỡ vỏ tế bào của

vi khuẩn nhưng nó cũng làm ảnh hưởng đến cấu trúc của biểu mô và nội mô
giác mạc khi sử dụng. Chất bảo quản gây phá vỡ liên kết các tế bào bề mặt và
làm bong ra lớp tế bào ngoài cùng, nếu kéo dài sử dụng có thể làm bong ra
lớp tiếp theo làm ảnh hưởng tới lớp tế bào trung gian của biểu mô giác mạc.
Benzalkonium chlorid thậm chí còn gây cản trở quá trình liền sẹo của biểu mô
giác mạc ở một số bệnh nhân, đặc biệt những người bị khô mắt không nên
dùng thuốc có chất bảo quản. Các chất bảo quản làm thoái hóa tế bào nội mô
và phù giác mạc nên không dùng trực tiếp đưa vào tiền phòng của mắt [26].
1.3. Điều trị viêm loét giác mạc do vi khuẩn
1.3.1. Trên thế giới
Các phương pháp chuẩn đoán sớm và sử dụng kháng sinh trong điều trị
viêm loét giác mạc đã được giới thiệu. Các thuốc kháng sinh nhỏ mắt tại chỗ
có nồng độ tập trung cao đã được sử dụng.
Tình trạng nhiễm khuẩn gây chậm quá trình biểu mô hóa giác mạc. Nếu


15
quá trình tái tạo biểu mô không diễn ra sẽ ảnh hưởng đến thị lực. Giảm thị lực có
thể phòng được nếu xác định sớm nguyên nhân và điều tri kháng sinh phù hợp.
Do vi khuẩn Gr(-) và Gr(+) có thể gây nên tình trạng viêm nhiễm giác mạc nặng
nề nên bệnh nhân cần được điều trị bằng một loại kháng sinh phổ rộng.
Trước đây, thầy thuốc thường chỉ định điều trị một loại kháng sinh
chống vi khuẩn Gr(+) phối hợp với một loại khác diệt vi khuẩn Gr(-). Công
thức điều trị chuẩn thường có sự kết hợp giữa: cephalosporin (cephazolin) và
aminoglycosid (gentamycin hoặc tobramycin) [12]. Tuy nhiên, các tác giả có
nhận định rằng sự kết hợp này không đủ để diệt vi khuẩn trên giác mạc; và để
diệt được vi khuẩn trên giác mạc, cần những loại thuốc có phổ tác dụng rộng
hơn và có nồng độ cao hơn. Vì vậy, các tác giả đã kết hợp một nhóm
cephalosporin với một nhóm aminoglycoside mạnh [33].
Tuy nhiên công thức điều trị chuẩn còn có nhiều hạn chế. Việc tính

toán sai dẫn đến sai về liều lượng, tăng tác dụng không mong muốn do sử
dụng nhiều loại thuốc tác dụng mạnh khác nhau. Cũng có những báo cáo nói
rằng, loại vi khuẩn thường gây viêm loét giác mạc đang gia tăng tình trạng
kháng với công thức điều trị chuẩn.
Năm 1980, Thomas E.C đã làm kháng sinh đồ thấy trực khuẩn mủ xanh
nhạy cảm với Gentamycin là 98%, Cebemycil là 91%, Neomycin là 62%,
Chloramfenicol 33% [58].
Theo Davis S.D [27], và Hyndiuk R.A [35] dùng kết hợp 2 kháng sinh
nồng độ cao là cefazolin và tobramycin để điều trị 164 bệnh nhân loét giác mạc
do vi khuẩn cho tỷ lệ thành công là 8,2% và tác dụng không mong muốn gây
khó chịu ở mắt xảy ra ở tỷ lệ 13,4%. Cũng theo tác giả này điều trị viêm loét
giác mạc do vi khuẩn bằng CiproAoxacin tỷ lệ thành công cao là 91,6%, tác
dụng không mong muốn gây khó chịu ở mắt là 5,7%. Theo Leibowitz [40] khi
dùng 2 kháng sinh cefazolin và gentamycin với nồng độ cao để điều trị 103 bệnh


16
nhân loét giác mạc do vi khuẩn đạt tỷ lệ thành công là 88,2%. Cũng theo tác giả
này tỷ lệ thành công đối với trực khuẩn mủ xanh là 75%; đối với tụ cầu là 89%.
Theo tác giả Hessburg báo cáo 5 ca bị viêm loét giác mạc do trực
khuẩn mủ xanh được tra mắt nhỏ giọt dung dịch Polymycin và Colistin vào
cùng đồ từ 6-8 giọt/phút kéo dài trong 14 ngày đạt kết quả tốt [33] cả 5 ca đều
tăng thị lực.
Louis A. Wilson (1990) [42] đã điều trị 7 trường hợp loét giác mạc do
trực khuẩn mủ xanh bằng Gentamycin, Carbenicillin, Neomycin và
Polymycin B đạt kết quả tốt: 6 trường hợp tăng thị lực, 1 trường hợp không
tăng thị lực nhưng ổ loét đã biểu mô hoàn toàn.
Theo Masco Ocumoto, Peter Laibson [44] tỷ lệ thành công khi dùng
Gentamycin trong điều trị 25 bệnh nhân viêm phần trước nhãn cầu do vi khuẩn
là 82%. Cũng theo tác giả này tỷ lệ thành công đối với Tobramicin là 83%.

Gần đây, trên thế giới một số tác giả đã nghiên cứu trên lâm sàng và thực
nghiệm điều trị viêm loét giác mạc do vi khuẩn bằng kháng sinh nhóm Quinolon
và cho thấy kết quả rất khả quan. Theo Leibowitz tỷ lệ thành công khi dùng
kháng sinh nhóm này điều trị các viêm loét giác mạc do vi khuẩn là 91,9%[35].
Nhóm kháng sinh Fluoroquinolon với phổ tác dụng rộng cả trên vi
khuẩn gram (+) và gram (-), ít tai biến khi sử dụng đã được sử dụng để điều
trị các bệnh nhiễm trùng. Besivance (bésifloxacin ophthalmic suspension,
0.6%) là một kháng sinh thuộc nhóm fluorquinolon thế hệ IV với khả năng
diệt khuẩn mạnh đã được các tác giả trên thế giới sử dụng vào điều trị các
bệnh nhiễm trùng ở mắt và cho kết quả khả quan [28].
Katz và cộng sự [37] nghiên cứu điều tri cho 544 bệnh nhân trên 1
tháng tuổi bị viêm kết mạc do vi khuẩn: bệnh nhân được chia thành hai nhóm:
một nhóm được tra (bésifloxacin ophthalmic suspension, 0.6%), một nhóm
dùng Placebo hàng ngày với liều 3 lần/ngày. Đánh giá kết quả sau 9 ngày điều


17
trị: trong nhóm được điều trị bằng (bésifloxacin ophthalmic suspension,
0.6%), kết quả tốt đạt 82,0% so với 67% của nhóm dùng Placebo. Đặc biệt
ở nhóm được điều trị bằng (bésifloxacin ophthalmic suspension, 0.6%) thì
kết quả tốt được biểu hiện rất rõ ở ngày điều trị thứ 3. Theo tác giả,
(bésifloxacin ophthalmic suspension, 0.6%) có tác dụng diệt tụ cầu trắng,
phế cầu, tụ cầu vàng cũng như những chủng kháng Quinolon các thế hệ
trước đó. Những ghi nhận về tính an toàn của (bésifloxacin ophthalmic
suspension, 0.6%) chỉ ra rằng thuốc được chấp nhận sử dụng 3 lần/ngày
ữong 4 ngày cho những đối tượng trên 1 tuổi.
Kowalski và cộng sự [38] đã nghiên cứu trên thực nghiệm gây viêm nội
nhãn cho 20 mắt của 20 con thỏ bằng cách tiêm vào tiền phòng 0.025ml canh
thang chứa khoảng 5 x 104 chủng phân lập tụ cầu vàng gây viêm nội nhãn.
Trước khi gây bệnh 10 mắt được tra (bésifloxacin ophthalmic suspension,

0.6%) 1 giọt 15 phút/lần và 10 mắt chỉ tra nước muối. Sau khi gây bệnh 24
giờ, bằng máy sinh hiển vi kiểm tra tình trạng kết - giác mạc, mống mắt, thể
mi, tiền phòng, dịch kính và đánh giá mức độ tổn thương theo các mức: 0,
0.5, 1, 2, 3. Sau đó dịch tiền phòng và hậu phòng được đem đi nuôi cấy. Kết
quả cho thấy tỷ lệ viêm nội nhãn chỉ gặp ở nhóm dùng nước muối. Kết quả
nuôi cấy dịch tiền phòng và hậu phòng: tụ cầu vàng chỉ xuất hiện ở nhóm tra
nước muối (50% ở tiền phòng và 30% ở hậu phòng). Từ đó tác giả đã đưa ra
kết luận: “Trong mẫu thỏ nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy sử dụng kháng sinh
tại chỗ trước và sau khi tiêm vi khuẩn nội nhãn có thể phòng được viêm nội
nhãn do vi khuẩn”.
Schlecthe.B.A. và cộng sự (2002) [55] điều trị cho 53 bệnh nhân viêm
kết mạc do vi khuẩn bằng dung dịch nhỏ mắt Besivance trong 3 ngày thì 43
bệnh nhân (81%) khỏi. Dung dịch nhỏ mắt Besivance đã tiêu diệt 100%
Staphylococcus epidermidis và cô lập Staphylococcus aureus, thậm chí cả


18
những đặc tính đơn lẻ của Pseudomonas aerruginosa cũng bị tiêu diệt.
Về hiệu quả của Besivance 0,6% trong điều trị viêm loét giác mạc mới
chỉ có những công trình nghiên cứu trên thực nghiệm: Kowalski R.P và cộng
sự [55] đã nghiên cứu hiệu qủa của Besivance trong điều trị viêm loét giác
mạc do tụ cầu vàng ở mắt thỏ (gây bệnh thực nghiệm) và đưa ra nhận xét rằng
fluoroquinolon thế hệ 4 có nhiều ưu điểm vượt trội so với kháng sinh nhóm
fluoroquinolon thế hệ khác. Elias Aliprandis và cộng sự [29] đã nghiên cứu
trên thực nghiệm và so sánh điều trị viêm loét giác mạc do trực khuẩn mủ
xanh trên mắt thỏ bằng dung dịch Besivance và dung dịch ciprofloxacin 0.3%
và đưa ra kết luận rằng cả 2 loại kháng sinh này đều có tác dụng tốt trong điều
trị viêm loét giác mạc do trực khuẩn mủ xanh.
1.3.2. Tại Việt Nam
Các công trình nghiên cứu thường tập trung theo 2 hướng chính:

Điều trị nội khoa: Điều trị bằng thuốc các viêm loét giác mạc do vi
khuẩn là biện pháp tích cực để loại bỏ tác nhân gây bệnh:
+ Cù Nhân Nại và Phan Khiết [11] đã sử dụng là diếp cá trong điều trị 37
bệnh nhân loét giác mạc do trực khuẩn mủ xanh đạt tỷ lệ thành công là 74,4%.
+ Trần Thuấn Điền (1976) đã điều trị loét giác mạc do trục khuẩn mủ
xanh cho 8 bệnh nhân bằng Gentamycin đạt tỷ lệ thành công là 75% [2].
+ Đinh Thị Khánh (1986) đã sử dụng Dekamycin trong điều trị loét
giác mạc do trực khuẩn mủ xanh cho 13 bệnh nhân, 10 bệnh nhân khỏi bệnh
chiếm tỷ lệ 76,9% [8].
+ Trần Tất Thắng (1999) điều trị kháng sinh nhóm Fluoroquinolon thế hệ
II cho 124 bệnh nhân, kết quả khỏi bệnh là 106 trường hợp chiếm 85% [18].
+ Hoàng Thị Phúc [15], Nguyễn Văn Vui, (1999) [19] điều trị viêm loét
giác mạc do trực khuẩn mủ xanh bằng tiêm gentamycin + Okacin tra mắt và


19
uống L.Cystin cho 58 bệnh nhân, 40 bệnh nhân đạt kết quả tốt chiếm tỷ lệ
69%, 16 trường hợp đạt kết quả vừa (27,6%), kết quả xấu 2 trường hợp
(3,4%). Tỷ lệ khỏi là 96,6%.
Điều trị phẫu thuật:
Trong trường hợp bệnh nhân viêm loét giác mạc do vi khuẩn không đáp
ứng với điều trị thuốc (ổ loét giác mạc nặng hơn, có nguy cơ thủng giác
mạc...) thì các tác giả đã sử dụng một số phương pháp phẫu thuật.
Phan Dần (1963): Ghép niêm mạc môi điều trị loét giác mạc do vi
khuẩn cho 35 bệnh nhân, kết quả tốt: 18 bệnh nhân chiếm tỷ lệ 51,4% bệnh
nhân, loét kéo dài trên 20 ngày là 17 bệnh nhân, chiếm tỷ lệ 48,6% [1].
Nguyễn Trọng Nhân (1965 - 1975) ghép giác mạc điều trị cho 32 bệnh
nhân, thì có 12/32 bệnh nhân đạt kết quả tốt với tỷ lệ là 37,8% [10].
Hoàng Thị Minh Châu và cộng sự đã ghép giác mạc xuyên cho những bệnh
nhân viêm loét giác mạc nặng. Theo dõi sau khi ra viện trong số 90 mắt được

ghép có 49 mắt đạt kết quả tốt (54,44%), còn 41 mắt không tốt (45,56%) [19].
1.4. Đặc điểm kháng sinh nhóm Fluoroquinolon
1.4.1. Đặc điểm chung:
Thuốc kháng sinh lý tưởng phải có những tiêu chuẩn sau:
- Có phổ tác dụng rộng.
- Sử dụng thuận tiện.
- Có tác dụng dự phòng.
- Không chứa benzolkonium cholorid.
- Dễ chịu khi tra vào mắt.
- Không gây độc cho mô, tổ chức.
Sự phát triển của các chủng vi khuẩn để kháng làm giảm tác dụng của
nhiều thuốc kháng sinh vì vậy nhóm quinolon đã trở thành nhóm thuốc chiếm
ưu thế. Nhưng thậm chí những thuốc quinolon gần đây (ciprofloxacin,


20
ofloxacin) cũng bị giảm tác dụng do sự kháng sinh này của các vi khuẩn [30],
[31], [32], [33], [34], [39].
Theo tác giả Callegan M.c. Ramier.R. kháng sinh nhỏ mắt lý tưởng phải
có phổ tác dụng rộng đối với cả những vi khuẩn không điển hình. Những tác
nhân gây bệnh này có khả năng gây nên những bệnh nhiễm trùng nguy hiểm tại
mắt như: Viêm loét giác mạc, viêm nội nhãn và có thể xảy ra sau phẫu thuật và
chấn thương. Những nhiễm trùng này đòi hỏi phải điều trị kháng sinh chống vi
khuẩn liều tấn công, đặc biệt bằng những kháng sinh thế hệ mới [24].
Quan tâm đến tất cả các đặc điểm của một kháng sinh tra mắt lý tưởng,
dung dịch nhỏ mắt Besivance (bésifloxacin ophthalmic suspension, 0.6%) là
thuốc được lựa chọn để điều trị và dự phòng nhiễm khuẩn ở mắt.
1.4.2. Besivance (bésifloxacinm ophthalmic suspension, 0.6%)
Besivance (bésifloxacin ophthalmic suspension, 0.6%) là một fluoroquinolone
thế hệ IV tác dụng tốt hơn những kháng sinh Quinolon thế hệ trước chống lại

vi khuẩn gram (+) trong khi vẫn duy trì hiệu quả chống lại vi khuẩn gram (-)
và vi khuẩn không điển hình [46].
Có một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng dung dịch nhỏ mắt Besivance
(bésifloxacin ophthalmic suspension, 0.6%) có hiệu quả cao chống lại nhiều
loại vi khuẩn, có độ an toàn cao và độ dung nạp tốt.
Những kết quả nghiên cứu của nhiều tác giả trên thế giới cung cấp
thêm bằng chứng về hiệu quả của Besivance (bésifloxacin ophthalmic
suspension, 0.6%) trong điều trị dự phòng trước phẫu thuật và điều trị nhiễm
trùng gây đe dọa thị lực như: viêm loét giác mạc, viêm nội nhãn,...
Besivance (bésifloxacin ophthalmic suspension, 0.6%) là dung dịch
nhỏ mắt vô trùng, là Fluoroquinolon 8-chloride được sử dụng để điều trị trong
nhãn khoa.
Công thức hóa học:


21

- Thành phần:


22
+ Hóa chất: Besivance (bésifloxacin ophthalmic suspension, 0.6%)
+ Tá dược: chứa DutaSite® - là hệ thống phân phối thuốc độc đáo của
Besivance
- Là chất polymer liên kết chéo. Bao gồm: Polycarbophil, sodium
chloride, disodium edetate, sodium hydroxide và nước.
- Làm tăng tác dụng của thuốc trên bề mặt giác mạc.
- Giảm thiểu mất thuốc ra ngoài do chớp mắt.
- Kéo dài thời gian tác dụng của thuốc.
Thuốc cũng có thể chứa Axit clohiđric/Natri hiđroxit để điều chỉnh PH

xấp xỉ 6.8 [21], [29].
1.4.2.1. Dược động học:
Nồng độ Besivance được đo trong huyết tương ở đàn ông và phụ nữ khỏe
mạnh được tra Besivance (bésifloxacin ophthalmic suspension, 0.6%) 3
lần/ngày. Nồng độ lớn nhất ở trạng thái không thay đổi là 2,7mg/ml và giá trị
thấp hơn 1000 lần - 1600 lần so với Cmax trung bình sau khi dùng Besivance
đường uống. Thời gian bán thải của Besivance khoảng 13h [41], [43], [52], [54].
1.4.2.2. Cơ chế tác dụng:
Besivance là fluoroquinolon 8 _ chloride có chuỗi bên Aminoazopinyl
với cấu trúc chuỗi bên độc đáo ở vị trí C7. Với cấu trúc này Besivance có khả
năng chống lại enzyme DNA gyracc, topoisomerase IV của vi khuẩn [45].
Theo nghiên cứu của Callegan M.c [24], Ramier R. nồng độ ức chế tối
thiểu MICs (Minimum Inhibitory Concentrations) của Besivance đối với vi khuẩn
gram (+) là 0,008 - 0,57 mg/ml, đối với vi khuẩn gram (-) là 0,25 mg/ml.
Theo Katz và cộng sự nồng độ Besivance thấm vào thủy dịch đạt
>lµg/ml sau 15 phút tra thuốc [37].
Theo Epstein A.B. và cộng sự khi nghiên cứu về nồng độ Besivance


23
ngấm vào kết mạc so với kháng sinh khác thuộc nhóm quinolon đã đưa ra
nhận xét rằng dung dịch nhỏ mắt Besivance đạt được nồng độ cao trong kết
mạc gấp 13,8 lần so với ofloxacin và 7,7 lần so với Levofloxacin [30].
Solomon R. và cộng sự khi nghiên cứu so sánh nồng độ của Besivance
và Gatifloxacin 0,3% trong thủy dịch so với ciprofloxacin và nhận thấy rằng
Besivance và Gatifloxacin đều thấm vào thủy dịch cao hơn nồng độ
Ciprofloxacin (P<0,05), đặc biệt nồng độ Besivance (1.31 µg/ml ± 0,46) trong
thủy dịch cũng cao hơn nhiều nồng độ Gatifloxacin (0.63 µg/ml) [56].
Besivance đạt nồng độ tối đa trong thủy dịch sau khi được tra nhỏ vào
mắt cao hơn xấp xỉ 30 lần MICs đối với vi khuẩn s. epidermidic và 25 lần

MICs với vi khuẩn s. aureus. Tác dụng diệt vi khuẩn của Besivance là do ức
chế men topoi - somerase II (DNA gyrase) và topoi - seomerase IV.DNA
gyrase là enzym cần thiết cho sự tái tạo sao chép và sửa chữa DNA của vi
khuẩn. Topoi - somerase IV là enzym giữ vai trò chủ yếu trong sự phân chia
của DNA trong sự phân chia tế bào vi khuẩn [57].
Besivance có hiệu quả chống lại nhiều chủng vi sinh vật cả trên nghiên
cứu trong ống nghiệm và trên lâm sàng: Vi khuẩn gram (+) ưa khí, vi khuẩn
gram (-) ưa khí, vi khuẩn kỵ khí.
Cơ chế tác dụng của Besivance khác với nhóm Macrolid
Aminoglycosid hay tetracyclin. Do đó Besivance có thể có hiệu quả với các
tác nhân gây bệnh đã kháng với những kháng sinh này.
Không có sự đề kháng chéo giữa bésifloxacin ophthalmic suspension và
các kháng sinh trên. Tuy nhiên, người ta lại thấy có sự đề kháng chéo khi dùng
Besivance đường toàn thân với một vài kháng sinh nhóm Quinolon khác.
Sự đề kháng của Besivance trên nghiên cứu trong thực nghiệm phát
triển qua sự biến đổi nhiều bước. Sự đề kháng của Besivance xảy ra trong ống
nghiệm có tần suất khoảng l,8xl0 -9 → 1.10-11 đối với trực khuẩn gram (+).


24
Besivance có hiệu quả chống lại nhiều chủng vi sinh vật cả trên nghiên cứu
trong ống nghiệm và trên lâm sàng vi khuẩn gram (+) ưa khí, vi khuẩn gram
(-) ưa khí, vi khuẩn kỵ khí [59].
Theo tác giả Callegan M.c, Ramier, kháng sinh nhỏ mắt lý tưởng phải có
phổ tác dụng rộng đối với vi khuẩn không điển hình, những tác nhân gây bệnh
này có khả năng gây nên những bệnh nhiễm trùng nguy hiểm tại mắt như: viêm
loét giác mạc, viêm nội nhãn và có thể xảy ra sau phẫu thuật và chấn thương.
Những nhiễm trùng này đòi hỏi phải điều trị kháng sinh chống vi khuẩn liều
tấn công. (Đặc biệt bằng những kháng sinh chống vi khuẩn liều tấn công), đặc
biệt bằng những kháng sinh thế hệ mới. Trong nghiên cứu các tác giả đã xác

định được nồng độ ức chế tối thiểu của Besivance trong ống nghiệm chống lại
các vi khuẩn phân lập được từ những trường hợp viêm loét giác mạc do vi
khuẩn và viêm nội nhãn gồm có 7 vi khuẩn gram (+), 4 vi khuẩn gram (-) và 3
vi khuẩn không điển hình. Besivance có tác dụng với 6 vi khuẩn gram (+) bao
gồm: tụ cầu, liên cầu,... nồng độ tối thiểu đối với những loài vi khuẩn này có
giới hạn từ 0,08 - 0,57 µg/ml. Đối với vi khuẩn gram âm là 0,26 µg/ml [24].
1.4.2.3. Chỉ định, chống chỉ định:
Chỉ định:
- Dung dịch Besivance được chỉ định điều trị viêm loét giác mạc, viêm
kết mạc, nhiễm trùng nội nhãn, hậu phẫu (Phaco, Lasik,...) [46].
Chống chỉ định:
- Tiền sử nhạy cảm với Besivance hoặc các Quinolon khác, hoặc với bất
kỳ thành phần nào của thuốc.
- Không dùng thuốc cho phụ nữ có thai, cho con bú, trẻ dưới 1 tuổi[58].


25
1.4.2.4. Tác dụng không mong muốn:
Các số liệu được mô tả dưới đây phản ánh tác dụng không mong muốn
gặp phải khi điều trị với Besivance® trên tổng số khoảng 1.000 bệnh nhân tuổi từ
1 – 98 với các dấu hiệu và triệu chứng lâm sàng của viêm loét giác mạc do vi
khuẩn thường thấy nhất là đỏ kết mạc 2% bệnh nhân. Các tác dụng phụ khác:
nhìn mờ, đau mắt, kích ứng mắt, ngứa mắt, đau đầu xảy ra 1 – 2% bệnh nhân
[47], [48], [49].
1.4.2.5. Tương tác thuốc.
Vẫn chưa có nghiên cứu đặc hiệu về tương tác thuốc được thực hiện.
Xong các kết quả nghiên cứu chuyển hóa trên vitro và in vivo đã chứng minh
rằng phạm vi chuyển hóa toàn phần của bésifloxacin là rất thấp. Khi điều trị
với besifloxavin theo đường nhỏ mắt, ít có nguy cơ xảy ra tương tác với thuốc
theo dược động học toàn thân do hấp thụ toàn thân của bésifloxacin trên

người sau khi dùng tại chỗ là không đáng kể [50].


×