Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Công nghiệp hóa- hiện đại hóa để phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (103.78 KB, 11 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Đặt vấn đề
Chủ nghĩa duy vật lịch sự - một bộ phận của Triết học Mác - Lênin - với nội dung
chủ yếu là nhận thức xã hội trong một chỉnh thể và phát hiện những qui luật vận động
và phát triển phổ biến của lịch sử. Một trong những qui luật đó là qui luật về sự phù
hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lợng sản xuất. Đây là quy luật
cơ bản nhất chi phối sự vận động, phát triển của mọi xã hội.
Nớc ta đang xây dựng chủ nghĩa xã hội từ nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ,
lao động thủ công là chủ yếu. Vì vậy, việc nghiên cứu và vận dụng đầy đủ qui luật
chung, cơ bản nói trên vào đặc thù kinh tế - xã hội nớc ta và vấn đề đợc Đảng ta hết sức
coi trọng. Thực tiễn bớc đầu của quá trình xây dựng CNXH ở nớc ta đã khẳng định
những thành tựu to lớn cũng nh đã bộc lộ những tồn tại trong việc nhận thức và vận
dụng qui luật đó.
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Phần một
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển lực lợng sản xuất.
I- Phơng thức sản xuất - sự thống nhất giữa lực lợng sản xuất và
quan hệ sản xuất.
Nền sản xuất xã hội là một thể thống nhất bao gồm nhiều mặt, nhiều mối liên hệ,
trong đó nổi lên hai loại quan hệ cơ bản: quan hệ giữa ngời với tự nhiên, và quan hệ
giữa ngời với ngời. Các Mác viết: "Trong sản xuất, ngời ta không chỉ tác động vào giới
tự nhiên mà còn tác động lẫn nhau nữa, ngời ta không thể sản xuất đợc nếu không kết
hợp với nhau theo một cách nào đó để hoạt động chung và để trao đổi hoạt động với
nhau. Muốn sản xuất đợc ngời ta phải có những mối liên hệ và quan hệ nhất định với
nhau và sự tác động của họ vào giới tự nhiên"
(1).
Trong hai mặt đó, một mặt là lực lợng sản xuất và mặt kia là quan hệ sản xuất.
1. Lực lợng sản xuất.
Có nhiều cách tiếp cận khác nhau. Trong mối quan hệ giữa ngời với tự nhiên,


trong sản xuất thì lực lợng sản xuất là biểu hiện mối quan hệ giữa con ngời với tự
nhiên. Còn dới góc độ là kết quả phát triển của thực tiễn xã hội thì lực lợng sản xuất
thể hiện năng lực thực tiễn của con ngời trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất. Có
thể nói một cách chung nhất về lực lợng sản xuất, là quan hệ kinh tế - kỹ thuật biểu
hiện cách thức, năng lực, trình độ con ngời đạt đợc trong quá trình tác động vào giới tự
nhiên để tạo ra những sản phẩm.
Về kết cấu, lực lợng sản xuất bao gồm ngời lao động với kỹ năng lao động của họ
và t liệu sản xuất (đối tợng lao động và công cụ lao động). Trong đó, ngời lao động là
yếu tố đóng vai trò quyết định. Theo V.I. Lê Nin "lực lợng sản xuất hàng đầu của toàn
thể nhân loại là công nhân, là ngời lao động. "
(2)
Chính ngời lao động là chủ thể của quá
trình lao động sản xuất, quyết định việc sáng tạo ra và sử dụng t liệu sản xuất để sản
xuất ra của cải vật chất. Sản xuất đợc tiến hành nh thế nào, trớc hết tuỳ thuộc vào thể
chất, tinh thần và trình độ của ngời lao động. Cùng với quá trình phát triển của sản xuất
vật chất, trình độ của ngời lao động không ngừng tăng lên, cơ cấu lao động cũng đợc
thay đổi tơng ứng. Ngày nay với cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, khoa học
đang ngày càng trở thành một lực lợng sản xuất trực tiếp; lao động đang biến đổi theo
xu hớng ngày càng trí tuệ hơn, lao động trí tuệ ngày càng đóng vai trò chính yếu trong
lực lợng lao động, hàm lợng chất xám trong sản phẩm ngày càng tăng.
T liệu sản xuất gồm có công cụ lao động và đối tợng lao động. Trong đó công cụ
lao động đóng vai trò quyết định. Trong quá trình lao động sản xuất, công cụ lao động
không ngừng đợc đổi mới và phát triển. Nó là yếu tố đông nhất của lực lợng sản xuất.
Sự biến đổi của công cụ lao động sẽ kéo dài theo làm biến đổi toàn bộ lực lợng sản
xuất và xét đến cùng, đó là nguyên nhân sâu xa của mọi biến đổi xã hội.
Có thể nói lực lợng sản xuất bao gồm các yếu tố, nhng không phải là phép cộng
đơn thuần của các yếu tố mà là một hệ thống, trong đó chúng quan hệ chặt chẽ, thống
nhất với nhau.
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368

Các yếu tố của lực lợng sản xuất tồn tại trong một kiểu tổ chức, phân công lao
động nhất định. Khi nói đến lực lợng sản xuất, không thể không nói đến tổ chức, phân
công lao động xã hội. Bản thân trình độ phân công lao động xã hội thể hiện rất rõ trình
độ phát triển lực lợng sản xuất.
Sự hình thành và phát triển lực lợng sản xuất mang tính khách quan và liên tục.
C.Mác nói "Ngời ta không đợc tự do lựa chọn lực lợng sản xuất của mình. Vì mọi lực l-
ợng sản xuất là một lực lợng đã đạt đợc, tức là sản phẩm của hoạt động đã qua. Do đó,
lực lợng sản xuất là kết quả của năng lực thực tiễn của con ngời"
(3)
.
2. Quan hệ sản xuất.
Gắn liền với lực lợng sản xuất, đó là quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất là toàn
bộ mối qua nhệ lẫn nhau giữa ngời với ngời trong quá trình sản xuất.
Về kết cấu của quan hệ sản xuất, có thể có những cách tiếp cận khác nhau.
Nếu tiếp cận theo nghĩa các khâu của một quá trình tái sản xuất thì nó bao gồm:
quan hệ sản xuất, quan hệ phân phối, quan hệ trao đổi và tiêu dùng.
Theo nghĩa là các mặt, thì quan hệ sản xuất có 3 mặt. Đó là quan hệ sở hữu đối
với t liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức quản lý sản xuất, quan hệ trong phân phối sản
phẩm sản xuất ra.
Trong 3 mặt của quan hệ sản xuất thì quan hệ sở hữu về t liệu sản xuất là quan hệ
xuất phát, quan hệ cơ bản, quyết định hai mặt quan hệ còn lại. Có thể nói, coi chiếm
hữu t liệu sản xuất thì ngời đó có quyền tổ chức quản lý sản xuất và phân phối sản
phẩm làm ra.
Trong lịch sử nhân loại, đã có 2 loại hình sở hữu cơ bản là sở hữu t nhân và sở hữu
công cộng. Ngoài ra còn hình thức sở hữu hỗn hợp, đan xen các loại hình cơ bản trên.
Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất tác động đến xác định vai trò, vị trí của con
ngời trong sản xuất, đến điều khiển quá trình sản xuất; do đó trực tiếp tác động đến sản
xuất, thúc đẩy hoặc kìm hãm sản xuất phát triển. Quan hệ tổ chức quản lý do quan hệ
sở hữu quyết định và nói chung phải thích ứng với quan hệ sở hữu.
Tuy nhiên, có trờng hợp quan hệ tổ chức và quản lý lại không thích ứng với quan

hệ sở hữu, làm biến dạng quan hệ sở hữu. Đối với thực tiễn nớc ta hiện nay, đây là vấn
đề đang đặt ra cần phải quan tâm giải quyết, vì nó có ý nghĩa quan trọng đối với việc
phát triển sản xuất, phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần.
Quan hệ phân phối sản phẩm sản xuất ra trực tiếp tác động đến lợi ích con ngời,
nên tác động đến thái độ của con ngời trong quá trình sản xuất. Bởi vì lợi ích là mục
đích, là động lực của quá trình sản xuất, của con ngời. Quan hệ phân phối sản phẩm do
quan hệ về sở hữu t liệu sản xuất và quan hệ tổ chức quản lý sản xuất chi phối, song nó
cũng có tác động tích cực trở lại hai mặt đó. Từ đó cho thấy, để xây dựng một quan hệ
sản xuất mới đòi hỏi phải giải quyết một cách đồng bộ các yếu tố cấu thành của nó.
Sự vận động phát triển của xã hội gắn liền với sự thay thế lẫn nhau của các quan
hệ sản xuất. Mặc dầu mỗi chế độ xã hội thờng đan xen nhiều hình thức quan hệ sản
xuất, nhng trong đó có hình thức giữ vai trò thống trị, chi phối, đặc trng cho quan hệ
sản xuất của xã hội đó, còn các quan hệ sản xuất khác chỉ là tàn d hoặc mầm mống.
Quan hệ sản xuất do con ngời tạo ra, tuy nhiên nó không phải hình thành theo ý
muốn chủ quan: quan hệ sản xuất hình thành một cách khách quan trong quá trình sản
xuất, không theo ý muốn chủ quan của con ngời.
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
3. Lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Không phải là hai bộ phận độc lập, mà là 2 loại quan hệ, thống nhất chặt chẽ với
nhau trong quá trình sản xuất, trong một thực thể thống nhất, cấu thành phơng thức sản
xuất. Về mặt nhận thức luận, đó là 2 góc độ tiếp cận để xem xét một thực thể. Tức là,
nếu phân tích phơng thức sản xuất theo quan hệ giữa con ngời với giới tự nhiên thì đó
là phân tích lực lợng sản xuất; nếu phân tích theo quan hệ giữa con ngời với con ngời
thì đó là phân tích quan hệ sản xuất.
Phơng thức sản xuất là cách thức con ngời tiến hành sản xuất vật chật trong từng
giai đoạn lịch sử nhất định. Mỗi xã hội đợc đặc trng bằng một phơng thức sản xuất nhất
định. Phơng thức sản xuất quyết định tất cả cá mặt của đời sống xã hội. Sự thay thế kế
tiếp nhau của các phơng thức sản xuất trong lịch sử quyết định phát triển xã hội loài
ngời từ thấp đến cao. C.Mác nói: "Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con

ngời ta có những quan hệ nhất định, tất yếu, không tuỳ thuộc vào ý muốn của họ - tức
những quan hệ sản xuất, những quan hệ này phù hợp với một trình độ phát triển nhất
định của lực lợng sản xuất vật chất của họ. Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy hợp
thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực, trên đó xây dựng lên một
kiến trúc thợng tầng pháp lý và chính trị, và tơng ứng với cơ sở thực tại đó thì có những
hình thái ý thức xã hội nhất định. Phơng thức sản xuất đời sống vật chất quyết định các
quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung"
"4"
II. Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát
triển lực lợng sản xuất.
Phơng thức sản xuất vận động phát triển, tổng thể kế tiếp nhau từ thấp đến cao và
quyết định sự vận động và phát triển xã hội lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai
quan hệ nằm trong một thực thế thống nhất là phơng thức sản xuất. Chúng qui định chế
ớc, tác động qua lại, thúc đẩy lẫn nhau phát triển. Chính sự tác động qua lại đó tạo
thành qui luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lợng
sản xuất. Đây là qui luật vận động phát triển của phơng thức sản xuất, đồng thời cũng
là qui luật cơ bản của sự vận động, phát triển xã hội.
Trong mối quan hệ giữa lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất thì lực lợng sản
xuất là nội dung, quyết định quan hệ sản xuất; còn quan hệ sản xuất là hình thức xã hội
của sản xuất, phải phù hợp với trình độ lực lợng sản xuất và có sự tác động tích cực trở
lại đối với lực lợng sản xuất.
Trong mỗi quan hệ trên thì lực lợng sản xuất thờng xuyên biến đổi, còn quan hệ
sản xuất tơng đối ổn định. Do yêu cầu tòn tại và phát triển của xã hội, sản xuất vật chất
không ngừng phát triển. Trong quá trình sản xuất, các yếu tố của lực lợng sản xuất
không ngừng đổi mới và tác động qua lại, làm cho lực lợng sản xuất biến đổi, phát
triển. Sự phát triển của lực lợng sản xuất đợc đánh dấu bằng trình độ của lực lợng sản
xuất. Đó là sự thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con ngời và biểu hiện ở trình
độ của công cụ lao động, trình độ kinh nghiệm, kỹ năng ngời lao động, trình độ phân
công lao động xã hội, trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất.
Gắn với trình độ phát triển của lực lợng sản xuất là tính chất của nó. Trong lịch sử

xã hội, lực lợng sản xuất phát triển từ chỗ có tính chất cá nhân, lao động thủ công lên
tính chất xã hội dựa trên nền tảng công cụ cơ khí, hiện đại. Ngày nay, tính chất xã hội
đạt ở trình độ cao nên có tính quốc tế.
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Sự vận động, phát triển của lực lợng sản xuất quyết định, làm thay đổi quan hệ
sản xuất cho phù hợp với nó. Khi một phơng thức sản xuất ra đời thì quan hệ sản xuất
phù hợp với trình độ phát triển lực lợng sản xuất, nó là hình thức phát triển của lực lợng
sản xuất. Sự phát triển của lực lợng sản xuất đến một trình đọ nhất định làm cho quan
hệ sản xuất từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp với trình độ lực lợng sản xuất. Khi
đó quan hệ sản xuất trở nên kìm hãm lực lợng sản xuất phát triển. Do yêu cầu khách
quan của sự phát triển lực lợng sản xuất, tất yếu dẫn đến thay thế quan hệ sản xuất và
bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ mới của lực lợng sản xuất để thúc đẩy
lực lợng sản xuất tiếp tục phát triển. Điều đó cũng có nghĩa là thay thế phơng thức sản
xuất cũ bằng phơng thức sản xuất mới tiến bộ hơn.
Quan hệ sản xuất có tính độc lập tơng đối và tác động trở lại sự phát triển của lực
lợng sản xuất.
Quan hệ sản xuất qui định mục đích của sản xuất, tác động đến thái độ của con
ngời trong lao động sản xuất, đến tổ chức phân công lao động xã hội, đến phát triển và
ứng dụng khoa học công nghệ... Và do đó, tác động đến sự phát triển của lực lợng sản
xuất. Là hình thức xã hội của lực lợng sản xuất, quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
phát triển lực lợng sản xuất là quan hệ sản xuất cho phép kết hợp một cách tối u ngời
lao động với t liệu sản xuất trong quá trình sản xuất, do đó nó là động lực thúc đẩy lực
lợng sản xuất phát triển. Ngợc lại quan hệ sản xuất không phù hợp với trình độ phát
triển lực lợng sản xuất, tức, hoặc là trở nên lỗi thời, lạc hậu, hoặc là có những yếu tố v-
ợt trớc so với trình độ phát triển lực lợng sản xuất, đều kìm hãm lực lợng sản xuất phát
triển. Tuy nhiên, khi quan hệ sản xuất không phù hợp với trình độ phát triển lực lợng
sản xuất thì sớm hay muộn quan hệ sản xuất cũ tất yếu sẽ đợc thay thế bằng quan hệ
sản xuất mới phù hợp với lực lợng sản xuất để thúc đẩy lực lợng sản xuất phát triển.
Nh vậy, bằng sự tác động biện chứng của lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất,

trong đó lực lợng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, còn quan hệ sản xuất phù hợp
với trình độ phát triển lực lợng sản xuất, làm cho phơng thức sản xuất vận động và phát
triển. Đó cũng chính là qui luật về sự vận động và phát triển của xã hội. Quy luật cho ta
thấy để phát triển sản xuất, phải phát triển lực lợng sản xuất. Phát triển lực lợng sản
xuất đòi hỏi phải xác lập quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ lực lợng sản xuất. Quan
hệ sản xuất nh thế nào không phải theo ý muốn chủ quan mà phải căn cứ vào trình độ
phát triển của lực lợng sản xuất.
5

×