Tải bản đầy đủ (.doc) (110 trang)

hoàn thiện nghiệp vụ giám sát từ xa của Ngânhàng nhà nước Việt Nam đối với các NHTM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (772.09 KB, 110 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐẾ TÀI
Trong những năm gần đây, đặc biệt là sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO) và thực hiện lộ trình cam kết mở cửa thị trường tài
chính, hệ thống các NHTM có bước phát triển rất nhanh về quy mô và phạm vi hoạt
động nhưng cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro. Thị trường tài chính phi ngân hàng (chứng
khoán và bảo hiểm) có sức hấp dẫn cao, các NHTM có xu hướng thâm nhập sâu rộng
hơn vào hoạt động này. Đặc biệt, những diễn biến gần đây cho thấy các NHTM
đang bị thao túng bởi các tập đoàn kinh tế, trở thành công cụ phục vụ cho chính các
tập đoàn này. Trong một số trường hợp, các ngân hàng được sử dụng nhằm huy
động vốn cho các tập đoàn kinh tế (chứ không phải cho nền kinh tế). Ban đầu là
tình trạng các NHTM nhà nước huy động vốn cho tập đoàn nhà nước đầu tư tràn lan
vào các dự án kém hiệu quả. Hiện nay là sự xuất hiện các tập đoàn kinh tế tư nhân
lập ra các ngân hàng, từ đó huy động vốn từ dân cư để đầu tư vào các lĩnh vực kinh
doanh của mình. Vấn đề đặt ra ở đây là các hoạt động kinh doanh này đã không
được các ngân hàng thẩm định mức độ rủi ro một cách đầy đủ và minh bạch. Điều
này xóa bỏ đi vai trò sàng lọc, chuyển giao và phân tán rủi ro của hệ thống ngân
hàng với tư cách là một trung gian tài chính điển hình. Nói cách khác, các ngân
hàng trong trường hợp này không những không giúp sàng lọc, phân tán rủi ro mà
còn làm gia tăng rủi ro cho dòng vốn trong nền kinh tế. Bên cạnh đó, sự phát triển
mạnh mẽ của các dịch vụ ngân hàng cùng với các loại tội phạm mới xuất hiện trong
lĩnh vực ngân hàng như rủi ro tác nghiệp, rủi ro hoạt động cho thấy rủi ro đối với các
NHTM ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp hơn.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
- Hệ thống hóa lý thuyết về nghiệp vụ giám sát từ xa của NHTW
- Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động giám sát từ xa của NHTW đối
với hoạt động của các Ngân hàng thương mại Việt Nam, những kết quả đạt được
và những tồn tại trong hoạt động GSTX của NHNN Việt Nam.
- Hình thành giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện nghiệp vụ GSTX của NHNNVN

NCS K5- Nguyễn Thị Hoài Thu



1


3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động GSTX của NHNN Việt Nam đối với các NHTM
- Phạm vi nghiên cứu: Do đề cập tới vấn đề GSTX đối với các TCTD là rất rộng
nên phạm vi của chuyên đề chỉ tập trung nghiên cứu về nghiệp vụ GSTX của NHTW
đối với hoạt động của các NHTM.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, kết hợp với các phương pháp
thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp… nhằm làm rõ vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp thu thập, xử lý số liệu: Số liệu thứ cấp được thu thập từ các
Báo cáo thường niên, Bản công bố thông tin, từ cơ quan thống kê, tạp chí… và
được xử lý trên máy tính.
5. KẾT CẤU CỦA CHUYÊN ĐỀ
Ngoài phần mục lục, danh mục các chữ viết tắt, danh mục các bảng số liệu, phụ
lục, danh mục tài liệu tham khảo, chuyên đề có 85 trang được trình bày như sau:
Phần mở đầu
Chương 1: Cơ sở lý luận về nghiệp vụ giám sát từ xa của NHTW đối với hoạt
động của các NHTM
Chương 2: Thực trạng hoạt động giám sát từ xa của Ngân hàng nhà nước Việt
Nam đối với các NHTM
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện nghiệp vụ giám sát từ xa của Ngân
hàng nhà nước Việt Nam đối với các NHTM
Phần kết luận

NCS K5- Nguyễn Thị Hoài Thu

2



CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGHIỆP VỤ GIÁM SÁT TỪ XA CỦA
NHTW ĐỐI VỚI CÁC NHTM NHẰM ỔN ĐỊNH VÀ PHÁT
TRIỂN BỀN VỮNG NGÀNH NGÂN HÀNG SAU THỜI KỲ
KHỦNG HOẢNG
1.1. Kinh nghiệm từ cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ và bài học cho việc ổn định
ngành ngân hàng Việt Nam
1.1.1. Nguyên nhân từ cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ
Tháng 8 năm 2007 là thời điểm bùng nổ của cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ,
đó



khi

NHTW phải can thiệp để cấp thanh khoản cho hệ thống ngân hàng.Vậy

các
đâu



nguyên nhân chính gây ra cuộc khủng hoảng này?
• Tiết kiệm dư thừa – Saving glut: Trong đó Trung Quốc, các nước mới
nổi,các nước xuất khẩu dầu thô đã có thặng dư mậu dịch lớn trong vài năm trước
khi khủng khoảng xảy ra và đã dồn số tiền này vào Mỹ
Dòng vốn từ Trung Quốc và các nước mới nổi đổ vào Mỹ trong thập kỷ gần
đây đã làm lãi suất thực giảm xuống thấp, dẫn đến bong bóng giá tài sản trong đó có

nhà đất. Tuy nhiên bong bóng tài sản và bong bóng nhà đất chỉ là ngòi nổ của
khủng hoảng chứ không phải cái căn gốc của vấn đề.
• Fed đã duy trì mức lãi suất quá thấp sau giai đoạn bong bóng chứng khoán
ngành công nghệ thông tin dotcom cuối năm 2000. Và một hoàn cảnh khó khăn cho
Fed khi mà nước Mỹ phải hứng chịu thêm vụ khủng bố lịch sử 11/9/2001.
• Nhiều sản phẩm tài chính mới ra đời tạo ra sự chủ quan giả tạo vì nhiều nhà
đầu tư cho rằng họ đã phân tán được rủi ro. Ngoài ra những sản phẩm tài chính mới
này (CDO, CDS) cũng làm các định chế tài chính phụ thuộc lẫn nhau nhiều
hơn.Trước tiên về vấn đề các sản phẩm tài chính mới được tạo ra nó thuộc phạm trù
về sự đổi mới tài chính nhằm mục địch tối đa hóa lợi nhuận.

NCS K5- Nguyễn Thị Hoài Thu

3


Với dòng vốn từ Trung Quốc và một số quốc gia mới nổi đổ vào Mỹ kết hợp
với nỗ lực của Fed năm 2001 đã làm lãi suất thực trong nước Mỹ ở mức được cho là
thấp so với lịch sử để đối phó với cú vỡ bong bóng chứng khoán công nghệ cao
Internet (dotcom) vào cuối năm 2000, cục Dữ trữ Liên bang (Fed) đã cắt giảm lãi
suất Liên bang từ 6.5% xuống 3.5% chỉ trong vòng vài tháng. Tiếp sau đó là vụ tấn
công khủng bố ngày 11 tháng 9 năm 2001. Để chống lại sự đổ vỡ của nền kinh tế,
Fed tiếp tục hạ lãi suất – xuống hẳn mức 1% vào tháng 7 năm 2003,mức lãi suất
thấp nhất trong vòng nửa thế kỷ qua, và lãi suất đứng yên ở mức đó suốt một năm
tròn. Mức lãi suất thấp mà Fed duy trì trong giai đoạn 2000 – 2004 và các công cụ
tài chính mới (CDO…) chỉ là điều kiện cho cuộc khủng hoảng nổ ra. Vậy môi
trường kinh tế đã thay đổi ra sao khiến các sản phẩm tài chính mới ra đời. Đó chính
là lý do 1 và lý do 2 đã được nêu lên ở trên.
Tuy nhiên, 3 lý do mà phần lớn mọi người kiện cho cuộc khủng hoảng diễn ra
và lan rộng, vấn đề căn bản quan trọng nhất tạo nên cuộc khủng hoảng này là vấn

đề đến từ hệ thống giám sát của Mỹ. Như đã đề cập ở trên, tác giả cho rằng vấn đề
cốt lõi mà gây nên cuộc khủng hoảng này đến từ hệ thống giám sát. Hệ thống giám
sát đã lỏng lẻo ở khâu thứ I (cấp tín dụng) và khâu thứ II (kiểm soát các sản phẩm
phái sinh). Những lỏng lẻo từ hệ thống giám sát ở các khâu này đã làm cho “rủi ro
đạo đức”- Moral hazard gia tăng mạnh mẽ. Đó mới là nguyên nhân chủ đạo của
khủng hoảng lần này.
Ở trong khâu thứ I, ngân hàng đã cấp tín dụng cho thị trường bất động sản
thông qua hai gói tín dụng thứ nhất với gói có lãi suất cố định trong suốt thời gian
vay (Fixed rate mortgages_FRMs), thứ hai là gói tín dụng có lãi suất điều chỉnh
theo thời gian (Adjustabe rate mortgages_ARMs) – một đổi mới trong tài chính của
các ngân hàng tiết kiệm và cho vay ở California năm 1975.
Ngân hàng cung cấp tín dụng mua nhà thế chấp trong giai đoạn này với lãi lãi
suất tương đối thấp.Tuy nhiên đây là giai đoạn kinh tế khó khăn, mức tăng thu nhập
bình quân trong giai đoạn này rất kém.Đối mặt với hoàn cảnh này, các hãng cho vay
đã trổ đủ tài để cho nhà hợp với túi tiền hơn. Công cụ phổ biến nhất trong giai đoạn
này là khoản vay thế chấp mua nhà với lãi suất điều chỉnh _ ARMs. Họ đưa ra “mồi
NCS K5- Nguyễn Thị Hoài Thu

4


nhử” bằng cách ấn định lãi suất trong hai năm đầu thấp hơn cả lãi suất thị trường.
Họ nghĩ rằng, sau hai năm khi lãi suất cao có hiệu lực, thì tài sản thế chấp đó sẽ
được đem ra đảo nợ, lợi dụng giá tài sản cao hơn và sinh ra một loạt phí mới cho
người cho vay.
Những chuẩn mực tín dụng bị sụp đổ, và người ta làm sao cho ngay cả những
người có mức độ xếp hạng tín dụng kém cũng dễ dàng mua nhà ( gọi là khoản vay
dưới chuẩn). Phổ biến là loại “Alt – A” (cho người nói dối vay) với ít hoặc hoàn
toàn không có giấy tờ chứng minh thu nhập, trong số đó ở mức cực đoan là khoản
vay “Ninja” (con nợ không có nghề nghiệp, không thu nhập, không tài sản), thường

là có sự đồng lõa của cả người môi giới và người cho vay tiền mua nhà.
Chất lượng thẩm định tín dụng tồi tệ đến mức kỷ lục năm 2006 có tới hơn
88% các con nợ không đủ điều kiện hồ sơ tín dụng.Các khoản vay có chất lượng tồi
tăng nhanh liên tục Ở đây, hệ thống giám sát đã lỏng lẻo trong việc giám sát các
khoản tín dụng của ngân hàng để cho các tiêu chuẩn tín dụng bị sụp đổ và rủi ro đạo
đức tung hoành.
Một câu hỏi được đặt ra lúc này, các ngân hàng là người thẩm định chất lượng
tín dụng, tại sao họ vấn cung cấp những khoản tín dụng đầy rủi ro kia? Câu trả lời là
các ngân hàng sẽ bán hết những khoản vay thế chấp nhiều rủi ro nhất của mình đi
bằng cách đóng gói chúng lại trong những chứng khoán có tên gọi giấy nợi có thế
chấp (Collateralized Debt Obligation - CDO). Những giấy nợ này chuyển dòng tiền
từ hàng ngàn khoản thế chấp thành những lô trái phiếu được “khoanh”, hay được
xếp hạng với đủ mức độ rủi ro và lợi nhuận phù hợp với các “khẩu vị đầu tư khác
nhau”. Những khoanh được xếp hạng cao nhất, có lẽ chiếm đến 80% các trái phiếu,
có nguồn tiền chảy vào khá chắc chắn nên được xếp hạng AAA. Những trái phiếu
được xếp hạng thấp hơn là trái phiếu phải chịu rủi ro nếu có gì xảy ra nhưng phần
lợi cao hơn.Trên thực tế, các ngân hàng và các hãng xếp hạng tín dụng đã đánh giá
quá thấp những rủi ro hàm chứa trong những thứ thậm chí vô lý như khoản
vay“Ninja” nói trên.
Chứng khoán hóa được dự tính là sẽ giúp giảm thiểu rủi ro thông qua phân
hạng rủi ro và đa dạng hóa trên cơ sở vị trí địa lý.Nhưng thực những biên pháp trên
NCS K5- Nguyễn Thị Hoài Thu

5


làm gia tăng rủi ro do chúng đã chuyển quyền sở hữu của những khoản vay thế chấp
từ những ngân hàng biết rõ khách hàng của mình là ai sang những nhà đầu tư không
biết ai với ai _ một sự bất cân xứng thông tin.Thay vì một ngân hàng hay một cơ sở
tiết kiệm chấp thuận cấp một khoản tín dụng rồi lưu nó lại trên sổ sách của mình thì

nay các khoản vay lại được những tay môi giới lùng kiếm ra, tạm thời “lưu kho” bởi
những “ngân hàng cho vay thế chấp” đoản vốn; rồi được bán cả mớ cho những ngân
hàng đầu tư,từ đây chúng được chế biến thành các CDOs, rồi được đóng dấu phân
loại bởi tổ chức xếp hạng tín dụng và cuối cùng được bán cho các tổ chức đầu tư
trên toàn cầu.
Chứng khoán hóa và các công cụ phái sinh góp phần lớn vào việc tăngtrưởng
GDP mạnh mẽ của Mỹ trong những năm 2002 – 2004. Chứng khoán hoá là chất xúc
tác mạnh mẽ cho thị trường cho vay thế chấp bất động sản, vai trò lớn nhất của quá
trình đó là làm khơi thông dòng vốn đổ vào thị trường bất động sản, giúp cho những
khoản cho vay thế chấp của các ngân hàng không phải nằm im trên bảng cân đối tài
sản mà được luân chuyển tiếp tục để tạo vốn cho ngân hàng.Để tung ra mức lãi suất
hấp dẫn chào mời những người mua nhà thì các công ty tài trợ địa ốc ở Mỹ đã dùng
nhiều “thủ thuật tài chính” và tung ra những sản phẩm vay trả góp mới mà thông
dụng nhất là cái gọi là “khoản cho vay thế chấp với lãi suất thả nổi-ARM”. Đi kèm
với quy trình chứng khoán hoá là công cụ phái sinh CDS, định nghĩa của nó như đã
nói trong phần trên. Nhiều nhà kinh tế đã lên tiếng gay gắt về CDS và thậm chí coi
nó như một thứ công cụ “ma quỷ”, có sức phá hoại mạnh mẽ thị trường tài chính,
nhưng cũng rất nhiều chuyên gia không thể phủ nhận sự thông minh và tinh vi của
nó. Nhóm nghiên cứu sẽ giải thích chi tiết quy trình chứng khoán hoá và ý nghĩa
của các công cụ phái sinh bằng những minh hoạ sinh động dưới đây:
1.1.2. Bài học về sự ổn định hệ thống tài chính ngân hàng Việt Nam từ cuộc
khủng hoảng tài chính ngân hàng của Mỹ
Thứ nhất: Việc giám sát từng tổ chức tài chính và thúc đẩy sự ổn định của cả
hệ thống tài chính là hai hoạt động hỗ trợ, bổ sung cho nhau. Từ trước khủng hoảng,
Fed đã làm việc với các tổ chức có dịch vụ hỗ trợ thương mại và hệ thống thanh
toán; chẳng hạn như Ngân hàng Fed New York đã hợp tác với các cơ quan giám sát
NCS K5- Nguyễn Thị Hoài Thu

6



và các bên tham gia thị trường để hoàn thiện quy chế thanh toán các công cụ phái
sinh trên thị trường không chính thức. Kết quả là đã nâng cao đáng kể tính chính
xác và kịp thời của các thông tin thương mại. Cùng với các cơ quan khác, Fed đang
xây dựng các mục tiêu và các tiêu chuẩn nghiêm ngặt trong hoạt động của các bên
tham gia thị trường.
Thứ hai: Hoạt động bảo vệ người tiêu dùng cũng đóng góp vào sự ổn định tài
chính. Việc rất nhiều tổ chức tài chính bán nhiều sản phẩm tiêu dùng với tính phức
tạp ngày càng tăng cho một bộ phận lớn dân chúng được coi là một trong những
nguyên nhân gây ra cuộc khủng hoảng hiện nay.Trong vòng một năm qua, Fed đã
phổ biến nhiều thông tin mới về một loạt các sản phẩm tài chính, đáng chú ý nhất là
thông tin về thẻ tín dụng tiêu dùng, đồng thời cũng đưa ra qui định cấm một số
nghiệp vụ có tính phức tạp dễ gây thiệt hại cho người tiêu dùng.
Thứ ba: Tập trung vào khâu tuyển chọn và đào tạo đội ngũ nhân viên có
hiểu biết, kỹ năng và chuyên môn thuộc nhiều lĩnh vực. Fed thường sử dụng cách
tiếp cận đa ngành để giải quyết vấn đề và điều này giúp Fed có được cách nhìn nhận
chính xác hơn đối với các hoạt động tài chính và các rủi ro có thể xảy ra. Trong suốt
khủng hoảng này, các thanh tra, chuyên gia kinh tế, kế toán, luật sư, và các chuyên
gia về các vấn đề người tiêu dùng đang hợp tác chặt chẽ với nhau. Fed phải đảm
bảo tiếp tục tăng cường hiểu biết và chuyên môn của đội ngũ chuyên gia để theo kịp
những khó khăn và thách thức mà Fed sẽ phải đương đầu trong vai trò giám sát
ngân hàng và trong cả nhiệm vụ truyền thống là ổn định hệ thống tài chính.
Thứ tư: Trong tương lai, hoạt động giám sát theo phương thức thận trọng hơn
và trên góc độ vĩ mô hơn, giải quyết những rủi ro cho cả hệ thống tài chính bên
cạnh giám sát từng tổ chức riêng lẻ, sẽ giúp tăng cường ổn định tài chính vĩ mô.
Quy chế giám sát phải tạo cho Fed khả năng giám sát, đánh giá và trong trường hợp
cần thiết giải quyết những rủi ro tiềm tàng trong hệ thống tài chính.

NCS K5- Nguyễn Thị Hoài Thu


7


1.2. Ngân hàng Trung ương và vai trò của NHTW trong môi trường tài chính mới
1.2.1. Khái niệm
Ngân hàng trung ương (Central Bank) ở bất cứ quốc gia nào đều là một trong
những cơ quan có vị thế vô cùng quan trọng, là ngân hàng đứng đầu trong hệ thống
ngân hàng. Đặc điểm nổi bật của ngân hàng trung ương là không giao dịch, làm
nghiệp vụ trực tiếp với các nhà kinh doanh và công chúng, khách hàng của NHTW
là tất cả các ngân hàng khác. Ngân hàng trung ương giữ vai trò là ngân hàng của các
ngân hàng; bảo quản quỹ dự trữ tiền tệ của các ngân hàng; cho các ngân hàng vay
vốn khi cần thiết, thực hiện chính sách tiền tệ tín dụng của nhà nước; cơ quan phát
hành tiền tệ trong nước; thanh toán và tín dụng quốc tế với ngân hàng trung ương
các nước khác; là cơ quan cung cấp dịch vụ tiền tệ Chính phủ.
Trong bất cứ một quốc gia nào, Ngân hàng trung ương đều giữ vai trò trọng
yếu trong bộ máy quản lý và điều hành vĩ mô, bởi vì ngân hàng trung ương nắm
trong tay những công cụ quản lý vĩ mô, đặc biệt là những công cụ về chính sách
tiền tệ. Vì vậy người ta bố trí mô hình tổ chức thích hợp để đảm bảo phát huy đến
mức cao nhất hiệu lực của bộ máy quản lý vĩ mô này. Có hai loại mô hình tổ chức
ngân hàng trung ương:
i/ NHTW trực thuộc Chính phủ.Theo mô hình này, Ngân hàng trung ương là
một bộ máy của Chính phủ, là một cơ quan chức năng của Chính phủ, chịu sự kiểm
soát toàn diện của Chính phủ và thực hiện mọi chính sách thể chế của chính phủ. Sự
đề xuất ngân hàng trung ương trực thuộc chính phủ xuất phát từ quan điểm cho rằng
tiền tệ là một bộ phận của chính sách cai trị về tài chính, tiền tệ là phương tiện của
chính quyền. Mô hình này được áp dụng ở hầu hết các nước, ở Việt Nam cũng được
áp dụng mô hình tổ chức Ngân hàng trung ương như trên. Điều 2 của luật Ngân
hàng Nhà nước đã khẳng định: “Ngân hàng nhà nước Việt Nam là cơ quan ngang
bộ của Chính Phủ…”
ii/NHTW độc lập Chính phủ.Theo mô hình này, Ngân hàng trung ương

không chịu sự kiểm soát của Chính phủ mà chịu sự kiểm soát và lãnh đạo của Quốc
hội. Trên thế giới hiện có Mỹ và Đức là hai quốc gia áp dụng mô hình tổ chức nói

NCS K5- Nguyễn Thị Hoài Thu

8


trên. Về hệ thống tổ chức của Ngân hàng trung ương nói chung đều được tổ chức bố
trí theo kiểu hình chóp hai cấp:
- Trụ sở ngân hàng trung ương đặt tại Thủ đô.
- Các chi nhánh đặt tại các Tỉnh, Thành phố, hoặc khu vực.
Tại trụ sở Trung ương sự bố trí thành lập các khâu để thực hiện chức năng
nhiệm vụ có tính chuyên ngành cao (hoạch định chính sách, phát hành, tín dụng…),
tại các chi nhánh cũng bố trí cơ cấu tổ chức thành các phòng ban để đảm bảo các
nhiệm vụ trên địa bàn.
Tuy hệ thống tổ chức bố trí theo kiểu hình chóp gồm trụ sở Trung ương và
các chi nhánh, nhưng ở mỗi nước lại bố trí các chi nhánh theo nhiều kiểu khác nhau.
- Ở Pháp: trụ sở Trung ương đặt tại thủ đô ở Paris, các chi nhánh đặt trên địa
bàn các Tỉnh, thành phố và khu vực. Phần lớn các nước đều áp dụng tổ chức này.
- Ở Đức: Trụ sở Ngân hàng trung ương lại được đặt ở thành phố Frankfurt,
một trung tâm thương mại lớn chứ không đặt tại thủ đô, còn các chi nhánh thì được
đặt ở các bang.
- Ở Mỹ: có mô hình khá riêng biệt so với các nước. Trong toàn nước Mỹ
người ta chia làm 12 khu vực và ở mỗi khu vực thành lập một ngân hàng dự trữ liên
bang, ngân hàng này đóng vai trò quan trọng, là Ngân hàng trung ương của khu
vực. Lãnh đạo của 12 ngân hàng dự trữ liên bang là hội đồng các Thống đốc đặt trụ
sở tại thủ đô Washingtơn. Toàn bộ hợp thành ngân hàng trung ương Mỹ.
- Ở Việt Nam: Điều 2 khoản 2 luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam năm 2010
đã chỉ rõ: Ngân hàng nhà nước Việt Nam là một pháp nhân có vốn pháp định thuộc

quyền sở hữu Nhà nước, có trụ sở tại thủ đô Hà Nội
Mỹ: Ngân hàng Trung ương của Mỹ có tên Cục dự trữ Liên bang (Federal
Reserve System-Fed) là sự kết hợp của 12 ngân hàng dự trữ các Bang nằm ở tất cả
các thành phố lớn trên toàn nước Mỹ. Nhiệm vụ chính của Cục dự trữ Liên bang là
giám sát và điều tiết các ngân hàng thương mại, thi hành chính sách tiền tệ qua việc
mua và bán Trái phiếu Kho bạc (T-bills) và điều chỉnh mức lãi suất.
Đức: Ngân hàng dự trữ liên bang Đức không trực thuộc Chính phủ khi thực
hiện các nghiệp vụ của mình, đồng thời có trách nhiệm ủng hộ chính sách kinh tế
NCS K5- Nguyễn Thị Hoài Thu

9


chung của Chính phủ.Quyền hạn và nghĩa vụ của Ngân hàng dự trữ liên bang Đức
được quy định trong hiến pháp liên bang, ưu tiên việc đảm bảo tiền tệ bằng cách
chống lạm phát và trợ giúp chính sách của Chính phủ. Ngân hàng dự trữ liên bang
Đức có một Chủ tịch do Hội đồng ngân hàng bổ nhiệm theo ý kiến của Chính phủ.
Hội đồng ngân hàng gồm 21 thành viên là đại diện từ các ngân hàng vùng, Chính
phủ và các quản trị viên ngân hàng. Hội đồng họp thường xuyên 2 tuần một lần.
Trung Quốc: Được thành lập ngày 11 tháng 12 năm 1948 trên cơ sở hợp
nhất các ngân hàng Hoa Bắc, ngân hàng Bắc Hải và ngân hàng nông dân Tây Bắc.
Trong thời gian từ 1949 đến 1978,đây là ngân hàng duy nhất của toàn Trung Quốc
và đảm đương vai trò ngân hàng trung ương.
Từ năm 1995, Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc là ngân hàng của chính phủ
giữ thực hiện vai trò ngân hàng trung ương của Trung Quốc. Năm 1998, ngân hàng
tiến hành tái cấu trúc cơ bản. Tất cả các chi nhánh địa phương và cấp tỉnh đều bãi
bỏ, Ngân hàng trung ương Trung Quốc mở 9 chi nhánh khu vực, địa giới từng chi
nhánh không theo địa giới hành chính. Năm 2003, Ủy ban thường vụ Quốc hội
Trung Quốc phê chuẩn một đạo luật sửa đổi nhằm tăng cường vai trò của ngân hàng
này trong việc đề ra và thực hiện chính sách tiền tệ với mục đích bảo vệ sự ổn định

tài chính quốc gia và thiết lập các dịch vụ tài chính.
Bộ máy điều hành tối cao của Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc gồm Thống
đốc và một số phó thống đốc. Vị trí thống đốc được bổ nhiệm hay bãi nhiệm
bởi Chủ tịch nước.
Ngân hàng trung ương có nhiều nhiệm vụ to lớn, trong đó đặc biệt quan
trọng là việc quản lý dự trữ ngoại hối. Tính đến cuối quý 1 năm 2007, dự trữ ngoại
hối của Trung Quốc đã lên tới hơn 1.200 tỉ USD, đưa Trung Quốc trở thành quốc
gia có lượng dự trữ ngoại hối lớn nhất thế giới. Số ngoại hối dự trữ của Trung Quốc
chủ yếu được đầu tư vào trái phiếu chính phủ nước ngoài, tập trung vào các trái
phiếu có mức độ tín nhiệm cao.
Việt Nam: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được thành lập tháng 5/1951, lúc
đầu có tên là Ngân hàng Quốc gia Việt Nam, đến năm 1960 đổi tên thành Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam. Đây là cơ quan cấp Bộ, trực thuộc Chính phủ, là Ngân
NCS K5- Nguyễn Thị Hoài Thu

10


hàng Trung ương của nước ta. ở Việt Nam, Ngân hàng Trung ương có chức năng
quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng, quản lý nhà nước các dịch vụ
công và thực hiện đại diện chủ sở hữu phần vốn của Nhà nước tới doanh nghiệp có
vốn Nhà nước trong lĩnh vực ngân hàng.
Nhiệm vụ quan trọng của NHNN là thực hiện thanh tra, giám sát hoạt động
ngân hàng. Cùng với điều hành chính sách tiền tệ, thanh tra, giám sát ngân hàng thật
sự là trụ cột thứ hai để bảo đảm NHNN thực hiện có hiệu quả chức năng quản lý
nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng, thực hiện mục tiêu an toàn
hệ thống các TCTD. Từ đó, tạo môi trường thuận lợi cho ổn định vĩ mô và tăng
trưởng kinh tế. Sự an toàn, lành mạnh của hệ thống các TCTD góp phần tạo môi
trường thuận lợi cho các hoạt động thương mại, đầu tư, tài chính phát triển và thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh.Ở hầu hết các nền kinh tế trên thế giới, ngành ngân

hàng luôn chiếm vị trí trụ cột trong hệ thống tài chính và có vai trò quan trọng đối
với quá trình tăng trưởng kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô bởi vị thế trung gian và
sự tập trung tài sản của nền kinh tế trong hệ thống ngân hàng.
1.2.2. Vai trò của NHTW đối với sự an toàn của hệ thống tài chính ngân hàng
trong môi trường tài chính mới*1
Môi trường tài chính mới là môi trường tài chính bị điều chỉnh bởi những diễn
biến tiêu cực của nhiều định chế tài chính lớn của một số quốc gia trong cuộc khủng
hoảng tài chính toàn cầu vừa qua và trong bối cảnh nền tài chính thế giới đã bắt đầu
có những dấu hiệu hồi phục.Vậy, chúng ta cần nghiên cứu vai trò của NHTW để ổn
dịnh hệ thống tài chính ngân hàng trong thời kỳ này.
1.2.2.1. Đánh giá rủi ro của toàn bộ hệ thống
Trước hết, NHTW cần phải đánh giá rủi ro trên toàn bộ hệ thống của một
quốc gia có cân nhắc đến mối quan hệ giữa nền kinh tế sản xuất và thị trường tài
chính và giữa các định chế tài chính với nhau. Việc đánh giá này sẽ làm cơ sở cho
các hành động chính sách liên quan đến sự ổn định của hệ thống tài chính.Trước khi
xảy ra cuộc khủng hoảng, các NHTW đã đưa ra lời cảnh báo về tình trạng tích tụ rủi
1

* Vai trò của Ngân hàng trung ương trong giai đọan mới PMH (Nguồn Ban thư ký Hội
nghị tiền tệ quốc tế và NHTW Nhật Bản)

NCS K5- Nguyễn Thị Hoài Thu

11


ro thông qua các báo cáo hệ thống tài chính và các nhà lãnh đạo ngân hàng cũng
như bản thân các đối tượng tham gia thị trường ở chừng mực nào đó đã nhận biết
được những rủi ro đó. Nếu người ta nghiêm chỉnh hành động để cắt giảm các rủi ro
đó, thì cần phải có những hành động chỉnh sửa. Nhưng để vượt qua khuôn khổ của

công tác phân tích và thực hiện những hành động chỉnh sửa, thì cần phải thực hiện
việc đánh giá một cách kỹ lưỡng, cần một ý chí chính trị mạnh mẽ cùng với một
khuôn khổ pháp lý đủ mạnh để cho phép thực hiện những hành động có hiệu quả
cao. Trong bất cứ trường hợp nào, nếu không thực hiện việc đánh giá toàn bộ một
hệ thống, thì không thể thực hiện được các hành động. Rõ ràng NHTW có được vị
thế đương nhiên để đóng vai trò thực hiện việc đánh giá đó. Với chức năng là cơ
quan chịu trách nhiệm về chính sách tiền tệ, NHTW tập trung vào các điều kiện
kinh tế vĩ mô, có mối quan hệ chặt chẽ với các đối tác thị trường tài chính và có nền
văn hóa thể chế sẽ quan tâm thích đáng đến công tác nghiên cứu.
1.2.2.2. Đánh giá lại việc thực thi chính sách tiền tệ
Thứ hai, NHTW cần phải đánh giá lại việc thực thi chính sách tiền tệ. : “chính
sách tiền tệ có thể hoặc cần được thực thi như thế nào trong một môi trường mà ở
đó giá cả tài sản đang tăng, hoạt động tín dụng đang tăng và tình trạng cho vay vượt
quá mức cho phép đang diễn ra và nền kinh tế đang tăng trưởng?”.
Khi nhìn vào các đối tượng tham gia thị trường và toàn bộ ban lãnh đạo cấp
cao của ngân hàng, thì động cơ của họ chịu sự tác động của điều kiện kinh tế vĩ mô
và tài chính. Ví dụ điển hình nhất là công cuộc tìm kiếm lãi suất được người ta
chứng kiến trong cái gọi là Thời kỳ Tiết chế vĩ đại. Vấn đề động cơ này chuyển biến
thành mối thách thức đầy khó khăn cho chính sách tiền tệ khi mà tình trạng bong
bóng tài sản xuất hiện.
Trong điều kiện kinh tế ảm đạm như vậy, việc nâng lãi suất cơ bản ở chừng
mực nào đó có tác động ngắn hạn trong việc làm giảm bớt các hoạt động kinh tế
giống như tình trạng bong bóng. Mặt khác, nếu NHTW duy trì chính sách tiền tệ rất
nới lỏng, thì sẽ gây ra hậu quả cấp tín dụng tràn lan và cho vay quá mức cho phép.
Việc tích tụ các khoản nợ quá mức không thể hạn chế bằng một mình chính sách
tiền tệ, mà cần phải phối hợp hàng loạt các biện pháp chính sách. Đồng thời, nếu
NCS K5- Nguyễn Thị Hoài Thu

12



chính sách tiền tệ không phù hợp, thì tình trạng bong bóng lại càng trở nên nghiêm
trọng hơn, và cuối cùng sẽ nổ tung làm cho nền kinh tế suy giảm trầm trọng
1.2.2.3.Chỉnh sửa lại các quy chế an toàn
NHTW có thể hoặc không phải đóng vai trò là cơ quan quản lý điều tiết tùy
thuộc vào quy định trong hệ thống pháp luật của từng nước. Tuy nhiên, cho dù quy
định của hệ thống pháp luật như thế nào đi chăng nữa, thì các NHTW là những cơ
quan chịu trách nhiệm về sự ổn định của hệ thống tài chính ngân hàng sẽ có thể và
cần phải đóng vai trò xây dựng thông qua việc thiết kế các quy định an toàn. Cách
hành xử của các định chế tài chính chịu tác động mạnh mẽ bởi cả môi trường kinh
tế vĩ mô lẫn các quy định an toàn. Lấy một ví dụ cụ thể như các quy định an toàn về
yêu cầu vốn pháp định và các thông lệ ngân hàng như yêu cầu trích lập dự phòng
rủi ro cần phải được đánh giá lại với mục đích giảm bớt xu hướng thiên về chu kỳ.
Một khuôn khổ hướng dẫn các ngân hàng thiết lập quỹ dự phòng rủi ro trong điều
kiện kinh tế phát triển để các ngân hàng có thể sử dụng các quỹ dự phòng đó nhằm
duy trì chức năng trung gian tài chính của mình trong tình hình kinh tế vĩ mô gặp
khó khăn là điều vô cùng quan trọng.
1.2.2.4. Tăng cường việc cung cấp các dịch vụ ngân hàng
Trong những năm gần đây, các NHTW đã thực hiện nhiều biện pháp để tăng
cường tính ổn định và hiệu quả của hệ thống thanh toán, chẳng hạn như các biện
pháp giảm thiểu rủi ro thanh toán phát sinh từ sự khác biệt trong múi giờ trong các
giao dịch ngoại hối và đẩy mạnh việc kiểm soát hệ thống thanh toán. Trong quá
trình khủng hoảng, trong lĩnh vực hoạt động của thị trường tiền tệ, các NHTW đã
mở rộng quy mô thế chấp và mạng lưới các đối tác, và các NHTW lớn đã hợp tác
với nhau để cung cấp thanh khoản đô la Mỹ. Các biện pháp này đã giúp đỡ cho việc
phục hồi sự ổn định của các thị trường tài chính.
Tuy nhiên, trong các thị trường tài chính thường xuyên biến động vẫn còn
nhiều thách thức. Người ta thường nói rằng các thị trường tài chính đang dần dần
trở nên thông suốt theo nghĩa bóng. Nhưng thực tế thị trường này còn lâu mới trở
nên thông suốt, và chỉ cần nhìn vào bằng chứng được thể hiện trong các giao dịch

tài chính và các giao dịch thanh toán là chúng ta sẽ rõ. Trong ngày, những lệnh
NCS K5- Nguyễn Thị Hoài Thu

13


thanh toán từ trong ra và từ ngoài vào hoàn toàn không đồng bộ, và do đó lại xuất
hiện yêu cầu tín dụng thêm một ngày nữa. Điều này là đặc trưng trong các giao dịch
ngoại hối, cho dù các rủi ro đó đã giảm đi thông qua việc áp dụng nghiệp vụ thanh
toán kết nối liên tục (CLS). Ngoài ra, tình trạng biến động thị trường có thể bất ngờ
tăng nhu cầu tài trợ ngắn hạn, do các định chế tài chính yêu cầu bổ sung thế chấp
trong khuôn khổ các thỏa thuận ký quỹ. Kết quả là trong quá trình thực hiện các
giao dịch tài chính, tình trạng rò rỉ thanh khoản hoặc ứ đọng thanh khoản tạm thời
là không thể tránh khỏi và do vậy nảy sinh tình trạng ách tắc. Trong thời kỳ khủng
hoảng, tình trạng thiếu thanh khoản do sự ách tắc như vậy có thể làm cho tình hình
trở nên trầm trọng. Các NHTW cần phải liên tục đánh giá để làm sao các dịch vụ
ngân hàng có thể khắc phục được những khiếm khuyết đó.
1.2.2.5. Tăng cường văn hóa tổ chức và nguồn nhân sự
Công tác tổ chức tại các NHTW không thể phát triển mạnh mẽ nếu như không
có một nền văn hóa phong phú nhấn mạnh đến các mục tiêu căn bản và nếu như
không có lực lượng nhân sự hùng mạnh để thể hiện nền văn hóa đó.
Thứ nhất, cả các NHTW lẫn các định chế tài chính cần phải xây dựng một nền
văn hóa nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc duy trì một viễn cảnh dài hạn. Nếu
không, cả hai không thể đạt được mục tiêu một cách bền vững, đó là sự ổn định tài
chính và kinh tế vĩ mô dài hạn cho các NHTW và khả năng sinh lời lâu dài cho khu
vực tư nhân.
Thứ hai, trong trường hợp của các NHTW, người ta phải chuẩn bị sẵn sàng để
khắc phục những khiếm khuyết của các hợp đồng chưa hoàn chỉnh và các thị
trường. Các giao dịch tài chính được hoàn tất bằng việc sử dụng một loạt các hợp
đồng và người ta không thể soạn thảo một hợp đồng thể hiện mọi thực trạng trong

tương lai. Theo thuật ngữ kinh tế học thì không bao giờ tồn tại “các hợp đồng hoàn
chỉnh”. Ví dụ, một NHTW có thể đóng vai trò là một nhà môi giới trung thực hay là
một chất xúc tác trong việc xây dựng một giải pháp theo hướng thị trường cho một
vấn đề mới phát sinh. Để sẵn sàng khắc phục các khiếm khuyết đó, điều tối quan
trọng là các NHTW cần có sự nhạy bén với những thay đổi trên các thị trường tài
chính và trong hệ thống tài chính. Tuy nhiên, vì các NHTW không phải là các tổ
NCS K5- Nguyễn Thị Hoài Thu

14


chức thiên về lợi nhuận, cho nên có nguy cơ là các NHTW không thể nhanh chóng
nhận biết được những thay đổi đó. Mặt khác, từng định chế tài chính và các đối
tượng khác tham gia thị trường lại không nhất thiết phải đồng hóa những tác động
có thể xảy ra về hành vi của mình lên toàn bộ hệ thống tài chính. Không thể duy trì
sự ổn định trong hệ thống tài chính nếu không có sự hợp tác giữa các NHTW và
khu vực tư nhân.
Các NHTW cần có những cán bộ có kỹ năng xuất sắc để thúc đẩy mối quan hệ
giữa các định chế tài chính với các đối tượng tham gia thị trường, nắm vững các
thông lệ kinh doanh một cách chi tiết và mài sắc quan điểm vĩ mô của mình. Một
trong những vai trò quan trọng của NHTW là phải phát triển nền văn hóa tổ chức
đó. Các NHTW phải xây dựng cho mình một nền văn hóa thừa nhận tầm quan trọng
của các nỗ lực hợp tác và kịp thời công bố cho dân chúng biết những vấn đề mới
nảy sinh trong nền kinh tế của các thị trường tài chính có thể tác động tiêu cực đến
sự ổn định của thị trường tài chính.
1.3. Hoạt động giám sát từ xa của NHTW
Hoạt động giám sát là chức năng quan trọng của Ngân hàng trung ương
giúp cho NHTW tiếp cận được các mặt yếu kém trong hoạt động của các định
chế tài chính nói chung và các ngân hàng thương mại nói riêng và đánh giá
chính xác những yếu tố rủi ro. Nói cách khác, giám sát của NHTW theo hướng

tích cực được tập trung vào kiểm tra những mặt yếu kém của hoạt động ngân
hàng. Đối tượng giám sát là tài sản xấu, nợ khó đòi, công tác quản lý. Kết quả
giám sát theo các chuẩn mực là cơ sở để NHTW áp dụng giải pháp tác động tích
cực tiếp theo như: để xử lý tài sản, nợ xấu, nợ khó đòi, thông qua nghiệp vụ
mua bán nợ, hỗ trợ tài chính hoặc yêu cầu sáp nhập, giải thể hoặc phá sản.
Ngày nay, hoạt động giám sát an toàn hệ thống đã làm thay đổi cơ bản
diện mạo và nội dung hoạt động giám sát của Ngân hàng trung ương. Hoạt động
giám sát quan trọng đến mức nhiều nước gọi tổ chức này là cơ quan giám sát
hoặc như một thành viên của hệ thống giám sát an toàn tài chính quốc gia.

NCS K5- Nguyễn Thị Hoài Thu

15


1.3.1. Khái niệm GSTX*2
Giám sát từ xa là quá trình thu thập và xử lý các số liệu báo cáo của các
định chế tài chính để đánh giá việc thực hiện các chỉ tiêu an toàn cơ bản trong hoạt
động ngân hàng; Hoạt động giám sát từ xa được tiến hành hàng tháng và được thực
hiện qua mạng máy tính, kết quả hoạt động giám sát từ xa còn có tác dụng hỗ trợ tốt
để Thanh tra Ngân hàng thực hiện công tác thanh tra tại chỗ.
Giám sát từ xa (off-site Surveillance) là việc tổng hợp, phân tích các báo
cáo định kỳ để đánh giá tình hình hoạt động của ngân hàng.
1.3.2. Đặc điểm GSTX
Giám sát từ xa của ngân hàng trung ương về nguyên tắc cơ bản cũng như
hoạt động giám sát từ xa của các cơ quan thanh tra, giám sát khác. Để đạt được
đầy đủ các mục tiêu mà hoạt động thanh tra giám sát của ngân hàng trung ương
đề ra, đặc biệt đối với quốc gia mà ở đó hệ thống kiểm soát hoạt động ngân
hàng còn hạn chế, môi trường pháp lý và kỷ cương thị trường đang trong quá
trình hình thành, hoạt động kiểm tra và giám sát hoạt động của các NHTM tuân

theo khuôn khổ pháp luật về an toàn tiền tệ.
1.3.2.1. Địa điểm tiến hành giám sát
Việc giám sát được thực hiện tại trụ sở của cơ quan giám sát, chứ không
phải tại trụ sở của các NHTM.
1.3.2.2 Nguồn số liệu để giám sát
Giám sát từ xa sử dụng nguồn thông tin từ các NHTM và các nguồn
thông tin được thu thập khác. Thực hiện chế độ thông tin báo cáo của NHTW
đối với các NHTM định kỳ gửi báo cáo theo quy định. Đây là nguồn số liệu
chính phục vụ cho công tác giám sát từ xa.
Ngoài ra, giám sát từ xa còn sử dụng các nguồn thông tin khác được thu
thập như: thông tin do các cơ quan thanh tra giám sát khác, BHTG, thông tin từ
phương tiện thông tin đại chúng. . .

2

Quy chế giám sát từ xa đối với các TCTD hoạt động tại Việt Nam (Ban hành kèm theo
Quyết định số 398 /1999/QĐ-NHNN3 ngày 9/11/1999 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước )

NCS K5- Nguyễn Thị Hoài Thu

16


1.3.2.3 Cách thức giám sát
Việc giám sát được thực hiện liên tục theo định kỳ tháng, quý, năm trên
cơ sở nguồn thông tin từ các NHTM, của các cơ quan thanh tra giám sát khác và
các nguồn thông tin khác tự thu thập.
Hệ thống các chỉ tiêu phân tích, đánh giá dựa trên khuôn khổ CAMELS
và hệ thống các nguyên tắc của Hiệp ước Basel , Basel 2.
Xử lý thông tin, phân tích, đánh giá, đưa ra những nhận định về thực

trạng của từng NHTM và của cả hệ thống.
Các chương trình giám sát được thực hiện trên mạng máy tính, trên cơ sở
phần mềm giám sát xử lý thông tin.
1.3.2.4. Kết quả giám sát
Giám sát từ xa được kết hợp với kiểm tra tại chỗ chỉ ra những lĩnh vực và
những đơn vị cần kiểm tra;
Kết quả giám sát từ xa có tác dụng phát hiện, cảnh báo nguy cơ rủi ro có
thể xảy ra trong hoạt động của các ngân hàng thương mại; có tác dụng tư vấn và
tham khảo trong việc nhận định tổng quan về hoạt động ngân hàng đối với các
cơ quan chức năng để từ đó đưa ra những nhận định phù hợp phục vụ cho công
tác quản lý.
1.3.3. Các phương pháp GSTX
Phương pháp giám sát từ xa phụ thuộc vào các yếu tố khuôn khổ luật
pháp, hệ thống kiểm toán, chế độ hạch toán, kỷ luật thông tin báo cáo ở từng
nước có vận dụng khác nhau về nội dung, về quy mô của phương pháp này. Các
cơ quan giám sát tại các quốc gia có hệ thống giám sát và ngân hàng phát triển
thường sử dụng kết hợp nhiều hệ thống, phương pháp để đánh giá, giám sát rủi
ro, qua đó có điều kiện để phát hiện ra dấu hiệu rủi ro mà ngân hàng có thể gặp
phải trong quá trình hoạt động.Các hệ thống được sử dụng thường kết hợp
những đánh giá định tính và những tính toán định lượng. Việc lựa chọn tỉ trọng
của nhân tố định tính và nhân tố định lượng thay đổi rất khác nhau tùy theo
từng quốc gia. NHTW ở các quốc gia khác nhau, vận dụng các phương pháp
giám sát khác nhau. Tuy nhiên về cơ bản gồm những nội dung sau:
NCS K5- Nguyễn Thị Hoài Thu

17


1.3.3.1 Phương pháp giám sát theo CAMELS
Hệ thống CAMELS được xây dựng và các cơ quan giám sát Mỹ sử dụng

từ những năm 1980. Hệ thống xếp hạng theo phương pháp CAMELS đánh giá
hoạt động ngân hàng toàn diện, được các thanh tra viên sử dụng để xếp hạng
từng ngân hàng, bao gồm: tính toán với các tiêu chí Vốn, Chất lượng tài sản,
Khả năng Quản lý, Thu nhập và Tính thanh khoản để xếp hạng các ngân hàng
theo mức từ 1 đến 5 theo mức độ cần giám sát tăng dần. Từ năm 1996, hệ thống
này mới bổ sung thêm các tiêu chí về mức độ nhạy cảm với rủi ro thị trường.
Mô hình giám sát từ xa theo CAMELS hiện đang được nhiều nước trên thế giới
thực hiện, chứa đựng đầy đủ những nội dung cần thiết để tiến hành đánh giá xếp
hạng các tổ chức tín dụng. Các thành phần của CAMELS là: C = Capital
adequacy (sự đủ vốn); A = Assets quality (chất lượng tài sản có); M :
Management eapacity (năng lực quản lý); E = Eamings (khả năng sinh lời); L =
Liquidity (khả năng thanh toán); S = Sensibility to market risk (sự nhạy cảm rủi
ro thị trường), cụ thể:
- Mức đủ vốn (yếu tố C): Vốn ở đây được hiểu theo một nghĩa rộng hơn
không chỉ đơn thuần là vốn tự có của ngân hàng. Vốn tự có của ngân hàng chỉ
là thành phần được đưa ra đầu tiên để giám sát sự đủ vốn của ngân hàng. Một
ngân hàng hoạt động trong môi trường kinh doanh bình đẳng, có đủ vốn là một
lợi thế và còn là nội dung bắt buộc. Một ngân hàng cần duy trì một mức vốn
đảm bảo chống đỡ với các loại rủi ro đặc trưng của ngân hàng và khả năng quản
lý để xác định, đo lường, kiểm soát và điều chỉnh những rủi ro này. Các loại
hình và mức độ rủi ro tác động đến hoạt động của một ngân hàng sẽ quyết định
đến mức vốn Gần duy trì thêm trên mức vốn tối thiểu theo quy định để từ đó có
thể đề phòng những hậu quả xấu mà những rủi ro này có thể có đối với mức vốn
của ngân hàng.
- Chất lượng tài sản có (Yếu tố A): Tài sản có của ngân hàng được xem
là có chất lượng, khi ngân hàng quản lý được rủi ro, tránh được sự tập trung tín
dụng, tỷ lệ nợ bị phân loại trong tổng dư nợ ở mức chấp nhận được. Chất lượng
tài sản có được đánh giá dựa trên mức độ, sự phân bổ và tình trạng của các
NCS K5- Nguyễn Thị Hoài Thu


18


nhóm tài sản không tính cộng dồn và tài sản được giảm lãi suất; mức độ đảm
bảo dư nợ, năng lực quản lý và điều hành, việc xừ lý và thu hồi những khoản nợ
có vấn đề Mức đảm bảo dự phòng nợ và khả năng có thể xử lý và thu hồi các
khoản nợ có vấn đề chính là yếu tố tác động tốt, ở một chừng mực nào đó, đến
khả năng khắc phục những khó khăn có thể xảy ra với các nhóm nợ. Việc đánh
giá chất lượng tài sản có nên xem xét đến các mức độ tập trung tín dụng hoặc
đầu tư, bản chất và số lượng của các nhóm nợ đặc biệt, và tính hợp lý của các
chính sách cho vay và các quy trình thủ tục tín dụng.
- Năng lực quản lý (Yếu tố M): Giám sát về năng lực quản lý điều hành
của Ban điều hành như: trình độ năng lực của Hội đồng quản trị, của Ban giám
đốc, trình độ của hệ thống nhân viên, sự hoàn hảo của hệ thống thông tin quản
lý. Năng lực quản lý cần được đánh giá dựa trên tất cả các yếu tố được cho là
cần thiết đối với hoạt động của ngân hàng trong một môi trường an toàn và các
hoạt động ngân hàng được chấp nhận. Do vậy, năng lực quản lý được đánh giá
dựa trên trình độ học vấn, năng lực điều hành và lãnh đạo, các chính sách và
quy trình quản lý rủi ro, khả năng tuân thủ pháp luật và các quy định, khả năng
lên kế hoạch và đối phó với những biến động của môi trường và những kết quả
từ sự thành công trong quản lý. Việc đánh giá năng lực quản lý cũng cần xem
xét đến những chất lượng của những hoạt động kinh doanh và tất cả các chính
sách cho vay, đầu tư và kinh doanh, cũng như sự tham gia của Ban giám đốc và
các cổ đông. Căn cứ vào đặc trưng và phạm vi hoạt động của ngân hàng, hoạt
động quản lý có thể xem xét đến một số hoặc tất cả những rủi ro sau: rủi ro tín
dụng, rủi ro thị trường, rủi ro hoạt động, hoặc các giao dịch, danh tiếng, chiến
lược, khả năng tuân thủ, tính pháp lý và thanh khoản của ngân hàng.
- Khả năng sinh lời (Yếu tố E): Khả năng sinh lời được đánh giá dựa trên
khả năng xử lý với các khoản nợ mất vốn và khả năng đảm bảo mức vốn cần
thiết, xu hướng tăng trưởng của thu nhập, so sánh trong nhóm tương đồng, chất

lượng và các thành phần của thu nhập ròng, mức độ thu nhập của nguồn vốn
nhạy cảm với lãi suất. Việc đánh giá cũng cần xem xét mối quan hệ với tỷ lệ chi
trả cổ tức, với tốc độ tăng trưởng lợi nhuận để lại và mức độ đảm bảo vốn của
NCS K5- Nguyễn Thị Hoài Thu

19


ngân hàng. Mức đảm bảo dự phòng mất nợ và đề phòng với những bất thường,
với các giao dịch chứng khoán và với các tác động của thuế cũng được xem xét
khi đánh giá khả năng sinh lời.
- Khả năng thanh khoản (Yếu tố L): Mức độ thanh khoản được đánh giá
theo khả năng thanh toán nhanh chóng các khoản tiền gửi; tần suất và mức độ
sử dụng nguồn vốn đi vay của ngân hàng; năng lực chuyên môn liên quan đến
cơ cấu tài sản nợ; mức độ sẵn có của tài sản có thể chuyển đổi thành tiền mặt và
mức độ tiếp cận với thị trường tiền tệ hoặc những nguồn vốn khác.
Mức độ thanh khoản của một ngân hàng phải được đánh giá theo từng
giai đoạn và từng thời điểm cụ thể. Cũng cần phải xem xét đến hiệu quả nói
chung của chiến lược quản lý tài sản có - tài sản nợ của ngân hàng cũng như
mức độ tuân thủ và mức độ đầy đủ của các chính sách về thanh khoản của họ.
Về bản chất, số lượng và sử dụng trước các cam kết về tín dụng và bảo lãnh
cũng là các yếu tố được đưa vào xem xét.
- Sự nhạy cảm rủi ro thị trường (Yếu tố S): Mức độ nhạy cảm với rủi ro
phản ánh mức độ tại đó những thay đổi về lãi suất, tỉ giá hối đoái, giá tiêu dùng
hoặc giá vốn có thể ảnh hưởng đến thu nhập hoặc vốn của một ngân hàng. Khi
ngân hàng trong việc xác định, đo lường, giám sát và kiểm soát rủi ro thị
trường; quy mô ngân hàng; bản chất và mức độ phức tạp về các hoạt động kinh
doanh của ngân hàng; và mức độ đầy đủ về vốn và thu nhập liên quan đến mức
độ rủi ro thị trường. Đối với nhiều ngân hàng, các rủi ro thị trường chủ yếu xuất
phát từ trạng thái đầu tư theo đúng kỳ hạn và mức độ nhạy cảm với những thay

đổi về lãi suất. ở một số ngân hàng lớn hơn, các hoạt động ở nước ngoài có thể
là nguyên nhân chủ yếu về rủi ro thị trường và một số khác thì các hoạt động
kinh doanh ngoại hối lại là nguyên nhân chính về rủi ro thị trường.
Việc xếp hạng sẽ được sử dụng để đánh giá thực trạng của hệ thống ngân
hàng, đưa ra những hoạt động cần thiết cho thanh tra tại chỗ. Nội dung của toàn
bộ hoạt động thanh tra tại chỗ sẽ dẫn đến những điều chỉnh cho việc xếp hạng
tổng thể CAMELS. Mức xếp hạng tổng hợp là kết quả của việc xếp hạng 6 yếu
tố trên. Xếp hạng 1 là mức xếp hạng cao nhất với ý nghĩa là tổ chức có hệ thống
NCS K5- Nguyễn Thị Hoài Thu

20


tốt nhất, đảm bảo chất lượng quản lý rủi ro, gắn liền với một mức độ giám sát ít
nhất. Xếp hạng 5 là mức xếp hạng xấu nhất, tức là tổ chức này có hoạt động yếu
kém, không đảm bảo khả năng quản lý rủi ro và đòi hỏi khả năng quản lý rủi ro
và đòi hỏi hoạt động giám sát cao nhất cho tổ chức này.
Các mô hình xếp hạng khác
Ngoài ra, có một số mô hình khác được sử dụng ở các cơ quan giám sát
khác nhau hoặc ở các quốc gia khác nhau như ORAP, PATROL nhưng về cơ
bản, các mô hình đó cũng dựa trên cơ sở các tiêu chí tương đối giống như mô
hình CAMELS .
Phân tích từng ngân hàng bằng nhiều tiêu chí được chuẩn hóa (ORAP):
ORAP nhằm phát hiện từ gốc những yếu kém có thể có của các ngân hàng, dựa
trên việc nghiên cứu toàn bộ những thành tố của rủi ro gắn với hoạt động và
môi trường riêng của từng ngân hàng và qua đó bổ sung cho việc tổ chức và
tăng cường hoạt động phòng ngừa. Phân tích được thực hiện bằng cách nghiên
cứu các số liệu về an toàn và được bổ sung thêm bằng việc đánh giá định lượng
và cách tính các yếu tố gây rủi ro như phân tích hoạt động của ngân hàng, việc
tuân nhủ các hệ số an toàn, đánh giá định tính và định lượng các cam kết, đánh

giá lkhả năng sinh lời sau cùng, khả năng kiềm chế rủi ro.
Như vậy, việc phân tích từng ngân hàng được chuẩn hóa gồm nhiều tiêu
chí nêu trên nhằm mục đích xác định những yếu tố gây đổ vỡ, rủi ro cho một
ngân hàng và qua đó yêu cầu ngân hàng đó thực hiện những biện pháp điều
chỉnh trước khi có thể xảy ra những khó khăn.
1.3.3.2 Phương pháp phân tích tỉ lệ tài chính và nhóm tương đồng
Hệ thống này sử dụng các tỉ lệ và phân tích theo nhóm tương đồng để
đánh giá các chỉ tiêu với mục đích có thể nhận diện được những vấn đề hoặc
các dấu hiệu rủi ro của các ngân hàng để đưa ra cảnh báo sớm. Ở từng quốc gia,
các cơ quan giám sát sử đụng phương pháp phân tích này với số lượng các tỉ lệ
tài chính khác nhau như qui mô tài sản, tốc độ tăng trưởng tài sản, cơ cấu tài sản
nợ, cơ cấu tài sản có, qui mô VCSH, tỷ lệ an toàn vốn thiểu, tỷ lệ chi phí trên

NCS K5- Nguyễn Thị Hoài Thu

21


thu nhập, tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro tín dụng, thị phần vốn huy động, thị
phần cho vay, tỷ lệ khả năng thanh khoản,…
Hệ thống giám sát BAKIS được thực hiện vào năm 1997 ở cơ quan giám
sát và ngân hàng Trung ương Đức, sử dụng 47 tỉ lệ trong đó: 19 tỉ lệ về rủi ro
tín dụng, 16 tỉ lệ về rủi ro thị trường, 2 tỉ lệ về khả năng thanh khoản, tỉ lệ về
khả năng sinh lời để thực hiện giám sát hoạt động của ngân hàng. Các tỉ lệ này
được phân tích theo tháng, quý, năm để đánh giá khả năng phòng ngừa và chịu
đựng rủi ro của từng ngân hàng.
Hệ thống phát hiện nhanh rủi ro của ủy ban ngân hàng tại Pháp thực hiện
phân chia các ngân hàng hay tổ chức tín dụng thành nhóm tín dụng tương đồng
(GHE): Việc lập nhóm các ngân hàng tương đồng về phương diện hoạt động và
cơ cấu cho thấy là thích hợp nhất để cho phép thực hiện việc phân tích, so sánh.

Vì trên thực tế, mỗi nhóm ngân hàng tương đồng được hình thành bởi các
ngân hàng có những đặc điểm chung về phương diện hoạt động, quy mô, tầm
cỡ, điều này cho phép định vị được một ngân hàng với các ngân hàng còn lại
trong nhóm (tách xa so với số liệu bình quân chung của nhóm). Việc phân chia
các ngân hàng được căn cứ theo các tiêu chí khách quan được rút ra từ các yếu
tố của bảng cân đối kế toán và các báo cáo khác cùng những số liệu định tính về
ngân hàng và việc xác định loại hình ngân hàng để phân chia vào nhóm ngân
hàng tương đồng được dựa trên sự kết hợp giữa 2 yếu tố là "khách hàng" và
"sản phẩm" của ngân hàng.
1.3.3.3. Phương pháp giám sát dựa trên rủi ro
Giám sát trên cơ sở rủi ro là việc đánh giá NHTM trên các mặt: Mức độ và
xu hướng của rủi ro; hiệu quả của quy trình quản lý rủi ro và khả năng tài chính
(vốn) của NHTM để chống đỡ (đối mặt với) các rủi ro có thể xảy ra.
Giám sát trên cơ sở rủi ro là phương pháp thanh tra tiên tiến, đánh giá tốt hơn
về rủi ro thông qua việc tách bạch mức độ rủi ro và hệ thống quản trị rủi ro; tập
trung tốt hơn vào việc phát hiện sớm rủi ro mới xuất hiện tại từng NHTM cũng như
toàn hệ thống; sử dụng nguồn lực hiệu quả hơn thông qua việc tập trung vào các
lĩnh vực chứa đựng rủi ro cao, thanh tra tại chỗ sẽ mất ít thời gian hơn tại NHTM.
NCS K5- Nguyễn Thị Hoài Thu

22


Khi thực hiện giám sát trên cơ sở rủi ro, cơ quan Thanh tra Giám sát có khả năng
đánh giá tốt hơn năng lực quản lý của NHTM, tính chất phức tạp của hoạt động
kinh doanh và những rủi ro mà NHTM gặp phải; tập trung tối đa nguồn lực để giải
quyết các lĩnh vực có rủi ro cao nhất, làm lành mạnh hoá hoạt động của NHTM, góp
phần ổn định hệ thống các NHTM.
Phương pháp này cho phép các cơ quan giám sát đánh giá tổng hợp về
tình hình rủi ro của toàn bộ ngân hàng. Cụ thể, các khoản mục hoạt động của

ngân hàng hoặc nhóm ngân hàng sẽ được phân chia thành từng mục, từ đó phân
tích tình hình rủi ro, cấu trúc và kiểm soát của ngân hàng dựa trên cơ sở một số
những yếu tố nhất định. Trên cơ sở đó, mô hình sẽ đưa ra kết quả chấm điểm
đối với từng ngân hàng trong những khoảng thời gian nhất định.
Sau đó, sử dụng trọng số để kết hợp các phân tích định lượng và đánh giá
định tính để đưa ra mức điểm cuối cùng.
Một ví dụ đơn giản: ngân hàng thương mại X cho vay một khách hàng tới
14,8% vốn tự có. Bằng thanh tra tuân thủ, kết luận ngân hàng chấp hành nghiêm
pháp luật. Tuy nhiên, quan sát trên khía cạnh rủi ro ngân hàng vẫn có thể không thu
hồi được nợ do vi phạm quy trình nội bộ về cấp tín dụng dẫn đến thẩm định không
chính xác về tài chính của khách hàng vay vốn.
1.3.3.4. Phương pháp giám sát theo mô hình thống kê
Mô hình thống kê dự báo về tình hình hoạt động của các ngân hàng được
sử dụng phổ biến trong những năm gần đây vì những mô hình này có tác dụng
cảnh báo sớm cao. Các mô hình này thường sử đụng những kĩ thuật định lượng
tiên tiến để dự báo về tình hình hoạt động và mức độ rủi ro dựa trên những số
liệu hiện tại, qua đó cho phép các cơ quan giám sát có thể phân loại những ngân
hàng có mức độ rủi ro, nguy cơ đổ vỡ cao hoặc ngân hàng có rủi ro và nguy cơ
đổ vỡ thấp phương pháp này được áp dụng vào đầu những năm 90, xuất phát từ
nguyên nhân có hàng loạt các ngân hàng bị đổ vỡ ở Mỹ, chi phí để giải quyết
những ngân hàng sau khi đổ vỡ là quá lớn.
Phương pháp thống kê phân tích tổng thể (SAABA): đây là hệ thống trợ
giúp phân tích ngân hàng một cách tự động hóa nhằm phát hiện một cách nhanh
NCS K5- Nguyễn Thị Hoài Thu

23


nhất có thể những yếu tố gây rủi ro. Sự độc đáo của hệ thống này chính là phần
mềm tin học. Toàn bộ những thông tin liên quan đến từng ngân hàng lấy từ các cơ

sở dữ liệu khác nhau được tái tạo lại dưới dạng tin học để có thể xử lý một cách tự
động để có thể xem xét, đánh giá những rủi ro khác nhau của ngân hàng.
Những loại hình rủi ro khác nhau được xử lý thích hợp với bản chất của
chúng, những rủi ro mang tính định lượng sẽ được tiếp cận qua đánh giá tài
chính, những rủi ro định tính sẽ được xử lý bằng hệ thống chuyên gia SAABA
theo một phương pháp dàn dựng đặc thù với mỗi ngân hàng. Đối với mỗi ngân
hàng thông qua việc sử dụng phương pháp này người sử dụng có thể nắm bắt
được: một bản phân tích tổng hợp về ngân hàng; nhiều phân tích từng phần
tương ứng với những khía cạnh chính của rủi ro ngân hàng; một bản trình bày
chi tiết về ngân hàng để người sử dụng có thể chọn lựa mức độ chi tiết mong
muốn (đi từ những yếu tố chính của rủi ro đến việc phân tích các số liệu kế toán
và tài chính).
1.3.5. Nguyên tắc giám sát từ xa theo BASEL
Uỷ ban Basel về Thanh tra giám sát ngân hàng đưa ra 25 nguyên tắc cơ bản
cần thiết đảm bảo cho hệ thống giám sát hoạt động có hiệu quả. Nội dung chính của
các nguyên tắc này theo cụm chủ đề như sau:
* Các nguyên tắc thuộc cụm chủ đề “Điều kiện tiên quyết cho việc giám
sát nghiệp vụ ngân hàng hiệu quả”:
Nguyên tắc 1 – Mục đích, tính độc lập, quyền hạn, tính minh bạch và sự
hợp tác:
Một hệ thống giám sát ngân hàng hiệu quả phải phân định trách nhiệm rõ
ràng và mục đích của mỗi đơn vị có thẩm quyền giám sát ngân hàng. Mỗi đơn vị
phải có sự hoạt động độc lập, các quy trình minh bạch, có lực lượng nhân sự đầy đủ
và được quản lý phù hợp, phải chịu trách nhiệm hoàn toàn trước nhiệm vụ được
giao. Một khuôn khổ pháp lý phù hợp đối với việc giám sát hệ thống ngân hàng
cũng rất cần thiết, bao gồm cả các điều liên quan đến cấp phép thành lập mới các
ngân hàng và việc giám sát liên tục hoạt động của hệ thống ngân hàng; quyền hạn
kiểm tra tính tuân thủ của hệ thống ngân hàng cũng như kiểm tra khi có nghi vấn về
NCS K5- Nguyễn Thị Hoài Thu


24


tính an toàn và bền vững của hệ thống. Các quy định về chia sẻ thông tin giữa các
cơ quan quản lý nhà nước và quy định về bảo mật các thông tin cũng cần phải được
quy định rõ ràng.
* Các nguyên tắc thuộc cụm chủ đề “Cấp phép và cơ cấu”:
Nguyên tắc 2 – Các hoạt động được phép: Các hoạt động được phép của
các tổ chức được cấp phép và chịu sự giám sát dưới tên gọi ngân hàng phải được
quy định rõ ràng và việc sử dụng cụm từ “ngân hàng” ở tên gọi của tổ chức phải
được kiểm soát gắt gao.
Nguyên tắc 3 – Các tiêu chí cấp phép: Cơ quan quản lý nhà nước có thẩm
quyền cấp phép phải có quyền đề ra các tiêu chí và từ chối đơn xin cấp Giấy phép
thành lập nếu hồ sơ không đáp ứng được các tiêu chuẩn đề ra. Quá trình cấp phép
tối thiểu phải có sự đánh giá về cơ cấu chủ sở hữu và quản trị ngân hàng, trong đó
bao gồm sự phù hợp và khả năng của các thành viên Hội đồng quản trị cũng như
Ban điều hành ngân hàng, chiến lược và kế hoạch hoạt động của ngân hàng, hệ
thống kiểm soát nội bộ và quản trị rủi ro, điều kiện tài chính dự kiến, bao gồm cả
vốn gốc. Nếu chủ sở hữu là hoặc tổ chức mẹ là một ngân hàng nước ngoài, ngân
hàng đó phải được cơ quan giám sát nước nguyên xứ chấp thuận trước.
Nguyên tắc 4 – Chuyển quyền sở hữu lớn: Cơ quan quản lý nhà nước phải
có quyền xem xét và từ chối bất cứ đề xuất chuyển nhượng quyền sở hữu lớn hoặc
chuyển nhượng quyền kiểm soát trực tiếp hoặc gián tiếp tại các ngân hàng hiện hữu
cho một bên khác.
Nguyên tắc 5 – Giao dịch mua lại lớn: Cơ quan quản lý nhà nước phải có
quyền chuẩn y các giao dịch mua lại lớn hoặc quyết định đầu tư lớn của ngân hàng,
ngược lại các tiêu chí đã nêu, bao gồm cả việc thành lập các hoạt động xuyên quốc
gia, và phải đảm bảo được rằng, các giao dịch hoặc thay đổi cơ cấu không ảnh
hưởng đến an toàn của ngân hàng, không đem đến cho ngân hàng các rủi ro không
đáng có hoặc gây cản trở đến việc giám sát hệ thống ngân hàng hiệu quả.

* Các nguyên tắc thuộc cụm chủ đề “Các quy định và yêu cầu thận trọng”:
Nguyên tắc 6 – An toàn vốn tối thiểu: Cơ quan quản lý nhà nước phải đưa
ra các quy định về an toàn vốn tối thiểu phù hợp đối với các ngân hàng để phản ánh
NCS K5- Nguyễn Thị Hoài Thu

25


×