1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đất nước ta đang trong thời kỳ hội nhập toàn cầu hoá. Đây là cơ hội để
chúng ta đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Việc chuẩn bị nguồn
nhân lực có trình độ khoa học kỹ thuật, có tay nghề cao đã trở thành một trong
những yêu cầu quan trọng và cần thiết.
Trên cả lý luận và thực tiễn đều cho thấy con người là nhân tố trung tâm, là
mục tiêu và động lực phát triển xã hội. Vì vậy, cùng với khoa học và công nghệ,
giáo dục - đào tạo được Đảng và Nhà nước ta coi là quốc sách hàng đầu, là đối
tượng cần được ưu tiên phát triển trước tiên. Để giáo dục và đào tạo phát triển thì
một trong những yêu cầu quan trọng là cần phải nâng cao chất lượng đội ngũ
CBQL giáo dục. Nghị quyết Trung ương 2 (khoá VIII) đã khẳng định: "Đổi mới
cơ chế quản lý, bồi dưỡng cán bộ, sắp xếp chấn chỉnh và nâng cao năng lực bộ
máy quản lý giáo dục và đào tạo là một trong những giải pháp chủ yếu cho phát
triển giáo dục và đào tạo" [3].
Chỉ thị số 40/2004/CT-TW, ngày 15/6/2004 của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng cũng đã nêu rõ: "Mục tiêu là xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ
quản lý giáo dục được chuẩn hoá đảm bảo chất lượng, đồng bộ về cơ cấu, đặc
biệt nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất lối sống, lương tâm, tay nghề của nhà
giáo; thông qua việc quản lí, phát triển đúng định hướng và có hiệu quả sự
nghiệp giáo dục để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, đòi hỏi ngày
càng cao của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước [1].
Trong hệ thống giáo dục quốc dân, tiểu học là bậc học nền tảng có ý nghĩa
hết sức quan trọng, là điều kiện cơ bản để nâng cao dân trí, là cơ sở ban đầu cho
việc đào tạo trẻ em trở thành những người công dân tốt cho đất nước. Hiện nay,
giáo dục tiểu học đang đứng trước mâu thuẫn lớn giữa yêu cầu phát triển toàn diện
về quy mô, đa dạng về loại hình trường, lớp với việc nâng cao chất lượng giáo dục
toàn diện. Muốn giải quyết tốt mâu thuẫn đó đòi hỏi chúng ta phải có nhiều giải
pháp để thực hiện, trong đó nâng cao chất lượng cán bộ quản lý (CBQL) là một
2
trong những giải pháp quyết định góp phần nâng cao chất lượng giáo dục nói
chung và chất lượng giáo dục tiểu học nói riêng.
Yên Định là một huyện nông nghiệp của tỉnh Thanh Hoá. Trong hai cuộc
kháng chiến trường kỳ của dân tộc, trải qua nhiều khó khăn, gian khổ, người dân
nơi đây đã anh dũng trong chiến đấu, đóng góp một phần quan trọng cho cách
mạng giải phóng và gìn giữ độc lập dân tộc. Đặc biệt, Đảng bộ và nhân dân Yên
Định luôn đoàn kết một lòng, năng động, sáng tạo trong thực hiện đường lối đổi
mới, tạo được những bước đột phá quan trọng và giành được những thắng lợi khá
toàn diện trên các lĩnh vực phát triển kinh tế, xã hội. Yên Định là huyện duy nhất
của tỉnh Thanh Hoá đã hai lần vinh dự được Đảng và Nhà nước phong tặng danh
hiệu Anh hùng: Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân và Anh hùng Lao động
thời kỳ đổi mới.
Cùng với phong trào giáo dục trong cả nước, những năm qua, việc xây dựng,
đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý các trường phổ thông nói chung, cán bộ
quản lý các trường tiểu học nói riêng của huyện Yên Định đã đạt được những kết
quả nhất định, năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý cơ bản đã được nâng lên. Song
trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới và hội nhập, trước nhu cầu phát triển giáo dục
và phát triển kinh tế - xã hội của huyện, chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục
nói chung và cán bộ quản lý trường tiểu học nói riêng chưa đáp ứng được yêu cầu,
chưa tương xứng với vị thế và tiềm năng của huyện. Vì vậy, việc nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục (CBQLGD) nói chung và CBQLGD tiểu học
nói riêng ở huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hoá là hết sức quan trọng và cần thiết.
Trong những năm gần đây, đã có một số công trình khoa học đề cập đến
những vấn đề khác nhau liên quan đến việc nâng cao chất lượng đội ngũ CBQL
trường học. Song cho đến nay, ở huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hoá chưa có một
công trình nghiên cứu nào bàn về vấn đề nâng cao chất lượng đội ngũ CBQL
trường tiểu học.
Vì những lý do trên, tôi chọn đề tài nghiên cứu: "Một số giải pháp nâng cao
chất lượng đội ngũ CBQL trường tiểu học huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa đến
năm 2020".
3
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ quản lý trường tiểu học huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa
đến năm 2020.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Vấn đề nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý trường tiểu học ở
huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hoá.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý trường tiểu
học ở huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa đến năm 2020.
4. Giả thuyết khoa học
Nếu đề xuất được các giải pháp có tính khoa học, phù hợp với điều kiện thực
tiễn và có tính khả thi thì sẽ nâng cao được chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý các
trường tiểu học huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu, hệ thống hóa cơ sở lý luận của vấn đề nâng cao chất lượng
đội ngũ CBQL trường tiểu học.
5.2. Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng đội ngũ CBQL trường tiểu học,
thực trạng các giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ CBQL trường tiểu học
huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hoá đã áp dụng.
5.3. Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản
lý trường tiểu học huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa đến năm 2020. Khảo nghiệm
tính khả thi, cần thiết của các giải pháp đã đề xuất.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Các phương pháp nghiên cứu lý luận
Nghiên cứu các Chỉ thị, Nghị quyết, văn bản của Đảng, Nhà nước, của
ngành giáo dục và các tài liệu khoa học có liên quan đến vấn đề nghiên cứu, gồm:
- Phân tích
- Tổng hợp tài liệu
- Khái quát hoá các nhận định độc lập
4
6.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Quan sát, điều tra, thu thập các số liệu thực tế nhằm đánh giá đúng thực chất
chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý trường tiểu học huyện Yên Định.
- Khảo nghiệm sư phạm để xây dựng cơ sở thực tiễn cho đề tài.
6.3 . Phương pháp thống kê toán học: Thống kê toán học để xử lý các số liệu
và kết quả nghiên cứu.
7. Những đóng góp của luận văn
7.1. Về lý luận
Hệ thống hóa, phân tích và làm rõ các khái niệm, nội dung của việc nâng cao
chất lượng đội ngũ CBQL trường tiểu học.
7.2. Về thực tiễn
Đánh giá thực trạng công tác nâng cao chất lượng đội ngũ CBQL các trường
tiểu học huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hoá.
Đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ CBQL trường tiểu
học huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hoá.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, kiến nghị, mục lục, phụ lục và danh mục tài
liệu tham khảo, luận văn gồm có 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận của vấn đề nâng cao chất lượng đội ngũ CBQL
các trường tiểu học.
- Chương 2: Thực trạng về chất lượng đội ngũ CBQL các trường tiểu học
huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hoá.
- Chương 3: Một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ CBQL trường
tiểu học huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hoá đến năm 2020.
5
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
ĐỘI NGŨ CÁN BỘ QUẢN LÝ TRƯỜNG TIỂU HỌC
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Hoạt động quản lý bắt nguồn từ sự phân công, hợp tác lao động. Để sự phân
công, hợp tác lao động đạt hiệu quả tốt hơn đòi hỏi phải có người chỉ huy, điều
hành, kiểm tra, chỉnh lý các thành viên trong nhóm, trong cộng đồng, trong tổ
chức. Đó chính là nguồn gốc ra đời của hoạt động quản lý.
Trong lĩnh vực giáo dục cũng như các lĩnh vực khác, người cán bộ quản lý
luôn giữ một vị trí quan trọng, là người tập hợp, quy tụ và phát huy khả năng của
đội ngũ cán bộ, nhân viên, phát huy sức mạnh tập thể để thực hiện tốt các nhiệm
vụ, mục tiêu đề ra.
Liên quan đến vấn đề nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý trường
tiểu học, xin được nêu một số nét về lịch sử nghiên cứu vấn đề như sau:
1.1.1. Các nghiên cứu ở nước ngoài
Trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên cứu về quản lý giáo dục (QLGD)
của các tác giả như: “Những vấn đề quản lý trường học”(P.V Zimin, M.I
Kônđakốp); “Cơ sở lý luận của khoa học quản lý giáo dục”( M.I Kônđakốp); “Quản
lý giáo dục quốc dân trên địa bàn huyện” (M.I Kôđakốp)... Các tác giả đều khẳng
định vai trò lãnh đạo của CBQL là hết sức quan trọng. Nhà giáo dục học Xô-viết
V.A Xukhomlinxki khi tổng kết những kinh nghiệm quản lý chuyên môn trong vai
trò là Hiệu trưởng nhà trường cho rằng: “Kết quả toàn bộ hoạt động của nhà trường
phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý” [12]. Song làm thế nào
để nâng cao chất lượng CBQL của các trường tiểu học đạt kết quả cao nhất, huy
động được tốt nhất sức mạnh của mỗi CBQL đó là vấn đề mà các tác giả đặt ra
trong công trình nghiên cứu của mình. Vì vậy, V.A Xukhomlinxki cũng như các tác
giả khác đều chú trọng đến việc phân công hợp lý và các giải pháp nâng cao chất
lượng CBQL các trường tiểu học. Các nhà nghiên cứu cũng thống nhất cho rằng:
“Một trong những biện pháp hữu hiệu nhất để nâng cao chất lượng đội ngũ CBQL
là phải xây dựng và bồi dưỡng đội ngũ CBQL, phát huy được tính sáng tạo trong
6
công việc của họ và tạo ra khả năng ngày càng hoàn thiện tay nghề QLGD, phải
biết lựa chọn CBQL bằng nhiều nguồn khác nhau và bồi dưỡng họ trở thành những
CBQL tốt theo tiêu chuẩn nhất định, bằng những biện pháp khác nhau” [12].
1.1.2. Các nghiên cứu ở trong nước
Ở Việt Nam từ những năm 90 trở về trước đã có một số công trình nghiên
cứu bàn về lý luận quản lý trường học và các hoạt động quản lý nhà trường của
các tác giả như: Nguyễn Ngọc Quang, Hà Sĩ Hồ và các bài giảng về QLGD
(Trường CBQL giáo dục Trung ương I)..... Những năm đầu của thập kỷ 90 đến
nay đã có nhiều công trình nghiên cứu có giá trị như: “Giáo trình khoa học quản
lý” của Phạm Trọng Mạnh (NXB ĐHQG Hà Nội năm 2001); “Khoa học tổ chức
và quản lý - một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của Trung tâm nghiên cứu khoa
học tổ chức quản lý (NXB Thống kê Hà Nội, năm 1999); “Tâm lý xã hội trong
quản lý” của Ngô Công Hoàn (NXB ĐHQG Hà Nội, năm 2002); “Công tác quản
lý hành chính và sư phạm của trường tiểu học” của Jeanvaleriren do Trường
QLGD Hà Nội xuất bản, năm 1997. “Quản lý giáo dục và quản lý nhà trường” của
PGS.TS Thái Văn Thành (NXB Đại học Huế, năm 2007); “Đại cương khoa học
quản lý” của PGS.TS Trần Hữu Cát và TS Đoàn Minh Duệ , “Tập bài giảng lý
luận đại cương về quản lý” của Tiến sĩ Nguyễn Quốc Chí và PGS TS Nguyễn Thị
Mĩ Lộc (Hà Nội 1998); “Tập bài giảng lớp CBQL phòng GD&ĐT” của Trường
CBQL giáo dục và đào tạo (Hà Nội năm 2000)...; Các bài viết: Đổi mới QLGD là
khâu đột phá” của tác giả Quế Hương, đăng trên báo Giáo dục&Thời đại ngày
01/12/2002; “CBQL GD&ĐT trước yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước”
của cố Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Lê Vũ Hùng đăng trên tạp chí số 60
tháng 6 năm 2003; “Đánh giá người Hiệu trưởng nhà trường phổ thông theo
hướng chuẩn hóa” của TS. Đặng Xuân Hải đăng trên Tạp chí Giáo dục số 119,
tháng 8 năm 2005; “Xây dựng đội ngũ lãnh đạo, quản lý nhằm đáp ứng yêu cầu
của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” của tác giả Chu Văn
Khánh đăng trên Báo điện tử Đảng Cộng Sản ngày 07/5/2007; “Giám sát và đánh
giá chất lượng quản lý giáo dục”, “Bản đồ năng lực của Hiệu trưởng trường phổ
thông” tài liệu Hội thảo của Dự án Phát triển giáo dục SREM do cộng đồng Châu
7
Âu tài trợ (WWW. Srem.com.vn); “Các giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng đội
ngũ giáo viên” do PGS.TS Nguyễn Ngọc Hợi chủ nhiệm đề tài, năm 2006 v.v.
Đây là những công trình khoa học nghiên cứu hết sức công phu, có tính lí
luận và thực tiễn cao, góp phần quan trọng vào việc nghiên cứu nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ quản lý trường tiểu học.
Ngày nay, trong sự nghiệp đổi mới đất nước, vấn đề quản lý nói chung và
QLGD nói riêng là chủ đề thu hút sự quan tâm của đông đảo các nhà lãnh đạo, nhà
nghiên cứu khoa học, nhà quản lý. Chính vì vậy, đã có không ít các nhà nghiên
cứu, các nhà QLGD đã nghiên cứu vấn đề này như một số luận văn Thạc sỹ của
các tác giả: Phạm Huy Tư ở thành phố Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long; Trần Quốc
Tuấn ở huyện Thường Xuân, Tỉnh Thanh Hoá; Đào Hồng Quang ở huyện Thiệu
Hoá, tỉnh Thanh Hoá, Hoàng Phú ở huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.....
Qua các công trình nghiên cứu cho thấy một điểm chung nổi bật, đó là:
Khẳng định vai trò quan trọng của đội ngũ CBQL trường tiểu học trong việc nâng
cao chất lượng giáo dục. Đây cũng là một trong những tư tưởng mang tính chiến
lược về phát triển giáo dục của Đảng ta. Đồng thời các nghiên cứu cũng đã đề ra
được một số giải pháp nâng cao chất lượng CBQL trường tiểu học. Tuy nhiên, vẫn
còn nặng về lý thuyết và cũng chỉ phù hợp bó hẹp trong phạm vi địa phương của
mỗi tác giả.
Đối với huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa, ngoài những Chỉ thị, Đề án, văn
bản mang tính chủ trương đường lối của Huyện uỷ, HĐND, UBND huyện, Phòng
Giáo dục và Đào tạo về việc tìm các giải pháp để nâng cao chất lượng đội ngũ
CBQL thì chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu về vấn đề này. Vì vậy, việc
nghiên cứu một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ CBQL các trường tiểu
học huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa có một ý nghĩa lớn cả về mặt lý luận và thực
tiễn trong việc nâng cao chất lượng đội ngũ CBQL trường tiểu học của huyện đáp
ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp GD&ĐT.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Quản lý, quản lý trường tiểu học
1.2.1.1. Quản lý
8
a) Khái niệm chung
Ngay từ khi con người bắt đầu hình thành nhóm đã đòi hỏi phải có sự phối
hợp các hoạt động cá nhân để duy trì sự sống, do đó cần có sự quản lý. Ngày nay,
hầu như tất cả mọi người đều công nhận tính thiết yếu của quản lý và quản lý trở
thành hoạt động phổ biến, diễn ra trên mọi lĩnh vực, mọi cấp độ và có liên quan đến
mọi người. Đó là hoạt động xã hội bắt nguồn từ tính chất cộng đồng dựa trên sự
phân công và hợp tác để làm một công việc nhằm đạt một mục tiêu chung. Theo
K.Mác: “Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên
quy mô tương đối lớn thì ít nhiều cũng cần đến một sự chỉ đạo để điều hòa những
hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung phát sinh từ sự vận động
của toàn bộ cơ thể sản xuất khác với sự vận động của những khí quan độc lập của
nó, một người độc tấu vĩ cầm tự mình điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì
cần phải có nhạc trưởng” [22].
Quản lý có mặt ở mọi lúc, mọi nơi, mọi công việc có nhiều người tham gia.
Trong các loại quản lý thì quản lý xã hội là phức tạp nhất. Quản lý không chỉ diễn ra
ở từng đơn vị cơ sở, trong từng quốc gia mà còn lan rộng trên phạm vi toàn cầu nhằm
giải quyết những vấn đề chung nảy sinh mà một quốc gia riêng lẻ không thể giải
quyết được. Do đó có thể kết luận, nơi nào có hoạt động chung thì nơi đó có quản lý.
Có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm quản lý:
- Quản lý là chức năng của những hệ thống có tổ chức với những bản chất
khác nhau (kỹ thuật, sinh vật, xã hội) nó bảo toàn cấu trúc xác định của chúng, duy
trì chế độ hoạt động, thực hiện những chương trình, mục đích hoạt động.
- Hoạt động có sự tác động qua lại giữa hệ thống và môi trường, do đó: Quản
lý được hiểu là bảo đảm hoạt động của hệ thống trong điều kiện có sự biến đổi
liên tục của hệ thống và môi trường, là chuyển hệ thống đến trạng thái mới thích
ứng với những hoàn cảnh mới.
- Quản lý một hệ thống xã hội là tác động có mục đích đến tập thể người- thành
viên của hệ, nhằm làm cho hệ vận hành thuận lợi và đạt tới mục đích dự kiến.
- Quản lý là tác động có mục đích đến tập thể những con người để tổ chức và
phối hợp hoạt động của họ trong quá trình lao động.
9
- Quản lý là nhằm phối hợp nỗ lực của nhiều người, sao cho mục tiêu của
từng cá nhân biến thành những thành tựu của xã hội.
- Quản lý là sự tác động có định hướng, có mục đích, có kế hoạch và có hệ
thống thông tin của chủ thể đến khách thể của nó.
Các khái niệm trên đây cho thấy:
- Quản lý được tiến hành trong một tổ chức hay một nhóm xã hội.
- Quản lý gồm những công việc chỉ huy và tạo điều kiện cho những người
khác thực hiện công việc và đạt được mục đích của nhóm.
Như vậy, chúng ta có thể hiểu: “Quản lý là sự tác động có mục đích, có kế hoạch
của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu đề ra” [34].
b) Bản chất của hoạt động quản lý và các chức năng quản lý
* Bản chất của hoạt động quản lý
Quản lý là một hoạt động tất yếu khi có nhiều người làm việc với nhau để
thực hiện một công việc chung hoặc nhằm một mục tiêu chung, tạo nên sức mạnh
giúp con người đạt được những mục tiêu cần thiết.
Trong một tổ chức nhóm, cộng đồng, chủ thể quản lý tác động có định
hướng, có chủ đích đến khách thể quản lý nhằm đạt được mục đích. Trong xã hội
có giai cấp thì hoạt động quản lý phục vụ quyền lợi của giai cấp thống trị, do vậy
hoạt động quản lý mang tính giai cấp.
Hoạt động quản lý mang tính khoa học cao, bởi sự tác động giữa chủ thể
quản lý đến khách thể quản lý thông qua công cụ, phương tiện, phương pháp phù
hợp với quy luật khách quan thì mới đạt hiệu quả.
Quản lý được coi là một nghề. Những kỹ năng nghề nghiệp của người quản
lý để thực hiện công việc đòi hỏi mang tính kỹ thuật, thể hiện qua những thao tác
nghề nghiệp của người quản lý. Hoạt động quản lý vừa mang tính khoa học, vừa
có tính nghệ thuật. Tính nghệ thuật của hoạt động quản lý thể hiện những tác động
phù hợp quy luật, hoàn cảnh thực tiễn.
Vậy “Hoạt động quản lý vừa có tính khách quan, vừa có tính chủ quan vì
được thực hiện bởi người quản lý. Mặt khác, nó vừa có tính giai cấp lại vừa có
tính xã hội rộng rãi.... chúng là những mặt đối lập trong một thể thống nhất. Đó là
biện chứng, là bản chất hoạt động quản lý” [30].
10
* Các chức năng quản lý
“Chức năng quản lý là một thể thống nhất những hoạt động tất yếu của chủ
thể quản lý nảy sinh từ sự phân công, chuyên môn hóa trong hoạt động quản lý
nhằm thực hiện mục tiêu chung của quản lý” [20].
Chức năng quản lý xác định vị trí, mối quan hệ giữa các bộ phận, các khâu,
các cấp trong hệ thống quản lý. Quản lý phải thực hiện nhiều chức năng khác
nhau, từng chức năng có tính độc lập tương đối, nhưng chúng được liên kết hữu
cơ trong một hệ thống nhất quán. Tổ hợp tất cả các chức năng quản lý tạo nên nội
dung của quá trình quản lý.
Xét dưới góc độ hoạt động, quản lý gồm 4 chức năng cơ bản: Lập kế
hoạch; tổ chức; chỉ đạo; kiểm tra.
- Lập kế hoạch : Dự kiến các hoạt động của một quá trình, một giai đoạn hoạt
động hợp lý và các điều kiện, những tình huống dự báo sẽ xảy ra và biện pháp giải quyết
các tình huống đó.
- Tổ chức: Là quá trình hình thành nên những cấu trúc quan hệ giữa các thành
viên, bộ phận nhằm đạt mục tiêu kế hoạch. Nhờ việc tổ chức có hiệu quả, người
quản lý có thể phối hợp điều phối các nguồn lực, vật lực, nhân lực.
- Chỉ đạo: Là sự chỉ huy, hướng dẫn, tác động để bộ máy hoạt động. Đây
chính là quá trình tác động của chủ thể quản lý sau khi kế hoạch đã được thiết lập,
cơ cấu của tổ chức đã được hình thành, nhân sự đã được tuyển dụng. Lãnh đạo
bao hàm việc liên kết, liên hệ với người khác, động viên họ hoàn thành nhiệm vụ
để đạt được mục tiêu của tổ chức.
- Kiểm tra: Đây là chức năng cơ bản và rất quan trọng của quản lý nhằm
nắm tình hình hoạt động của bộ máy, xem xét thực tế, theo dõi, giám sát thành quả
hoạt động, tiến hành uốn nắn, sửa chữa những hoạt động sai để đạt được mục tiêu
của tổ chức. Đây cũng chính là quá trình tự điều chỉnh của hoạt động quản lý.
Với các chức năng đó, quản lý có vai trò quan trọng đối với sự phát triển xã
hội. Nó nâng cao hiệu quả của hoạt động, đảm bảo trật tự, kỷ cương trong bộ máy
và nó là nhân tố tất yếu của sự phát triển.
11
Sơ đồ 1.1: Mối quan hệ giữa các chức năng quản lý giáo dục.
Kế hoạch
Kiểm tra
Thông tin
Tổ chức
c) Mục tiêu của quản lý
“Mục tiêu của quản lý là đích đạt tới của quá trình quản lý, nó định hướng và
chi phối sự vận động của toàn hệ thống quản lý” [20].
* Mục tiêu quản lý thể hiện ý chíChỉ
củađạo
nhà quản lý, đồng thời phải phù hợp
với sự vận động phát triển của các yếu tố liên quan. Các yếu tố có liên quan đến
quản lý là:
- Yếu tố xã hội - môi trường: Là yếu tố con người cùng với hoàn cảnh của họ.
Trong quản lý phải nắm đặc điểm chung nhất của con người. Đó là đặc điểm tâm sinh lý,
lứa tuổi, giới tính... đặc điểm về dân tộc, giai cấp, vùng miền, địa phương.
- Yếu tố chính trị - pháp luật: Là chế độ chính trị, chế độ sở hữu và hệ
thống pháp luật liên quan tới cơ chế quản lý.
- Yếu tố tổ chức: Là sự thiết lập mối quan hệ giữa các bộ phận, thành phần
trong bộ máy, quy định quyền hạn, trách nhiệm, chức năng của các bộ phận và thành
phần trong bộ máy. Trong đó tổ chức nhân sự vẫn là vấn đề cốt lõi.
- Yếu tố quyền uy: Quyền uy chính là quyền lực và uy tín của nhà quản lý,
đây là công cụ đặc biệt của nhà quản lý. Quyền uy vừa do cơ chế quản lý, vừa do
nhân cách của nhà quản lý tạo nên.
- Yếu tố thông tin: Đó là tin tức và mối liên hệ, thông tin là cơ sở giúp nhà
quản lý đề ra các quyết định để tác động tới đối tượng quản lý.
* Việc xác định mục tiêu quản lý phải chú ý đến các yêu cầu cơ bản sau:
Tính hệ thống: Mỗi mục tiêu đều phải đặt trong mối quan hệ với các mục
tiêu khác, sao cho không mâu thuẫn, loại trừ nhau. Bảo đảm tính hệ thống còn đòi
hỏi các mục tiêu phải có mối quan hệ thứ bậc ưu tiên.
12
Tính chuyên biệt: Mục tiêu của tổ chức nào, hệ thống quản lý nào phải đặc
trưng cho tổ chức, hệ thống quản lý đó, thể hiện được chức năng của tổ chức, của
hệ thống đó.
Tính xác định và định lượng được: Các mục tiêu phải rõ ràng, đối với các
mục tiêu định tính cũng phải xác định được kết quả, các mục tiêu cụ thể, định
lượng cần phải thông qua các chỉ tiêu, các thông số cụ thể.
Tính thời hạn: Các mục tiêu phải có thời hạn thực hiện, làm cơ sở để tổ chức
thực hiện, kiểm tra, đánh giá.
Tính hướng đích: Các mục tiêu phải hàm chứa trong đó sự cố gắng, nỗ lực
phấn đấu của cả hệ thống quản lý, đó phải là mức cao hơn, tốt đẹp hơn, phát triển,
hoàn thiện hơn trạng thái hiện tại.
Tính khả thi: Mục tiêu quản lý phải có khả năng hiện thực để thực hiện.
Tóm lại, quản lý là sự tác động có ý thức để điều khiển, hướng dẫn các quá
trình và hoạt động của con người nhằm đạt tới mục đích, đúng với ý chí của nhà
quản lý và phù hợp với quy luật khách quan.
1.2.1.2. Quản lý trường Tiểu học
a) Vị trí của trường tiểu học
Điều 2, Điều lệ trường tiểu học (Ban hành kèm theo Quyết định số
51/2007/QĐ-BGDĐT ngày 31 tháng 8 năm 2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và
Đào tạo) xác định: “Trường tiểu học là cơ sở giáo dục phổ thông của hệ thống
giáo dục quốc dân, có tư cách pháp nhân, có tài khoản và con dấu riêng” [8].
Tiểu học là bậc học đặt nền tảng ban đầu trong việc hình thành, phát triển
nhân cách của con người. Đó là cơ sở, là nền tảng vững chắc cho giáo dục phổ
thông và toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân. Trường tiểu học nhận học sinh từ 6
đến 14 tuổi, được đào tạo, giáo dục từ lớp 1 đến lớp 5.
“Trường tiểu học lần đầu tiên tác động đến trẻ em bằng phương pháp nhà
trường; nơi đầu tiên tổ chức một cách tự giác hoạt động học tập với tư cách là một
hoạt động chủ đạo cho trẻ em, nơi diễn ra cuộc sống thực của trẻ em và là nơi tạo
cho trẻ em có nhiều hạnh phúc” [8].
b) Mục tiêu của giáo dục tiểu học
Theo điều 27 Luật Giáo dục thì mục tiêu của giáo dục tiểu học là: “Giáo
13
dục tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển
đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản
để học sinh tiếp tục học trung học cơ sở” [33].
c) Nhiệm vụ và quyền hạn của trường tiểu học
Điều 3, Điều lệ trường tiểu học quy định trường tiểu học có những nhiệm vụ
và quyền hạn sau:
“- Tổ chức giảng dạy, học tập và hoạt động giáo dục đạt chất lượng theo mục
tiêu, chương trình giáo dục tiểu học do Bộ trưởng Bộ GD&ĐT ban hành.
- Huy động trẻ em đi học đúng độ tuổi, vận động trẻ em tàn tật, khuyết tật,
trẻ em đã bỏ học đến trường, thực hiện kế hoạch phổ cập giáo dục và chống mù
chữ trong cộng đồng. Nhận bảo trợ và quản lý các hoạt động giáo dục của các cơ
sở giáo dục khác thực hiện chương trình giáo dục tiểu học theo sự phân công của
cấp có thẩm quyền. Tổ chức kiểm tra và công nhận hoàn thành chương trình tiểu
học của học sinh trong nhà trường và trẻ em trong địa bàn quản lý của trường.
- Quản lý cán bộ, giáo viên (GV), nhân viên và học sinh (HS).
- Quản lý, sử dụng đất đai, cơ sở vật chất, trang thiết bị và tài chính theo quy
định của pháp luật.
- Phối hợp với gia đình, các tổ chức và cá nhân trong cộng đồng thực hiện
hoạt động giáo dục.
- Tổ chức cho CBQL, GV, nhân viên và HS tham gia các hoạt động xã hội
trong cộng đồng.
- Thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn khác theo quy định của pháp luật”[8].
d) Quản lý trường tiểu học
Tiểu học là bậc học nền tảng trong hệ thống giáo dục quốc dân. Trường tiểu
học vừa là một thiết chế xã hội trong quản lý quá trình đào tạo trung tâm, vừa là
một bộ phận của cộng đồng trong guồng máy giáo dục quốc dân. Hoạt động quản
lý của trường tiểu học thể hiện đầy đủ bản chất của hoạt động quản lý, mang tính
xã hội, tính khoa học, tính kỹ thuật và nghệ thuật của hoạt động quản lý.
Quản lý trường tiểu học chính là tổ chức chỉ đạo và điều hành quá trình giảng
dạy của thầy và hoạt động học tập của trò, đồng thời quản lý những điều kiện cơ
14
sở vật chất và công việc phục vụ cho dạy và học nhằm đạt được mục đích của
GD&ĐT.
1.2.2. Cán bộ, cán bộ quản lý trường tiểu học
1.2.2.1. Cán bộ, cán bộ quản lý
Theo từ điển tiếng Việt: “Cán bộ là người làm công tác nghiệp vụ chuyên
môn trong các cơ quan Nhà nước” [38].
CBQL là chủ thể, gồm những người giữ vai trò tác động, ra lệnh, kiểm tra
đối tượng quản lý. CBQL là người chỉ huy, lãnh đạo, tổ chức thực hiện các mục
tiêu nhiệm vụ của tổ chức. Người quản lý vừa là người lãnh đạo, quản lý cơ quan
vừa chịu sự lãnh đạo, quản lý của cấp trên.
Tuy có nhiều cách hiểu, cách dùng khác nhau trong các trường hợp, các lĩnh
vực khác nhau, song các cách hiểu đều có các điểm chung và đều bao hàm ý nghĩa
chính của nó là bộ khung, là nòng cốt, là chỉ huy. Như vậy, có thể quan niệm một
cách chung nhất: Cán bộ là chỉ những người có chức vụ, có vai trò và cương vị
nòng cốt trong một tổ chức, có tác động ảnh hưởng đến hoạt động của một tổ chức
và các quan hệ trong lãnh đạo, chỉ huy, quản lí, điều hành, góp phần định hướng
cho sự phát triển của tổ chức.
1.2.2.2. Cán bộ quản lý trường tiểu học
CBQL trường tiểu học là người đại diện cho nhà nước về mặt pháp lý, có
trách nhiệm và thẩm quyền về mặt hành chính và chuyên môn, chịu trách nhiệm
trước các cơ quan quản lý cấp trên về tổ chức và các hoạt động giáo dục của
trường tiểu học; có vai trò ra quyết định quản lý, tác động điều khiển các thành tố
trong các hệ thống nhà trường tiểu học nhằm thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ
GD&ĐT được quy định bằng pháp luật hoặc bằng các văn bản, thông tri, hướng
dẫn do các cấp có thẩm quyền ban hành.
1.2.3. Đội ngũ, đội ngũ cán bộ quản lý trường tiểu học
1.2.3.1. Đội ngũ
Có nhiều quan niệm và cách hiểu khác nhau về đội ngũ. Ngày nay, khái
niệm đội ngũ được dùng cho các tổ chức trong xã hội một cách rộng rãi như: Đội
ngũ cán bộ công chức, đội ngũ trí thức, đội ngũ y, bác sĩ... đều xuất phát theo cách
15
hiểu của thuật ngữ quân sự về đội ngũ, đó là: Khối đông người được tập hợp lại
một cách chỉnh tề và được tổ chức thành lực lượng chiến đấu.
Theo nghĩa khác "Đó là một tập hợp, gồm số đông người cùng chức năng
hoặc nghề nghiệp thành một lực lượng" [17].
Khái niệm đội ngũ tuy có các cách hiểu khác nhau, nhưng đều có chung
một điểm, đó là: Một nhóm người được tổ chức và tập hợp thành một lực lượng,
để thực hiện một hay nhiều chức năng, có thể cùng hay không cùng nghề nghiệp,
nhưng đều có chung một mục đích nhất định.
Từ các cách hiểu trên, chúng ta có thể nêu: Đội ngũ là một tập thể gồm số
đông người, có cùng lý tưởng, cùng mục đích, làm việc theo sự chỉ huy thống
nhất, có kế hoạch, gắn bó với nhau về quyền lợi vật chất cũng như tinh thần.
1.2.3.2. Đội ngũ cán bộ quản lý trường tiểu học
CBQLGD là những người có chức vụ, có vai trò và cương vị nòng cốt trong
một tổ chức thuộc hệ thống giáo dục. Người CBQLGD là nhân vật có trách nhiệm
phân bố nhân lực và các nguồn lực khác, chỉ dẫn sự vận hành của một bộ phận hay
toàn bộ tổ chức giáo dục, để tổ chức hoạt động có hiệu quả và đạt mục tiêu đề ra.
Người CBQLGD ở đây được hiểu là Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng của các
nhà trường ở tất cả các cấp học, bậc học trong hệ thống giáo dục quốc dân. Tập
hợp các CBQLGD tạo nên đội ngũ CBQLGD.
Căn cứ vào đó có thể nêu: CBQLGD là lực lượng tập hợp những người
đứng đầu nhà trường cùng chung nhiệm vụ, trách nhiệm quản lí trường học.
Theo đó, đội ngũ cán bộ quản lý trường tiểu học được hiểu là tập hợp
những người làm công tác quản lý ở trường tiểu học, là những người thực hiện
điều hành quá trình giáo dục diễn ra trong nhà trường tiểu học, đây là những chủ
thể quản lý bên trong nhà trường.
1.2.4. Chất lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý trường Tiểu học
1.2.4.1. Chất lượng
Chất lượng là một khái niệm rất trừu tượng, đa chiều, đa nghĩa, được xem
xét từ nhiều bình diện khác nhau. Theo quan điểm kỹ thuật "Chất lượng là mức độ
hoàn thiện, là đặc trưng so sánh hay đặc trưng tuyệt đối, dấu hiệu đặc trưng tuyệt
16
đối, dấu hiệu đặc thù, các dữ kiện, thông số cơ bản; chất lượng của sản phẩm là
tổng thể các chỉ tiêu, những đặc trưng của sản phẩm, thể hiện được sự thoả mãn
nhu cầu trong những điều kiện tiêu dùng xác định, phù hợp với công dụng của sản
phẩm" [36]; theo tác giả Trần kiều "Chất lượng là sự phù hợp với mục tiêu" [23].
Còn theo Từ điển tiếng Việt, chất lượng là "cái tạo nên phẩm chất, giá trị của một
con người, sự vật, hiện tượng" hoặc là “cái tạo nên bản chất sự vật, làm cho sự vật
này khác sự vật kia” [38].
Chất lượng là mặt phản ánh vô cùng quan trọng của sự vật, hiện tượng và
quá trình biến đổi của thế giới khách quan. Nói như Hêghen "Chất lượng là ranh
giới làm cho những vật thể này khác với những vật thể khác".
1.2.4.2. Chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý trường tiểu học
Chất lượng đội ngũ được hiểu là những phẩm chất và năng lực cần có của từng
cá thể và của cả đội ngũ để có một lực lượng lao động người đủ về số lượng, phù
hợp về cơ cấu và tạo ra những phẩm chất và năng lực chung cho đội ngũ nhằm đáp
ứng yêu cầu hoạt động theo chức năng và nhiệm vụ của tổ chức.
Dựa vào các định nghĩa về chất lượng đã nêu trên, theo chúng tôi, chất
lượng đội ngũ CBQL trường tiểu học chính là phẩm chất nhân cách và năng lực
nghề nghiệp của họ, chứ không chỉ đơn thuần là sự phù hợp với mục tiêu.
Theo định nghĩa chất lượng là "cái tạo nên phẩm chất, giá trị của một con
người, sự vật, hiện tượng" và định nghĩa chất lượng là "tập hợp các đặc tính của
một thực thể (đối tượng) tạo cho một thực thể đó có khả năng thoả mãn những nhu
cầu đã nêu hoặc nhu cầu tiềm ẩn" thì chất lượng CBQL trường tiểu học thể hiện ở
phẩm chất đạo đức, tư tưởng chính trị và năng lực của người CBQL.
Năng lực của người CBQL trường tiểu học thể hiện trên hai phương diện
đức và tài. Đó là sự kết hợp những đặc điểm của con người Việt Nam và những
yêu cầu của người CBQL trường tiểu học trong giai đoạn mới. Năng lực của
người CBQL gồm hai thành tố: kiến thức và kĩ năng.
Như vậy, chất lượng CBQL trường tiểu học là tập hợp các yếu tố: bản lĩnh
chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, lương tâm nghề nghiệp và trình độ chuyên
17
môn đảm bảo cho người CBQL đáp ứng ngày càng cao của sự nghiệp giáo dục trong
công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.
1.2.5. Giải pháp, giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý
trường tiểu học
1.2.5.1. Giải pháp
Theo từ điển tiếng Việt, giải pháp là: “Phương pháp giải quyết một vấn đề cụ
thể nào đó” [38].
Như vậy, nói đến giải pháp là nói đến những cách thức tác động nhằm thay
đổi, chuyển biến một hệ thống, một quá trình, một trạng thái nhất định..., tựu trung
lại nhằm đạt được mục đích họat động. Giải pháp càng thích hợp, càng tối ưu,
càng giúp con người nhanh chóng giải quyết những vấn đề đặt ra. Tuy nhiên để có
được những giải pháp như vậy, chúng ta cần phải dựa trên những cơ sở lý luận và
thực tiễn đáng tin cậy.
1.2.5.2. Giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý trường
Tiểu học
Giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ CBQL trường tiểu học là những cách
thức tác động hướng vào việc tạo ra những biến đổi về chất lượng trong đội ngũ
CBQL trường tiểu học.
1.3. Người cán bộ quản lý trường tiểu học trong bối cảnh hiện nay
1.3.1. Vị trí, vai trò của người cán bộ quản lý trường tiểu học
Đội ngũ CBQL trường Tiểu học là một bộ phận rất quan trọng trong một
tập thể sư phạm, là lực lượng chủ yếu để tổ chức, điều hành quá trình giáo dục
trong nhà trường. Chất lượng đào tạo của một nhà trường cao hay thấp phụ thuộc
rất nhiều vào sự điều hành, chỉ đạo của đội ngũ CBQL.
Theo điều 16 của Luật Giáo dục: "Đội ngũ CBQL giữ vai trò quan trọng
trong việc tổ chức, quản lý, điều hành các hoạt động giáo dục vì vậy CBQLGD
phải không ngừng học tập, rèn luyện nâng cao phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên
môn, năng lực quản lý và trách nhiệm cá nhân" [33].
1.3.2. Chức năng, nhiệm vụ của người cán bộ quản lý trường tiểu học
Trong phạm vi luận văn này chúng tôi nghiên cứu đối tượng cán bộ quản lý
18
trường tiểu học là đội ngũ Hiệu trưởng và Phó Hiệu trưởng.
Hiệu trưởng là thủ trưởng đơn vị do nhà nước bổ nhiệm bằng một văn bản
pháp quy theo chế độ phân cấp hiện hành. Với tư cách thủ trưởng trường học,
Hiệu trưởng là người đại diện cho nhà trường về mặt pháp lý; là người thay mặt
nhà trường chịu trách nhiệm pháp nhân trước luật pháp nhà nước; có trách nhiệm
và thẩm quyền cao nhất về hành chính chuyên môn trong trường; chịu trách nhiệm
trước nhà nước, trước nhân dân về tổ chức và quản lý toàn bộ hoạt động của nhà
trường theo đường lối giáo dục của Đảng. Nhiệm vụ và quyền hạn của Hiệu
trưởng trường tiểu học được quy định cụ thể tại Điều 17, Điều lệ trường tiểu học
(Trích dẫn kèm theo tại Phụ lục 1) .
Phó Hiệu trưởng là người giúp việc cho Hiệu trưởng và chịu trách nhiệm trước
Hiệu trưởng, do Chủ tịch UBND dân cấp huyện bổ nhiệm đối với trường công lập,
công nhận đối với trường tư thục theo đề nghị của Trưởng phòng GD&ĐT. Nhiệm
vụ và quyền hạn của Phó Hiệu trưởng trường tiểu học được quy định cụ thể tại
Điều 18, Điều lệ trường tiểu học (Trích dẫn kèm theo tại Phụ lục 1) .
1.3.3. Những yêu cầu chung về chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý trường
Tiểu học
Tại chương 2, Thông tư số 14/2011/TT-BGDĐT ngày 08/4/2011 Bộ Giáo
dục và Đào tạo về việc ban hành quy định chuẩn hiệu trưởng trường Tiểu học đã
quy định rõ những yêu cầu về phẩm chất và năng lực đối với người cán bộ quản lý
trường tiểu học (Trích dẫn kèm theo tại Phụ lục 2) với các nội dung chính sau:
- Về phẩm chất, gồm: Phẩm chất chính trị, Đạo đức nghề nghiệp, Lối sống,
tác phong, Học tập, bồi dưỡng,
- Về năng lực, gồm: Năng lực chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm; Năng lực
quản lý trường tiểu học; Năng lực tổ chức phối hợp với gia đình học sinh, cộng
đồng và xã hội.
Từ những yêu cầu về phẩm chất năng lực của CBQL trường tiểu học, cho
thấy: Trong giai đoạn nước ta đang đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, mở cửa hội
nhập thế giới, người CBQL phải là người có phẩm chất và năng lực ngang tầm
nhiệm vụ; có trình độ tư duy tổng hợp, có khả năng nhìn xa trông rộng, vừa kiên
19
quyết, vừa bao dung, quy tụ được quần chúng. Đó là điều kiện tiên quyết để phát
huy tốt nhất hiệu suất, hiệu lực của tổ chức.
Chất lượng của đội ngũ CBQL phụ thuộc vào những thành tố có tính cấu
trúc của đội ngũ nhân lực thể hiện qua mặt cơ cấu, số lượng, chất lượng, trình độ
đào tạo, thâm niên công tác, giới tính, dân tộc,… như vậy yêu cầu chung về chất
lượng đối với đội ngũ CBQL thể hiện ở các mặt chủ yếu sau:
- Về chất lượng: Có phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống tốt. Có năng lực
chuyên môn, năng lực quản lý.
- Về số lượng: Đủ theo quy định đối với từng hạng trường tiểu học (theo quy
định trường hạng 1, hạng 2, hạng 3).
Hạng trường được quy định theo cơ cấu vùng, miền và theo số lớp học mỗi
trường của mỗi vùng miền. Quy định hạng trường giúp cho việc thực hiện chế độ
phụ cấp của Nhà nước đối với cán bộ quản lý nói chung, cán bộ quản lý trường
tiểu học nói riêng được công bằng hơn. Hạng trường của cấp Tiểu học được quy
định tại Thông tư số 35/2006/TTLT-BGDĐT - BNV ngày 23 tháng 8 năm 2006
liên tịch Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Nội vụ về hướng dẫn định mức biên chế
viên chức ở các cơ sở giáo dục phổ thông công lập, như sau:
Bảng 1.2: Quy định hạng trường tiểu học[11]
TT
1
2
Trường tiểu học thuộc
vựng, miền
Trung du, đồng bằng, thành
phố.
Miền núi, vùng sâu, hải
đảo
Hạng I
Hạng II
Hạng III
Từ 28 lớp trở lờn Từ 18 đến 27 lớp Dưới 18 lớp
Từ 19 lớp trở lờn Từ 10 đến 18 lớp Dưới 10 lớp
Theo quy định, trường hạng I có 2 Phó Hiệu trưởng; trường hạng II, hạng III có
1 Phó Hiệu trưởng; trường tiểu học có từ 20 học sinh khuyết tật trở lên được bố trí
thêm 1 Phó Hiệu trưởng.
- Về cơ cấu: Cơ cấu đội ngũ được xem xét ở nhiều mặt. Trong luận văn này
chúng tôi chỉ tập trung vào các mặt chủ yếu sau:
20
+ Độ tuổi và thâm niên: Hài hoà về độ tuổi và thâm niên nhằm vừa phát huy
được sức trẻ vừa tận dụng được kinh nghiệm trong quá trình công tác.
+ Giới: Cần phát huy được các ưu thế của nữ trong quản lý để phù hợp với
đặc điểm của bậc tiểu học (có nhiều nữ).
+ Chuyên môn được đào tạo: Có cơ cấu hợp lý về mặt chuyên môn cơ bản
được đào tạo (văn hóa, nhạc, họa, ngoại ngữ, tin học,…) và trình độ về lý luận
chính trị; đồng thời đảm bảo được chuẩn hóa và trên chuẩn về chuyên môn được
đào tạo (phải có trình độ Đại học trở lên).
1.4. Vấn đề nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý trường tiểu học
1.4.1. Sự cần thiết của việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý
trường tiểu học
Nghị quyết hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương (khoá VIII) đã
nêu rõ: "Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng gắn liền với vận
mệnh của Đảng, của Đất nước và của chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây
dựng Đảng" và "Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất và năng lực là
yếu tố quyết định chất lượng bộ máy nhà nước" [4]. Quan điểm đó nói lên vai trò
rất quan trọng và then chốt của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức đối với việc
xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước trong sạch vững mạnh; vừa đặt ra yêu cầu
trách nhiệm cao cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức phải phấn đấu vươn lên
hơn nữa để đáp ứng đòi hỏi của sự nghiệp cách mạng.
CBQLGD là một bộ phận quan trọng trong đội ngũ cán bộ của Đảng và
Nhà nước. Việc nâng cao chất lượng đội ngũ CBQL nói chung và đội ngũ
CBQLGD nói riêng đã trở thành nhiệm vụ quan trọng của các cấp, các ngành.
Thời gian qua, công tác giáo dục và đào tạo của nước ta đã thu được những
thành tựu to lớn. Nhưng hiện nay sự nghiệp giáo dục và đào tạo đang đứng trước
mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển nhanh, quy mô lớn với việc gấp rút nâng cao
chất lượng trong khả năng điều kiện còn hạn chế. Nghị quyết hội nghị lần thứ 2
Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) đã nêu "Những thành tựu đạt được
của giáo dục và đào tạo và những yếu kém về quản lý đã làm cho những mâu
thuẫn đó càng thêm gay gắt". Đồng thời Nghị quyết cũng nêu: "Đổi mới cơ chế
quản lý, bồi dưỡng cán bộ, sắp xếp chấn chỉnh và nâng cao năng lực của bộ máy
21
quản lý giáo dục và đào tạo là một trong những giải pháp chủ yếu cho phát triển
giáo dục và đào tạo" [3].
Quá trình xây dựng và phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo đã cho
chúng ta nhận thức: có nhân tố vật lực, điều kiện CSVC, trang thiết bị cho nhà
trường, có đội ngũ giáo viên đông đảo nhưng người CBQL yếu kém thì nhân tố
trên không thể phát triển được.
CBQL yếu kém là một trong những nguyên nhân chính gây nên tình trạng
yếu kém của giáo dục. Việc tạo dựng nâng cao chất lượng đội ngũ CBQL mới,
giỏi, đa năng là việc làm cần thiết, lâu dài của toàn ngành và mọi cấp. Nâng cao
chất lượng CBQL trường học nói chung và trường tiểu học nói riêng nhằm đáp
ứng yêu cầu xây dựng nhà trường của chúng ta trong thế kỷ XXI là việc làm cần
thiết. Đội ngũ CBQL cần đủ số lượng, đồng bộ về cơ cấu, có phẩm chất và năng
lực ngang tầm nhiệm vụ, CBQL cần được chuẩn hoá. CBQL giỏi phải được coi là
một trong những tiêu chí hàng đầu để xây dựng một nhà trường mạnh toàn diện.
Trong hệ thống giáo dục quốc dân, tiểu học là bậc học nền tảng có ý nghĩa
hết sức quan trọng. Nó là điều kiện cơ bản để nâng cao dân trí, là cơ sở ban đầu cho
việc đào tạo trẻ em trở thành những người công dân tốt cho đất nước. Vì vậy, nâng
cao chất lượng đội ngũ CBQL trường tiểu học là một việc làm quan trọng góp phần
nâng cao chất lượng giáo dục nói chung và chất lượng giáo dục tiểu học nói riêng.
Tóm lại: Hiện nay việc nâng cao chất lượng đội ngũ CBQL nói chung và
đội ngũ CBQL trường tiểu học nói riêng là một yêu cầu cấp thiết, là một vấn đề
được Đảng, Nhà nước xem là nhiệm vụ trọng tâm để đẩy nhanh tiến trình đổi mới,
để rút ngắn khoảng cách về trình độ phát triển giáo dục trong mối tương quan so
sánh với các nước trong khu vực và thế giới. Vì vậy cần phải được nghiên cứu đầy
đủ, có hệ thống.
1.4.2. Mục đích, nội dung, phương pháp nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ quản lý trường tiểu học
1.4.2.1. Mục đích nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý trường tiểu
học
22
Để nâng cao chất lượng đội ngũ CBQL trường tiểu học phải đảm bảo được
các mục đích sau:
- Phải đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu và chuẩn về chất lượng.
- Phải phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương.
- Phải đáp ứng được xu hướng đổi mới và phát triển của giáo dục phổ
thông nói chung, giáo dục tiểu học nói riêng.
1.4.2.2. Nội dung nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý trường tiểu học
Bản chất của việc nâng cao chất lượng đội ngũ CBQL trường tiểu học là
vấn đề thực hiện hiệu quả công tác cán bộ đối với đội ngũ đó. Dưới đây luận văn
sẽ đi sâu nghiên cứu các nội dung nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý
trường tiểu học, như: Công tác xây dựng quy hoạch; đào tạo bồi dưỡng; tuyển
chọn, bổ nhiệm, miễn nhiệm, luân chuyển; thực hiện chế độ chính sách; thanh tra,
kiểm tra, đánh giá; xây dựng hệ thống thông tin; vai trò lãnh đạo của Đảng đối với
việc nâng cao chất lượng đội ngũ CBQL trường tiểu học.
a) Quy hoạch đội ngũ cán bộ quản lý
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII)
về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã
khẳng định “Quy hoạch cán bộ là một nội dung trọng yếu của công tác cán bộ, bảo
đảm cho công tác cán bộ đi vào nề nếp, chủ động, có tầm nhìn xa, đáp ứng cả
nhiệm vụ trước mắt và lâu dài” [4].
Quy hoạch đội ngũ CBQL có tác dụng làm cho cơ quan quản lý hoặc người
quản lý biết được về số lượng, chất lượng, cơ cấu tuổi, trình độ và cơ cấu chuyên
môn của từng CBQL và cả đội ngũ CBQL; đồng thời xây dựng được kế hoạch phát
triển đội ngũ nhằm tìm ra các biện pháp nâng cao phẩm chất và năng lực cho từng
CBQL và cả đội ngũ để họ có được khả năng hoàn thành nhiệm vụ. Mặt khác, kết
quả quy hoạch là cơ sở chủ yếu mang tính định hướng cho việc vận dụng và thực
hiện các chức năng quản lý bộ máy tổ chức và đội ngũ nhân sự giáo dục trong các
trường tiểu học. Như vậy, quy hoạch đội ngũ được xem là một lĩnh vực trong hoạt
động quản lý và cũng là một lĩnh vực cần đề xuất giải pháp quản lý để nâng cao chất
lượng đội ngũ CBQL trường tiểu học.
23
b) Tuyển chọn, bổ nhiệm, miễn nhiệm, luân chuyển đội ngũ CBQL
Tuyển chọn, bổ nhiệm, miễn nhiệm, luân chuyển đội ngũ CBQL là công việc
thuộc lĩnh vực công tác tổ chức cán bộ.
“Bổ nhiệm là việc cán bộ, công chức được quyết định giữ một chức vụ lãnh
đạo, quản lý hoặc một ngạch theo quy định của pháp luật” [32]. Tuyển chọn, bổ
nhiệm các CBQL có đủ phẩm chất và năng lực một cách chính xác cho một tổ
chức là yếu tố quan trọng để phát triển tổ chức và tạo điều kiện tiên quyết cho tổ
chức đó đạt đến mục tiêu của nó. Mặt khác, tìm giải pháp tối ưu để tuyển chọn, bổ
nhiệm CBQL là một trong những yêu cầu tất yếu cho việc thực hiện kế hoạch
nâng cao chất lượng đội ngũ CBQL.
Miễn nhiệm CBQL thực chất là làm cho chất lượng đội ngũ luôn đảm bảo
các yêu cầu về chuẩn, không để cho đội ngũ CBQL có những thành viên không
đạt yêu cầu. Đây là một hình thức nâng cao chất lượng đội ngũ.
Luân chuyển CBQL có tác dụng làm cho chất lượng đội ngũ được đồng đều
trong các tổ chức đồng thời cũng tạo điều kiện thoả mãn các nhu cầu của cá nhân
CBQL. Hai mặt trên gián tiếp làm cho chất lượng CBQL được nâng cao. Mặt khác
thực hiện luân chuyển cán bộ để đào tạo, rèn luyện cán bộ trong thực tiễn.
Như vậy các hoạt động tuyển chọn, bổ nhiệm, miễn nhiệm và luân chuyển
CBQL là các hoạt động trong lĩnh vực quản lý cán bộ. Vì thế không thể thiếu
được những giải pháp quản lý khả thi đối với các lĩnh vực này.
c) Xây dựng và thực thi kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý
Công tác đào tạo, bồi dưỡng CBQL nhằm hoàn thiện và nâng cao các chuẩn về
trình độ lý luận chính trị; lý luận và thực tiễn quản lý; trình độ nghiệp vụ chuyên môn
cho từng CBQL và cả đội ngũ CBQL. Bản chất của công tác đào tạo, bồi dưỡng
CBQL là nâng cao phẩm chất và năng lực cho đội ngũ CBQL để họ có đủ các điều
kiện hoàn thành nhiệm vụ và các chức năng và quyền hạn của họ: “Nội dung của đào
tạo, bồi dưỡng được quy định bởi nội dung của các phẩm chất và năng lực định
hướng phát triển của người cán bộ quản lý giáo dục; đào tạo, bồi dưỡng còn là hoạt
động nhằm khắc phục mặt tiêu cực, phát huy mặt tích cực trong mỗi con người, bù
đắp những thiếu hụt, khiếm khuyết của mỗi cá nhân trong quá trình hoạt động. Quá
24
trình giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng là quá trình tạo ra chất mới và sự phát triển toàn
diện trong mỗi con người” [21].
Như vậy, để nâng cao chất lượng đội ngũ CBQL thì không thể thiếu được
hoạt động đào tạo, bồi dưỡng CBQL, đồng thời cần phải có những giải pháp khả
thi về lĩnh vực này.
d) Thực hiện chế độ chính sách đối với cán bộ quản lý
Chế độ chính sách, đãi ngộ là một trong những động lực thúc đẩy hoạt động
của con người. Mặt khác nó còn chứa đựng trong đó những vấn đề mang tính đầu
tư cho nhân lực theo dạng tương tự như “tái sản xuất” trong quản lý kinh tế. Vì
thế, có chính sách đãi ngộ thoả đáng đối với đội ngũ thì chất lượng đội ngũ được
nâng lên. Chính sách đãi ngộ đối với cán bộ nói chung và CBQL nói riêng là một
trong những hoạt động quản lý cán bộ, công chức của cơ quan quản lý và của
người quản lý đối với một tổ chức. Như vậy để nâng cao chất lượng đội ngũ
CBQL giáo dục nói chung và CBQL trường tiểu học nói riêng cần phải có những
giải pháp quản lý về lĩnh vực này.
e) Công tác thanh tra, kiểm tra, đánh giá đội ngũ cán bộ quản lý
Thanh tra, kiểm tra, đánh giá là một trong những chức năng của công tác
quản lý. Thanh tra, kiểm tra, đánh giá đội ngũ không những để biết được thực
trạng mọi mặt của đội ngũ mà qua đó còn dự báo về tình hình chất lượng đội ngũ
cũng như việc vạch ra những kế hoạch khả thi đối với hoạt động nâng cao chất
lượng đội ngũ. Mặt khác, kết quả đánh giá CBQL chính xác là cơ sở cho mỗi cá
nhân có sự tự điều chỉnh bản thân nhằm thích ứng với tiêu chuẩn đội ngũ. Như
vậy thanh tra, kiểm tra, đánh giá có liên quan mật thiết đối với việc nâng cao chất
lượng đội ngũ CBQL. Vì thế để nâng cao chất lượng đội ngũ CBQL không thể
không nhận biết chính xác về chất lượng đội ngũ thông qua hoạt động thanh tra,
kiểm tra, đánh giá đội ngũ để từ đó tìm các giải pháp khả thi về lĩnh vực này.
g) Xây dựng hệ thống thông tin trong công tác quản lý
Chúng ta đang sống trong một thời đại mới, thời đại phát triển rực rỡ của
công nghệ thông tin. Công nghệ thông tin đã ở một bước phát triển cao đó là số
hóa tất cả các dữ liệu thông tin, luân chuyển mạnh mẽ và kết nối tất cả chúng ta lại
25
với nhau. Không có lĩnh vực nào, không có nơi nào không có mặt của công nghệ
thông tin. Công nghệ thông tin là một trong các động lực quan trọng nhất của sự
phát triển…”Ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin ở nước ta nhằm góp
phần giải phóng sức mạnh vật chất, trí tuệ và tinh thần của toàn dân tộc, thúc đẩy
công cuộc đổi mới, phát triển nhanh và hiện đại hoá các ngành kinh tế, tăng cường
năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, hỗ trợ có hiệu quả cho quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, đảm bảo an
ninh quốc phòng và tạo khả năng đi tắt đón đầu để thực hiện thắng lợi sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. [15]. Tác động của CNTT đối với xã hội
loài người vô cùng to lớn, nó không chỉ thúc đẩy nhanh quá trình tăng trưởng kinh
tế, mà còn kéo theo sự biến đổi trong phương thức sáng tạo của cải, trong lối sống
và tư duy của con người.
Đối với giáo dục, công nghệ thông tin là công cụ đắc lực hỗ trợ đổi mới
phương pháp giảng dạy, học tập và quản lý, góp phần nâng cao hiệu quả và chất
lượng giáo dục. Tuy nhiên, làm thế nào để việc ứng dụng công nghệ thông tin đạt
hiệu quả cao nhất đang là vấn đề được ngành giáo dục đặc biệt quan tâm.
Hiện nay, có thể nói giáo dục vẫn đang là một thị trường Internet đầy tiềm
năng nhưng vẫn chưa được đầu tư, khai thác thoả đáng. Mặt khác, trình độ công
nghệ thông tin của cán bộ quản lý giáo dục còn nhiều hạn chế cũng là một nguyên
nhân làm ảnh hưởng trực tiếp đến việc ứng dụng công nghệ thông tin trong công
tác quản lý. Vì vậy, để nâng cao chất lượng đội ngũ CBQL cần quan tâm và làm
tốt nội dung này.
h) Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ quản lý
Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra đường lối, chính sách cán bộ và quyết định
bố trí, quản lý đội ngũ cán bộ. Đảng kiểm tra, giám sát việc thực hiện quyết định,
chủ trương, chính sách của Đảng về công tác cán bộ. Vì vậy vai trò lãnh đạo của
Đảng là một yếu tố quan trọng, có ý nghĩa quyết định trong việc nâng cao chất
lượng đội ngũ CBQL trường tiểu học.