Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Hoạt động kiểm toán độc lập ở Việt Nam và kiểm toán có thực sự độc lập không ?

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.1 KB, 31 trang )

MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU....................................................................................................03
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM TOÁN ĐỘC
LẬP.....................................................................................................................05
1.1 Khái niệm.....................................................................................................05
1.1.1 Sơ lược lịch sử hình thành của kiểm toán thế giới.....................................05
1.1.2 Khái quát sự ra đời các loại hình kiểm toán Việt Nam..............................06
1.1.3 Kiểm toán - kiểm toán viên........................................................................07
1.1.4 Kiểm toán độc lập.......................................................................................08
1.2 Những yêu cầu để trở thành kiểm toán viên..................................................08
1.2.1 Yêu cầu về tính độc lập..............................................................................09
1.2.2 Yêu cầu về tư chất đạo đức........................................................................09
1.2.3 Yêu cầu về năng lực, nghiệp vụ.................................................................10
1.3 Nghĩa vụ và trách nhiệm của kiểm toán viên................................................11
1.4 Mục đích và phạm vi của hoạt động kiểm toán độc lập................................12
1.5 Vai trò của hoạt động kiểm toán độc lập.......................................................12
1.6 Tổ chức kiểm toán độc lập............................................................................13
1.6.1 Mô hình tổ chức kiểm toán độc lập ở các nước trên thế giới.....................13
1.6.2 Mô hình tổ chức kiểm toán độc lập ở Việt Nam........................................15
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA KIỂM TOÁN ĐỘC
LẬP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.......................................................................17
2.1 Toàn cảnh nghề kiểm toán độc lập ở Việt Nam hiện nay..............................17
2.1.1 Những thành tựu đạt được..........................................................................17
2.1.2 Những khó khăn, hạn chế...........................................................................18
2.2 Chất lượng báo cáo kiểm toán và tính độc lập của kiểm toán viên
hành nghề.............................................................................................................21
CHƯƠNG III: NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI HOẠT ĐỘNG CỦA KIỂM
TOÁN ĐỘC LẬP VÀ KIỂM TOÁN VIÊN....................................................24
3.1 Những giải pháp đổi mới hoạt động của kiểm toán độc lập..........................24
3.2 Những giải pháp nâng cao năng lực và phẩm chất của kiểm toán viên........25
3.2.1 Về phía Nhà nước.......................................................................................25


1


3.2.2 Về phía tổ chức giáo dục, đào tạo..............................................................26
3.2.3 Về phía các tổ chức, công ty kiểm toán......................................................26
3.2.4 Về phía kiểm toán viên...............................................................................27
PHẦN KẾT LUẬN............................................................................................29
DANH MỤC THAM KHẢO............................................................................31

LỜI NÓI ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
2


Việt Nam đang từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường, thực hiện
chủ trương đa dạng hoá các hình thức sở hữu, theo đó, các thành phần kinh tế
được mở rộng và đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của
đất nước. Trong điều kiện nền kinh tế như vậy, thông tin tài chính của doanh
nghiệp không chỉ báo cáo cho các cơ quan quản lý nhà nước để kiểm tra và xét
duyệt, mà các thông tin này còn cần cho nhiều người, được nhiều đối tượng
quan tâm, khai thác sử dụng cho các quyết định kinh tế. Tuy ở nhiều góc độ
khác nhau nhưng tất cả các đối tượng này đều có cùng nguyện vọng là có được
các thông tin với độ chính xác cao, tin cậy và trung thực.
Để đáp ứng yêu cầu đó của nền kinh tế theo cơ chế thị trường, hoạt động
kiểm toán độc lập ra đời, trở thành bộ phận cần thiết và quan trọng không thể
thiếu trong đời sống các hoạt động kinh tế. Kiểm toán độc lập cung cấp cho
những người sử dụng kết quả kiểm toán sự hiểu biết về những thông tin tài
chính mà họ được cung cấp dựa trên cơ sở các nguyên tắc và chuẩn mực theo
qui định.

Vì vậy, nhằm nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của hoạt động kiểm
toán độc lập ở Việt Nam, tác giả đã chọn đề tài “Các kiểm toán viên bên ngoài
có thực sự độc lập không?” để nghiên cứu, phân tích những vấn đề lý luận về
kiểm toán độc lập. Trên cơ sở đó, tác giả đi vào tìm hiểu thực trạng hoạt động
hiện nay, đồng thời đưa ra những giải pháp, phương hướng khắc phục những bất
cập, khó khăn còn tồn tại, tạo động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế và nâng
cao đời sống người dân, đáp ứng công cuộc cải cách đất nước.
2. Phương pháp tiến hành nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận biện chứng duy
vật của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp
luật; quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; đồng
thời sử dụng phương pháp nghiên cứu truyền thống của Khoa học xã hội,
phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn cùng phương pháp phân tích tổng
hợp.
3


3. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở làm sáng tỏ về mặt lý luận những nội dung cơ bản của kiểm
toán độc lập, xác định những bất cập, vướng mắc trong thực trạng hoạt động để
đề xuất những giải pháp, hướng hoàn thiện nhằm thúc đẩy sự phát triển ngành
kiểm toán nói chung và kiểm toán độc lập nói riêng.
Đối tượng nghiên cứu: tiểu luận tập trung nghiên cứu, phân tích những
khái niệm, yêu cầu của kiểm toán độc lập cùng các mô hình kiểm toán đang
được áp dụng tại nhiều quốc gia; đồng thời đánh giá thực trạng hoạt động của
kiểm toán độc lập và chất lượng báo cáo kiểm toán của kiểm toán viên tại Việt
Nam hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu: các quy định của Hiến pháp, Luật Kiểm toán độc
lập, các tạp chí tài chính, các yếu tố kinh tế - xã hội tác động đến tính độc lập
của kiểm toán viên hành nghề.

4. Kết cấu tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của tiểu luận bao gồm 03 chương:
Chương I: Những vấn đề lý luận về kiểm toán độc lập
Chương II: Thực trạng hoạt động của kiểm toán độc lập ở Việt Nam hiện nay
Chương III: Những giải pháp đổi mới hoạt động kiểm toán độc lập và kiểm toán
viên

CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM TOÁN ĐỘC LẬP
1.1 Khái niệm
4


1.1.1

Sơ lược lịch sử hình thành của kiểm toán thế giới
Kiểm toán bắt nguồn từ thuật ngữ “Audit” trong tiếng Latin, có nghĩa là

người nghe (one who hears). Vào khoảng thế kỷ thứ III trước Công nguyên,
chính quyền La Mã đã tuyển dụng các quan chức để kiểm tra độc lập về tình
hình tài chính và nghe thuyết trình của họ về kết quả kiểm tra. Ở thời kỳ đầu,
kiểm toán chỉ mới ở mức độ sơ khai, biểu hiện là những người làm công tác
kiểm toán đọc to những số liệu, tài liệu cho một bên độc lập nghe và sau đó
chứng thực. Khi xã hội phát triển xuất hiện của cải dư thừa, hoạt động kế toán
ngày càng được mở rộng và ngày một phức tạp thì việc kiểm tra, kiểm soát về
kế toán và tài chính càng được quan tâm hơn.
Đến thời kỳ cách mạng công nghiệp bùng nổ ở Châu Âu, xuất hiện nhiều
thành phần kinh tế kéo theo sự ra đời nhiều loại hình doanh nghiệp khác nhau.
Cùng với sự phát triển của thị trường, sự tích tụ và tập trung tư bản đã làm cho
sự phát triển của các doanh nghiệp và các tập đoàn ngày càng mở rộng. Sự tách

rời giữa quyền sở hữu của ông chủ và người quản lý, người làm công ngày càng
xa đã đặt ra cho các ông chủ một cách thức kiểm soát mới. Phải dựa vào sự kiểm
tra của những người chuyên nghiệp hay những kiểm toán viên bên ngoài. Việc
kiểm tra đi dần từ việc kiểm tra ghi chép kế toán đến tuân thủ quy định của pháp
luật và mãi đến thập niên 80, hoạt động kiểm toán bắt đầu được hình thành và
phát triển.
Vào những năm 30 của thế kỷ XX, từ việc phá sản của hàng loạt tổ chức
tài chính và sự khủng hoảng kinh tế thế giới đã bộc lộ rõ những hạn chế của
kiểm tra kế toán. Chính từ đây, việc kiểm tra kế toán buộc phải được chuyển
sang một giai đoạn mới, yêu cầu kiểm tra kế toán một cách độc lập đã được đặt
ra.
Ở Hoa Kỳ, sau khủng hoảng tài chính vào những năm 1929, đến năm
1934 Ủy ban bảo vệ và trao đổi tiền tệ (SEC) đã xây dựng và ban hành quy chế
về kiểm toán viên bên ngoài. Đồng thời, trường đào tạo kế toán viên công chứng
của Hoa Kỳ (AICPA) đã in ra mẫu chuẩn đầu tiên về báo cáo kiểm toán tài
khoản của các công ty. Cũng trong giai đoạn này, ở các tổ chức kinh doanh, các
5


doanh nghiệp đã bắt đầu xuất hiện và phát triển chức năng kiểm tra một cách
độc lập trong nội bộ với tên gọi là kiểm toán nội bộ. Năm 1942, Viện kiểm toán
nội bộ Hoa Kỳ (IIA) được thành lập và đã đi vào hoạt động đào tạo các kiểm
toán viên nội bộ. Đồng thời, Viện đã xây dựng và ban hành Hệ thống chuẩn mực
kiểm toán nội bộ Hoa Kỳ vào năm 1978.
Tại Pháp, việc kiểm tra một cách độc lập những người chuyên nghiệp bên
ngoài đã được xác lập và thông qua bởi Đạo luật về các công ty thương mại
ngày 24/7/1966. Đồng thời, kiểm toán nội bộ ở Pháp cũng được hình thành
chính thức vào những năm 60 của thế kỷ XX ở những công ty con thuộc tập
đoàn ngoại quốc. Đến 1965, Hội kiểm toán nội bộ của Pháp được thành lập và
sau này phát triển trở thành Viện kiểm toán viên nội bộ của Pháp vào năm 1973.

1.1.2

Khái quát sự ra đời các loại hình kiểm toán Việt Nam
Ở Việt Nam, từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của

Nhà nước, các hoạt động đa dạng của nền kinh tế đòi hỏi phải có dịch vụ kiểm
toán độc lập. Để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nền kinh tế, ngày
13/5/1991 theo giấy phép số 957/PPLT của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài chính
ký quyết định thành lập hai công ty kiểm toán đầu tiên là Công ty kiểm toán
Việt Nam với tên giao dịch là VACO (Quyết định số 165-TC/QĐ/TCCB) và
Công ty dịch vụ kế toán Việt Nam với tên giao dịch là ASC (Quyết định số 164TC/QĐ/TCCB) sau này đổi tên thành Công ty dịch vụ tư vấn tài chính, kế toán,
kiểm toán - AASC (quyết định 639-TC/QĐ/TCCB ngày 14/9/1993). Sự ra đời
của hai công ty nói trên đã tạo tiền đề cho việc xuất hiện của các công ty tiếp
theo bởi sự hoạt động tích cực và có hiệu quả cũng như yêu cầu, đòi hỏi cấp
thiết của nền kinh tế nước ta trong những năm đổi mới.
Ngày 11/7/1994, Kiểm toán nhà nước Việt Nam được chính thức thành
lập theo Nghị định số 70/CP của Chính phủ với chức năng kiểm tra, đánh giá và
xác nhận tính đúng đắn, trung thực của báo cáo tài chính; việc tuân thủ pháp
luật; tính kinh tế, hiệu lực và hiệu quả trong quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và
tài sản nhà nước của các cơ quan nhà nước, các đơn vị sự nghiệp, đơn vị kế toán
nhà nước và các đoàn thể quần chúng.
6


Đến năm 1997, Bộ Tài chính ban hành Quyết định số 832/TC-QĐ-CĐKT
quy định quy chế kiểm toán nội bộ để đáp ứng các yêu cầu về kiểm toán của các
doanh nghiệp nhà nước.
1.1.3

Kiểm toán - kiểm toán viên

Trên thế giới có vô vàn định nghĩa khác nhau về kiểm toán. Quan điểm

khá phổ biến về kiểm toán theo hiệp hội kế toán Mỹ (AAA) cho rằng: Kiểm toán
là một quá trình mang tính hệ thống, thu thập và đánh giá bằng chứng theo các
cơ sở dẫn liệu về những hoạt động kinh tế và những sự kiện nhằm xác nhận chắc
chắn về sự phù hợp giữa những cơ sở dẫn liệu, những đặc tính xác định và cung
cấp kết quả cho người sử dụng 1.
Ngoài ra, theo các chuyên gia giáo dục và đào tạo kiểm toán ở Cộng hoà
Pháp cho rằng: Kiểm toán là việc nghiên cứu và kiểm tra các tài khoản hàng
năm của một tổ chức do một người độc lập, đủ danh nghĩa gọi là kiểm toán viên
tiến hành để khẳng định những tài khoản đó phản ánh đúng đắn tình hình tài
chính thực tế, không che giấu sự gian lận và được trình bày theo mẫu chính thức
của luật định.
Trải qua một quá trình phát triển lâu dài, định nghĩa kiểm toán có thể hiểu
một cách đơn giản: Kiểm toán là xác minh và bày tỏ ý kiến về thực trạng hoạt
động tài chính của các doanh nghiệp, bằng hệ thống phương pháp kĩ thuật riêng
của kiểm toán, do các kiểm toán viên có trình độ nghiệp vụ tương xứng thực
hiện trên cơ sở hệ thống pháp lý có hiệu lực.
Bên cạnh đó, tại Khoản 2 Điều 5 Luật Kiểm toán độc lập số
67/2011/QH12 của Quốc hội ngày 29/3/2011 quy định: “Kiểm toán viên là
người được cấp chứng chỉ kiểm toán viên theo quy định của pháp luật hoặc
người có chứng chỉ của nước ngoài được Bộ Tài chính công nhận và đạt kỳ thi
sát hạch về pháp luật Việt Nam.”
1.1.4

Kiểm toán độc lập

1 Studies in Accounting Research no.6: A statement of basic auditing concepts. Sarasota, Fla, 1973, trang 2.

7



Căn cứ theo Khoản 1 Điều 5 Luật Kiểm toán độc lập số 67/2011/QH12
của Quốc hội ngày 29/3/2011 quy định: “Kiểm toán độc lập là việc kiểm toán
viên hành nghề, doanh nghiệp kiểm toán, chi nhánh doanh nghiệp kiểm toán
nước ngoài tại Việt Nam kiểm tra, đưa ra ý kiến độc lập của mình về báo cáo tài
chính và công việc kiểm toán khác theo hợp đồng kiểm toán.”
Theo đó, kiểm toán độc lập là hoạt động hành nghề của các kiểm toán
viên độc lập, của các doanh nghiệp kiểm toán, thực hiện kiểm tra và xác nhận
về sự trung thực và hợp lý của các bản báo cáo tài chính, làm cơ sở cho các
cổ đông, nhà đầu tư, các tổ chức, cá nhân có quyền lợi và nghĩa vụ với doanh
nghiệp có cơ sở thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình; cổ đông có cơ sở
nhận cổ tức, quyết định đầu tư thêm hay rút vốn về; ngân hàng có cơ sở tiếp tục
cho vay hoặc thu hồi nợ vay; người bán hàng chịu có thể tiếp tục cung ứng hàng
hóa hoặc ngừng; Nhà nước có cơ sở quyết toán thuế và các nghĩa vụ của doanh
nghiệp; người lao động tiếp tục làm việc ở doanh nghiệp hoặc chấm dứt hợp
đồng lao động…
Hoạt động kiểm toán độc lập trở thành nhu cầu cần thiết vì lợi ích của bản
thân doanh nghiệp, của các nhà đầu tư trong và ngoài nước, cũng như lợi ích của
chủ sở hữu vốn, các chủ nợ, lợi ích và yêu cầu của Nhà nước. Người sử dụng kết
quả kiểm toán phải được đảm bảo rằng những thông tin họ được cung cấp là
trung thực, khách quan, có độ tin cậy cao để làm căn cứ cho các quyết định kinh
tế hoặc thực thi trách nhiệm quản lý, giám sát của mình.
1.2 Những yêu cầu để trở thành kiểm toán viên
Công việc kiểm toán độc lập do kiểm toán viên chuyên nghiệp thực hiện,
công việc này không tạo ra thêm các thông tin về báo cáo tài chính mà nó chỉ
làm tăng mức độ tin cậy của các báo cáo tài chính. Những người sử dụng kết
quả kiểm toán tin tưởng và bổ nhiệm kiểm toán viên bởi tích chất hành nghề độc
lập của kiểm toán viên, khả năng về chuyên môn nghiệp vụ cùng với tư chất đạo
đức chính trực khách quan trong công việc của họ. Để hành nghề kiểm toán, các

kiểm toán viên cần đảm bảo các yêu cầu sau:
1.2.1 Yêu cầu về tính độc lập

8


Yêu cầu này được xem là điều kiện cần để đạt mục tiêu của hoạt động
kiểm toán, cũng như việc độc lập trở thành nguyên tắc hành nghề cơ bản của
kiểm toán viên. Kết quả kiểm toán sẽ không có giá trị khi những người sử dụng
kết quả kiểm toán tin rằng cuộc kiểm toán thiếu tính độc lập dù có được thực
hiện bởi người có trình độ cao. Yêu cầu về tính độc lập đòi hỏi sự trung thực và
trách nhiệm của kiểm toán viên đối với những người sử dụng kết quả kiểm toán,
đồng thời các kiểm toán viên không bị ràng buộc trong việc tiếp xúc với các tài
liệu và báo cáo của doanh nghiệp.
Trong quá trình kiểm toán, kiểm toán viên phải thực sự không bị chi phối
hoặc tác động bởi bất kỳ lợi ích vật chất, tinh thần nào làm ảnh hưởng đến sự
trung thực khách quan và độc lập nghề nghiệp của mình. Mọi câu hỏi về tình
hình kinh doanh hoặc các xử lý kế toán trong các giao dịch của doanh nghiệp
cần được trả lời đầy đủ, đảm bảo rằng kiểm toán viên không bị hạn chế trong
việc thu thập các bằng chứng kiểm toán. Để đảm bảo yêu cầu này, ngoài mặt
chủ quan về tư chất đạo đức của kiểm toán viên, còn cần phải duy trì và đảm bảo
tính độc lập trong quá trình kiểm toán. Pháp luật cũng yêu cầu các kiểm toán
viên không được thực hiện kiểm toán cho các khách hàng mà kiểm toán viên có
quan hệ gia đình, họ hàng hoặc quyền lợi về mặt kinh tế.
1.2.2 Yêu cầu về tư chất đạo đức
Con người luôn là nhân tố quan trọng và mang tính quyết định trong các
hoạt động kinh tế - xã hội. Đặc biệt trong lĩnh vực dịch vụ kiểm toán, khi mà sản
phẩm của hoạt động này không có khuôn mẫu định sẵn và phụ thuộc vào tính
chủ quan của kiểm toán viên. Điều quan trọng, kiểm toán viên phải luôn duy trì
được tính độc lập, khách quan khi tiến hành công việc cũng như trong xem xét,

đánh giá các bằng chứng kiểm toán làm cơ sở để đưa ra ý kiến về báo cáo tài
chính. Kiểm toán viên phải có lương tâm nghề nghiệp, luôn làm việc với sự thận
trọng cao nhất cùng tinh thần làm việc chuyên cần. Trong quá trình kiểm toán,
kiểm toán viên phải đảm bảo thẳng thắn trung thực và có chính kiến rõ ràng,
phải công bằng, tôn trọng sự thật và không được thành kiến thiên vị.
9


Mặt khác, kiểm toán viên phải thường xuyên rèn luyện tính cẩn thận với
tất cả các kỹ năng và sự siêng năng cần thiết khi thực hiện nhiệm vụ của mình.
Mọi sự bất cẩn đều có thể dẫn đến những rủi ro kiểm toán, gây ảnh hưởng đến
các đối tượng sử dụng báo cáo kiểm toán và trách nhiệm pháp lý của kiểm toán
viên.
Kiểm toán viên phải tôn trọng bí mật của những thông tin thu thập được
trong quá trình kiểm toán, không được tiết lộ bất kỳ một thông tin kinh tế nào
liên quan đến khách hàng cho người thứ ba khi chưa được phép của người có
thẩm quyền, trừ khi có nghĩa vụ phải công khai theo yêu cầu của pháp luật hoặc
trong phạm vi quyền hạn nghề nghiệp của mình.
Kiểm toán viên phải tôn trọng pháp luật. Tính tôn trọng pháp luật thể hiện
trách nhiệm của kiểm toán viên đối với các đối tượng sử dụng báo cáo kiểm
toán. Kiểm toán viên phải chấp hành đúng các chế độ, thể lệ, nguyên tắc và luật
pháp của Nhà nước và những nguyên tắc, chuẩn mực kiểm toán được thừa nhận.
Ý kiến nhận xét của kiểm toán viên có giá trị pháp lý và các kiểm toán viên chịu
trách nhiệm trước pháp luật về nhận xét đánh giá của mình.
1.2.3

Yêu cầu về năng lực, nghiệp vụ
Đây là nguyên tắc cơ bản chi phối cuộc kiểm toán khi yêu cầu kiểm toán

viên phải thực hiện công việc với đầy đủ chuyên môn cần thiết. Để đảm bảo thu

thập các bằng chứng kiểm toán đầy đủ và thích hợp, kiểm toán viên phải có
chuyên môn nghiệp vụ vững vàng và hiểu biết về lĩnh vực kinh doanh của khách
hàng; có kỹ năng, kinh nghiệm về kiểm toán và hiểu biết về pháp luật.
Các kiểm toán viên phải đạt được trình độ chuyên môn vững vàng về kế
toán, luôn cập nhật các thông tin về chế độ chính sách tài chính, kế toán và luật
pháp để duy trì kỹ năng, trình độ nghiệp vụ trong suốt quá trình hành nghề. Về
mặt pháp lý, các kiểm toán viên chỉ được hành nghề khi đã đăng ký với cơ quan
có thẩm quyền và ở Việt Nam là Bộ Tài chính sau khi đã trúng tuyển kỳ thi cấp
quốc gia về cấp chứng chỉ kiểm toán viên.
1.3 Nghĩa vụ và trách nhiệm của kiểm toán viên
10


Nhu cầu kiểm toán xuất phát từ việc các chủ sở hữu doanh nghiệp không
thể và cũng không cần thiết tự kiểm tra mọi thông tin tài chính của doanh nghiệp
do giám đốc doanh nghiệp chịu trách nhiệm lập và báo cáo cho họ. Do vậy họ
bổ nhiệm các kiểm toán viên - những người có đủ năng lực chuyên môn nghiệp
vụ, độc lập, khách quan thay thế họ kiểm tra và báo cáo lại theo ý kiến của mình
về tính trung thực, hợp lý của các báo cáo tài chính.
Cùng với sự phát triển và đa dạng của nền kinh tế, các thông tin tài chính
được sử dụng với nhiều mục đích khác nhau cho các đối tượng khác nhau. Tuy
nhiên tất cả người sử dụng kết quả kiểm toán đều cần sự đảm bảo tính trung thực
và hợp lý của những thông tin tài chính mà họ được cung cấp. Như vậy nghĩa vụ
của kiểm toán viên là dựa trên kết quả kiểm toán và báo cáo cho những người sử
dụng kết quả kiểm toán theo yêu cầu, mục đích của kiểm toán; các cơ quan chức
năng nếu thấy có những hành vi vi phạm pháp luật ở mức độ nhất định mà pháp
luật yêu cầu phải báo cáo.
Việc xác định nghĩa vụ báo cáo của kiểm toán viên có ý nghĩa quan trọng
bởi cuộc kiểm toán được tiến hành dựa trên hợp đồng kiểm toán ký kết giữa đơn
vị được kiểm toán và tổ chức kiểm toán, do vậy về hình thức các kiểm toán viên

phải báo cáo cho đơn vị được kiểm toán. Tuy nhiên những người sử dụng kết
quả kiểm toán mới là đối tượng chính mà kiểm toán viên có nghĩa vụ phải báo
cáo các chủ sở hữu, các cổ đông, những người cho vay,... hay những đối tượng
khác theo qui định của pháp luật.
Để thực hiện trách nhiệm của mình trước những đối tượng sử dụng kết
quả kiểm toán, kiểm toán viên phải tuân thủ các nguyên tắc và chuẩn mực kiểm
toán, trong đó phải luôn giữ được tính độc lập, chính trực và khách quan trong
quá trình kiểm toán. Các kiểm toán viên phải có nghĩa vụ phát hiện các sai sót
trọng yếu, các hành vi phạm pháp (nếu có) của các nhà lãnh đạo doanh nghiệp.
1.4 Mục đích và phạm vi của hoạt động kiểm toán độc lập
Mục đích của hoạt động kiểm toán độc lập được quy định tại Điều 4 của
Luật kiểm toán độc lập số 67/2011/QH12 của Quốc hội ngày 29/3/2011, theo
11


đó: “Hoạt động kiểm toán độc lập nhằm góp phần công khai, minh bạch thông
tin kinh tế, tài chính của đơn vị được kiểm toán và doanh nghiệp, tổ chức khác;
làm lành mạnh môi trường đầu tư; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, phòng,
chống tham nhũng; phát hiện và ngăn chặn vi phạm pháp luật; nâng cao hiệu
lực, hiệu quả quản lý, điều hành kinh tế, tài chính của Nhà nước và hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp.”
Để hình thành ý kiến nhận xét về các báo cáo tài chính, kiểm toán viên
phải có được các căn cứ vững chắc, các thông tin cốt yếu trong công việc ghi
chép kế toán và các nguồn số liệu đáng tin cậy dùng làm cơ sở cho việc xây
dựng các báo cáo tài chính. Nói cách khác, kiểm toán viên phải có đủ các bằng
chứng kiểm toán thích hợp. Do vậy phạm vi kiểm toán sẽ là những công việc,
thủ tục kiểm toán cần thiết để kiểm toán viên xác định, thực hiện trong quá trình
kiểm toán nhằm thu thập đầy đủ các bằng chứng thích hợp cho mục tiêu kiểm
toán.
1.5 Vai trò của hoạt động kiểm toán độc lập

Trên thế giới hầu hết các nước đi theo kinh tế thị trường đều có hoạt động
kiểm toán độc lập, đòi hỏi các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế quản
lý và điều hành sản xuất kinh doanh cần phải có thông tin chính xác kịp thời và
tin cậy. Ý nghĩa và tầm quan trọng của kiểm toán độc lập thể hiện trên các mặt
sau:
Thứ nhất, kiểm toán độc lập tạo niềm tin cho những người quan tâm.
Vì nhiều nguyên nhân khác nhau, các chủ doanh nghiệp đều muốn che dấu các
phần yếu kém hoặc khuyếch trương kết quả kinh doanh của mình trên bản báo
cáo tài chính. Trái lại, những người quan tâm đến kết quả kinh doanh và tình
hình tài chính của doanh nghiệp lại đòi hỏi sự trung thực chính xác của bản báo
cáo tài chính đó. Vì thế cần có sự kiểm tra xác nhận của kiểm toán viên độc lập
hoạt động theo nguyên tắc bắt buộc và có đủ năng lực uy tín với cả chủ doanh
nghiệp và người quan tâm đến bản báo cáo tài chính.
Thứ hai, kiểm toán độc lập góp phần hướng dẫn nghiệp vụ và củng cố nề
nếp hoạt động tài chính kế toán. Mọi hoạt động, đặc biệt là hoạt động tài chính
12


đều bao gồm những mối quan hệ đa dạng, luôn biến đổi và được cấu thành bởi
hàng loạt nghiệp vụ cụ thể. Để hướng các nghiệp vụ này vào mục tiêu giải quyết
tốt các quan hệ trên không chỉ cần có định hướng đúng và thực hiện tốt, mà cần
thường xuyên rà soát việc thực hiện để hướng các nghiệp vụ vào quỹ đạo mong
muốn.
Thứ ba, kiểm toán góp phần nâng cao hiệu quả và năng lực quản lý. Kiểm
toán không chỉ có chức năng xác minh mà còn có chức năng tư vấn. Các chủ
doanh nghiệp không thể kiểm soát hết các nghiệp vụ tài chính kế toán đã xảy ra
trong doanh nghiệp. Để biết được một cách chính xác, trung thực tình hình tài
chính kế toán vào kì hạn nào đó, chủ doanh nghiệp thường mời các kiểm toán
viên độc lập chuyên nghiệp có uy tín thực hiện việc kiểm tra và nhận xét bản
báo cáo tài chính của doanh nghiệp mình do người phụ trách kế toán lập ra.

Những nhận xét của kiểm toán viên sẽ giúp cho các chủ doanh nghiệp kịp thời
phát hiện những sai sót, lãng phí hoặc vi phạm pháp luật do cố ý hay vô ý để xử
lý kịp thời, ngăn ngừa các tổn thất. Điều đó giúp cho doanh nghiệp hạn chế được
những rủi ro, phát hiện ra thế mạnh những tiềm năng tài chính nội tại có trong
doanh nghiệp.
1.6 Tổ chức kiểm toán độc lập
1.6.1 Mô hình tổ chức kiểm toán độc lập ở các nước trên thế giới
Hoạt động kiểm toán độc lập trên thế giới đã xuất hiện trên 100 năm và
ngày càng phát triển mạnh mẽ. Hình thức tổ chức của các tổ chức kiểm toán ở
các nước không hoàn toàn giống nhau. Số lượng nhân viên và các tổ chức kiểm
toán phụ thuộc vào mức độ phát triển của hoạt động kiểm toán và nền kinh tế.
Ở Hoa kỳ, hoạt động kiểm toán độc lập đã hình thành từ thế kỷ 19 cùng
sự phát triển của các công ty cổ phần. Đến năm 1933, với sự ra đời của Luật
Chứng khoán Liên bang, Hoa Kỳ mới đưa ra yêu cầu bắt buộc báo cáo tài chính
của các công ty cổ phần đại chúng phải được kiểm toán. Đặc biệt, vào năm
1934, Luật Giao dịch chứng khoán ra đời, trong đó có yêu cầu báo cáo tài chính
phải được kiểm toán bởi công ty kiểm toán độc lập. Từ khi ra đời đến năm 2002,
nghề nghiệp kiểm toán tại Hoa Kỳ phát triển theo mô hình tự kiểm soát với đặc
13


điểm là quá trình thiết lập chuẩn mực kiểm toán và kiểm soát chất lượng hoàn
toàn do tổ chức nghề nghiệp đảm nhận. Sự phát triển mạnh của hoạt động kiểm
toán từ khi chưa có các quy định của nhà nước đã đưa đến sự hình thành và phát
triển mạnh mẽ của tổ chức nghề nghiệp. Cho đến nay, Hoa Kỳ có hơn 45.000 tổ
chức kiểm toán chuyên nghiệp.
Ở Cộng hoà Pháp hiện có khoảng 24 văn phòng kiểm toán khu vực và
2.500 văn phòng con cơ sở trực tiếp là dịch vụ với hơn 10.000 kiểm toán viên.
Tại các nước nói trên và những nước khác, pháp luật qui định rõ quyền hạn,
trách nhiệm của các tổ chức kiểm toán, thừa nhận sự khách quan và độc lập của

kiểm toán, chấp nhận giá trị pháp lý của các tài liệu có chữ ký của kiểm toán.
Về hình thức tổ chức của các tổ chức kiểm toán, có thể là các công ty
kiểm toán, là cá nhân hành nghề kiểm toán, công ty hợp danh hoặc cổ phần.
Trong công ty hoặc cả những cá nhân hành nghề kiểm toán, trong quá trình hoạt
động của mình thường tuyển dụng đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp để giúp họ
thực hiện công việc kiểm toán.
Cơ cấu tổ chức trong các công ty kiểm toán ở các nước phát triển thường
theo hệ thống cấp bậc về chuyên môn bao gồm các chủ phần hùn (partner), trong
đó còn chia thành chủ phần hùn có cổ phần trong công ty và chủ phần hùn
không có cổ phần, là những người có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao nhất,
tiếp đến là cấp điều hành viên cao cấp (senior manager, hoặc principal), tiếp
theo là các cấp quản lý, kiểm toán viên và trợ lý kiểm toán viên. Mức độ chi tiết
trong các cấp bậc trong công ty phụ thuộc vào qui mô và cách thức tổ chức quản
lý của từng công ty. Trong công ty kiểm toán thường có nhiều các hoạt động
dịch vụ và ở mỗi loại dịch vụ đều phân theo các cấp bậc tương ứng.
Qui mô, cách thức tổ chức của các công ty kiểm toán ở các nước phát
triển rất đa dạng, bao gồm:
Các công ty đa quốc gia (các công ty kiểm toán quốc tế): văn phòng chính
đặt ở một thành phố lớn trên thế giới (thường ở Mỹ và Anh), tiếp đó là các văn
phòng chính cho các khu vực và các văn phòng ở các nước. Văn phòng ở các
14


nước được thành lập theo luật của nước sở tại. Các văn phòng này sẽ trực thuộc
sự quản lý của văn phòng chính ở khu vực.
Các công ty thuộc phạm vi trong một quốc gia: các công ty này có thể có
một hoặc nhiều văn phòng, chi nhánh trực thuộc và tổ chức hoạt động trong
phạm vi một quốc gia. Có những công ty qui mô nhỏ hơn ở cấp địa phương với
số lượng nhân viên là vài chục người.
Để quản lý và thống nhất sự hoạt động của các công ty kiểm toán, ở mỗi

nước hoặc các khu vực đều có Hiệp hội kế toán, là tổ chức độc lập của những
người làm công tác kế toán, kiểm toán hoặc quan tâm đến lĩnh vực này như:
Viện kế toán viên công chứng Hoa kỳ (AICPA), Hiệp hội kế toán chuyên nghiệp
Anh và xứ Wales (ICAEW), Hiệp hội kế toán Hồng Kông (HKSA)…
1.6.2 Mô hình tổ chức kiểm toán độc lập ở Việt Nam
Hình thức tổ chức của các công ty kiểm toán ở Việt nam bị chi phối bởi
hình thức sở hữu công ty.
Đối với các công ty kiểm toán là doanh nghiệp nhà nước, tổ chức phụ
thuộc vào cơ chế quản lý của nhà nước đối với các doanh nghiệp nhà nước,
trong đó Giám đốc, người đứng đầu công ty do cơ quan thành lập bổ nhiệm (Bộ
tài chính, Uỷ ban nhân dân thành phố). Cách thức tổ chức tại các công ty này
theo chức danh và theo cơ cấu hành chính. Trách nhiệm công việc và tổ chức
hoạt động theo chức danh quản lý.
Đối với các công ty 100% vốn nước ngoài, các công ty này đều thuộc các
công ty kiểm toán quốc tế nên về cơ cấu tổ chức giống như các công ty quốc tế.
Về tổ chức hành chính, vì là công ty được thành lập theo luật đầu tư nước ngoài
ở Việt Nam, thuộc hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn nên ở các công ty này
vẫn có chức danh Giám đốc - đại diện pháp lý của công ty về các vấn đề hành
chính trước các cơ quan chức năng cũng như trong các hoạt động kinh tế.
Đối với các công ty trách nhiệm hữu hạn trong nước, các công ty này đến
nay qui mô còn hạn chế và chưa hình thành hình thức tổ chức rõ nét. Do hình
thức sở hữu tư nhân nên giám đốc công ty là chủ sở hữu, người theo quy định
15


phải có chứng chỉ kiểm toán viên và chịu trách nhiệm trước pháp luật đối với
mọi hoạt động của công ty.
Nhìn chung, qui mô của các công ty kiểm toán ở Việt nam có sự khác biệt
khá rõ nét. Các công ty kiểm toán là doanh nghiệp nhà nước có qui mô lớn hơn,
có nhiều chi nhánh và văn phòng ở những thành phố lớn trong cả nước. Các

công ty trách nhiệm hữu hạn có qui mô hạn chế nhất, chỉ có một văn phòng
chính nơi thành lập. Các công ty kiểm toán có vốn đầu tư nước ngoài đều có văn
phòng ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA KIỂM TOÁN
ĐỘC LẬP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1 Toàn cảnh nghề kiểm toán độc lập ở Việt Nam hiện nay
2.1.1 Những thành tựu đạt được

16


Trong hoàn cảnh khó khăn chung của nền kinh tế, ngành kiểm toán độc
lập vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng về doanh thu và tăng nhanh hơn tốc độ
tăng trưởng về khách hàng, giá phí khách hàng có tăng, có giảm nhưng bình
quân chung vẫn tăng. Tổng doanh thu toàn ngành kiểm toán độc lập năm 2010 là
2.744 tỷ, tăng 25% so với năm 2009, năm 2011 tăng 11%, 2012 tăng 23% và
năm 2013 tăng 11% so với năm trước tương ứng. Trong khi số lượng khách
hàng (hợp đồng) năm 2010 là 29.023, tăng 12% so với năm 2009, năm 2011
tăng 7%, năm 2012 tăng 0% và năm 2013 tăng 8% so với năm trước tương ứng.
Như vậy, tốc độ tăng doanh thu vẫn nhanh hơn tốc độ tăng khách hàng, vì giá
phí bình quân trên một hợp đồng cũng tăng khá. Năm 2010 bình quân là 95 triệu
đồng/hợp đồng, tăng 12% so với năm 2009, năm 2011 tiếp tục tăng 3%, 2012
tăng 23% và năm 2013 tăng 3% so với năm trước tương ứng.
Bên cạnh đó, đội ngũ những người hành nghề kiểm toán đang ngày càng
phát triển nhanh về cả lượng lẫn chất. Việt Nam đã tạo được mối quan hệ với
các tổ chức quốc tế, là thành viên của Liên đoàn Kế toán Quốc tế (IFAC), Liên
đoàn Kế toán các nước ASEAN (AFA). Nhiều tổ chức nghề nghiệp kế toán quốc
tế lớn và đang có nhiều hoạt động tích cực tại Việt Nam như Hiệp hội kế toán
công chứng Anh Quốc (ACCA), Hội kế toán công chứng Australia (CPA

Australia) trong các lĩnh vực đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, tổ chức hội
thảo chuyên ngành, cập nhật kiến thức cho những người làm kế toán, kiểm toán.
Từ đó tạo lập được môi trường thông thoáng, bình đẳng và hội nhập với khu vực
và thế giới.
Đặc biệt, năm 2010 được xem là năm đỉnh cao khi có 170 công ty kiểm
toán, trong đó 152 công ty đủ điều kiện hành nghề kiểm toán với số lượng nhân
viên bình quân là 57 người/1 công ty. Năm 2011 vẫn có 152 công ty với số
lượng nhân viên bình quân là 56 người. Năm 2012 tăng lên 155 công ty với số
lượng nhân viên bình quân là 65 người, đặc biệt năm 2013 số lượng công ty
giảm mạnh, chỉ còn 134 công ty (giảm 14%) nhưng số lượng nhân viên bình
quân là 78 người, tăng lên 20% so với năm 2012. Số lượng kiểm toán viên hành
nghề năm 2010 tăng 12% so với năm 2009, năm 2011 tăng 14%, 2012 giảm 5%
17


so với năm trước tương ứng. Tuy nhiên, kiểm toán viên năm 2013 lại tăng 12%
so với năm 2012.
Trong năm 2014, ngành kiểm toán độc lập của Việt Nam có những bước
phát triển đáng kể về số lượng và quy mô công ty cũng như năng lực chuyên
môn và chất lượng dịch vụ. Quy mô của các doanh nghiệp kiểm toán trong năm
2014 đã có sự chuyển biến so với năm 2013, cụ thể: mỗi doanh nghiệp kiểm
toán đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ kiểm toán có ít nhất 05 kiểm toán viên
được cấp giấy chứng nhận đăng ký hành nghề kiểm toán, vốn pháp định đối với
công ty trách nhiệm hữu hạn có từ 2 thành viên trở lên là 3 tỷ đồng trở lên, trong
đó trên 50% vốn điều lệ phải thuộc về các kiểm toán viên hành nghề. Tính đến
ngày 31/12/2014, có 141 doanh nghiệp kiểm toán được Bộ Tài chính cấp giấy
chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ kiểm toán, trong đó có 05 công ty
100% vốn nước ngoài (EY, PwC, KPMG, Grant Thornton, HSK); 135 công ty
trách nhiệm hữu hạn có từ 2 thành viên trở lên, 01 công ty hợp danh (CPA Việt
Nam); 43 doanh nghiệp kiểm toán được Ủy ban chứng khoán Nhà nước chấp

thuận đủ điều kiện kiểm toán cho tổ chức phát hành, tổ chức niêm yết và tổ chức
kinh doanh chứng khoán; 39 doanh nghiệp kiểm toán đăng ký và được Bộ Tài
chính chấp thuận thực hiện kiểm toán cho đơn vị có lợi ích công chúng khác.
Tính đến hết ngày 31/12/2014, trong số 3112 người được cấp chứng chỉ kiểm
toán viên, có 1520 kiểm toán viên được Bộ Tài chính cấp giấy chứng nhận đăng
ký hành nghề 2.
2.1.2 Những khó khăn, hạn chế
Bên cạnh những kết quả đạt được thì hoạt động kiểm toán còn tồn tại
những hạn chế làm ảnh ảnh hưởng đến kết quả kiểm toán.
Thứ nhất, nhiều tổ chức kiểm toán độc lập chưa xây dựng và ban hành
một bộ tài liệu chuẩn thể hiện trình tự cụ thể các bước công việc kiểm toán một
cách khoa học, mang tính nguyên tắc, hướng dẫn để dựa vào đó thực hiện các
hoạt động kiểm toán báo cáo tài chính. Do vậy, các hoạt động kiểm toán trong
mỗi cuộc kiểm toán thường thực hiện mang tính chất chủ quan theo yêu cầu của
2 Theo số liệu của Hội Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam (VACPA), 2014.

18


khách hàng kiểm toán cũng như kinh nghiệm nghề nghiệp của kiểm toán viên.
Dẫn đến, khi tiến hành kiểm toán báo cáo tài chính trong doanh nghiệp thì kiểm
toán viên thường bị động, tính linh hoạt bị hạn chế.
Thứ hai, thực tế khi thực hiện dịch vụ kiểm toán báo cáo tài chính, các
kiểm toán viên thường tập trung xác nhận tính đúng đắn, trung thực của các chỉ
tiêu trên đối tượng báo cáo tài chính mà đơn vị lập theo quy định của Nhà nước.
Với thực trạng xác định đối tượng kiểm toán như vậy thì việc xác nhận tính
trung thực hợp lý của các đối tượng kiểm toán có thể không toàn diện và triệt để.
Ở một số tổ chức kiểm toán độc lập hiện nay, một số công việc và nội dung
kiểm toán thường được thiết kế sẵn và áp dụng chung cho mọi cuộc kiểm toán.
Khi thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính thì sử dụng những tài liệu thiết kế đó,

không phân biệt kiểm toán loại hình doanh nghiệp nào. Vì vậy, nội dung kiểm
toán thường dàn trải, liệt kê rất chi tiết để đảm bảo không bị thiếu, bỏ sót.
Những nội dung kiểm toán thường xác định chung cho mọi cuộc kiểm toán báo
cáo tài chính mà chưa được cụ thể hóa theo từng cuộc kiểm toán phù hợp với
loại hình doanh nghiệp.
Thứ ba, các cuộc kiểm toán báo cáo tài chính của doanh nghiệp được
kiểm toán viên và các công ty kiểm toán thực hiện chỉ xác định mục tiêu kiểm
toán chung cho mọi khoản mục, thông tin mà chưa cụ thể hóa các mục tiêu kiểm
toán đối với nghiệp vụ và số dư tài khoản. Vì khi kiểm toán xác nhận các thông
tin trên báo cáo tài chính thì cần thiết phải thực hiện các thủ tục kiểm tra cho hai
loại thông tin, bao gồm: Thông tin số dư và thông tin nghiệp vụ. Nếu không xác
định rõ mục tiêu cho nghiệp vụ và số dư thì kiểm toán viên rất khó xác định các
thủ tục kiểm toán phù hợp. Ngoài ra còn ảnh hưởng đến việc chỉ đạo cũng như
kiểm soát các công việc kiểm toán…
Thứ tư, nội dung kiểm toán hiện nay tại các doanh nghiệp còn dàn trải,
chưa có sự chọn lọc và tập trung vào các nội dung sao cho phù hợp với yêu cầu
đặt ra của mỗi cuộc kiểm toán.
19


Thứ năm, kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán chưa được coi trọng
và thực hiện đầy đủ. Hệ quả là kết quả kiểm toán báo cáo tài chính trong doanh
nghiệp vẫn còn những sai sót đáng tiếc trong hành vi và xét đoán của kiểm toán
viên liên quan đến các tiêu chí: đánh giá khách hàng doanh nghiệp và chấp nhận
kiểm toán; đánh giá trọng yếu và rủi ro; xác định phạm vi và thủ tục kiểm
toán…
Nhìn chung, nhiều tổ chức kiểm toán độc lập chưa xây dựng một quy
trình để kiểm tra và soát xét chất lượng từng cuộc kiểm toán. Các tiêu chí và
nguyên tắc kiểm soát chưa được xây dựng và ban hành thống nhất đã gây khó
khăn cho các cấp soát xét. Một số tổ chức kiểm toán độc lập vừa và nhỏ hầu như

không có các chính sách và thủ tục kiểm soát chất lượng kiểm toán, hoặc có thì
chưa đầy đủ, chặt chẽ và hiệu quả. Có những tổ chức kiểm toán độc lập đã xây
dựng được quy trình kiểm soát nhưng không thực hiện thường xuyên hoặc việc
vận hành không hiệu lực. Đồng thời, chất lượng nguồn nhân lực kiểm toán chưa
đáp ứng kịp với đòi hỏi ngày càng cao của thực tiễn cuộc sống.
Từ những phân tích, đánh giá về thực trạng nêu trên, tác giả có thể rút ra
một số nguyên nhân chính sau:
Một là, hoạt động kiểm soát chất lượng của Hiệp hội kế toán, kiểm toán
đối với các tổ chức kiểm toán độc lập chưa được tiến hành thường xuyên và chặt
chẽ. Phạm vi và mức độ kiểm soát vẫn còn hạn chế. Chưa xử lý mạnh mẽ những
trường hợp tổ chức kiểm toán độc lập và kiểm toán viên vi phạm nguyên tắc,
chuẩn mực kiểm toán.
Hai là, hoạt động kiểm toán nước ta còn non trẻ. Nền kinh tế nước ta chưa
đạt đến mức độ nền kinh tế thị trường đầy đủ, nên hoạt động kiểm toán không
phải lúc nào cũng được xem là một yêu cầu bức thiết. Việc để các đơn vị kiểm
toán độc lập cung cấp dịch vụ kiểm toán báo cáo tài chính thường theo những
mục tiêu riêng của mỗi doanh nghiệp.
Ba là, mô hình và cơ cấu tổ chức cũng như các quy chế kiểm soát nội bộ
của các tổ chức kiểm toán độc lập chưa được phù hợp. Một số công ty có quy
20


mô nhỏ, nhân sự không đầy đủ để chuyên môn hóa thành các phòng ban nghiệp
vụ và soát xét dẫn đến việc đăng ký dịch vụ kiểm toán quá khả năng của công
ty. Chính sách tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng không tốt nên người làm kiểm
toán không đảm bảo chất lượng và yêu cầu công việc kiểm toán. Hơn nữa, việc
phối hợp giữa các tổ chức kiểm toán độc lập và giữa các kiểm toán viên chưa
tốt. Việc tuân thủ nguyên tắc đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp chưa cao.
Ngoài ra việc cung cấp dịch vụ còn chịu tác động của quy luật cung cầu, cạnh
tranh. Do cạnh tranh không lành mạnh giữa các tổ chức kiểm toán độc lập, nên

một số công ty đã hạ thấp giá phí kiểm toán một cách tùy tiện để có được sự lựa
chọn của khách hàng, đặc biệt đối với các công ty kiểm toán độc lập có quy mô
nhỏ. Ngoài ra, việc xây dựng và thực hiện các công việc theo một quy trình đầy
đủ dẫn đến việc hạn chế khách hàng kiểm toán và mất nhiều thời gian cũng như
chi phí, dẫn đến việc giảm quy mô và thủ tục kiểm toán nên đã ảnh hưởng rất
lớn đến việc thực hiện đúng đắn, đầy đủ các công việc kiểm toán.
Bốn là, việc đào tạo kiểm toán viên ở các học viện, đại học chỉ mang tính
chất lý luận. Việc đào tạo kiểm toán viên ở các tổ chức kiểm toán độc lập
thường mang tính chất kinh nghiệm, thực hành mang tính chất máy móc mà
chưa vận dụng lý luận kiểm toán. Do đó, việc sử dụng kiến thức đã được học
vào hoạt động kiểm toán thực tế thường gặp khó khăn.
2.2 Chất lượng báo cáo kiểm toán và tính độc lập của kiểm toán viên hành
nghề
Qua theo dõi và kiểm tra thực tế, nhiều báo cáo kiểm toán chưa đáp ứng
được yêu cầu chất lượng, thậm chí có những báo cáo phản ánh chưa đúng theo
quy định của pháp luật, chủ yếu đang thực hiện các dịch vụ theo yêu cầu của
doanh nghiệp. Trên thị trường chứng khoán cũng như trong hoạt động của các
doanh nghiệp nhà nước cho thấy, có trường hợp doanh nghiệp đang gặp khó
khăn, đứng trên bờ vực phá sản, nhưng báo cáo kiểm toán vẫn đẹp và hậu quả là
gây ra thiệt hại rất lớn cho nhà đầu tư, cho Nhà nước. Những trường hợp này
nếu chỉ phạt vi phạm hành chính thì mức bồi hoàn cho nhà đầu tư cũng như cho
nền kinh tế là không đáng kể.
21


Một câu hỏi được đặt ra, kiểm toán viên bên ngoài có thực sự độc lập hay
không? Về lý thuyết, độc lập là nguyên tắc quan trọng trong hoạt động của kiểm
toán. Kiểm toán viên và tổ chức kiểm toán phải đảm bảo độc lập ở mức độ cần
thiết để thực hiện công việc kiểm toán một cách khách quan và đưa ra những kết
luận đáng tin cậy. Tuy nhiên trên thực tế, có rất nhiều nguyên nhân khiến cho

tính độc lập của kiểm toán viên chưa được đảm bảo đầy đủ dẫn đến rủi ro kiểm
toán.
Thứ nhất, nguy cơ tư lợi: là nguy cơ mà kiểm toán viên nhận được lợi ích
tài chính hoặc lợi ích khác từ đơn vị được kiểm toán làm mất tính độc lập.
Thứ hai, nguy cơ do tự kiểm tra: là nguy cơ mà kiểm toán viên thực hiện
kiểm toán ở đơn vị mà trước đó đã từng làm lãnh đạo, kế toán trưởng hoặc phụ
trách kế toán, hoặc là người đã từng đảm nhận công việc có liên quan trọng yếu
đến hoạt động của đơn vị được kiểm toán nên ảnh hưởng đến tính độc lập, có thể
bỏ qua hoặc giảm nhẹ sai phạm cho đơn vị, dẫn đến kết luận không trung thực...
Thứ ba, nguy cơ về quan hệ ruột thịt: là nguy cơ mà kiểm toán viên thực
hiện kiểm toán ở đơn vị có mối quan hệ ruột thịt với kiểm toán viên, như thành
viên Ban Giám đốc, thành viên Hội đồng quản trị, Kế toán trưởng… dẫn đến kết
luận không đúng.
Thứ tư, nguy cơ về sự bào chữa: là nguy cơ mà kiểm toán viên thực hiện
kiểm toán ở đơn vị mà kiểm toán viên bị phụ thuộc vào đơn vị này trong việc
đưa ra ý kiến; hoặc bản thân kiểm toán viên ủng hộ quan điểm hay ý kiến của
nhà quản lý đơn vị được kiểm toán tới mức độ mà tính khách quan có thể bị ảnh
hưởng, dẫn đến kết luận sai lầm...
Những phân tích trên đây cho thấy, có rất nhiều nguy cơ ảnh hưởng đến
tính độc lập của kiểm toán viên hành nghề. Do vậy, các doanh nghiệp kiểm toán,
chi nhánh doanh nghiệp kiểm toán nước ngoài tại Việt Nam cần phải nhận thức
rõ về những nguy cơ này để có biện pháp ngăn chặn, bảo vệ nhằm giúp kiểm
22


toán viên giữ được tính độc lập để đưa ra ý kiến kết luận đúng đắn, khách quan.
Đồng thời, nếu nguy cơ được xác định là đáng kể, cần áp dụng các biện pháp
bảo vệ thích hợp để loại bỏ hoặc làm giảm nhẹ các nguy cơ này để việc tuân thủ
các nguyên tắc cơ bản không bị ảnh hưởng, giảm rủi ro kiểm toán đến mức độ
chấp nhận được.


23


CHƯƠNG III: NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI HOẠT ĐỘNG CỦA KIỂM
TOÁN ĐỘC LẬP VÀ KIỂM TOÁN VIÊN
3.1 Những giải pháp đổi mới hoạt động của kiểm toán độc lập
Một là, cần xây dựng bổ sung một số chuẩn mực kế toán phù hợp với thực
tiễn Việt Nam và chuẩn mực kế toán quốc tế. Để thực hiện được điều này, các
chuyên gia có kinh nghiệm đến từ Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước, các hội
nghề nghiệp, các công ty dịch vụ kế toán, kiểm toán, các trường đại học… cần
có sự phối hợp chặt chẽ và thường xuyên về mặt chuyên môn nhằm xây dựng
nên một chuẩn mực kế toán, kiểm toán có chất lượng.
Hiện nay, thị trường tài chính Việt Nam đang có nhiều chuyển biến và
phát sinh nhiều nghiệp vụ phức tạp nhưng các chuẩn mực hỗ trợ việc ghi nhận
cho một số loại hình công cụ tài chính vẫn thiếu vắng. Đây là một minh chứng
cho việc ban hành chuẩn mực kế toán hiện nay ở Việt Nam chưa theo kịp yêu
cầu của thực tiễn. Do đó, yêu cầu trước mắt là cần thiết phải sớm ban hành các
chuẩn mực còn thiếu so với nhu cầu thực tế, trong đó tiền đề là việc hợp tác
quốc tế. Các cơ quan Nhà nước cần phải nỗ lực hợp tác quốc tế trong việc trao
đổi kinh nghiệm, cập nhật kiến thức mới, kết hợp chặt chẽ với cơ quan, tổ chức
về kế toán, kiểm toán quốc tế. Đồng thời, cần phải học hỏi và tham khảo, chọn
lọc thành tựu của các nước tiên tiến trong khu vực, để áp dụng phù hợp với môi
trường và quy định tại Việt Nam.
Hai là, hệ thống doanh nghiệp cần ủng hộ cũng như thể hiện sự thiện chí
trong thực hiện các chuẩn mực kế toán, kiểm toán mới: Các giải pháp hội nhập
quốc tế và hệ thống kế toán, kiểm toán của doanh nghiệp Việt Nam được xét
theo sự phát triển của thị trường chứng khoán, thị trường tài chính, biến động
24



của môi trường đầu tư kinh doanh của Việt Nam. Do vậy, doanh nghiệp cần ủng
hộ tích cực những chuẩn mực mới. Trước hết, đó là nỗ lực đầu tư xây dựng một
đội ngũ nhân viên kế toán và tài chính có năng lực; xây dựng hệ thống công
nghệ có đảm bảo xử lý và lưu trữ toàn bộ dữ liệu một cách đầy đủ, chính xác,
đảm bảo tuân thủ các chuẩn mực kế toán áp dụng. Ngoài ra, trên cơ sở hành lang
pháp lý sẵn có, chuẩn mực, chế độ kế toán, kiểm toán hiện hành, các doanh
nghiệp phải tự xây dựng chính sách kế toán, kiểm toán riêng của mình. Đặc biệt,
các doanh nghiệp cần có kế hoạch đào tạo, huấn luyện các nhân viên kế toán
hiểu biết các chuẩn mực kế toán, kiểm toán và cập nhật các chế độ kế toán mới,
các quy định về thuế hiện hành… Giải pháp này không chỉ giúp doanh nghiệp
tuân thủ các quy định hiện hành mà còn giúp việc lập và trình bày báo cáo tài
chính trung thực, khách quan hơn.
Ba là, tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực thi pháp luật, chuẩn mực,
chế độ kế toán, kiểm toán và triệt để xử lý những sai phạm nhằm duy trì chất
lượng của dịch vụ. Mặt khác, tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác, nâng cao vị thế
của hệ thống kế toán, kiểm toán Việt Nam trên trường quốc tế.
3.2 Những giải pháp nâng cao năng lực và phẩm chất của kiểm toán viên
3.2.1 Về phía Nhà nước
Thứ nhất, Nhà nước cần sớm thiết lập môi trường pháp lý hoạt động kiểm
toán trong điều kiện kinh tế thị trường như hiện nay. Ban hành đầy đủ các văn
bản pháp quy về kiểm toán trong đó có nhấn mạnh vai trò quyền hạn và trách
nhiệm đối với các kiểm toán viên, các tổ chức và hội nghề nghiệp.
Thứ hai, xây dựng, quy hoạch và có chiến lược đào tạo bồi dưỡng kiểm
toán viên theo các giai đoạn 5, 10, 15 năm và chiến lược lâu hơn. Xây dựng nội
dung chương trình đào tạo kiến thức cho phù hợp trong từng thời kỳ, từng đối
tượng, theo từng mục tiêu kiểm toán hay tổ chức kiểm toán.
Thứ ba, mở rộng tăng cường năng lực và vai trò hoạt động của các tổ
chức nghề nghiệp, tăng cường chất lượng hoạt động của Hội nghề nghiệp kế
toán kiểm toán, Hội đồng Quốc gia về kế toán, các chuyên gia kế toán, kiểm

toán, các kiểm toán viên hành nghề.
25


×