Tải bản đầy đủ (.doc) (84 trang)

Giải pháp nâng cao sức cạnh tranh của hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam vào thị trường EU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (628.08 KB, 84 trang )

§Ò tµi nghiªn cøu khoa häc

MỤC LỤC
MỤC LỤC............................................................................................................1

1


§Ò tµi nghiªn cøu khoa häc

DANH M ỤC B ẢNG
MỤC LỤC............................................................................................................1

2


§Ò tµi nghiªn cøu khoa häc

LỜI MỞ ĐẦU
***********
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, trên thế giới khối cộng đồng chung Châu Âu ( EU) là một khối
liên kết các nước mạnh nhất về kinh tế và trở thành một thị trường nhập khẩu rộng
lớn đặc biệt là những mặt hàng tiêu dùng trong đó có sản phẩm dệt may. Việc khai
thác hiệu quả thị trường này sẽ tạo ra được nhiều cơ hội và lợi ích cho Việt Nam
như tăng kim ngạch xuất khẩu, tạo được nhiều công ăn việc làm cho người lao động
trong ngành dệt may…. Từ lẽ đó, EU đã trở thành một đối tác quan trọng, một thị
trường tiềm năng của hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam trong thời gian qua và
những năm sắp tới.
Bên cạnh đó, dệt may Việt Nam là một ngành truyền thống có từ lâu đời và
rất phát triển, đóng góp một tỷ trọng lớn vào kim ngạch xuất khẩu của đất nước.


Các sản phẩm dệt may đã có mặt ở rất nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên đối với
một số thị trường khó tính như Mỹ, Nhật Bản và đặc biệt là EU thì các mặt hàng dệt
may của Việt Nam vẫn gặp những trở ngại lớn.
Mặt khác, với một sân chơi lớn, một thị trường sôi động như EU, thì môi
trường cạnh tranh của các doanh nghiệp càng trở nên gay gắt và khốc liệt. Nếu các
doanh nghiệp dệt may của Việt Nam không nhanh chóng có những giải pháp nâng
cao sức cạnh tranh thì sẽ nhanh chóng bị đào thải ra khỏi cuộc chơi của toàn thế
giới. Để giải quyết những vấn đề nan giải như hiện nay, đồng thời cung cấp, hỗ trợ
cho các doanh nghiệp có thêm được nhiều giải pháp và thông tin xác thực.. nhằm
tăng cường sức cạnh tranh vào thị trường EU. Em quyết định chọn đề tài “ Giải
pháp nâng cao sức cạnh tranh của hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam vào thị
trường EU”. Hi vọng rằng đề tài này sẽ giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam từng
bước phát triển trong hoạt động xuất khẩu sang thị trường EU và luôn giữ vững
được vị trí đó trước tất cả những sức ép cạnh tranh.

3


§Ò tµi nghiªn cøu khoa häc

2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Thông qua việc phân tích thực trạng về sức cạnh tranh của hàng dệt may xuất
khẩu Việt nam và tình hình xuất khẩu sang thị trường EU, chỉ ra những điểm mạnh
điểm yếu của nhóm hàng này so với các đối thủ cạnh tranh khác. Để từ đó đưa ra
được những giải pháp kiến nghị nhằm nâng cao sức cạnh tranh của hàng dệt may
xuất khẩu vào thị trường EU.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu là các mặt hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu là sức cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam trên thị
trường EU xét trong giai đoạn từ 1997 – 2007.

4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Vận dụng các phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, phương
pháp phân tích, phương pháp tổng hợp,phương pháp so sánh các tư liệu, số liệu về
xuất khẩu và sức cạnh tranh của nhóm hàng dệt may Việt Nam trên thị trường EU.
Qua đó, rút ra các kết luận làm cơ sở để đưa ra các giải pháp cho việc nghiên cứu
5. Kết cấu của đề tài
Chương 1:

Cơ sở lý luận về sức cạnh tranh của hàng hóa và sự cần
thiết phải nâng cao sức cạnh tranh của hàng dệt may xuất
khẩu Việt Nam vào thị trường EU

Chương 2:

Thực trạng sức cạnh tranh hàng dệt may xuất khẩu của
Việt Nam trên thị trường EU trong thời gian qua

Chương 3:

Mục tiêu và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao sức cạnh
tranh của hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam vào thị trường
EU

4


§Ò tµi nghiªn cøu khoa häc

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỨC CẠNH TRANH CỦA HÀNG HOÁ VÀ SỰ

CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO SỨC CẠNH TRANH CỦA HÀNG DỆT
MAY XUẤT KHẨU VIỆT NAM VÀO THỊ TRƯỜNG EU
1.1.

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỨC CẠNH TRANH CỦA HÀNG HOÁ

1.1.1. Khái niệm về cạnh tranh và sức cạnh tranh của hàng hoá
1.1.1.1.Khái niệm cạnh tranh
Vấn đề cạnh tranh kinh tế về mặt lý luận, từ lâu đã được các nhà kinh tế học
trước Các Mác và chính các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin cũng đã đề
cập đến. Cạnh tranh xuất hiện trong quá trình hình thành và phát triển của sản xuất
và trao đổi hàng hoá. Do đó, hoạt động cạnh tranh gắn liền với sự tác động của các
qui luật thị trường như qui luật giá trị, qui luật cung - cầu hay nói cách khác cạnh
tranh là một trong những qui luật cơ bản của nền kinh tế thị trường.
Theo C.Mác: “ Phân công xã hội khiến cho những người sản xuất hàng hoá
độc lập trở thành đối lập với nhau, họ không thừa nhận bất kỳ quyền uy nào khác
mà chỉ thừa nhận quyền uy của cạnh tranh, chỉ thừa nhận sự cưỡng chế của áp lực
lợi ích giữa họ với nhau đè nặng lên chính mình”
Theo từ điển kinh tế, cạnh tranh được hiểu là quá trình ganh đua hoặc tranh
giành giữa ít nhất hai đối thủ nhằm có được những nguồn lực hoặc ưu thế về sản
phẩm hoặc khách hàng về phía mình, đạt được lợi ích tối đa.
Ở nước ta, trong quá trình đổi mới nền kinh tế đã có sự thay đổi rất lớn về tư
duy, quan niệm về cạnh tranh. Cạnh tranh vừa là môi trường, vừa là động lực phát
triển cho nền kinh tế thị trường bởi lẽ nó đã thúc đẩy các doanh nghiệp không
ngừng cải tiến hoạt động sản xuất kinh doanh, đổi mới công nghệ, nâng cao năng
suất và chất lượng của sản phẩm nhằm mục đích chiếm đoạt được vị thế trên thị
trường và trong lòng người tiêu dùng. Trong văn kiện Đại hội VIII của Đảng cũng
đã ghi rõ:
“Cơ chế thị trường đòi hỏi phải hình thành một môi trường cạnh tranh lành


5


§Ò tµi nghiªn cøu khoa häc
mạnh, hợp pháp, văn minh. Cạnh tranh vì lợi ích phát triển đất nước, chứ không
phải làm phá sản hàng loạt, lãng phí các nguồn lực, thôn tính lẫn nhau”. Trong
mục tiêu tổng quát của kế hoạch 5 năm 2001 – 2005 Đảng ta khẳng định cần phải
nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Thực tế do cách tiếp cận khác nhau, mục đích nghiên cứu khác nhau, nên có
rất nhiều những quan niệm khác nhau về cạnh tranh. Nhìn chung khái niệm cạnh
tranh có các vấn đề cơ bản như sau. Cạnh tranh là quan hệ kinh tế phản ánh mối
quan hệ giữa các chủ thể của nền kinh tế thị trường cùng theo đuổi mục đích lợi
nhuận tối đa. Đó là sự ganh đua giữa các chủ thể nhằm giành đựoc những điều kiện
thuận lợi nhất để thu được lợi nhuận siêu ngạch về phía mình. Cạnh tranh còn là
phương thức giải quyết mâu thuẫn lợi ích kinh tế giữa các chủ thể của nền kinh tế
thị trường. Cạnh tranh không quyết định bản chất kinh tế - xã hội của những chế độ
xã hội đó.
Tuy nhiên, trong đề tài nghiên cứu này khái niệm cạnh tranh được nhìn nhận
và đánh giá dưới góc độ sau: Cạnh tranh là hành vi hoặc quan hệ kinh tế giữa các
chủ thể kinh tế của kinh tế thị trường, cùng theo đuổi mục đích tối đa hoá lợi ích.
Trong cạnh tranh, các chủ thể ganh đua nhau tìm mọi biện pháp để đạt được mục
tiêu kinh tế của mình, thông thường các mục tiêu này là chiếm lĩnh thị trường, giành
giật khách hàng, cũng như các điều kiện sản xuất và khu vực thị trường có lợi nhất.
Mục đích cuối cùng của các chủ thể trong quá trình cạnh tranh là tối đa hoá lợi ích.
Với người sản xuất, đó là lợi nhuận còn đối với người tiêu dùng thì đó là lợi ích tiêu
dùng và sự tiện lợi.
1.1.1.2 Khái niệm về sức cạnh tranh
Thuật ngữ “ sức cạnh tranh”, “năng lực cạnh tranh”, “ khả năng cạnh
tranh” được sử dụng phổ biến, thường xuyên được nhắc tới trên các diễn đàn kinh
tế cũng như trên các phương tiện thông tin đại chúng, thu hút được sự quan tâm của

giới nghiên cứu và được phân tích từ nhiều góc độ khác nhau.
Điểm lại lý thuyết cạnh tranh và sức cạnh tranh trong lịch sử có thể thấy hai
trường phái tiêu biểu: Trường phái cổ điển và trường phái hiện đại. Trường phái cổ
điển với các đại biểu tiêu biểu như A.Smith, John Stuart Mill, Darwin và C.Mác đã

6


§Ò tµi nghiªn cøu khoa häc
có những đóng góp nhất định trong lý thuyết cạnh tranh sau này. Trường phái hiện
đại với hệ thống lý thuyết đồ sộ với 3 quan điểm tiếp cận: Tiếp cận theo tổ chức
ngành với đại diện là trường phái Chicago và Harvard; Tiếp cận tâm lý với đại diện
là Meuger, Mises, Chumpeter, Hayek thuộc trường phái Viên; Tiếp cận “cạnh tranh
hoàn hảo” phát triển lý thuyết của Tân cổ điển. Hiện nay, còn nhiều quan điểm khác
nhau về sức cạnh tranh trên các cấp độ: quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm. Và
hiện chưa có một lý thuyết nào hoàn toàn có tính thuyết phục về vấn đề này, do đó
không có lý thuyết “chuẩn” về sức cạnh tranh, chúng ta chỉ có thể hiểu rằng. Năng
lực (sức, khả năng) cạnh tranh của một nền kinh tế là thực lực và lợi thế mà nền
kinh tế có thể huy động để duy trì và cải thiện vị trí của nó so với các đối thủ cạnh
tranh khác trên thị trường thế giới một cách lâu dài và có ý chí nhằm thu được lợi
ích ngày càng cao cho nền kinh tế của mình và cho quốc gia mình.
Tuy nhiên hai hệ thống lý thuyết với hai phương pháp đánh giá được các
quốc gia và các thiết chế kinh tế quốc tế sử dụng nhiều nhất là: Phương pháp thứ
nhất do Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) thiết lập trong bản Báo cáo cạnh tranh
toàn cầu; Phương pháp thứ hai do Viện Quốc tế về quản lý và phát triển (IMD) đề
xuất trong cuốn Niên giám cạnh tranh thế giới. Cả hai phương pháp trên đều do một
số Giáo sư đại học Harvard như Michael Porter, Jeffrey Shach và một số chuyên gia
của WEF như Cornelius, Mache Levison tham gia xây dựng.
1.1.2. Phân loại các cấp độ của sức cạnh tranh
Ngày nay khi thị trường hàng hoá càng phát triển thì sự cạnh tranh diễn ra

càng gay gắt. Một chủ thể kinh tế khi tham gia vào thị trường bao giờ cũng phải
chịu sức ép cạnh tranh từ rất nhiều phía khác nhau của nền kinh tế. Một quốc gia,
một doanh nghiệp, hay một sản phẩm chỉ có thể đứng vững được trên thị trường khi
có một sức cạnh tranh đủ lớn để đánh bật và đối đầu được với tất cả những sức ép
đó. Với từng chủ thể khác nhau, từng thời ki khác nhau, chúng ta cần xác định rõ
các cấp độ của sức cạnh tranh mà chúng ta đang hướng tới. Dựa vào những quan
sát, các nhà kinh tế học đã phân chia cấp độ của sức cạnh tranh một cách tương đối
bao gồm 3 loại: sức cạnh tranh của quốc gia, sức cạnh tranh của doanh
nghiệp/ngành, sức cạnh tranh của sản phẩm trong cùng 1 ngành.

7


§Ò tµi nghiªn cøu khoa häc
Ta thấy rằng, với mỗi doanh nghiệp/ngành, mỗi sản phẩm, sức cạnh tranh
gắn liền với mục tiêu duy trì sự tồn tại của sản phẩm doanh nghiệp và mang lại lợi
nhuận trên các thị trường ( nội địa và quốc tế ) và mục tiêu này được cụ thể, thực
hiện trực tiếp nhờ vào lợi thế cạnh tranh của sản phẩm. Tuy nhiên, năng lực cạnh
tranh của quốc gia và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp/ngành lại gắn bó mật
thiết và phụ thuộc lẫn nhau. Một quốc gia có vị thế cạnh tranh tốt trên trường quốc
tế sẽ giúp các doanh nghiệp dễ dàng thâm nhập vào các thị trường quốc tế hơn từ đó
xây dựng được sức cạnh tranh của doanh nghiệp/ngành tốt hơn. Nói cách khác, sức
cạnh tranh của quốc gia là một nguồn hình thành sức cạnh tranh của doanh
nghiệp/ngành. Khi các doanh nghiệp/ngành có một sức cạnh tranh tốt thì sẽ thu
được nhiều lợi nhuận, đem lại nguồn thu lớn cho kinh tế của quốc gia, tác động tích
cực đến nền kinh tế, từ đó cũng góp phần nâng cao sức cạnh tranh của quốc gia
dưới con mắt của bạn bè năm châu.
1.1.2.1. Sức cạnh tranh quốc gia
Theo diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) năm 1997: “ Sức cạnh tranh quốc gia
là khả năng nền kinh tế quốc dân đạt được và duy trì mức tăng trưởng cao về kinh

tế, thu nhập và việc làm”. Sức cạnh tranh của quốc gia được cấu thành từ 8 nhóm
yếu tố chính (với 155 chỉ tiêu ) bao gồm: độ mở của nền kinh tế, vai trò và hiệu lực
của chính phủ, hệ thống tài chính tiền tệ, trình độ phát triển công nghệ, cơ sở hạ
tầng, trình độ quản lý của doanh nghiệp, số lượng và chất lượng lao động và trình
độ phát triển của thể chế.
Theo công bố mới đây trong báo cáo Năng lực cạnh tranh toàn cầu 20062007 của Diễn đàn kinh tế thế giới, thứ hạng của Việt Nam xếp theo Chỉ số năng
lực cạnh tranh tổng hợp là 77 trên 125 quốc gia, Chỉ số năng lực cạnh tranh tăng
trưởng là 86. Trong khi đó thứ hạng tương ứng theo các chỉ số trên của Việt Nam
tại báo cáo năm 2005-2006 là 74 và 81, trong tổng số 117 quốc gia được xếp hạng.
Như vậy, thứ hạng của Việt Nam theo các chỉ số năng lực cạnh tranh tổng hợp và
tăng trưởng năm 2006 đều sụt giảm so với năm 2005.

8


§Ò tµi nghiªn cøu khoa häc
1.1.2.2. Sức cạnh tranh của các doanh nghiệp, ngành
Trong những năm vừa qua các doanh nghiệp của Việt Nam đang dần dần lớn
mạnh và đang trên đà phát triển, đóng góp rất nhiều cho nền kinh tế của Việt Nam.
Song nếu so sánh với các nước khác, nhất là các nước ở khu vực Đông Á, chúng ta
vẫn nhận thấy còn rất nhiều vấn đề đáng lo lắng và một trong những vấn đề đáng
lưu tâm nhất hiện nay là về việc nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt
Nam trên trường quốc tế. Tuy nhiên để giải quyết được vấn đề về sức cạnh tranh
của doanh nghiệp trong thời kì hội nhập, chúng ta cần phải nắm thật rõ khái niệm
sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
Thực chất sức cạnh tranh của doanh nghiệp theo cách đơn giản nhất có thể
hiểu là “ khả năng nắm giữ thị phần nhất định với mức độ hiệu quả chấp nhận được
“. Vì vậy khi thị phần tăng lên, cho thấy sức cạnh tranh cũng đựơc nâng cao. Sức
cạnh tranh của doanh nghiệp còn là khả năng hãng đã bán được hàng nhanh, nhiều
hơn so với đối thủ cạnh tranh trên một thị trường cụ thể về một loại hàng hoá cụ

thể. Quan điểm này có thể áp dụng đối với từng doanh nghiệp, cũng như đối với
một ngành công nghiệp của một quốc gia trong cuộc cạnh tranh trên thị trường khu
vực và thế giới.
Trong quản trị chiến lược, sức cạnh tranh của một doanh nghiệp là khả năng
của một doanh nghiệp đạt được tỷ suất lợi nhuận cao hơn tỷ suất lợi nhuận bình
quân của ngành. Khái niệm này chỉ rõ bản chất của lợi thế cạnh tranh là hướng tới
mục tiêu lợi nhuận nhưng lại không giúp nhiều cho việc phân tích các yếu tố tạo
nên sức cạnh tranh, đặc biệt là trong bối cảnh cạnh tranh quốc tế.
Diễn đàn cao cấp về cạnh tranh công nghiệp của OECD định nghĩa sức cạnh
tranh là: “ khả năng của doanh nghiệp, các ngành, các quốc gia hoặc khu vực tạo ra
thu nhập tương đối cao hơn và mức độ sử dụng lao động cao hơn, trong khi vẫn đối
mặt với cạnh tranh quốc tế ”.
Xét ở góc độ ngành, một ngành kinh tế được coi là có sức cạnh tranh khi các
doanh nghiệp trong ngành và sản phẩm chủ đạo của ngành có sức cạnh tranh trên
thị trường.
Trên thực tiễn ở Việt Nam, đối với cạnh tranh các ngành hàng, có thể thấy

9


§Ò tµi nghiªn cøu khoa häc
chúng ta có một số sản phẩm có mức xuất khẩu cao trong khu vực, thế giới và đóng
vai trò quan trọng đối với đất nước như các sản phẩm thuộc nông lâm ngư nghiệp
(gạo, thủy sản, cây công nghiệp... chiếm 30% giá trị xuất và có vị thế cao trên thế
giới) và một số mặt hàng công nghiệp, chủ yếu là công nghiệp chế biến (chiếm 70%
giá trị xuất khẩu). Thêm vào đó, tỷ trọng giá trị xuất khẩu chiếm gần 50% GDP, cao
hơn nhiều so với các nước Đông Bắc Á và chỉ thua Singapo, Malaysia. Tuy nhiên,
đối với ngành công nghệ thông tin và viễn thông ICT là ngành ASEAN đang có thế
mạnh hơn so với Trung Quốc thì trong khi xuất khẩu của khối ASEAN đạt 150 tỷ
USD (chiếm 25% giá trị xuất khẩu cả của khối) thì Việt Nam chỉ xuất khẩu sản

phẩm ICT dưới 1 tỷ USD (chiếm khoảng 5% giá trị xuất khẩu của Việt Nam). Mặc
dù vậy, khi đánh giá về khả năng cạnh tranh tầm vi mô, các so sánh quốc tế đều ghi
nhận thành tựu trung bình của Việt Nam vào tốp 3 trong ngũ phân vị (xếp thứ 38/80
nước), nhất là đánh giá tốt việc triển khai mạnh các dự án FDI kèm theo chuyển
giao công nghệ và việc thi hành Luật Doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho khu
vực ngoài Nhà nước phát triển bình đẳng vì sự nghiệp phát triển đất nước. Tuy
nhiên, trong nhiều lĩnh vực thì chỉ tiêu hiệu quả của Việt Nam còn rất kém (chỉ tiêu
tỷ suất vốn ICOR của toàn nền kinh tế tính bình quân 7 năm 1996-2002 xấp xỉ 5,
trong đó giao thông vận tải đến 20, điện lực 10 và ngay nông lâm ngư là ngành ta có
thế mạnh thì bình quân cũng lên tới 4,5 là mức rất cao trong khi các ngành dịch vụ
cao cấp có hiệu quả thì còn sơ khai).
1.1.2.3. Sức cạnh tranh của các sản phẩm hàng hoá
Sức cạnh tranh của một loại sản phẩm hàng hoá hay dịch vụ nào đó trên thị
trường trong nước và quốc tế là sự thể hiện tính ưu việt hay tính hơn hẳn của nó cả
về định tính và định lượng.
Cùng với quá trình tăng trưởng và phát triển của mỗi nền kinh tế thì các quan
hệ thương mại cũng phát triển, theo đó diễn ra sự mở rộng thị trường trao đổi hàng
hoá và dịch vụ. Mỗi sản phẩm do từng nhà sản xuất đưa ra thị trường sẽ đựơc người
tiêu dùng phản ứng với các mức độ cao thấp khác nhau. Sự phản ứng của người tiêu
dùng thể hiện qua việc mua hay không mua sản phẩm đó. Đây chính là biểu hiện
tổng quát cuối cùng về sức cạnh tranh của sản phẩm đó.

10


§Ò tµi nghiªn cøu khoa häc
Nói cách khác, cạnh tranh giữa các sản phẩm trên thị trường là quá trình thể
hiện khả năng hấp dẫn tiêu dùng của các sản phẩm đối với khách hàng trên một thị
truờng cụ thể và trong một thời gian nhất định. Sức cạnh tranh của sản phẩm có thể
gắn với một doanh nghiệp, một quốc gia cụ thể hoặc xét chung cho tất cả các quốc

gia, các doanh nghiệp.
Cuối cùng, sức cạnh tranh của sản phẩm còn có thể hiểu là sự vượt trội so với
các sản phẩm cùng loại về chất lượng và giá cả với điều kiện các sản phẩm tham gia
cạnh tranh đều đáp ứng các yêu cầu của người tiêu dùng. Có nghĩa là, những sản
phẩm mang lại giá trị sử dụng cao nhất trên 1 đơn vị giá cả là những sản phẩm có
khả năng cạnh tranh cao hơn.
Trên thực tế, mỗi hộ tiêu dùng có cách lựa chọn hàng hoá riêng cho mình. Tuy
nhiên, có những tiêu chí chung cho tất cả các loại sản phẩm, hàng hoá mà nhà sản
xuất phải đáp ứng ở mức tối thiểu thì mới có thể đem sản phẩm của mình ra thị
trường. Đó là đối với hàng xuất khẩu phải đáp ứng tối thiểu tiêu chuẩn quốc tế
(ISO), còn ở Việt Nam, phải đảm bảo tiêu chuẩn quốc gia (TCVN)…
Về sức cạnh tranh của sản phẩm, thứ hạng trên thực tế của một số sản phẩm
của Việt Nam cũng khá (về giá cả, chất lượng và đôi khi cả quy mô thị trường), trở
thành nguồn động lực để tăng nhanh cả quy mô và tốc độ xuất khẩu của Việt Nam.
Tuy nhiên, cần xem xét các vấn đề cạnh tranh trong điều kiện động, có nghĩa là cần
tính đến những nhân tố mới phát sinh về thị trường, về khoa học công nghệ, về các
quy định thể chế kinh tế, trong đó có tiến trình tự do hóa thương mại - đầu tư trong
ASEAN (AFTA, AIA, APEC, ASEM). Việc Việt Nam sẽ gia nhập WTO và việc
thực hiện các thỏa thuận song phương khác sẽ có tác động nhiều chiều tới sự phát
triển của đất nước, của các ngành, các sản phẩm. Trong điều kiện đó, vai trò năng
động của các doanh nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng.
1.1.3. Tiêu chí đánh giá sức cạnh tranh của hàng hoá
Để đánh giá sức cạnh tranh của một mặt hàng, chúng ta có rất nhiều tiêu chí
dưới nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên đặt trong phạm vi bài nghiên cứu về các
sản phẩm xuất khẩu ra thị trường nước ngoài, thì để đánh giá tổng quát về sức cạnh
tranh của hàng hóa chúng ta cần so sánh các sản phẩm đó với các đối thủ cạnh tranh

11



§Ò tµi nghiªn cøu khoa häc
dựa trên những tiêu chí cơ bản như: doanh thu của sản phẩm, thị phần của sản
phẩm, giá, chi phí của sản phẩm, chất lượng sản phẩm, mức độ vệ sinh và uy tín của
sản phẩm.
1.1.3.1. Mức doanh thu của sản phẩm qua các năm
Doanh thu của một sản phẩm nào đó qua các năm là một chỉ tiêu trực tiếp
phản ánh sức cạnh tranh của 1 loại hàng hóa, bởi số lượng tiêu thụ của hàng hóa thể
hiện sức hấp dẫn của nó trong mắt người tiêu dùng. Qua đó người ta có thể đánh giá
được sức cạnh tranh của hàng hóa này so với hàng hóa khác. Khi một hàng hóa
được tiêu thụ với số lượng nhiều hơn so với các hàng hóa cùng loại thì hàng hóa đó
được coi là có sức cạnh tranh cao trên thị trường đang xét.
Theo kinh tế học vi mô, doanh thu được xác định bởi công thức sau:
TR= P.Q
Trong đó
TR: Doanh thu
P : Giá của sản phẩm
Q : Lượng tiêu thụ sản phẩm.
1.1.3.2. Thị phần của sản phẩm trên thị trường trong từng năm so với các đối thủ
cạnh tranh
Nếu một hàng hóa chiếm được một thị phần cao hơn so với các mặt hàng
thay thế cùng loại trên thị trường thì có thể tất yếu khẳng định sức cạnh tranh của
hàng hóa đó là rất cao. Hiện nay thị phần có thể được hiểu là thị phần trong nước và
thị phần chiếm lĩnh trên thế giới. Bên cạnh đó, một hàng hóa của một doanh nghiệp
có sức cạnh tranh lớn khi nó có khả năng thâm nhập và chiếm lĩnh được nhiều thị
trường khác nhau một cách nhanh hơn so với các đối thủ cạnh tranh khác. Đặc biệt
là phải liên tục giữ vững và duy trì được thị phần của mình.
Để xác định qui mô thị trường thị phần, các doanh nghiệp cần liệt kê các thị
trường chính trong nứơc, thị trường xuất khẩu, phân khúc thị trường, và thị phần
của sản phẩm, tốc độ tăng trưởng của thị phần trong 3 năm gần nhất. Ngoài ra
chúng ta có công thức tính thị phần của hàng hóa xuất khẩu trên một thị trường như

sau:

12


§Ò tµi nghiªn cøu khoa häc

MS =

MA
x100%
M

Trong đó:
MS là thị phần của hàng hóa.
MA là số lượng hàng hóa A được tiêu thụ trên thị trường
M là tổng số lượng hàng hóa cùng loại được tiêu thụ trên thị trường.
Việc xác định chỉ tiêu này sẽ phản ánh một cách đúng nhất thị phần của một
loại hàng hóa trên thị trường so với các loại hàng hóa cùng loại. Chỉ tiêu đánh giá ở
trên càng lớn tương ứng với việc thị phần của hàng hóa đó chiếm lĩnh càng lớn thì
sức cạnh tranh của hàng hóa càng lớn, và nguợc lại hàng hóa sẽ có sức cạnh tranh
yếu kém nếu thị phần của nó chỉ chiếm một phần nhỏ không đáng kể trên thị
trường.
1.1.3.3. Mức chênh lệch về giá và chi phí của sản phẩm so với các đối thủ cạnh
tranh
Trên thị trường hàng hóa, giá cả của hàng hóa có thể được sử dụng như một
chiến lược để nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm. Thực tế cho thấy chiến lược
giá cả đã đem đến thành công cho rất nhiều công ty như hãng hàng không
Southwest của Hoa Kỳ, công ty bách hóa tổng hợp lớn nhất thế giới Wal- Mart
thành công với chiến lược giá cả thấp... Các công ty có thể đặt giá sản phẩm thấp

hơn giá thị trường để chấp nhận mức lãi suất thấp nhưng bù lại có được số lượng
tiêu thụ sản phẩm lớn, và từ đó nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm với người
tiêu dùng. Tuy nhiên những công ty đi đầu về giá cả thấp cũng không thể bất cẩn vì
rất có thể sẽ có một công ty khác với giá cả thấp hơn sẽ bất thình lình xuất hiện trên
thị trường, làm mức độ cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường càng trở nên gay
gắt. Một nhân tố có liên quan trực tiếp đến giá cả hàng hóa chính là chi phí. Việc
cân đối chênh lệch giữa hai yếu tố này là một trong những tiêu chí đánh giá năng
lực cạnh tranh của sản phẩm giữa các đối thủ khác nhau trên cùng một thị trường
hoặc ở các thị trường khác nhau.
Trong đó mỗi yếu tố chí phí và giá cả lại phụ thuộc vào một hệ thống các yếu

13


§Ò tµi nghiªn cøu khoa häc
tố khác nhau.Nhưng để có một cách đánh giá chung nhất cho vấn đề này, chúng ta
sẽ cùng xem xét và đo lường thông qua hai công thức tính sau:
Công thức tính chi phí
n

DRCi =

∑ aijP

j = k +1

*
j

k


Pi b − ∑ aij p bj
j =1

Trong đó
DRC là chí phí nguồn lực trong nước của một sản phẩm(Domestic Resource
cost)
Aij: Hệ số chi phí đầu vào j với sản phẩm i
J = 1….k là đầu vào khả thương
J= k+i….n là nguồn lực nội địa và các đầu vào trung gian bất khả thương

P *j là giá kinh tế của các nguồn lực nội địa và các đầu vào trung gian bất khả
thuơng

P bi là giá biên giới của sản phẩm khả thương tính theo tỷ giá hối đoái kinh tế
P bj là giá biên giới của các đầu vào khả thương tính theo tỷ giá hối đoái kinh
tế
Công thức tính hệ số đo sức cạnh tranh về giá
Pi
( Pf ) w

Ci =

Hay Ci =

EP *i T iM i
( EP * f T f M f ) w

(4)


Trong đó

Pi vµ Pf : Giá của sản phẩm đầu ra i và của đầu vào trung gian f
W

: Tỷ lệ chi phí của đầu vào trung gian trong tổng giá trị sản phẩm đầu ra

P*i vµ P*f : Giá quốc tế của sản phẩm đầu ra i và của đầu vào trung gian f
E

: Tỷ giá hối đoái thực

T vµ M: Hệ số bảo hộ danh nghĩa và hệ số chi phí thương mại.
Bằng việc tính toán hai thông số trên chúng ta sẽ tính được mức chênh lệch
giữa giá bán và chi phí để từ đó có giải pháp cân đối 2 yếu tố này một cách hợp lý
nhằm đem lại hiệu quả cao nhất trong việc nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm

14


§Ò tµi nghiªn cøu khoa häc
trên thị trường quốc tế.
1.1.3.4. Mức chênh lệch về chất lượng của sản phẩm đó so với sản phẩm cùng
loại của các đối thủ cạnh tranh và sự ổn định của chất lượng
Tiêu chuẩn về chất lượng hàng hóa được qui định theo ISO9000. Nhằm đảm
bảo lợi ích cho người tiêu dùng, tránh tình trạng bị sử dụng những hàng hóa kém
chất lượng. Đây là hệ thống tiêu chuẩn quốc tế được coi là không bắt buộc, tuy
nhiên các sản phẩm khi được có bằng ISO 9000 sẽ nâng cao được sức cạnh tranh
hơn rất nhiều so với các sản phẩm khác. Bởi lẽ, điều đó thể hiện sự ổn định về chất
lượng của sản phẩm, sự minh bạch trong sản xuất của doanh nghiệp và tạo được

lòng tin với người tiêu dùng.
Bên cạnh hệ thống tiêu chuẩn quốc tế ISO 9000, mỗi quốc gia đều có những
hệ thống đánh giá chất lượng sản phẩm riêng. Vì vậy, những sản phẩm ngoài việc
có bằng ISO 9000 còn có thể thực hiện việc công nhận các tiêu chuẩn chất lượng
của nước nhập khẩu để từ đó tạo được uy tín lớn hơn từ phía thị trường nhập khẩu.
1.1.3.5. Mức độ vệ sinh công nghiệp hay vệ sinh thực phẩm
Hiện nay nhà nước và các tổ chức quốc tế đã đưa ra các qui định nhằm đánh
giá và đảm bảo an toàn cho người sử dụng hàng hóa, bảo vệ môi trường sinh thái và
tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng trong thương mại quốc tế. Các qui định này
thường được cụ thể hóa qua các tiêu chuẩn như sau:
Tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm: Được áp dụng theo hệ thống tiêu
chuẩn HACCP. Theo qui định của hệ thống này, các quốc gia và các tổ chức quốc tế
đưa ra qui định bằng hệ thống văn bản, trong đó các cơ sở sản xuất thực phẩm phải
tuân thủ về việc đảm bảo vệ sinh cơ sở sản xuất, nguồn nguyên liệu sử dụng để sản
xuất sản phẩm, trong đó hàm lượng các chất độc hại cho sức khỏe người tiêu dùng
không được lớn hơn mức qui định. Đồng thời phải đưa ra các biện pháp phòng ngừa
khi các nguy cơ làm gia tăng hàm lượng độc tố trong sản phẩm và đảm bảo về sức
khỏe của người tham gia sản xuất, tránh tình trạng làm lây lan các dịch bệnh.
Tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường sinh thái: Được qui định trong tiêu chuẩn
ISO14000. Trong đó qui định đối với các cơ sở sản xuất ngoài việc đảm bảo chất
lượng sản phẩm còn phải có tránh nhiệm và các biện pháp giải quyết đối với các

15


§Ò tµi nghiªn cøu khoa häc
chất phế thải gây ô nhiễm môi trường và việc khai thác nguồn nguyên liệu tránh
tình trạng mất cân bằng sinh thái.
Tiêu chuẩn về trách nhiệm xã hội: là hệ thống tiêu chuẩn SA8000. Trong đó,
qui định đối với các cơ sở sản xuất phải đảm bảo điều kiện làm việc đủ tiêu chuẩn

vệ sinh an toàn, trách nhiệm bình thường cho người lao động, đảm bảo quyền lợi và
lợi ích theo các qui định của tổ chức lao động quốc tế và liên hiệp quốc đã đưa ra.
Đồng thời, cấm việc sử dụng lao động cưỡng bức, lao động trẻ em và lao động quá
tuổi để tham gia sản xuất sản phẩm.
1.1.3.6. Mức độ uy tín của sản phẩm trên thị trường
Theo tâm lý người tiêu dùng, điều gì sẽ khiến họ thực sự tin tuởng vào một
sản phẩm và để họ đưa ra được quyết định mua sản phẩm đó? Ta thấy rằng, bên
cạnh những yếu tố như giá cả, mẫu mã, chất lượng,…. một yếu tố cũng góp phần
đáng kể vào quyết định của người tiêu dùng chính là uy tín hay thương hiệu của sản
phẩm trên thị trường. Tỉ lệ phần trăm số luợng khách hàng mua sản phẩm có uy tín
và thuơng hiệu sẽ cao hơn rất nhiều so với các sản phẩm chưa có vị thế và thương
hiệu trên thị trường. Tuy nhiên, uy tín của sản phẩm trên thị trường không thể chỉ
xây dựng trong một thời gian ngắn hạn mà nó còn thể hiện cả một quá trình dài cố
gắng xây dựng thương hiệu, cố gắng hoàn thiện không ngừng sản phẩm, dịch vụ
chăm sóc khách hàng để sản phẩm luôn tồn tại trong tâm trí người tiêu dùng. Chính
vì những lẽ đó, so sánh mức độ uy tín của sản phẩm trên thị trường cũng là một
trong những tiêu chí để đánh giá sức cạnh tranh của hàng hóa.
1.1.4. Các công cụ thường dùng để nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá
Căn cứ vào những tiêu chí đánh giá về sức cạnh tranh của hàng hóa,chúng ta
dễ dàng gặp được những công cụ thường dùng tương ứng nhằm mục đích nâng cao
sức cạnh tranh của hàng hóa. Ví dụ như một hàng hóa để có thể tạo ra được một sức
cạnh tranh lớn dựa vào yếu tố chất lượng, thì người chủ doanh nghiệp có thể đưa ra
một lọat các công cụ về chất lượng sản phẩm như thay đổi kiểu dáng, mẫu mã cho
bắt mắt của người tiêu dùng, điều chỉnh lại công thức chế biến …. Tuy nhiên,chúng
ta cũng sẽ không quá ngạc nhiên nếu một sản phẩm khác lại có khả năng cạnh tranh
mạnh hơn hẳn và đánh bật các đối thủ khác chỉ nhờ vào công cụ định giá sản phẩm

16



§Ò tµi nghiªn cøu khoa häc
thấp hơn giá thị trường và bằng với giá kì vọng của khách hàng. Vậy đâu là công cụ
sẽ đem lại hiệu quả nhất? Thực chất, để nâng cao được sức cạnh tranh của hàng hóa,
chúng ta cần biết cách sử dụng linh họat đồng thời các công cụ khác nhau. Sau đây
là 3 công cụ chính được áp dụng với từng tiêu chí đánh giá. Bao gồm
1.1.4.1 Công cụ cạnh tranh bằng chất lượng sản phẩm
Ngày nay, chất lượng sản phẩm đã trở thành một công cụ cạnh tranh quan
trọng của các doanh nghiệp trên thị trừơng. Chất lượng sản phẩm càng cao tức là
mức độ thoả mãn nhu cầu càng cao, dẫn tới đẩy mạnh tốc độ tiêu thụ, làm tăng khả
năng thắng thế trong cạnh tranh của doanh nghiệp. Trong điều kiện hiện nay, mức
sống của người dân ngày càng đựơc nâng cao, tức là nhu cầu có khả năng thanh
toán của người tiêu dùng tăng lên thì sự cạnh tranh bằng giá cả đã và sẽ có xu
hướng thay vị trí cho sự cạnh tranh bằng chất lượng.
a. Công cụ cạnh tranh bằng chất lượng sản phẩm được thể hiện qua các nội
dung như sau
Chất lượng sản phẩm là tập hợp các thuộc tính của sản phẩm trong điều kiện
nhất định về kinh tế kỹ thuật. Chất lượng là một chỉ tiêu tổng hợp thể hiện ở nhiều
mặt khác nhau tính cơ lý hoá đúng như các chỉ tiêu quy định, hình dáng mầu sắc
hấp dẫn với mỗi loại sản phẩm khác nhau.Do vậy để nâng cao sức cạnh tranh của
sản phẩm, doanh nghiệp phải luôn luôn giữ vững và không ngừng nâng cao chất
lượng sản phẩm như đáp ứng được đầy đủ tiêu chuẩn về chất lượng của nhà nước,
các tổ chức, các thị trường qui định.
Bên cạnh đó chất lượng sản phẩm còn phải đem lại lợi ích tiêu dùng tối đa và
đạt được kì vọng tối đa cho khách hàng. Đó là điều kiện không thể thiếu nếu doanh
nghiệp muốn giành được thắng lợi trong cạnh tranh đi đầu về chất lượng. Khi chất
lượng không còn được đảm bảo, không thoả mãn nhu cầu khách hàng thì ngay lập
tức khách hàng sẽ rời bỏ doanh nghiệp và kết quả này sẽ thể hiện rõ ràng nhất sự tụt
giảm sức cạnh tranh của hàng hóa, và doanh nghiệp đó.

b. Nâng cao chất lượng sản phẩm có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với việc


17


§Ò tµi nghiªn cøu khoa häc
tăng khả năng cạnh tranh thể hiện trên các giác độ
Chất lượng sản phẩm tăng lên sẽ thu hút được khách hàng tăng đựơc khối
lượng hàng hoá tiêu thụ, tăng uy tín sản phẩm mở rộng thị trường, từ đó tăng doanh
thu, tăng lợi nhuận, đảm bảo hoàn thành các mục tiêu mà doanh nghiệp đã đề ra.
Bởi lẽ nâng cao chất lượng sản phẩm có nghĩa là nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp.
1.1.4.2. Công cụ cạnh tranh bằng giá bán sản phẩm
Giá cả sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của giá trị sản phẩm mà người bán
hay doanh nghiệp bán dự định có thể nhận được từ người mua thông qua việc trao
đổi hàng hoá đó trên thị trường.
a. Giá bán của sản phẩm chịu sự tác động của những yếu tố sau:
Các yếu tố kiểm soát được như chi phí sản xuất sản phẩm, chi phí bán hàng,
chi phí lưu động và chi phí yểm trợ xúc tiến bán hàng. Đây thực chất là các yếu tố
mang tính chất định lượng, có thể đo lường được do vậy sẽ dễ dàng kiểm soát hơn.
Các yếu tố không kiểm soát được như quan hệ cung cầu cường độ cạnh tranh
trên thị trường, chính sách điều tiết thị trường của Nhà nước. Ngược lại với các yếu
tố kiểm soát được, đây là các yếu tố mang tính chất định tính, không thể đo luờng
được. Vì vậy để kiểm soát được các yếu tố này không phải là một việc làm dễ dàng.
b Hiện nay, có rất nhiều cách để định giá bán sản phẩm. Các cách thường
sử dụng bao gồm:
Thứ nhất, chính sách định giá thấp là cách định giá bán thấp hơn mức giá thị
trường. Chính sách định giá thấp có thể hướng vào các mục tiêu khác nhau, tuỳ theo
tình hình sản xuất của thị trường và đựơc chia ra theo các cách khác nhau như: (1)
Định giá thấp hơn so với thị trường nhưng cao hơn giá trị sản phẩm. Cách định giá
này được thực hiện khi các doanh nghiệp chấp nhận mức lãi thấp và trong trưòng

hợp sản phẩm mới thâm nhập thị trường, cần bán hàng nhan với khối lượng lớn,
hoặc dùng giá để cạnh tranh với các đối thủ. (2) Định giá bán thấp hơn giá thị
trường và cũng thấp hơn giá trị sản phẩm. Khi đó doanh nghiệp sẽ bị lỗ. Cách này
đựơc áp dụng trong trường hợp bán hàng trong thời kỳ khai trương hoặc muốn bán
nhanh để thu hồi vốn ( tương tự bán phá gia )

18


§Ò tµi nghiªn cøu khoa häc
Thứ hai là chính sách định giá cao tức là mức giá bán cao hơn mức giá thống
trị trên thị trường và cao hơn giá trị sản phẩm. Chính sách định giá cao được áp
dụng trong rất nhiều trường hợp: (1) Khi sản phẩm mới tung ra thị trường, người
tiêu dùng chưa biết rõ chất lượng của nó, chưa có cơ hội để so sánh về giá áp dụng
giá bán cao sau đó giảm dần. (2) Khi doanh nghiệp hoạt động trong thị trường độc
quyền, áp dung giá cao (giá độc quyền ) để thu lợi nhuận độc quyền. (3) Áp dụng
với các sản phẩm thuộc loại cao cấp, hoặc sản phẩm có chất lượng đặc biệt tốt phù
hợp với người tiêu dùng thuộc tầng lớp thượng lưu. (4) Đối với các sản phẩm thuộc
loại không khuyến khích người tiêu dùng mua, áp dụng giá bán cao để thúc đẩy họ
tìm sản phẩm thay thế.
Thứ ba là chính sách ổn định giá bán tức là giữ nguyên giá bán theo thời kỳ
và địa điểm. Chính sách này giúp doanh nghiệp thâm nhập, giữ vững và mở rộng thị
trường.
Thứ tư là chính sách định giá theo giá thị trường. Đây là cách định giá phổ
biến của các doanh nghiệp hiện nay tức là giá bán sản phẩm xoay quanh mức giá thị
trường của sản phẩm đó. Ở đây do không sử dụng yếu tố giá làm đòn bẩy kích thích
người tiêu dùng nên để tiêu thụ được sản phẩm, doanh nghiệp tăng cường công tác
tiếp thị thực hiện nghiêm ngặt các biện pháp giảm chi phí sản xuất kinh doanh.
Thứ năm là chính sách giá phân biệt. Với cùng một loại sản phẩm nhưng
doanh nghiệp định ra nhiều mức giá khác nhau dựa theo nhiều tiêu thức khác nhau:

(1) Phân biệt theo lượng mua như mua khối lượng nhiều hoặc giảm giá hoặc hưởng
chiết khấu. (2) Phân biệt theo chất lượng. Trong đó các loại chất lượng ( 1,2,3 ) có
mức giá khác nhau phục vụ cho các nhóm đối tượng khác nhau. (3) Phân biệt theo
phương thức thanh toán như việc thanh toán ngay hay trả chậm, thanh toán bằng
tiền mặt hay chuyển khoản. (4) Phân biệt theo thời gian cụ thể như tại các thời điểm
khác nhau, giá cả khác nhau.
Thứ sáu là chính sách bán phá giá. Đây là chính sách định mức giá bán thấp
hơn hẳn giá thị trường và thấp hơn cả giá thành sản xuất. Mục tiêu của bán giá là tối
thiểu hoá rủi ro hay thua lỗ hoặc để tiêu diệt đối thủ cạnh tranh. Muốn đạt đựơc mục
tiêu này đòi hỏi doanh nghiệp phải có tiềm lực về tài chính, về khoa học công nghệ

19


§Ò tµi nghiªn cøu khoa häc
sản phẩm đã có uy tín trên thị trường. Bán phá giá chủ nên áp dụng khi sản phẩm bị
tồn đọng quá nhiều, bị cạnh tranh gay gắt, lạc hậu không phù hợp với nhu cầu tiêu
dùng, sản phẩm mang tính thời vụ, dễ hư hỏng, càng để lâu càng lỗ lớn.
Ngày nay cùng với sự phát triển của nền sản xuất xã hội mức sống của người
dân không ngừng nâng cao, giá cả không còn là công cụ cạnh tranh quan trọng nhất
của doanh nữa nhưng nếu doanh nghiệp biết kết hợp công cụ giá với các công cụ
khác thì kết quả thu được sẽ rất to lớn.
1.1.4.3. Cạnh tranh bằng nghệ thuật tiêu thụ sản phẩm
Đối với mỗi doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường, sản xuất tốt
chưa đủ để khẳng định khả năng tồn tại và phát triển của mình, mà còn phải biết tổ
chức mạng lưới bán hàng, đó là tập hợp các kênh đưa sản phẩm hàng hoá từ nơi sản
xuất đến người tiêu dùng sản phẩm ấy. Thông thường kênh tiêu thu sản phẩm của
doanh nghiệp được chia thành 4 loại sau: A là kênh trực tiếp ngắn, từ doanh nghiệp
đưa sản phẩm đến tay người tiêu dùng (NTD), B là kênh trực tiếp dài ( từ DN tới
người bán lẻ, sau đó đến tay NTD), C là kênh gián tiếp ngắn ( từ DN tới các đại lý,

tiếp đó phân tới các người bán lẻ và sau cùng đến tay NTD).
Bên cạnh đó, để thúc đẩy quá trình bán hàng. doanh nghiệp có thể tiến hành
một loạt các hoạt động hỗ trợ như: Tiếp thị, quảng cáo, yểm trợ bán hàng, tổ chức
hội nghị khách hàng, tham gia các tổ chức liên kết kinh tế....
Ngày nay, nghệ thuật tiêu thụ sản phẩm đóng vai trò vô cùng quan trọng,
thậm trí quyết định đến sự còn của doanh nghiệp trên thị trường bởi vì nó tác động
đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên các khía cạnh. Trước nhất là làm
tăng khả năng tiêu thụ hàng hoá thông qua việc thu hút sự quan tâm của khách hàng
tới sản phẩm của doanh nghiệp. Tiếp theo là cải thiện vị trí hình ảnh của doanh
nghiệp trên thị trường ( thương hiệu, chữ tín của doanh nghiệp). Cuối cùng là mở
rộng quan hệ làm ăn với các đối tác trên thị trường, phối hợp với các chủ thể trong
việc chi phối thị trường, chống hàng giả.

1.1.5. Đặc điểm và các nhân tố ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của hàng dệt

20


§Ò tµi nghiªn cøu khoa häc
may xuất khẩu
1.1.5.1. Đặc điểm của hàng dệt may xuất khẩu
Đặc trưng của sản phẩm dệt may là loại sản phẩm có yêu cầu mặt hàng
phong phú, đa dạng tùy thuộc vào thị hiếu, văn hóa, phong tục, tập quán, tôn giáo,
địa lý, khí hậu, giới tính, tuổi tác và thu nhập của người tiêu dùng của thị trường
nhập khẩu.
Sản phẩm dệt may xuất khẩu mang tính thời trang cao, vì vậy phải thường
xuyên thay đổi mẫu mã, kiểu dáng, màu sắc, chất liệu để đáp ứng được tâm lý
chuộng cái mới, có những nét độc đáo riêng và gây ấn tượng đối với người tiêu
dùng. Bên cạnh đó, nhà sản xuất phải tạo ra được thương hiệu hay nhãn hiệu sản
phẩm của riêng mình. Nhãn hiệu của sản phẩm dệt may theo quan điểm xã hội

thuờng là yếu tố chứng nhận chất lượng hàng hóa và uy tín của nhà sản xuất.
Ngoài ra, khi buôn bán các sản phẩm dệt may còn rất chú trọng đến yếu tố
thời vụ trong năm. Vì hàng hóa xuất khẩu đến các thị trường khác nhau thì có thời
tiết và khí hậu khác nhau. Do đó việc giao hàng đúng thời hạn để đảm bảo cung cấp
hàng hóa kịp thời vụ cũng là một trong những đặc điểm rất quan trọng của hàng dệt
may xuất khẩu
Dệt may còn là ngành thu được lợi nhuận cao, thời gian thu hồi vốn tương
đối nhanh do qui mô vốn đầu tư thấp ( ngành may là 2,6triệu USD/dự án, ngành dệt
đạt trên 16triệu USD/dự án).
Cuối cùng, đặc điểm của hàng dệt may là một trong những ngành đóng góp
chủ chốt và tạo công ăn việc làm, thu hút một lượng lớn lao động so với các ngành
khác. Theo thống kê của Cục Thống kê, năm 2006 số lượng lao động của ngành dệt
may chiếm 82,75% so với các ngành thủy sản, điện tử, ô tô, vận tài biển, ngân hàng,
viễn thông, bảo hiểm.
1.1.5.2. Các nhân tố đặc trưng ảnh hưởng trực tiếp đến sức cạnh tranh của
hàng dệt may xuất khẩu
Việc nghiên cứu các nhân tố tác động đến sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu
là rất cần thiết. Qua đó, chúng ta có thể biết đưa ra những giải pháp liên quan đến
nhân tố nào để góp phần nâng cao sức cạnh tranh của hàng dệt may xuất khẩu.

21


§Ò tµi nghiªn cøu khoa häc
a.

Cho đến nay, không ai có thể phủ nhận được vai trò và vị trí quan trọng

của yếu tố chất lượng sản phẩm trong cạnh tranh. Bởi lẽ
Chất lượng là một yếu tố cấu thành nên sản phẩm và tạo nên giá trị sử dụng

cho sản phẩm đó. Nếu sản phẩm đó không hội tụ đủ yêu cầu về chất lượng ở một
mức độ cần thiết thì sản phẩm sẽ không mang giá trị tiêu dùng và không được coi là
1 sản phẩm. Đây là một trong những tiêu chí ban đầu để người mua đưa ra quyết
định tiêu dùng của mình. Thuộc tính này không loại trừ bất kì một loại hàng hóa
nào, trong đó có cả hàng dệt may.
Một doanh nghiệp không thể phát triển bền vững nếu không quan tâm đến
vấn đề chất lượng của sản phẩm mặc dù có đưa ra chiến lược kinh doanh nào đi
chăng nữa. Khi chất lượng của hàng hóa được nâng cao và thỏa mãn được nhu cầu
của người tiêu dùng thì sự tác động sẽ trở nên rất mạnh mẽ đến sức cạnh tranh của
mặt hàng đó trên thị trường. Và đây chính là sự lựa chọn phát triển theo chiều sâu
của doanh nghiệp.
Trong thời đại hội nhập như hiện nay thì vấn đề nâng cao sức cạnh tranh của
hàng hóa bằng biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm là một lựa chọn thông minh
và đúng đắn cho các doanh nghiệp. Đặc biệt khi đưa sản phẩm vượt biên giới đến
với tay của những người tiêu dùng của các nước khác như sản phẩm dệt may xuất
khẩu thì yếu tố này trở nên vô cùng quan trọng, ảnh hưởng sâu đậm đến sức cạnh
tranh của hàng hóa đó trong môi trường quốc tế. Trên thực tế, chất lượng của các
sản phẩm Việt Nam mới chỉ đạt ở mức độ trung bình, chưa đạt được những yêu cầu
cao từ phía lớp người tiêu dùng khó tính. Do vậy trong thời gian tới, việc tập trung
phát triển chất lượng cho hàng dệt may xuất khẩu là một vấn đề hàng đầu của các
doanh nghiệp.
b. Khi ta đặt mình vào một thị trường với rất nhiều đối thủ cạnh tranh thì giá
cả luôn giữ một vai trò tương đối quan trọng
Vì đây là một quá trình cạnh tranh rất gay gắt. Giá cả đôi khi trở thành một
chiến lược cho các doanh nghiệp trong việc tranh giành lợi ích, vị trí và tìm kiếm thị
phần trên thị trường.
Thực tế khi các doanh nghiệp cung ứng những sản phẩm cùng loại thì vẫn

22



§Ò tµi nghiªn cøu khoa häc
luôn xuất hiện tình trạng giá cả chênh lệch với nhau. Đặt giả thiết những sản phẩm
này tương đối giống nhau về mẫu mã, chất lượng, dịch vụ liên quan thì ngay lập tức
nguời tiêu dùng sẽ lựa chọn những sản phẩm phù hợp với túi tiền của họ. Bởi lẽ,
mức độ tiêu dùng của khách hàng bị phụ thuộc rất nhiều vào nguồn thu nhập của
chính bản thân họ và chỉ khi đạt được cả 2 điều kiện là đạt lợi ích tiêu dùng và trong
giới hạn ngân sách cho phép. Khi đó khách hàng mới chấp nhận trao đổi buôn bán.
Cho đến nay, qua quá trình so sánh, giá hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam
luôn đạt ở mức giá khá cao so với các đối thủ cạnh tranh như Trung Quốc - một
nước xuất khẩu hàng dệt may giá rẻ hàng đầu trên thế giới. Chính điều đó đã là
nhân tố tác động lớn đến sức cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam, khiến sức
cạnh tranh của mặt hàng này luôn giữ ở vị trí trung bình khó đứng vững trên thị
trường đầy biến động như hiện nay.
c. Thế giới là tập hợp của hàng trăm quốc gia khác nhau.Mỗi quốc gia lại
mang trong mình những đặc trưng văn hóa và thị hiếu tiêu dùng hoàn toàn khác
nhau. Nguyên nhân căn bản của vấn đề này là
Sức mua của hàng hóa thể hiện sức hấp dẫn và mức độ ưa thích của người
tiêu dùng đến sản phẩm đó.Khi sản phẩm phù hợp với thị hiếu, phong cách và xu
hướng tiêu dùng của họ thì tỉ lệ phần trăm họ lựa chọn mua sản phẩm sẽ khá cao.
Mặt khác, một doanh nghiệp khi tiến mình vào một thị trường mới thì việc
nghiên cứu thị trường để từ đó hình thành một hệ thống, nắm bắt được tổng hợp các
xu hướng tiêu dùng như (thời trang, màu sắc, mẫu mã, chất liệu...) được ưa chuộng
tại thị trường đó.Việc nghiên cứu này, sẽ giúp cho doanh nghiệp hiểu rất rõ việc
mình phải làm, cần làm, để đạt được mục tiêu và thị phần trên thị trường, và nâng
cao sức cạnh tranh của sản phẩm.
Với mặt hàng dệt may, thời trang, mẫu mã, chất liệu, luôn là yếu tố cấu thành
riêng đặc trưng tạo nên sản phẩm. Hầu hết các doanh nghiệp dệt may đều hiểu rất rõ
vấn đề này, do vậy khi bắt đầu tấn công vào một thị trường nào, việc tìm hiểu yếu tố
thị hiếu tiêu dùng luôn được đặt lên trước nhất. Vì vậy các doanh nghiệp dệt may

xuất khẩu Việt Nam đã dần thâm nhập được vào rất nhiều thị trường khác nhau trên
thế giới.

23


§Ò tµi nghiªn cøu khoa häc
d. Yếu tố thời vụ cũng là một trong những yếu tố rất đặc trưng của hàng dệt
may xuất khẩu
Như đã đề cập ở trên, thế giới là tổng hòa của rất nhiều những yếu tố khác
nhau cấu thành. Mỗi nước lại có một khí hậu thời tiết riêng biệt. Vì vậy yếu tố thời
vụ đóng vai trò hết sức quan trọng đối với hàng dệt may xuất khẩu. Chúng ta sẽ chỉ
đạt được hiệu quả doanh thu cao, một sức cạnh tranh lớn khi hiểu biết rõ về khí hậu
luân chuyển của thị trường đang hướng tới. Dĩ nhiên, người tiêu dùng không thể
mua một loại quần áo mùa hè trong khi khí hậu ở đó đang trong mùa đông....
Ngoài ra, một vấn đề cũng rất đáng chú ý, đó là ngay cả khi doanh nghiệp đã
hiểu biết rõ về thị trường đưa ra được mẫu mã phù hợp cho người tiêu dùng nhưng
lại quá chậm trễ trong việc vận chuyển. Sẽ dẫn tới một trường hợp không mong
muốn là khi hàng dệt may được chuyên chở đến nơi thì thời tiết đã chuyển mùa và
hàng hóa lúc đó bất đắc dĩ sẽ khó có thể tiêu thụ được. Do vậy các doanh nghiệp dệt
may Việt Nam cần nhanh nhạy hơn về các thông tin của thị trường và có hình thức
chuyên chở nhanh chóng để tránh ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của hàng hóa.
e. Tính thương hiệu là một yếu tố gắn liền và có ảnh hưởng trực tiếp đến
hàng dệt may xuất khẩu
Ngay nay, quá trình diễn ra ngày càng gay gắt. Do vậy hàng hóa không chỉ
cần có một chất lượng tốt, một giá thành hợp lý, cùng các yếu tố khác đã nêu ở trên
là đủ mà còn cần phải có một uy tín và thương hiệu trên thị trường. Một hàng hóa
càng có uy tín cao nhãn hiệu càng nổi tiếng thì khách hàng càng ưa chuộng và đặt
lòng tin hoàn toàn vào sản phẩm họ chọn mua. Điều này hoàn toàn đúng ở các thị
trường lớn như các nước phát triển. Thậm chí đây còn là một trong những đặc trưng

tiêu dùng của những người tiêu dùng ở đây.
Tuy nhiên, chúng ta cũng cần phải thừa nhận rằng, các doanh nghiệp của
Việt Nam vẫn chưa có hoặc có rất ít thương hiệu quốc tế nổi tiếng. Thông thường
các doanh nghiệp Việt Nam thường làm giá công xuất khẩu cho các nuớc khác và
các sản phẩm đó được đóng nhãn mác là sản phẩm của nước đi thuê gia công.
Những trường hợp đó xảy ra rất nhiều với mặt hàng dệt may xuất khẩu và trở thành
một hình thức thông thường của quá trình xuất khẩu sản phẩm này ra thị trường

24


§Ò tµi nghiªn cøu khoa häc
nước ngoài. Đó là nguyên nhân của việc sức cạnh tranh của các sản phẩm dệt may
Việt Nam chỉ được đánh giá rất thấp và gặp nhiều trở ngại khi tiến vào các thị
trường khó tính như EU. Trong thời gian tới, các doanh nghiệp Việt Nam cần chú
trọng hơn đến nhân tố này để nhằm nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm trên
trường quốc tế và so với các đối thủ khác.
1.1.6. Kinh nghiệm của một số nước về nâng cao sức cạnh tranh hàng dệt may
xuất khẩu vào thị trường EU
Hàng dệt may Việt Nam hiện đang phải đối đầu với những nước có khả năng
cạnh tranh rất cao,các nước này có rất nhiều thuận lợi và kinh nghiệm hoạt động
trong cơ chế thị trường về các mặt như: vật tư, thiết bị, quản lý, tài chính, tiếp thị,
nghiên cứu và phát triển Theo số liệu thống kê cho thấy VN đã lọt vào top 10 nước
và vùng lãnh thổ XK dệt may lớn nhất thế giới. Theo tứ tự xếp hạng trong top 10
nước dẫn đầu về XK dệt may, VN hiện đang đứng sau TQ, EU, Thổ Nhĩ Kỳ, Ấn
Độ, Mexico, Hong Kong (TQ), Bangladesh và gần bằng với Indonesia, Mỹ.
Do vây với mục đích có được định hướng và giải pháp đúng đắn để phát
triển mặt hàng dệt may xuất khẩu sang thị trường EU,, dưới đây tôi xin được đề cập
đến một số kinh nghiệm của các nước xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường EU
đã đạt được thành công trong thời gian qua như Inđônêsia, Trung Quốc, Ấn Độ....

và để từ đó rút ra được bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trên con đường phát
triển.
1.1.6.1. Chính sách và kinh nghiệm từ Indonesia
Ngành dệt may hiện nay của Indonesia được đánh giá là một trong những
ngành công nghiệp có triển vọng và được Chính phủ quan tâm hỗ trợ . In đô nê xi a
là nước có số lượng sản phẩm dệt may đứng thứ ba sau Trung quốc và Ấn độ, hàng
may mặc xuất khẩu chiếm thị phần 1,7% ( xếp thứ 9) và có mặt ở trên 200 nước.
Sự phát triển của ngành dệt may xuất khẩu của Inđonêxia trong thời gian qua là nhờ
vào những chiến lược đúng đắn của nhà nước. Bao gồm:
Chiến lược thứ nhất là cơ cấu lại máy móc tại các nhà máy do máy móc quá
cũ hoặc lạc hậu. Để thực hiện chiến lược này Bộ Công nghiệp Indonesia và Ngân
hàng Trung ương Indonesia (BI) đã thành lập một nhóm công tác nhằm tìm cách đổi

25


×