Tải bản đầy đủ (.docx) (94 trang)

HOÀN THIỆN CÔNG tác QUẢN lý DANH mục CHO VAY tại NGÂN HÀNG THƯƠNG mại cổ PHẦN QUÂN đội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.38 MB, 94 trang )

NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:
HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ DANH MỤC
CHO VAY TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
CỔ PHẦN QUÂN ĐỘI

Họ và tên sinh viên
Lớp
Khóa
Khoa

: PHẠM NGỌC ANH
: NHTMB - K13
: 2010 - 2014
: Ngân hàng

Hà Nội, tháng 5 năm 2014
NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP


Đề tài:
HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ DANH MỤC
CHO VAY TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
CỔ PHẦN QUÂN ĐỘI

Họ và tên sinh viên
Lớp
Khóa
Khoa
Giáo viên hướng dẫn

: PHẠM NGỌC ANH
: NHTMB - K13
: 2010 - 2014
: Ngân hàng
: TS. NGUYỄN THỊ HOÀI THU

Hà Nội, tháng 5 năm 2014

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan bài khóa luận tốt nghiệp này là công trình nghiên cứu của
riêng tôi, do tôi trực tiếp thực hiện dưới sự hướng dẫn của TS. Nguyễn Thị Hoài Thu.
Các số liệu trong bài hoàn toàn trung thực, mọi tài liệu tham khảo đều được trích dẫn
rõ ràng. Nếu sai sự thật, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Hà Nội, ngày 26 tháng 05 năm 2014
Sinh viên

Phạm Ngọc Anh



LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành bài khóa luận tốt nghiệp này, trước tiên tôi xin gửi lời cảm ơn
sâu sắc tới TS. Nguyễn Thị Hoài Thu, người đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn và chỉ bảo
tôi trong suốt thời gian làm khóa luận.
Bên cạnh đó, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy cô trong khoa Ngân
hàng cùng toàn thể thầy, cô của các khoa khác đã truyền đạt cho tôi những kiến thức
bổ ích và quý báu trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu tại trường.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn gia đình, bạn bè đã cổ vũ, động viên và tạo mọi điều
kiện giúp đỡ tôi trong thời gian qua.
Hà Nội, ngày 26 tháng 05 năm 2014
Sinh viên
Phạm Ngọc Anh


DANH MỤC KÝ TỰ VIẾT TẮT

Ký tự
CBTD

Ý nghĩa
Cán bộ tín dụng

CIC

Trung tâm thông tin tín dụng Ngân hàng Nhà nước

DN


Doanh nghiệp

DPRR
MB

Dự phòng rủi ro
Ngân hàng thương mại cổ phần Quân Đội

NHNN

Ngân hàng Nhà nước

NHTM

Ngân hàng thương mại

QTRR

Quản trị rủi ro

TCTD

Tổ chức tín dụng


DANH MỤC BIỂU ĐỒ


DANH MỤC BẢNG


MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC KÝ TỰ VIẾT TẮT
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
DANH MỤC BẢNG
MỤC LỤC
PHỤ LỤC


7

LỜI NÓI ĐẦU
1 Tính cấp thiết của đề tài:
Hiện nay, ngân hàng Việt Nam không chỉ là một kênh đáp ứng vốn chủ yếu cho
nền kinh tế mà còn góp phần lớn trong việc kiềm chế lạm phát, ổn định giá trị đồng
tiền. Khi tham gia sâu vào hội nhập, cạnh tranh đã thực sự là động lực to lớn cho cải
cách, đổi mới mạnh mẽ trong hoạt động ngân hàng. Để tối đa hóa khả năng sinh lời,
các NHTM Việt Nam đã đưa ra nhiều sản phẩm, dịch vụ mới. Nhưng hầu như các
nghiệp vụ của ngân hàng đều tiềm ẩn rủi ro. Trong đó, hoạt động cho vay là hoạt động
tiềm ẩn rủi ro chủ yếu. Vì hoạt động cho vay chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản, là
hoạt động truyền thống, có vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động của ngân hàng.
Trong thời gian gần đây, tỷ lệ nợ quá hạn, nợ xấu trên tổng dư nợ của các
NHTM Việt Nam là một con số không nhỏ. Mà nợ quá hạn là thước đo quan trọng
nhất đánh giá sự lành mạnh thể chế. Nó tác động tới tất cả các lĩnh vực hoạt động
chính của ngân hàng. Rủi ro tín dụng cao làm ngân hàng giảm lợi nhuận và có thể dẫn
tới phá sản. Trong khi đó, nhiều ngân hàng tỷ lệ nợ xấu còn vượt quá tỷ lệ cho phép theo
quy định của NHNN, cho vay tập trung vào một nhóm khách hàng; không có sự đa dạng

về ngành nghề, địa bàn,… cũng như chưa quan tâm nhiều đến việc quản lý danh mục
cho vay, đo lường, phòng ngừa rủi ro. Do đó, quản trị danh mục cho vay được xem là
biện pháp quan trọng nhằm đạt được các mục tiêu kinh doanh của NHTM.
Với mong muốn tìm hiểu về thực trạng quản lý danh mục cho vay của ngân
hàng từ đó đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động quản lý danh mục cho vay,
em chọn đề tài: "HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ DANH MỤC CHO VAY
TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN QUÂN ĐỘI” làm đề tài khóa luận
tốt nghiệp.
2 Mục tiêu nghiên cứu:
Nghiên cứu những vấn đề cơ bản về quản lý danh mục cho vay trong NHTM.
Tìm hiểu thực trạng quản lý danh mục cho vay tại NHTM cổ phần Quân đội. Trên
cơ sở lý luận và thực tiễn, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý danh
mục cho vay tại NHTM cổ phần Quân đội.
3 Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu:


8

Đối tượng nghiên cứu: công tác quản lý danh mục cho vay trong hoạt động tín
dụng của ngân hàng.
Phạm vi nghiên cứu: Phân tích tình hình quản lý danh mục cho vay tại NHTM
cổ phần Quân đội từ năm 2011 đến năm 2013.
4 Phương pháp nghiên cứu:
Thu thập số liệu, tài liệu về hoạt động cho vay của NHTM cổ phần Quân đội
cùng một số NHTM Việt Nam. Từ đó khóa luận sử dụng kết hợp các phương pháp so
sánh, phân tích, tổng hợp để đánh giá mức độ rủi ro tập trung tín dụng cũng như hiệu
quả công tác quản lý danh mục cho vay tại NHTM cổ phần Quân đội. Ngoài ra tham
khảo thêm tài liệu liên quan đến vấn đề, bài học kinh nghiệm trên thế giới để đề xuất,
kiến nghị xây dựng, hoàn thiện công tác quản lý danh mục cho vay, góp phần nâng cao
chất lượng tín dụng, nâng cao năng lực cạnh tranh của NHTM cổ phần Quân đội.

5 Kết cấu khóa luận:
Ngoài lời mở đầu và kết luận, nội dung bài viết gồm ba chương như sau:
Chương I: Cơ sở lý luận về quản lý danh mục cho vay tại ngân hàng thương mại.
Chương II: Thực trạng công tác quản lý danh mục cho vay tại Ngân hàng
thương mại cổ phần Quân đội.
Chương III: Giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác quản lý danh
mục cho vay tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội.

1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ DANH MỤC CHO VAY TẠI
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1.1. DANH MỤC CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1.1.1. Hoạt động cho vay
Hoạt động cho vay của ngân hàng ra đời chỉ một thời gian ngắn sau khi các hoạt
động thu nhận tiền gửi đầu tiên hình thành, các ngân hàng sơ khai đã ý thức được việc
sử dụng những khoản tiền gửi của khách hàng để cho những người thiếu tiền vay. Nhiều


9

chủ thể khác nhau trong nền kinh tế thực hiện hoạt động cho vay như Chính phủ, các tổ
chức tài chính, DN, cá nhân… Trong đó, NHTM được biết đến là một trung gian tài
chính với cho vay là nghiệp vụ truyền thống, phục vụ đông đảo khách hàng.
Tại Việt Nam, căn cứ khoản 16, điều 4, Luật các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12
thì “Cho vay là hình thức cấp tín dụng, theo đó bên cho vay giao hoặc cam kết giao
cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một thời gian
nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi”. Một cách khái
quát, cho vay là hành vi cho người khác sử dụng một khoản tiền nhất định trong một

thời hạn xác định với nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi khi đáo hạn.
Nền kinh tế thị trường càng phát triển, đời sống xã hội càng cải thiện thì nhu
cầu khách hàng càng phong phú. Theo thời gian bản thân hoạt động cho vay ngày càng
mở rộng và đa dạng về hình thái giá trị, về thời hạn, về lãi suất, về phương thức thực
hiện. Mặc dù tỷ trọng hoạt động cho vay đang có xu hướng giảm trên thị trường tài
chính nhưng cho vay vẫn là hoạt động đem lại lợi nhuận quan trọng nhất cho ngân
hàng, tạo ra trên 2/3 tổng nguồn thu nhập của ngân hàng.
1.1.2. Danh mục cho vay:
1.1.2.1. Khái niệm:
Danh mục (Portfolio) là tập hợp những tài sản thuộc sở hữu của một tổ chức
hoặc của một người và được quản lý chung nhằm đến các mục tiêu đầu tư cụ thể [8].
Như vậy, có thể hiểu thuật ngữ danh mục cho vay như sau:
Danh mục cho vay là tập hợp của các khoản vay mà ngân hàng cung ứng tại
một thời điểm; được sắp xếp, phân loại theo những tiêu chí nhất định, phục vụ cho các
mục đích quản trị của ngân hàng. Các tiêu chí này, có thể là: thời hạn khoản vay, đối
tượng khách hàng, hình thức bảo đảm tiền vay, mục đích sử dụng vốn, khu vực địa lý,
chất lượng khoản vay…
Kinh tế xã hội càng phát triển, cạnh tranh giữa các ngân hàng cũng gay gắt hơn.
Vì thế nhiều sản phẩm cho vay mới ra đời đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Các sản
phẩm giữa các ngân hàng cũng khác nhau, hơn nữa, do đặc thù, mục tiêu, chính sách
tín dụng của từng ngân hàng mà danh mục cho vay của các ngân hàng cũng không
giống nhau. Ví dụ, khi nói đến Ngân hàng Ngoại thương thì đặc trưng danh mục cho
vay sẽ là tài trợ ngoại thương, cho các DN xuất nhập khẩu vay là chủ yếu; khi nói đến
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn thì đặc trưng danh mục cho vay sẽ là
hộ nông dân là chủ yếu [7].


10

Danh mục cho vay có ý nghĩa là công cụ để nhà quản trị định hướng cho hoạt

động cấp tín dụng, nhằm đảm bảo tính lành mạnh, mức độ chuyên môn hóa, tính đa
dạng của tài sản cho vay, giúp ngân hàng có rủi ro thấp nhất dựa trên khẩu vị rủi ro và
đạt lợi nhuận như mong muốn.
1.1.2.2. Đặc điểm danh mục cho vay:
Thứ nhất, danh mục cho vay có tính đa dạng cao. Ngân hàng không chỉ cho
vay vào một vài khách hàng riêng lẻ, một loại kỳ hạn hay một ngành nghề duy nhất mà
luôn cung ứng vốn vào những đối tượng khách hàng khác nhau, thời hạn cho vay, lĩnh
vực hoạt động khác nhau.
Thứ hai, danh mục cho vay chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng tài sản có và
mang lại thu nhập quan trọng nhất cho ngân hàng. Không thể phủ nhận cho vay luôn là
hoạt động kinh doanh tiền gửi chính của ngân hàng và lợi nhuận từ hoạt động này đem
lại là lớn nhất.
Thứ ba, danh mục cho vay có tính rủi ro và kết cấu danh mục luôn thay đổi.
Ngân hàng có những món vay theo các thời hạn nhất định, với đa dạng khách hàng và
ngành nghề kinh doanh. Vì thế, khi tất toán khoản vay, kết cấu danh mục cho vay sẽ
thay đổi, hoặc khi ngân hàng cho vay khách hàng mới thì cấu trúc danh mục cũng sẽ
khác đi. Mọi hoạt động kinh doanh đều tiềm ẩn rủi ro, các khoản vay lại có tương quan
với nhau nên không chỉ có rủi ro cho từng khoản vay riêng lẻ mà còn rủi ro cho cả
danh mục cho vay nữa.
1.1.2.3. Cấu trúc danh mục cho vay:
Những khoản vay trong danh mục có thể được phân loại theo những nhóm khác
nhau tùy vào từng tiêu chí. Việc phân loại này giúp nhà quản lý xem xét, đánh giá về
chất lượng tín dụng, về giới hạn cho vay, mức độ rủi ro tín dụng,... Từ đó, ngân hàng
sẽ có những định hướng quản lý danh mục cho vay theo mục tiêu nhất định.
Có nhiều tiêu chí phân loại khoản vay trong danh mục cho vay khác nhau, cụ
thể là một số tiêu chí dưới đây:
 Căn cứ vào thời hạn cho vay:
Danh mục cho vay của ngân hàng có thể được xây dựng theo tiêu chí thời hạn;
tỷ trọng các loại cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn được thiết kế hợp lý, nhằm
hạn chế rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất, đảm bảo tuân thủ quy định của pháp luật.

Theo thời hạn, cho vay được chia làm ba loại như sau:
- Cho vay ngắn hạn: là loại cho vay có thời hạn từ một năm trở xuống. Cho vay
ngắn hạn thường được sử dụng để cho vay bổ sung vốn lưu động thiếu hụt tạm thời
của các DN và cho vay phục vụ nhu cầu tiêu dùng của cá nhân và hộ gia đình.
- Cho vay trung hạn: là loại cho vay có thời hạn từ trên 1 năm đến 5 (hoặc 7)
năm. Loại cho vay này thường được sử dụng để tài trợ cho mục đích mua sắm tài sản


11

cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất, kinh doanh, xây
dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh.
- Cho vay dài hạn: là loại cho vay có thời hạn trên 5 (hoặc 7) năm, nhằm mục đích
đầu tư hình thành mới tài sản cố định, xây dựng các dự án lớn, thời gian thu hồi vốn dài.
 Căn cứ vào ngành kinh tế:
Trong nền kinh tế, các chủ thể cần vốn hoạt động ở rất nhiều lĩnh vực khác
nhau như lĩnh vực xuất khẩu, nông nghiệp, bất động sản, đóng tàu... Danh mục cho
vay theo ngành kinh tế hình thành một định hướng cần thiết cho quá trình đầu tư tín
dụng của ngân hàng. Những ngành nào cần tập trung mở rộng, những ngành nào cần
tiết giảm ... sẽ được thể hiện thông qua tỷ trọng xác định của từng ngành trong tổng thể
dư nợ của danh mục. Danh mục cho vay theo ngành kinh tế bộc lộ rõ quan điểm của
ngân hàng: tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên chuyên môn hóa hay là đa dạng hóa cho
vay. Danh mục cho vay theo tiêu thức này có ý nghĩa rất lớn đối với các NHTM, kể cả
trong khâu hoạch định kế hoạch cũng như trong tổ chức thực hiện.
 Căn cứ vào khu vực địa lý:
Phân loại khách hàng theo khu vực địa bàn hoạt động như miền Bắc, miền
Trung, miền Nam. Mỗi địa bàn có những đặc thù và cơ hội kinh doanh riêng.
Việc xây dựng tỷ trọng khoản mục cho vay theo khu vực địa lý thể hiện quan
điểm của ngân hàng trong việc hình thành thị trường mục tiêu, phù hợp với điều kiện
về cơ sở vật chất, mạng lưới hoạt động cũng như năng lực kiểm soát của đội ngũ nhân

viên cho vay. Trong quá trình giám sát danh mục cho vay theo khu vực địa lý, ngân hàng
sẽ đánh giá hiệu quả đầu tư của từng khu vực trong tương quan so sánh với các khu vực
khác, từ đó sẽ đưa ra những điều chỉnh thích hợp, đảm bảo mục tiêu đã hoạch định.
 Căn cứ vào đối tượng khách hàng:
Với tiêu thức này, danh mục cho vay được chia theo nhóm khách hàng DN; cá
nhân, hộ gia đình và các tổ chức tài chính.
Mỗi một đối tượng khách hàng sẽ có những đặc điểm khác nhau (về sản phẩm,
về cơ cấu tổ chức, về năng lực chịu trách nhiệm trước pháp luật,...) vì vậy, các ngân
hàng luôn có sự phân chia hợp lý tỷ trọng các khoản mục cho vay theo đối tượng
khách hàng để định hướng cho việc đầu tư an toàn và hiệu quả.
 Căn cứ vào loại tiền tệ:
Danh mục cho vay được phân loại theo đồng tiền: nội tệ (VNĐ) và ngoại tệ.
Cũng giống như danh mục cho vay theo ngành kinh tế, danh mục cho vay theo loại
tiền tệ thể hiện quan điểm, định hướng của ngân hàng trong việc tìm kiếm thị trường
mục tiêu. Và còn giúp ngân hàng đánh giá mức độ rủi ro tiềm ẩn khi có sự biến động
của đồng ngoại tệ so với nội tệ.


12

Ngoài các tiêu chí trên, ngân hàng còn sử dụng một số tiêu chí khác trong thiết
kế danh mục cho vay, chẳng hạn như: căn cứ theo tính chất đảm bảo của khoản nợ
(bao gồm cho vay có bảo đảm bằng cầm cố, thế chấp, bảo lãnh…; cho vay không có
bảo đảm); căn cứ theo tính chất sở hữu (chẳng hạn cho vay DN sở hữu nhà nước; công
ty cổ phần; DN liên doanh; tư nhân...).
1.1.3. Rủi ro danh mục cho vay
NHTM là một tổ chức kinh doanh trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ - một lĩnh
vực đa dạng và có độ nhạy cảm cao, nên rủi ro trong kinh doanh ngân hàng là rất đa
dạng. Rủi ro có thể phát sinh từ bất kỳ giao dịch hoặc hoạt động kinh doanh nào có
chứa đựng yếu tố không chắc chắn. Trong khi mọi giao dịch, hoạt động của ngân hàng

đều tiềm ẩn một mức độ nhất định của yếu tố không chắc chắn. Do vậy, tất cả các giao
dịch, hoạt động mà ngân hàng thực hiện đều góp phần hình thành nên rủi ro tổng thể
của ngân hàng.
Rủi ro danh mục cho vay là sự kết hợp các khoản cho vay trong danh mục không
đáp ứng được toàn bộ mục tiêu của danh mục về mức độ an toàn và hiệu quả. Rủi ro
danh mục cho vay đượcBiểu
phân đồ
chia
làm
hai trúc
loại là
cá biệt
và rủi
hệ thống.
1.1.
Cấu
rủirủirorodanh
mục
chorovay
Rủi ro danh mục

Rủi ro cá biệt

Rủi ro nội tại

Rủi ro hệ thống

Rủi ro tập trung

 Rủi ro cá biệt là rủi ro có nguồn gốc từ khoản cho vay riêng biệt, cụ thể thuộc một

nhóm ngành nhất định. Rủi ro cá biệt được phân ra hai loại là rủi ro nội tại và rủi ro
tập trung.
- Rủi ro nội tại xuất phát từ những đặc điểm riêng biệt của mỗi chủ thể vay vốn,
mỗi ngành kinh tế, mỗi hình thức, phương thức cấp tín dụng. Chẳng hạn cho vay
ngành nông nghiệp có thể gặp phải rủi ro xuất phát từ thiên tai bất khả kháng, cho vay
ngành công nghiệp có thể gặp phải tình trạng sản xuất thừa, thị trường tiêu thụ bị thu
hẹp… Có thể nói rủi ro nội tại rất đa dạng, phong phú và có tính tất yếu không thể
triệt tiêu vì nó thuộc về bản tính vốn có của đối tượng mà ngân hàng đầu tư. Các biện
pháp của ngân hàng chỉ có thể giúp kiểm soát từ đó hạn chế nó mà thôi. Việc thẩm
định kỹ lưỡng, quyết định cho vay chính xác, tránh cho vay đối với những chủ thể,


13

ngành, hình thức cho vay có độ rủi ro nội tại cao có thể giúp ngân hàng tăng mức độ
an toàn cho danh mục cho vay của mình [6].
- Rủi ro tập trung là loại rủi ro xảy ra khi ngân hàng tập trung vốn cho vay quá
nhiều vào một số khách hàng, lĩnh vực kinh tế hoặc trong cùng một vùng địa lý nhất
định, xuất phát từ sự thiếu đa dạng trong danh mục cho vay của ngân hàng, đi ngược
lại nguyên tắc phân tán rủi ro trong kinh doanh tiền tệ.
Như vậy, rủi ro cá biệt có thể được hạn chế nhờ đa dạng hóa danh mục hoặc
giảm thiểu tỷ lệ tập trung trong danh mục cho vay của ngân hàng.
 Rủi ro hệ thống (rủi ro không thể loại trừ) là rủi ro xảy ra có nguồn gốc từ bên
ngoài khoản vay, do tác động của các yếu tố kinh tế vĩ mô đến toàn bộ nền kinh tế,
ví dụ: chu kỳ kinh doanh, tỷ lệ lạm phát, tỷ giá, lãi suất… Một danh mục có độ
nhạy cảm với sự thay đổi của các nhân tố vĩ mô càng cao thì rủi ro hệ thống càng
lớn. Loại rủi ro này khó phòng ngừa vì đòi hỏi ngân hàng phải thực hiện tốt công
tác dự báo tình hình kinh tế vĩ mô, các tác động từ yếu tố bên ngoài đến danh mục
cho vay.
1.2. TỔNG QUAN VỀ QUẢN LÝ DANH MỤC CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG

THƯƠNG MẠI

1.2.1. Khái niệm quản lý danh mục cho vay
Trong hoạt động cho vay của ngân hàng, công tác quản lý danh mục mới được
ứng dụng trong khoảng vài thập niên gần đây. Ủy ban Basel nhận định một trong
những nguyên nhân chính yếu của những bất cập trong hoạt động cho vay là kỹ năng
quản trị yếu kém, nhất là quản lý rủi ro tập trung. Đây là một trong các nội dung quan
trọng của công tác quản lý danh mục cho vay tại NHTM.
Quản lý danh mục cho vay là tập hợp các công việc liên quan đến phân tích tất
cả các điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức của việc lựa chọn các khoản mục
trong danh mục cho vay để tạo ra một danh mục phù hợp với khẩu vị rủi ro của ngân
hàng [13].
Như vậy có thể hiểu quản lý danh mục cho vay là sự tác động có chủ đích của
ngân hàng lên danh mục cho vay nhằm sử dụng và kiểm soát có hiệu quả nhất các
khoản cho vay trong danh mục cho vay để đạt được mục tiêu kinh doanh của ngân
hàng từ những khoản mục này. Đối tượng bị quản lý ở đây chính là những khoản cho
vay trong danh mục và toàn bộ danh mục cho vay, chủ thể quản lý chính là nhà quản
lý ngân hàng.
Hoạt động quản lý danh mục cho vay không chỉ đánh giá rủi ro của một khoản
vay riêng lẻ mà phải kiểm soát được rủi ro tập trung, nhằm giảm thiểu tổn thất, tối đa
hóa lợi nhuận ở góc độ toàn danh mục. Qua đó thiết lập một danh mục cho vay phù


14

hợp nhất, thực hiện các biện pháp tái kết cấu lại danh mục hoặc chuyển dịch cơ cấu
cho vay nhằm giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng.
1.2.2. Ý nghĩa của hoạt động quản lý danh mục cho vay
Quản lý danh mục cho vay có vai trò quan trọng trong việc kiểm soát rủi ro,
đảm bảo an toàn cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng.

 Quản lý danh mục cho vay giúp nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng.
Trước hết, mục tiêu cụ thể mà quản lý danh mục cho vay hướng tới là xây dựng
một danh mục cho vay tối ưu, có khả năng tối đa hóa lợi nhuận đồng thời tối thiểu hóa
rủi ro, tổn thất, kiểm soát nó trong mức độ chấp nhận được của ngân hàng. Vì vậy
quản lý danh mục cho vay tốt sẽ tạo điều kiện để ngân hàng giảm DPRR, song song
với tiết kiệm nguồn lực do có thể hoạt động với mức vốn thấp hơn. Ngoài ra, quản lý
danh mục cho vay tốt cũng giúp ngân hàng tiết giảm các chi phí không hiệu quả (liên
quan đến giám sát, xử lý nợ xấu), từ đó gia tăng lợi nhuận. Bởi vì cho vay là khoản
mục chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản của một NHTM, nên hiệu quả của công tác
quản lý danh mục cho vay có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu kinh
doanh chung của ngân hàng. Ngược lại, nếu quản lý danh mục cho vay không hiệu
quả, tiềm ẩn rủi ro tập trung lớn thì hậu quả tổn thất xảy ra có thể vượt sức chịu đựng
của ngân hàng, dẫn đến phá sản.
 Quản lý danh mục cho vay giúp ngân hàng kiểm soát và hạn chế rủi ro
Quản lý danh mục cho vay kiểm soát và kiềm chế rủi ro danh mục bằng cách
nhận dạng, dự báo và đo lường mức độ rủi ro đối với từng loại sản phẩm tín dụng,
từng thị trường, từng ngành hàng, các loại đối tượng khách hàng khác nhau trong
những điều kiện hoạt động khác nhau. Khi một ngân hàng phát triển chiến lược và kế
hoạch kinh doanh của mình, họ phải xem xét đến các yếu tố và mức độ rủi ro của thị
trường mục tiêu và phân khúc của ngân hàng mình, sự kết hợp của các loại sản phẩm,
dịch vụ tín dụng, loại tiền cho vay, khả năng cấp tín dụng và trọng tâm danh mục. Sau
khi thiết lập được một danh mục cho vay phù hợp với quy mô và mục tiêu của ngân
hàng, các nhà quản trị tiếp tục phải theo dõi kiểm soát các khoản vay để kịp thời ngăn
chặn hoặc có biện pháp xử lý khi có rủi ro xảy ra.
1.2.3. Các phương pháp quản lý danh mục cho vay:
1.2.3.1. Phương pháp quản lý danh mục ngẫu nhiên (thụ động)
Từng khoản vay sẽ được thẩm định, phê duyệt riêng lẻ, độc lập theo chu trình
được áp dụng tại từng ngân hàng, không giới hạn về địa lý, ngành, loại hình vay. Tập
hợp các khoản cho vay ngẫu nhiên khác nhau sẽ tao thành danh mục cho vay.Và sau
đó những khoản cho vay này sẽ chịu tác động của các chu kỳ kinh tế không dự báo

trước được. Danh mục cho vay biến thành một tập hợp các giao dịch (quyết định) đặc


15

biệt với mức rủi ro có thể rất cao [8].
 Đặc trưng của danh mục được quản lý ngẫu nhiên:
- Ngân hàng không tác động chủ động đến tỷ trọng các khoản vay theo khoản
mục mà hoàn toàn phụ thuộc vào nhu cầu thị trường.
- Hoạt động cho vay có thể tập trung nhiều vào một lĩnh vực, khách hàng, địa bàn.
- Việc định giá và cơ cấu kém.
Ngân hàng áp dụng phương pháp này là tương đối phổ biến ở các nước đang
phát triển, các nước nhỏ, các nước có nền kinh tế chủ yếu dựa vào một vài ngành sản
xuất kinh doanh đặc thù nào đó, như nông nghiệp, xuất khẩu... mức độ hội nhập của
nền kinh tế thấp, ít chịu biến động bởi môi trường quốc tế. Trong thời kỳ kinh tế ổn
định, những hạn chế của phương pháp quản trị thụ động không được bộc lộ rõ nét. Tuy
vậy, nếu nền kinh tế biến động theo chiều hướnrg bất lợi, những ngành nghề, lĩnh vực
mà ngân hàng tập trung cho vay có dấu hiệu giảm sút hoạt động thì nguy cơ ngân hàng
gặp rủi ro tập trung tín dụng là không hề nhỏ.
1.2.3.2. Phương pháp quản lý danh mục theo kế hoạch (chủ động)
Định hướng tín dụng, các chỉ tiêu, các giới hạn cho vay được xác định trước
trong chính sách tín dụng của từng ngân hàng. Mỗi khoản vay, ngoài việc đáp ứng các
yêu cầu chung, còn phải đáp ứng các yêu cầu giới hạn tín dụng định trước đối với từng
địa bàn, ngành, loại hình, nhóm khách hàng... Theo phương pháp quản lý này, mặc dù
ngân hàng không thể tác động làm thay đổi nhu cầu vay của từng khách hàng, từng
giao dịch cụ thể, nhưng hoàn toàn có thể thiết kế được một danh mục cho vay mà rủi
ro trên danh mục được kiểm soát thông qua tỷ trọng dự kiến của các loại tài sản cho
vay. Đó chính là danh mục tối ưu, là tiền đề để ngân hàng thực hiện tốt mục tiêu kinh
doanh đã hoạch định.
 Đặc trưng của danh mục thuộc quản lý theo kế hoạch:

- Ngân hàng chủ động xây dựng một phương thức (hệ thống) để tạo ra một
danh mục cho vay theo kế hoạch với những kết quả có thể dự báo được.
- Ngân hàng sử dụng hệ thống thông tin quản lý như một công cụ thường xuyên.
- Ngân hàng kiểm tra, đa dạng hóa và hạn chế rủi ro tập trung tín dụng.
1.2.4. Nội dung quản lý danh mục cho vay
1.2.4.1. Mô hình tổ chức quản lý danh mục cho vay
Nguyên tắc chung cho việc tổ chức hoạt động quản lý danh mục cho vay hiệu
quả là phải thực hiện tách bạch giữa các chức năng hoạch định chiến lược (của Hội
đồng quản trị), chức năng tổ chức điều hành (của Ban điều hành) và chức năng kiểm
tra giám sát (của Ban kiểm soát). Mặt khác phải hình thành và củng cố hoạt động
chuyên môn hóa về QTRR danh mục.


16

Biểu đồ 1.2. Mô hình tổ chức quản lý danh mục tín dụng

Trong đó:
+ Nhóm lãnh đạo: Hội đồng quản trị, ủy ban quản lý rủi ro, ban tổng giám đốc.
+ Cấp quản lý bộ phận kinh doanh chính: Các giám đốc tại chi nhánh, bộ
phận quản lý rủi ro tại chi nhánh, phòng tín dụng.
+ Bộ phận quan hệ khách hàng: các cán bộ kinh doanh.
1.2.4.2. Xác định mục tiêu quản lý danh mục cho vay
Cũng như mục tiêu của hầu hết các hoạt động kinh doanh khác, mục tiêu quản
lý danh mục cho vay của ngân hàng liên quan đến việc giải quyết hợp lý mối quan hệ
giữa lợi nhuận và rủi ro của danh mục cho vay. Một danh mục không có rủi ro cũng có
nghĩa là không tạo ra lợi nhuận, vì vậy trong quản lý danh mục cho vay, mục tiêu của
NHTM hoặc là (i) hướng tới một danh mục đạt lợi nhuận kỳ vọng cao nhất (tối đa hóa
lợi nhuận) cùng với mức độ rủi ro danh mục xác định; (ii) hoặc là một danh mục có lợi
nhuận xác định và rủi ro danh mục ở mức thấp nhất (tối thiểu hóa rủi ro).

Bên cạnh đó, một mục tiêu đặc trưng khác mà quản lý danh mục cho vay cần
thiết phải hướng tới đó là giới hạn tổn thất của toàn danh mục trong khả năng chịu
đựng của mỗi ngân hàng. Mức tổn thất dự kiến phù hợp với khả năng chịu đựng bằng
vốn tự có của ngân hàng được gọi là tổn thất mục tiêu. Con số này phải được xác định
ngay từ khi hoạch định mục tiêu quản trị danh mục cho vay của ngân hàng, bên cạnh
con số mục tiêu về lợi nhuận.
1.2.4.3. Xây dựng chính sách quản lý danh mục cho vay
Để đạt mục tiêu quản lý danh mục cho vay, ngân hàng cần thiết phải xây dựng
các chính sách có vai trò đảm bảo tính thống nhất trong toàn bộ tổ chức, tạo cơ sở cho


17

việc điều hành kinh doanh một cách chủ động và hướng dẫn các bộ phận trong việc
thực thi công việc.
Các chính sách phải do Ban điều hành soạn thảo và được Hội đồng quản trị
ngân hàng thông qua. Chính sách được hiểu là hệ thống các văn bản mang tính pháp
quy của ngân hàng, có ý nghĩa “dẫn đường” trong tổ chức thực hiện danh mục cho
vay… Nói cách khác, chính sách chỉ ra cách thức để ngân hàng với các nguồn lực hiện
tại, đạt tới mục tiêu là một danh mục cho vay tối ưu trong tương lai.
Chính vì vậy việc xây dựng một chính sách hợp lý có vai trò hết sức quan trọng
trong việc quản lý hiệu quả danh mục cho vay. Các chính sách quản lý danh mục bao gồm:
 Chính sách tín dụng
Chính sách tín dụng của một ngân hàng là chính sách do Hội đồng quản trị ban
hành, được thiết kế nhằm hướng dẫn và/hoặc kiểm tra định hướng và hoạt động của tổ
chức cho vay. Chính sách tín dụng cung cấp cho CBTD và nhà quản lý một khung chỉ
dẫn chi tiết để ra các quyết định tín dụng và định hướng danh mục cho vay.
Một chính sách tín dụng tốt bao gồm những nội dung sau:
- Thể hiện rõ tiêu chuẩn của danh mục cho vay.
- Xác định rõ quyền hạn và trách nhiệm đối với từng CBTD và ban thẩm định

tín dụng.
- Giới hạn về trách nhiệm trong việc thực hiện các nhiệm vụ được giao và trong
việc thông báo thông tin trong phạm vi phòng tín dụng.
- Những thủ tục hoạt động cần thiết cho việc xem xét đánh giá và ra quyết định
đối với đơn xin vay của khách hàng.
- Phân cấp chịu trách nhiệm trong nội bộ ngân hàng trong việc lưu giữ và kiểm
tra hồ sơ tín dụng.
- Quy định chính sách và thủ tục đối với việc xác định lãi suất cho vay, các
khoản phí và thời hạn hoàn trả món vay.
- Quy định tiêu chuẩn chất lượng thích hợp áp dụng cho toàn bộ danh mục cho vay.
- Công bố mức giới hạn tối đa đối với tổng dư nợ.
 Xây dựng các giới hạn tín dụng nhằm giảm thiểu rủi ro danh mục
Để làm căn cứ cho việc giám sát quá trình thực hiện danh mục, các chính sách
sau khi được Hội đồng quản trị thông qua, cần phải được Ban điều hành cụ thể hóa bằng
các giới hạn cho vay được xác định cho từng loại đối tác, từng ngành nghề, khu vực địa
lý… Các giới hạn tín dụng cơ bản nhằm giảm thiểu rủi ro tập trung danh mục là:
- Giới hạn dư nợ cho vay khách hàng lớn.
- Giới hạn dư nợ cho vay theo nhóm khách hàng có liên quan.
- Giới hạn dư nợ theo ngành, lĩnh vực hay vùng địa lý.


18

 Xây dựng chính sách phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro
Nhằm chủ động bù đắp tổn thất khi rủi ro tín dụng xảy ra, các ngân hàng xây
dựng chính sách phân loại nợ và trích lập DPRR - là chính sách mà ngân hàng xếp loại
dư nợ hiện tại vào các nhóm theo những tiêu chí, tiêu chuẩn cụ thể và từ đó trích lập
DPRR với tỷ lệ khác nhau cho từng nhóm.
Việc phân loại nợ được thực hiện ngay từ khi cấp tín dụng và định kỳ đánh giá
lại theo quy định cụ thể. Trên cơ sở phân loại nợ, các TCTD thực hiện việc trích lập

DPRR cho từng khoản vay theo nguyên tắc được phép xác định giá trị tài sản bảo đảm
để khấu trừ ra khỏi số tiền được trích lập với tỷ lệ trích lập tương ứng với các nhóm
nợ. Việc trích lập DPRR nhằm mục đích giúp các ngân hàng chủ động đối phó với các
tổn thất dự kiến.
1.2.4.4. Xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng
Xếp hạng tín dụng được thực hiện để đánh giá khả năng trả nợ của các khoản
vay. Hệ thống xếp hạng tín dụng đưa ra kết quả xếp hạng của từng khách hàng, phản
ánh khả năng vỡ nợ của chính khách hàng đó. Từ đó, xác định được chất lượng tín
dụng và mức độ rủi ro trong từng loại sản phẩm, lĩnh vực, ngành nghề cũng như từng
nhóm đối tượng khách hàng. Đây là cơ sở để đánh giá chất lượng cũng như thiết kế
danh mục cho vay tối ưu.
Ủy ban Basel đưa ra hai hệ thống xếp hạng tín dụng là (i) xếp hạng nội bộ cơ
bản và (ii) xếp hạng nội bộ cao cấp [9].
 Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ cơ bản
Mỗi ngân hàng xây dựng một hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ để đo lường khả
năng vỡ nợ của mỗi khách hàng, tổn thất dự kiến được quyết định bởi bộ phận hoặc cơ
quan giám sát, cơ quan giám sát đưa ra các tiêu thức xác định các khoản nợ có vấn đề.
 Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ cao cấp
Mỗi ngân hàng xây dựng một hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ để đo lường
khả năng vỡ nợ của mỗi khách hàng, tổn thất dự kiến do ngân hàng quyết định, ngân
hàng đưa ra cách thức xác định các khoản nợ có vấn đề.
1.2.4.5. Đo lường rủi ro danh mục cho vay
 Các chỉ số đánh giá rủi ro tín dụng của ngân hàng
Đo lường rủi ro tín dụng của danh mục cho vay dựa trên các chỉ số rủi ro cơ
bản như sau:
- Tình hình nợ quá hạn


19


Các tỷ lệ trên cho thấy khả năng thu hồi vốn của ngân hàng đối với các khoản
vay, các khách hàng. Chỉ số nợ quá hạn tăng chứng tỏ mức độ rủi ro tín dụng gia tăng,
nguy cơ rủi ro mất vốn của ngân hàng tăng cao. Các khoản cho vay bị quá hạn làm ảnh
hưởng đến dòng tiều dự tính thu về, ngân hàng không dự tính được điều này nên khi
cần thanh khoản phải đi vay với lãi suất cao để bù đắp. Điều này làm tăng chi phí của
ngân hàng, lợi nhuận đương nhiên giảm. Hơn nữa, ngân hàng còn mất chi phí thực tế
cho việc đôn đốc, giám sát thu hồi nợ; chi phí cơ hội cao do tốn kém thời gian, tiền
bạc, công sức...

Tỷ lệ nợ xấu cho biết chất lượng và rủi ro của danh mục cho vay của ngân
hàng, bao nhiêu đồng đang bị phân loại vào nợ xấu trên 100 đồng cho vay. Tỷ lệ này
cao so với trung bình ngành và có xu hướng tăng lên có thể là dấu hiệu cho thấy ngân
hàng đang gặp khó khăn trong việc quản lý chất lượng các khoản cho vay. Ngược lại,
tỷ lệ này thấp so với các năm trước cho thấy chất lượng các khoản tín dụng được cải
thiện. Hoặc cũng có thể ngân hàng có chính sách xóa các khoản nợ xấu hay thay đổi
cách phân loại nợ.
- Tình hình rủi ro mất vốn
Chỉ số này cho biết bao nhiêu % dư nợ được trích lập dự phòng. Tỷ lệ DPRR
tín dụng càng cao, thể hiện rủi ro tín dụng càng lớn, khả năng thu hồi nợ thấp. DPRR
được trích lập càng nhiều nghĩa là số tiền ngân hàng có thể bị mất vì rủi ro tín dụng
càng nhiều, làm ảnh hưởng đến lợi nhuận của ngân hàng. Nếu chỉ số này thấp thì có
thể phản ánh chất lượng cải thiện của các khoản nợ, hoặc có thể do các khoản dự
phòng chưa được trích lập đủ theo quy định.
Đây là chỉ tiêu phản ánh số tiền thực tế mà ngân hàng đã dùng để bù đắp các
khoản vay đã bị thiệt hại thực sự trên tổng dư nợ trung bình của ngân hàng. Như vậy,
chỉ tiêu này càng cao thì chứng tỏ số vốn ngân hàng đã mất càng lớn, thiệt hại cho
ngân hàng càng cao.
- Khả năng bù đắp rủi ro
Hệ số khả năng bù đắp các
khoản cho vay bị mất

Hệ số khả năng bù đắp rủi ro
tín dụng

Hệ số khả năng bù đắp rủi ro tín dụng phản ánh khả năng bù đắp của ngân hàng


20

đối với các khoản nợ có rủi ro cao - mà ngân hàng đã xác định không có khả năng thu
hồi, đây là chỉ tiêu quan trọng giúp ngân hàng nhận biết và duy trì khả năng chống đỡ
của ngân hàng. Một khi ngân hàng không đảm bảo được cho điều này thì ngân hàng đó
sẽ đứng trước nguy cơ phá sản.
Các chỉ tiêu trên đều phản ánh khả năng bù đắp thiệt hại của ngân hàng trước
những rủi ro đã gặp và có thể gặp phải. Các chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ khả năng
chống đỡ rủi ro tín dụng của ngân hàng càng tốt, đảm bảo sự vận hành liên tục của
ngân hàng dù ngân hàng có bị thất thoát vốn. Song nếu số tiền để dự phòng cao thì chi
phí cho hoạt động của ngân hàng lớn, lợi nhuận thu được sẽ giảm đi. Vì vậy, vấn đề
đặt ra đối với nhà quản trị là xác định dự phòng bao nhiêu là đủ để có thể bù đắp thiệt
hại cho ngân hàng khi rủi ro xảy ra với danh mục của mình, đồng thời vốn kinh tế và
chi phí cho việc trích lập dự phòng là thấp nhất mà vẫn đảm bảo cho ngân hàng hoạt
động an toàn.
 Các mô hình đo lường rủi ro của danh mục cho vay
Trên thế giới hiện có nhiều loại mô hình đo lường rủi ro do các ngân hàng, tổ
chức tài chính áp dụng. Việc định lượng chính xác mức tổn thất trên danh mục cho
vay, sẽ giúp ban điều hành tìm biện pháp điều chỉnh cơ cấu danh mục, đảm bảo tổn
thất không vượt quá khả năng giới hạn của ngân hàng.
-

Đo lường rủi ro khoản vay riêng lẻ


Thứ nhất: Tổn thất trong dự tính hay còn gọi là tổn thất kỳ vọng - Expected
Loss (EL). Loại tổn thất này được xác định từ xác suất vỡ nợ của khách hàng
(Probability at Default - PD), số dư nợ còn lại của khách hàng tại thời điểm vỡ nợ
(Exposure at Default - EAD) và tỷ lệ không thu hồi được của khoản vay khi vỡ nợ
(Loss given at Default - LGD) theo công thức sau:
EL = PD x EAD x LGD
Theo quan điểm ngân hàng hiện đại, tổn thất kỳ vọng (EL) được xem là một
loại chi phí kinh doanh, nó được ngân hàng tính toán và đưa vào trong lãi suất cho vay
khi thực hiện giao dịch với khách hàng. Đây là cách để ngân hàng có thể bù đắp những
tổn thất mà ngân hàng đã xác định được. Ngân hàng thường trích lập Quỹ dự phòng để
đối phó với loại tổn thất này.
Thứ hai: Tổn thất ngoài dự tính (Unexpected Loss - UL) được hiểu là độ lệch
chuẩn so với giá trị trung bình của tổn thất dự tính. Tổn thất ngoài dự tính có thể tính
toán được dựa trên công thức:


21

UL = x LGD = x LGD (%)
UL = x LGD x EAD (amount)
Biểu đồ 1.3. Các loại tổn thất trên danh mục cho vay của NHTM

Nguồn: [5]
- Đo lường rủi ro danh mục cho vay
Basel II khuyến khích các ngân hàng sử dụng các cách tiếp cận và mô hình rủi
ro tín dụng có thể đo lường rủi ro chính xác, một trong nhữg mô hình đó là mô hình
xác định vốn kinh tế dựa vào khung VaR. VaR là một phương pháp đánh giá rủi ro
bằng cách sử dụng các công cụ toán học và thống kê. Một cách tổng quát, VaR được
đo lường như tổn thất tối đa ở tình huống xấu nhất trong một khoảng thời gian xác
định với một mức xác suất cho trước (thường gọi là độ tin cậy), VaR được xác định

theo cách này được gọi là VaR tuyệt đối. Tuy nhiên nhằm mục đích xác định vốn kinh
tế mà ngân hàng cần nắm giữ, VaR thường được xác định bằng chênh lệch giữa tổn
thất ngoài dự tính và tổn thất dự tính, trong đó tổn thất dự tính và tổn thất ngoài dự
tính được xác định từ phân phối tổn thất trong tương lai của ngân hàng.
Mặc dù các ngân hàng ở các nước phát triển đều áp dụng những mô hình đo
lường rủi ro tín dụng khác nhau phù hợp với đặc điểm riêng của mỗi ngân hàng, các
mô hình đo lường VaR tín dụng hiện nay đều dựa trên bốn nhóm mô hình chính:
CreditMetrics của JP Morgan, PortfolioManager của KMV, CreditRisk+ của Credit


22

Suisse và CreditPortfolioView của McKinsey [3].
Mỗi một mô hình có cách tiếp cận khác nhau để tính toán các yếu tố đầu vào để
xác định VaR của danh mục cho vay. Không thể có mô hình hoàn toàn phù hợp với tất
cả mọi ngân hàng mà căn cứ vào đặc điểm riêng của mình mà nhà quản trị ngân hàng
sẽ quyết định nên áp dụng mô hình nào.
1.2.4.6. Giám sát thực hiện danh mục cho vay
Quá trình giám sát danh mục cho vay được thực hiện thường xuyên tại cơ sở và
do bộ phận quản lý rủi ro thực hiện, sau đó trình lên ban điều hành, để từ đó có các
quyết sách hợp lý, đúng thời điểm. Giám sát danh mục cho vay được thực hiện khi
danh mục cho vay thực tế đã hình thành.
Giám sát danh mục có các ý nghĩa sau:
Một là nhằm phát hiện kịp thời những khách hàng xin vay vượt quá tỷ trọng của
loại tài sản cho vay đã được xây dựng, có biện pháp loại bỏ những khoản vay đó mà
không ảnh hưởng đến mối quan hệ của ngân hàng đối với khách hàng xin vay. Mặt
khác, giám sát cũng nhằm phát hiện kịp thời những dấu hiệu cảnh báo của một danh
mục cho vay có mức độ rủi ro cao, tạo điều kiện cho nhà quản trị nhận định đúng về
chất lượng tổng thể danh mục cho vay, từ đó có các biện pháp điều chỉnh thích hợp.
Mục tiêu của các điều chỉnh này là giảm thiểu rủi ro tập trung, thay đổi cơ cấu danh

mục theo hướng có lợi nhất, đảm bảo mục tiêu kinh doanh mà ngân hàng đã chọn lựa.
Hai là giám sát để điều chỉnh cơ cấu danh mục do các yếu tố xây dựng kịch bản
thay đổi. Những kịch bản khác nhau cần có những phương án danh mục khác nhau.
Khi môi trường và các điều kiện hoạt động của ngân hàng thay đổi, tức là kịch bản
thay đổi, buộc ngân hàng phải có phương án điều chỉnh thích hợp, nhưng vẫn đảm bảo
đạt mục tiêu đã hoạch định.
Trong giai đoạn giám sát, ngoài các yếu tố định tính được nhận dạng, ngân
hàng nhất thiết phải tính toán đo lường mức độ rủi ro danh mục thông qua các công cụ
định lượng, đó là các mô hình đo lường nội bộ mà ngân hàng đã sử dụng ngay từ khi
thiết kế danh mục. Đây cũng là một nội dung mà ủy ban Basel khuyến khích các ngân
hàng thực hiện.
1.2.4.7. Điều chỉnh danh mục cho vay
Trong quản lý danh mục cho vay theo phương pháp kế hoạch, mục tiêu và cơ
cấu danh mục cho vay của ngân hàng được hoạch định và xây dựng từ trước, điều này
hình thành một định hướng hết sức cần thiết đối với hoạt động cho vay của ngân hàng.
Tuy nhiên thực tế môi trường hoạt động của ngân hàng luôn có nhiều biến động, kịch
bản thiết kế danh mục thay đổi, cho nên danh mục cho vay của ngân hàng cũng phải
được điều chỉnh thích hợp. Mặt khác, hoạt động cho vay của ngân hàng là một loại


23

hình dịch vụ vì vậy không tránh khỏi việc hướng tới thỏa mãn các nhu cầu của thị
trường. Xét trên khía cạnh này, thì sự lệch hướng danh mục cho vay rất dễ xảy ra,
ngân hàng khó tránh khỏi những “cám dỗ” nhất thời từ một khu vực, một ngành kinh
doanh thời thượng nào đó. Ngoài ra, ngân hàng cũng có thể muốn tận dụng sự hiểu
biết chuyên sâu của các chuyên gia trong một số lĩnh vực cho vay nhất định. Những
điều này đôi khi mâu thuẫn với yêu cầu đa dạng hóa để phân tán rủi ro, về lâu dài gây
bất lợi cho sự an toàn trên danh mục cho vay của ngân hàng.
Với tất cả những lý do trên, việc điều chỉnh danh mục sau giám sát là công việc

hết sức quan trọng và cần thiết đối với ngân hàng. Để điều chỉnh danh mục các ngân
hàng có thể áp dụng hướng điều chỉnh nội bảng hoặc là điều chỉnh ngoại bảng.
 Điều chỉnh nội bảng
Trong hướng điều chỉnh nội bảng, ngân hàng sẽ tác động trực tiếp lên quy mô
hoặc cơ cấu danh mục cho vay của ngân hàng. Chẳng hạn để cải thiện cơ cấu danh
mục và cân bằng rủi ro trên phạm vi toàn danh mục thì sử dụng biện pháp như: tích
cực thu hồi nợ của các ngành, khu vực mà dư nợ đang có chiều hướng tập trung rủi ro
cao, tăng dư nợ cho vay các khu vực còn tiềm năng; còn nếu muốn trực tiếp thay đổi
cơ cấu danh mục thì thực hiện mua bán nợ… Ngoài các biện pháp điều chỉnh trực tiếp
trên danh mục như trên, ngân hàng cũng có thể gia tăng khả năng chống đỡ rủi ro danh
mục bằng cách tăng vốn tự có để tăng khả năng chịu đựng rủi ro, tăng trích lập DPRR.
Mặc dù các biện pháp điều chỉnh nội bảng được xem là khá đơn giản về mặt kỹ thuật,
tuy nhiên một số biện pháp này thường có độ trễ về thời gian, tính khả thi không cao
hoặc là gây ảnh hưởng đến quan hệ với khách hàng.
 Điều chỉnh ngoại bảng
Điều chỉnh ngoại bảng không can thiệp vào quy mô, cơ cấu của danh mục cho
vay mà chủ yếu làm giảm độ rủi ro tập trung trên danh mục. Những kỹ thuật hiện đại
mà các NHTM sử dụng để điều chỉnh cơ cấu danh mục bao gồm hoán đổi rủi ro tín
dụng, chứng khoán hóa các khoản nợ… Phần lớn trong số các công cụ này xuất hiện
khá muộn (từ đầu thập niên 80 đối với chứng khoán hóa nợ; trong những năm 90 đối
với hoán đổi rủi ro tín dụng) và phát triển mạnh từ sau những năm 2000, vì vậy chúng
được xem là những công cụ hiện đại tham gia vào điều chỉnh danh mục, để phân biệt
với các công cụ truyền thống như mua bán nợ (xuất hiện từ cuối thập niên 60).
Xu hướng phổ biến của các ngân hàng hiện đại là sử dụng phối hợp cả biện
pháp ngoại bảng với các biện pháp nội bảng, để tận dụng các ưu, nhược điểm của mỗi
loại bổ sung cho nhau. Phần 1.2.5 tiếp sau đây sẽ đi sâu vào đặc tính của các công cụ
này và sự vận dụng chúng trong quản lý danh mục cho vay của NHTM.


24


1.2.5. Các công cụ phòng ngừa rủi ro danh mục cho vay
1.2.5.1. Bán các khoản cho vay
Theo dự thảo thông tư quy định về hoạt động mua bán nợ (2011) thì mua, bán
nợ là việc chuyển nhượng một phần, hoặc toàn bộ khoản nợ trên cơ sở hợp đồng mua,
bán nợ, trong đó bên bán nợ chuyển giao quyền chủ nợ tương ứng cho bên mua nợ và
nhận thanh toán từ bên mua nợ.
Với các khoản cho vay không nằm trong danh mục thiết kế ban đầu, ngân hàng
thực hiện chuyển quyền đòi nợ cho các tổ chức khác. Hoặc khi ngân hàng có nhu cầu
đa dạng hóa danh mục bán một phần các khoản vay cho ngân hàng khác - vì lý do tập
trung tín dụng, rủi ro - họ bán một phần các khoản cho vay đó cho các ngân hàng có sự
tương xứng về kỳ hạn giữa huy động và cho vay hơn.
Thông thường, ngân hàng bán các món vay cho tổ chức có tính chuyên môn
hóa cao là công ty quản lý nợ và khai thác tài sản (AMC).
1.2.5.2. Chứng khoán hóa các khoản vay
Theo định nghĩa của các nước thuộc khối OECD (Tổ chức Hợp tác và Phát triển
Kinh tế) đưa ra năm 1995: Chứng khoán hóa là việc phát hành các chứng khoán có tính
khả mại được đảm bảo không phải bằng khả năng thanh toán của chủ thể phát hành, mà
bằng các nguồn thu dự kiến có được từ các tài sản đặc biệt. Nhân tố quyết định chất
lượng của chứng khoán phát hành là khả năng sinh lời của các tài sản dùng làm tài sản
đảm bảo, chứ không phải là nhà phát hành. Kết quả của quá trình chứng khoán hóa là
các tài sản có tính thanh khoản kém thành tài sản có tính thanh khoản cao.
Quyền sở hữu các khoản cho vay được chuyển nhượng một cách hợp pháp từ
người khởi tạo giao dịch (ngân hàng thực hiện cho vay) sang cho một tổ chức chuyên
môn hóa (còn gọi là tổ chức trung gian chuyên trách - The Special Purpose Vehicle,
viết tắt là SPV). Sau đó tổ chức này phát hành các chứng khoán dựa trên tập hợp
những khoản vay nợ, rồi phân phát cho các nhà đầu tư. Số tiền mà SPV thu được do
bán chứng khoán cho nhà đầu tư được chuyển trả cho ngân hàng cho vay ban đầu [1].
Biểu đồ 1.4. Quy trình nghiệp vụ chứng khoán hóa


Nguồn: [1]


25

Do các khoản cho vay được chuyển ra khỏi bảng cân đối tài sản của ngân hàng
cho vay ban đầu, nên sẽ làm giải phóng một lượng vốn của ngân hàng khởi tạo. Điều
này cũng cho phép ngân hàng sử dụng nguồn quỹ mới được giải phóng để tài trợ cho
những ngành nghề, khu vực kinh doanh có lợi nhuận cao, phát triển những dòng sản
phẩm mới nhằm đa dạng hóa danh mục. Hơn thế nữa rủi ro không hoàn trả của những
khoản cho vay sẽ được chuyển sang cho các nhà đầu tư, từ đó giảm thiểu rủi ro tập
trung trên danh mục cho vay của ngân hàng.
Tóm lại, sử dụng công cụ chứng khoán hóa các khoản nợ có ý nghĩa khác nhau
đối với các loại hình định chế tài chính. Đối với ngân hàng khởi tạo, chứng khoán hóa
sẽ đem đến cho ngân hàng một trong những lợi ích như: chuyển giao và phân tán rủi
ro; khai thác được nguồn vốn mới, quay vòng vốn; giảm yêu cầu về vốn pháp lý; gia
tăng nguồn quỹ; giảm thấp chi phí và cuối cùng là nâng cao các hệ số phản ánh năng
lực tài chính của ngân hàng. Xét ở góc độ quản lý danh mục cho vay, chứng khoán hóa
là biện pháp tái cấu trúc lại khoản nợ, giảm rủi ro tập trung trên danh mục cho vay của
ngân hàng.
1.2.5.3. Phái sinh tín dụng
Phái sinh tín dụng là công cụ cung cấp cho những nhà kinh doanh hoặc bảo
hiểm rủi ro tín dụng bằng việc cô lập rủi ro tín dụng từ những giao dịch cơ bản.
Hiệp định Basel quy định mức vốn an toàn tối thiểu để bù đắp rủi ro tín dụng
nên ngân hàng cần một giải pháp bảo hiểm rủi ro tín dụng qua đó giảm thiểu nhu cầu
vốn mà không phải bán các danh mục tài sản của mình. Phái sinh tín dụng chính là
công cụ giúp ngân hàng mua, bán rủi ro tín dụng mà không cần chuyển giao danh mục
tài sản. Trong số các loại phái sinh tín dụng, công cụ được sử dụng nhiều nhất trong
quản lý danh mục cho vay là hoán đổi tín dụng (Credit Swaps) và quyền chọn tín dụng
(Credit Options).

 Hoán đổi tín dụng
Trong loại hình hoán đổi tín dụng, công cụ được sử dụng nhiếu nhất trong quản
trị danh mục cho vay là hoán đổi rủi ro tín dụng. Hoán đổi rủi ro tín dụng có cơ chế
hoạt động tương tự như bảo hiểm tín dụng trong đó một công ty bán bảo hiểm cam kết
sẽ chi trả cho những người mua bảo hiểm (ngân hàng, công ty tài chính…) khi xảy ra
biến cố rủi ro tín dụng đối với tài sản tham chiếu, với điều kiện người mua bảo hiểm
phải chi trả các khoản phí cố định hay định kỳ hàng tháng hoặc hàng quý.


×