Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

học thuyết về hình thái kinh tế xã hội và việc nhận thức con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.59 KB, 15 trang )

HỌC THUYẾT VỀ HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ VIỆC NHẬN
THỨC CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
I. Học thuyết về Hình thái kinh tế - xã hội – Nền tảng lý luận của chủ
nghĩa duy vật lịch sử
1. Những quan điểm xuất phát của Mác – Ăng ghen khi phân tích đời
sống xã hội
1.1. Các quan điểm trước Mác khi bàn về xã hội
Trước khi có chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa duy tâm đã giữ vị trí thống trị
trong việc giải thích lịch sử. Không những các nhà triết học duy tâm mà ngay cả
những nhà tư tưởng tiên tiến trước Mác cũng đứng trên lập trường duy tâm để
giải thích các hiện tượng lịch sử xã hội. Người ta xuất phát từ một sự thật là
trong giới tự nhiên, thì lực lượng tự nhiên hoạt động tự động, không có ý thức;
còn trong xã hội, nhân tế hoạt động là con người có lý tính, có ý thức và ý trí.
Căn cứ vào sự thật ấy người ta đi đến kết luận sai lầm rằng: Trong giới tự nhiên,
thì tính quy luật, tính tất nhiên thống trị. Sự thay đổi của ngày đêm, sự thay đổi
của bốn mùa, sự biến hóa của khí hậu và những hiện tượng không phụ thuộc vào
ý và chí và ý thức của người ta, còn những sự kiện lịch sử thì do hoạt động tự
giác và ý chí của người ta, trước hết là của những nhân vật lịch sử, những lãnh
tụ, anh hùng quyết định ; ý chí của người ta có thể thay đổi tiến trình lịch sử.
Chính vì vậy, đáng lẽ phải lấy sự phát triển của các điều kiện vật chất của
xã hội để giải thích lịch sự, động lực lịch sử, bản chất của con người; giải thích
tự nhiên xã hội, quân điểm chính trị, chế độ chính trị... người ta lại đi từ ý thức
con người, từ những tư tưởng lý luận về chính trị, về triết học, pháp luật... để
giải thích toàn bộ lịch sử xã hội. Nguyên nhân giải thích của sự duy tâm về lịch
sử chính là ở chỗ các nhà triết học trước kia đã coi ý thức xã hội để ra và quyết
dịnh tồn tại xã hội.
Quan điểm này có những thiếu sót căn bản như sau: Không vạch ra được
bản chất của các hiện tượng xã hội, nguyên nhân vật chất của những hiện tường
ấy. Không tìm ra những quy luật phổ biến chi phối sự vận động và phát triển của
xã hội. Không thấy vai trò quyết định của quân chúng nhân dân trong lịch sử.
1.2. Quan điểm xuất phát của Mác – Ăng ghen:


Khi xây dựng quan niệm duy vật lịch sử, C.Mác và Ăngghen đã xuất phát
từ các tiền đề sau:
1.2.1. Sự tồn tại của con người sống - con người hiện thực.
C.Mác (1818 - 1883). Sau khi tốt nghiệp ĐH vào năm 1839, C.Mác đăng
ký làm nghiên cứu triết học tại ĐH Béclin - Đức. Mặc dù còn trẻ, song Mác đã
tự xác định cho mình là phải biết kết hợp việc nghiên cứu triết học với tiến trình
phát triển của lịch sử, bám sát lịch sử mới hiểu được lôgích tất yếu của nó. Theo
hướng tiếp cận đó, C.Mác đi đến phân tích nhân tố cơ bản, đầu tiên thúc đảy lịch
sử phát triển của xã hội loài người. Trong “hệ tư tưởng Đức” C.Mác nói:
“Những công việc nghiên cứu của tôi đã dẫn tôi đến kết quả là: không thể láy
1


bản thân những quan hệ pháp quyền cũng như những hình thái nhà nước, hay cái
gọi là sự phát triển chung của tinh thần con người để giải thích những quan hệ
và hình thái đó, mà trái lại phải thấy rằng những quan hệ đó bắt nguồn từ những
điều kiện sinh hoạt vật chất…”; hay “Tiền đề đầu tiên của toàn bộ lịch sử nhân
loại thì lẽ dĩ nhiên là sự tồn tại của những cá nhân con người sống”.
Xã hội dù tồn tại dưới hình thức nào cũng là sự liên hệ và tác động qua lại
giữa người với người.
Các nhà tư tưởng trước Mác đã từng tiếp cận vấn đề con người dưới nhiều
góc độ, đã có nhiều đóng góp quý báu và từ đó họ đã đưa ra những lý giải về
mặt xã hội. Song do hạn chế lịch sử, họ chưa có cái nhìn đầy đủ về sự tồn tại của
con người cũng nư của lịch sử xã hội loài người. Điều đáng chân trọng nhất là
tất cả các nhà tư tưởng đó đã làm thành dòng chủ lưu của lịch sử văn hóa nhân
loại, đó là chủ nghĩa nhân đạo.
Tiếp nối truyền thống đó, triết học Mác đã có những phát hiện mới và
đóng góp mới: xuất phát từ con người hiện thực, Mác chỉ ra phương thức tồn tại
của con người đó chính là hoạt động của họ. Cái quy định hành vi lịch sử đầu
tiên và cũng là động lực thúc đảy hoạt động của con người là nhu cầu và lợi ích.

- Nhu cầu của con người được hình thành một cách khách quan, có nhiều
thang bậc, mà trước hết là nhu cầu sống (Mác nói: “Muốn sống được thì trước
hết phải có thức ăn, thức uống, nhà ở, quần áo và một vài thứ khác nữa”), nhu
cầu giao tiếp, sinh hoạt cộng đồng, nhu cầu phát triển tâm hồn, trí tuệ. Hơn nữa
đây còn là một hành vi lịch sử, một điều kiện cơ bản của mọi lịch sử à ngày nay
cũng như hàng nghìn năm về trước), người ta phải thực hiện hàng ngày, hàng
giờ, chỉ nhằm để duy trì đời sống của con người.
- Kết quả hoạt động là nhằm thỏa mãn nhu cầu, đồng thời làm nảy sinh
nhu cầu mới và điều kiện thực hiện những nhu cầu mới.
- Con người cá nhân - hiện thực (tồn tại đơn nhất) bao giờ cũng tồn tại
trong thành phần những hệ thống xã hội như gia đình, tập thể, giai cấp, dân tộc
(tồn tại đặc thù) và rộng hơn nữa là xã hội loài người (tồn tại phổ biến). Mác cho
rằng: “cá nhân là một thực thể xã hội. Cho nên mọi biểu hiện sinh hoạt của nó là
biểu hiện và sự khẳng định của sinh hoạt xã hội.
1.2.2. Sản xuất vật chất - cơ sở của đời sống xã hội.
“Đời sống xã hội, về thực chất là có tính thực tiễn”. Để tồn tại và phát
triển, xã hội không ngừng hoạt động để tham gia vào:
Sản xuất vật chất
Sản xuất tinh thần
Sản xuất ra bản thân con
người
Ba quá trình đó tác động biện chứng lẫn nhau, trong đó sản xuất vật chất
là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội. Trong đó:

2


● Sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác
động vào tự nhiên, cải tiến các dạng vật chất của giới tự nhiên nhằm tạo ra của
cải vật chất thoả mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của con người.

● Vai trò của sản xuất đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội.
- Sản xuất vật chất là cơ sở cho sự tồn tại xã hội.
Con người muốn tồn tại và phát triển phải có cơm ăn, áo mặc, nhà ở... và
những các vật dụng cần thiết khác nhằm duy trì đời sống tự nhiên của con
người. Những thứ đó ko có sẵn trong tự nhiên mà phải qua quá trình sản xuất vật
chất. SXVC không chỉ tạo ra những tư liệu sinh hoạt đáp ứng nhu cầu sống của
con người mà còn tạo ra những tư liệu sản xuất phục vụ cho quá trình sản xuất
mà những tư liệu sản xuất còn là tiêu chuẩn để phân biệt các thời đại khác nhau.
C.Mác đã chỉ rõ: “các thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản
xuất ra cái gì, mà là ở chỗ chúng ản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao
động nào”.
- Sản xuất vật chất sáng tạo ra con người và xã hội loài người
Trong quá trình lao động sản xuất vật chất, con người biến đổi cả về hình
thể lẫn trí tuệ. Đồng thời trong quá trình này, con người sáng tạo ra mọi mặt của
đời sống xã hội. Tất cả các hoạt động và các quan hệ xã hội về nhà nước, pháp
quyền, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo… đều hình thành và biến đổi trên cơ sở
SXVC.
- Sản xuất vật chất là động lực thúc đảy sự phát triển xã hội.
Sản xuất vật chất là quá trình con người làm biến đổi tự nhiên, xã hội và
bản thân con người. Quá trình sản xuất cũng không ngừng phát triển. Điều này
quyết định sự phát triển của các mặt đời sống xã hội, quyết định sự phát triển xã
hội từ thấp đến cao.
=> Nền sản xuất xã hội bao gồm nhiều mặt, nhiều mối liên hệ, trong đó
nổi lên hai loại liên hệ cơ bản:
+ Thứ nhất, quan hệ kinh tế - kỹ thuật: biểu hiện ở cách thức năng lực,
trình độ của con người trong quá trình tác động vào tự nhiên để tạo ra sản phẩm
cho xã hội. Quan hệ này được phản ánh trong khái niệm LLSX.
+ Thứ hai, quan hệ kinh tế - xã hội: thể hiện ở cách giải quyết vấn đề lợi
ích kinh tế, là quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất,
trao đổi và tiêu dùng. Quan hệ này được phản ánh trong khái niệm QHSX.

Về mặt nhận thức luận: LLSX và QHSX là hai loại quan hệ (không phải
hai bộ phận) trong một thực thể thống nhất cấu thành PTSX của xã hội. Nghĩa
là, từ hai góc tiếp cận để xem xét một thực thể PTSX.
Nếu phân tích PTSX theo quan hệ giữa con người với tự nhiên thì đó là
LLSX.
Nếu phân tích PTSX theo quan hệ giữa con người với con người thì đó là
QHSX.
3


LLSX và QHSX nằm trong thể thống nhất của hai mặt đối lập trong
PTSX xã hội nhất định. Chúng quy định chế ước lẫn nhau, tác động qua lại và
thúc đảy nhau cùng phát triển theo quy luật về sự phù hợp của QHSX với tính
chất và trình độ phát triển của LLSX. Nghĩa là trong sự thống nhất bao hàm sự
mâu thuẫn đó thì LLSX giữ vai trò quyết định sự vận động phát triển của
QHSX, còn QHSX phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX.
Sự thống nhất và mâu thuẫn không ngừng nảy sinh, tự giải quyết, là động lực
vận động nội tại của PTSX, là cơ sở của lịch sử xã hội loài người.
1.2.3. Con người vừa là chủ thể, vừa là sản phẩm của lịch sử.
Không có tự nhiên không có lịch sử xã hội thì không thể có con người.
Con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hóa lâu dài của giới hữu sinh.
Lịch sử không phải do một nhân cách nào đó sử dụng con người làm
phương tiện để đạt đến mục đích của mình, mà lịch sử xã hội loài người là lịch
sử hoạt động của chính bản thân con người. Hoạt động của con người bao gồm
sự thống nhất giữa mặt khách quan và mặt chủ quan của quá trình lịch sử.
+ Sự thống nhất giữa mặt khách quan và chủ quan của quá trình lịch sử là
một vấn đề hết sức phức tạp. Do tính phức tạp đó mà các nhà triết học trước
Mác nhận thức và giải quyết vẫn còn nhiều hạn chế, sai lầm:
- Một là, nhấn mạnh vai trò của nhân tố chủ quan trong hoạt động của con
người đến mức cho rằng đạo đức, ý thức hoặc lý tính có thể quyết định lịch sử

(Platon, Béccơli, Hêghen).
- Hai là, thừa nhận tính bị quy định của hoạt động con người nhưng lại
không lý giải được tính khách quan nên đã sa vào quan niệm định mệnh về lịch
sử.
+ Các nhà sáng lập ra CNDVLS đã làm sáng tỏ vấn đề mối quan hệ giữa
mặt khách quan và mặt chủ qun của tiến trình lịch sử thông qua những lát cắt
nhận thức luận khác nhau, những quan hệ gắn bó và bổ sung cho nhau. Đó là
việc thông qua và giải quyết đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã
hội và ý thức xã hội, giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan, giữa quy
luật lịch sử và hoạt động có ý thức của con người, giữa tự do và tất yếu, giữa tự
phát và tự giác trong sự phát triển của lịch sử. Trong việc giải quyết vấn đề đó,
Mác đã xác lập nguyên tắc có tính phương pháp luận là tồn tại xã hội thì quyết
định ý thức xã hội, ý thức xã hội là sự phản ánh của tồn tại xã hội và tác động
đến sự phát triển của tồn tại xã hội. Mác nhấn mạnh: “không phải ý thức con
người quyết định sự tồn tại của họ, trái lại chính sự tồn tại của họ quyết định ý
thức của họ”.
- Trên có sở nguyên tắc phương pháp luận đó, triết học Mác cho rằng xã
hội là một bộ phận đặc thù của thế giới vật chất, vận động và phát triển tuân theo
quy luật khách quan. Quy luật xã hội là những mối liên hệ bản chất, tất yếu, lặp
đi lặp lại của các quá trình, các hiện tượng của đời sống xã hội, đặc trung cho
khuynh hướng co bản phát trienr xã hội từ thấp đến cao. Giống như quy luật tự
nhiên, quy luật xã hội có tính tất yếu khách quan, nhưng điều đó không có nghĩa
4


là con người bó tay trước quy luật. Khi chưa nhận thức được quy luật thì con
người hành động một cách tự phát, là nô lệ của tính tất yếu. Khi đã nhận thức
được các quy luật và các điều kiện của chúng thì con người có thể điều khiển
hoạt động của mình phù hợp với yêu cầu của quy luật một cách tự giác, khi đó
con người có tự do trong hoạt động của mình. Vơi ý nghĩa đó có thể thấy tự do

chính là nhận thức và hành động theo cái tất yếu.
- Quan niệm duy vật về lịch sử khoogn phủ nhận tác động của mục đích
con người đối với tiến trình lịch sử, nhưng đòi hỏi phải nhận thức nó một cách
khoa học. Nghĩa là quan niệm DV về lịch sử xem xét nhu cầu khách quan của sự
xuất hiên các mục đích và những điều kiện để thực hiện mục đích đó. Điểm xuất
phát để định ra mục đích là những điều kiện khách quan. Chính đời sống con
người làm này sinh ở họ nhu cầu và lợi ích, đặt ra cho họ mục đích hoạt động. Ở
đó sự quy định khách quan đã chuyển hóa thành sự quy định chủ quan; mặt khác
để đạt được mục đích lại cần phải có những điều kiện khách quan thích hợp.
Hoạt động của con người là quá trình chuyển tính chủ quan thành tính khách
quan.
Như vậy, quá trình lịch sử là quá trình hoạt động của con người tuân theo
những quy luật khách quan. Quá trình lịch sử luôn là sự thống nhất giữa những
quy luật vận động khách quan của xã hội và hoạt động có ý thwucs của con
người. XÃ hội ngày càng tiến bộ, càng phát triển thì vai trò của nhân tố chủ
quan ngày càng tăng lên, đó là xu hướng có tính quy luật của lịch sử.
2. Phạm trù “Hình thái kinh tế - xã hội” và cấu trúc của nó
2.1. Khái niệm “Hình thái kinh tế - xã hội”
Theo quan điểm Mác xít thì “hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù
của chủ nghĩa duy vật lịch sử, dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất
định, với kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình
độ nhất định của lực lượng sản xuất và với một kiểu trúc thượng tầng tương ứng
được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy. Hình thái kinh tế - xã hội là sự
khái quát dùng để chỉ xã hội trong một giai đoạn lịch sử nhất định, nói cách khác
nó là một nấc thang của lịch sử xã hội, là sự khái quát dùng để phân biệt giữa
giai đoạn lịch sử này với giai đoạn lịch sử khác.
2.2. Cấu trúc của “Hình thái kinh tế - xã hội”
Hình thái kinh tế-xã hội là một hệ thống, một chỉnh thể toàn vẹn có cơ cấu
phức tạp, trong đó có những mặt cơ bản nhất là lực lượng sản xuất, quan hệ sản
xuất và kiến trúc thượng tầng.

Lực lượng sản xuất – là quan hệ giữa người với tự nhiên trong quá trình
sản xuất - là nền tảng vật chất-kỹ thuật của mỗi hình thái kinh tế-xã hội. Xét đến
cùng, lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành và phát triển của mỗi hình
thái kinh tế-xã hội. Bản thân các lực lượng sản xuất không phải là sản phẩm
riêng của một thời đại nào mà là sản phẩm của cả một quá trình phát triển liên
tục từ thấp lên cao qua các thời đại, là sự tiếp biến không ngừng của lịch sử.
5


Quan hệ sản xuất - quan hệ giữa người và người trong quá trình sản xuất là những quan hệ cơ bản, ban đầu và quyết định tất cả các quan hệ xã hội khác,
không có những mối quan hệ đó thì không thành xã hội và không có quy luật xã
hội. Quan hệ sản xuất là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt xã hội cụ thể này
với xã hội cụ thể khác.
Những quan hệ sản xuất là bộ xương của cơ thể xã hội hợp thành cơ sở hạ
tầng và trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng tương ứng mà chức năng xã
hội của nó là bảo vệ, duy trì và phát triển cơ sở hạ tầng sinh ra nó.
Ngoài các quan hệ cơ bản: lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, kiến trúc
thượng tầng, trong mỗi hình thái kinh tế-xã hội còn có những quan hệ dân tộc,
gia đình,..
II. Nội dung của học thuyết về Hình thái kinh tế - xã hội của Mác –
Ăng ghen:
1. Nội dung của quy luật biến đổi, thay thế lẫn nhau của các hình thái
kinh tế - xã hội
1.1. Lịch sử xã hội loài người đã trải qua các giai đoạn nào và tương
ứng với chúng là các hình thái kinh tế - xã hội nào
Theo quan điểm duy vật lịch sử, chủ nghĩa Mác phân chia quá trình hình
thành và phát triển của xã hội loài người dựa trên cơ sở sản xuất vật chất. Hay
còn gọi là hình thái kinh tế xã hội: HTKTXH cộng sản nguyên thủy, HTKTXH
chiếm hữu nô lệ, HTKTXH phong kiến, HTKTXH tư bản chủ nghĩa, HTKTXH
cộng sản chủ nghĩa.

1.2. Các hình thái kinh tế - xã hội đã vận động biến đổi như thế nào
* Làm rõ cụm từ “lịch sử - tự nhiên”:
Khi phân tích sự phát triển của lịch sử nhân loại theo lý luận cấu trúc hình
thái kinh tế - xã hội, C.Mác cho rằng: “sự phát triển của các hình thái kinh tế xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên”(C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, t.23, t.r21. ).
Phạm trù tự nhiên được dùng đi liền với từ “lịch sử” ở đây được đề cập ở
góc độ tính tất yếu của sự vận động phát triển lịch sử. Đó là sự phát triển vận
động không ngừng của lịch sử xã hội từ thấp đến cao, không phụ thuộc vào ý
muốn chủ quan của con người hoặc bất cứ một lực lượng xã hội nào mà nó do
các quy luật kinh tế - xã hội khách quan vốn có của bản thân xã hội quyết định
mà trong đó trước hết và cơ bản là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất của sự phát triển xã hội chẳng
những diễn ra bằng con đường phát triển tuần tự mà còn bao hàm cả trường hợp
bỏ qua một hình thái kinh tế - xã hội nhất định trong những hoàn cảnh lịch sử cụ
thể nhất định.
* Quá trình “lịch sử - tự nhiên” của xã hội là như thế nào:

6


Tính chất lịch sử - tự nhiên của quá trình phát triển các hình thái kinh tếxã hội được thể hiện ở các nội dung sau:
Một là, sự vận động và phát triển của xã hội tuân theo các quy luật khách
quan, đó là các quy luật của chính bản thân cấu trúc hình thái kinh tếxã hội mà
trước hết là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất, quy luật kiến trúc thượng tầng phù hợp với cơ sở hạ tầng.
Hai là, nguồn gốc của mọi sự vận động, phát triển của xã hội đều có
nguyên nhân trực tiếp hay gián tiếp từ sự phát triển của lực lượng sản xuất xã
hội. Theo V.I.Lênin: “Chỉ có đem quy các quan hệ xã hội vào những quan hệ
sản xuất, và đem quy những quan hệ sản xuất vào trình độ của những lực lượng
sản xuất thì người ta mới có được một cơ sở vững chắc để quan niệm sự phát

triển của những hình thái xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên”(V.I.Lênin:
Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Matxcơva,1974, t.1, tr.163. ).
Ba là, quá trình phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội, tức là quá
trình thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội là do sự tác động của
các quy luật khách quan làm cho các hình thái kinh tế - xã hội không tồn tại vĩnh
viễn mà chỉ tồn tại trong những giai đoạn lịch sử nhất định.
* Các quy luật khách quan nào chi phối sự vận động biến đổi của các
hình thái kinh tế - xã hội (phân tích ngắn gọn từng quy luật):
Một trong những quy luật cơ bản chi phối sự vận động và phát triển của
hình thái KT-XH là quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất . Quy luật này chỉ ra rằng : lực lượng sản xuất quyết
định quan hệ sản xuất và quan hệ sản xuất sau khi hình thành và tồn tại nó có tác
động trở lại đối với lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ
sản xuất thể hiện qua việc trình độ lực lượng sản xuất đang tồn tại đặt ra yêu cầu
quan hệ sản xuất phải phù hợp với nó mà không đòi hỏi cao hơn hoặc thấp hơn
nó. Song, quan hệ sản xuất không hoàn toàn phù hợp một cách thụ động vào lực
lượng sản xuất, nó có vai trò độc lập tương đối trong sự tác động trở lại lực
lượng sản xuất. Sự tác động của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất
diễn ra theo hai hướng : phù hợp hoặc không phù hợp. Quan hệ sản xuất tác
động phù hợp với lực lượng sản xuất, nghĩa là quan hệ sản xuất sau khi hình
thành và tồn tại, nó đáp ứng đúng đòi hỏi tất yếu của lực lượng sản xuất và sau
đó nó có vai trò tạo ra sự liên kết, kết hợp có hiệu quả hơn giữa các yếu tố cấu
thành lực lượng sản xuất, làm cho tất cả các yếu tố ấy phát huy tất cả tiềm năng,
sức mạnh vốn có của nó, nhờ vậy mà tạo ra năng suất lao động cao hơn. Hai là
khi quan hệ sản xuất hình thành và tồn tại không phù hợp với đòi hỏi tất yếu của
lực lượng sản xuất thì nó sẽ kìm hãm, phá hoại sự phát triển của lực lượng sản
xuất dẫn đến những hậu quả kinh tế xã hội nghiêm trọng. Biểu hiện của sự
không phù hợp thể hiện ở 2 khía cạnh : một là khi quan hệ sản xuất đã lỗi thời,
lạc hậu so với trình độ mới của lực lượng sản xuất, hai là trường hợp chú thể
dùng ý chí chủ quan của mình áp đặt một “mô hình” quan hệ sản xuất”, “cao

hơn” trình độ lực lượng sản xuất. Cả 2 trường hợp này đều kìm hãm sự phát
7


triển của lực lượng sản xuất, nhưng không có nghĩa là lực lượng sản xuất đứng
im tại chổ
Quy luật thứ hai chi phối sự vận động và phát triển của hình thái KT-XH
là quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng (quan hệ sản xuất) và
kiến trúc thượng tầng. Quy luật này khẳng định rằng cơ sở hạ tầng là quan hệ cơ
bản quyết định kiến trúc thượng tầng và kiến trúc thượng tầng sinh ra từ cơ sở
hạ tầng nhưng nó có vai trò to lớn tác động mạnh mẽ trở lại cơ sở hạ tầng. Cơ sở
hạ tầng với tính cách là cơ cấu kinh tế hiện thực sản sinh ra một kiến trúc thượng
tầng tương ứng qui định tính chất, cơ cấu và mục đích hoạt động của kiến trúc
thượng tầng. Khi cơ sở hạ tầng thay đổi thì kiến trúc thượng tầng phải thay đổi
theo nhưng sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng diễn ra khá lâu dài, một cách
biện chứng. Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng
thể hiện qua vai trò định hướng chính trị cho hoạt động kinh tế theo yêu cầu mục
đích của giai cấp thống trị, mà trong đó Nhà nước là thiết chế quan trọng nhất
khi tác động trở lại kinh tế. Kiến trúc thượng tầng cũng có nhiệm vụ bảo vệ và
phát triển cơ sở kinh tế đã sinh ra nó. Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đến
cơ sở hạ tầng có thể diễn ra 2 khả năng sau đây : một là phù hợp với tính tất yếu
kinh tế, với yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất thì có tác dụng thúc đẩy
kinh tế phát triển; hai là do yếu kém và sai lầm của kiến trúc thượng tầng tác
động không phù hợp với quy luật kinh tế thì sẽ kìm hãm sự phát triển của đời
sống kinh tế. Trong những trường hợp đặc biệt, kiến trúc thượng tầng có thể tác
động làm đảo lộn nhanh chóng cơ sở hạ tầng nhưng suy đến cùng thì kiến trúc
thượng tầng vẫn bị kinh tế quyết định
* Quá trình vận động, thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã
hội là 1 tất yếu hay ngẫu nhiên:
Trong các quy luật khách quan chi phối sự hoạt động, phát triển của hình

thái kinh tế xã hội theo quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính
chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quan trọng nhất, có vai trò
quyết định nhất.
Một mặt của phương thức sản xuất lực lượng sản xuất là yếu tố đảm bảo
tính kế thừa trong sự phát triển tiến lên của xã hội, quy định phương hướng sản
xuất từ thấp đến cao. Mặt thứ hai của phương thức sản xuất - quan hệ sản xuất
biểu hiện tính gián đoạn trong sản xuất phát triển của lịch sử. Những quan hệ
sản xuất lỗi thời được xoá bỏ và thay thế bằng những kiểu quan hệ sản xuất mới
cao hơn và hình thái kinh tế xã hội mới cao hơn ra đời.
Như vậy, quá trình vận động, thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế
- xã hội là 1 tất yếu. Sự xuất hiện, phát triển của hình thái kinh tế xã hội, sự
chuyển biến từ hình thái này sang hình thái khác cao hơn được giải thích trước
hết bằng sự tác động của quy luật trên. Đó là khuynh hướng tự tìm đường cho
mình phát triển và thay thế của các hình thái kinh tế xã hội.
* Theo quan điểm của Mác – Ăng ghen hình thái kinh tế - xã hội tư
bản sẽ bị thay thế bởi hình thái kinh tế - xã hội nào:
8


Bên cạnh việc khẳng định sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã
hội là một quá trình lịch sử tự nhiên, Mác cũng cho rằng không phải quốc gia,
dân tộc nào cũng nhất thiết phải trải qua tất cả các hình thái kinh tế - xã hội đã
có trong lịch sử. Do những điều kiện khách quan và chủ quan nhất định, một
quốc gia, dân tộc nào đó có thể bỏ qua một hình thái kinh tế - xã hội nhất định
nào đó để tiến lên một hình thái kinh tế - xã hội tiến bộ hơn. Đó cũng là quá
trình lịch sử tự nhiên nhưng mang tính đặc thù, rút ngắn lịch sử.
V.I.Lê-nin cũng đã nói con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội có thể có
những hình thức khác nhau; điều đó tuỳ thuộc vào trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất. Theo Người, hình thức quá độ trực tiếp là con đường phát triển
tuần tự từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội; còn hình thức quá độ gián tiếp

là con đường phát triển rút ngắn, phát triển bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa - con
đường từ tiền tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, trong quan
niệm của V.I.Lê-nin, tất cả các loại hình khác nhau của sự phát triển xã hội phát triển tuần tự hay phát triển rút ngắn - đều phải tuân theo quy luật khách
quan và đều là con đường phát triển lịch sử - tự nhiên. Phát triển rút ngắn đòi
hỏi phải có những điều kiện khách quan và chủ quan mới có thể thực hiện được.
2. Vai trò phương pháp luận của Học thuyết Hình thái kinh tế - xã hội
2.1. Đối vối nhận thức khoa học về xã hội:
* Phạm trù HTKT-XH là mô hình lý luận về xã hội, đồng thời phản ánh
cái lôgíc của lịch sử nhân loại.
- Giữa lý luận và thực tế không hoàn toàn đồng nhất với nhau. Thực tế là
tất cả những gì đang diễn ra trong hiện thực với những chi tiết, đặc điểm, trạng
thái mang tính phong phú, nhiều vẻ của nó. Lý luận là nhận thức trừu tượng,
khái quát về bản chất và quy luật của các sự vật, hiện tượng trong thực tế. Lý
luận chỉ tập trung phản ánh cái bản chất, cái mang tính quy luật của thực tế, vì
vậy lý luận bao giờ cũng sâu sắc hơn, chính xác hươn và có hệ thống hơn.
Gần giống như vậy, phạm trù lịch sử và lôgíc cũng không đồng nhất với
nhau
+ Phạm trù lịch sử chỉ toàn bộ quá trình phát sinh, phát triển và diệt vong
của một sự vật. Đặc điểm của lịch sử loài người là nó diễn ra theo một trật tự
thời gian, với những biểu hiện cụ thể, nhiều hình nhiều vẻ, trong đó không chỉ
có cái bản chất, cái tất nhiên mà còn có cả cái không bản chất, cái ngẫu nhiên, cả
những bước quanh co của sự phát triển.
+ Phạm trù lôgíc là sự tái tạo tạo dưới dạng hình ảnh tinh thần về lịch sử.
Nó không sao chép nguyên xi lịch sử mà nắm bắt cái bản chất của lịch sử, vạch
ra quy luật phát triển của lịch sử, tước bỏ những cái bề ngoài, ngẫu nhiên, không
bản chất của lịch sử và tái hiện lại lôgíc khách quan của lịch sử.
- Phạm trù HTKT-XH, với tư cách là cái lôgíc, là mô hình lý luận về lịch
sử, không sao chép máy móc giản đơn lịch sử mà là sự phản ánh rút gọn và sáng

9



tạo đối với lịch sử. Vì vậy mà phạm trù HTKT-XH - mô hình lý thuyết (sơ đồ lý
thuyết) về xã hội và hiện tực xã hội là không đồng nhất với nhau.
Trong thực tế các sự kiện lịch sử diễn ra mang tính không lặp lại, hết sức
phong phú, các yếu tố vật chất và tinh thần, kinh tế và chính trị thường xuyên
tác động qua lại lẫn nhau. Phạm trù HTKT-XH chỉ phản ánh cái bản chất, những
mối liên hệ bên trong, tất yếu lặp đi lặp lại của các hiện tượng ấy; từ tính đa
dạng của lịch sử, nó bỏ qua các chi tiết cá biệt, ngẫu nhiên, dựng lại cấu trúc ổn
định và lôgíc phát triển của quá trình lịch sử.
* Phạm trù HTKT-XH đã đem lại những nguyên tắc phương pháp luận
xuất phát để nghiên cứu về xã hội, loại bỏ đi cái bề ngoài, cái ngẫu nhiên,
không đi vào các chi tiết, vượt ra khỏi tri thức kinh nghiệm hoặc xã hội học mô
tả, đi sâu vạch ra cái bản chất ổn định từ cái phong phú của hiện tượng, vạch ra
cái lôgíc bên trong của tính nhiều vẻ của lịch sử. Điều này đòi hỏi chúng ta phải
nghiên cứu về xã hội cần phải nắm chắc mô hình lý luận chung, từ đó phải chú
ý ró hơn tới các khía cạnh:
- “Đời sống xã hội, về thực chất, có tính chất thực tiễn” và hình thức chủ
yếu trong cấu trúc của thực tiễn là hoạt động sản xuất vật chất của con người.
Nhân tố quyết định trong lịch sử xét đến cùng là sản xuất vật chất. Xuất phát từ
sự phat triển của LLSX và QHSX, thông qua quy luật về sự phù hợp của QHSX
với trình độ phát triển của LLSX mà nền sản xuất không ngừng phát triển, và sự
phát triển của SXVC mà thúc đảy mọi mặt đời sống xã hội phát triển lên trình độ
cao hơn. Đó là lôgíc của sự phát triển của lịch sử. Ph.Ăngghen đã viết: “Théo
quan điểm DV về lịch sử, nhân tố quyết định trong lịch sử xét đến cùng là sự sản
xuất và tái sản xuất ra đời sống hiện thực. Cả Mác và tôi chưa bao giờ khẳng
định gì hơn. Nếu như có ai xuyên tạc câu đó khiến cho nó có nghĩa là chỉ có
nhân tố kinh tế là duy nhất quyết định, thì họ đã biến câu đó thành một câu trống
rỗng, trừu tượng, vô nghĩa”.
Các nhân tố khác của xã hội cũng đều có quá trình ảnh hưởng tới quá

trình lịch sử. Tùy theo từng hoàn cảnh cụ thể mà có thể xuất hiện sự phát triển
vượt trội của một nhân tố nào đó, thúc đảy các yếu tố khác, trước hết là SXVC
phát triển theo, phá vỡ tính cân bằng của hệ thống cũ và thiết lập trạng thái cân
bằng mới cao hơn. Tiến trình lịch sử thì luôn xuất hiện các nhân tố mới đóng vai
trò là động lực thúc đảy lịch sử phát triển mạnh mẽ như cuộc cách mạng khoa
học – công nghệ hiện nay.
- Trong quá trình phát triển của các hình thái KT-XH, hình thái mới ra dời
không xóa bỏ mọi yếu tố của hình thái cũ mà trong khi phá vỡ cấu trúc của hệ
thống cũ lại có sự bảo tồn, kế thừa, đổi mới những yếu tố của nó. Điều đó vừa
đảm bảo sự liên tục , sự phát triển lại vừa tạo ra tình trạng đan xen giữa những
yếu tố của nhiều hình thái xã hội khác nhau, nhiều thời kỳ lịch sử khác nhau
trong một giai đoạn cụ thể.
- Sự phát triển của các HTKT-XH là một quá trình lịch sử tự nhiên. Quy
luật chung của lịch sủ là các quốc gia, dân tộc luôn luôn phát triển từ hình thái
thấp đến hình thái cao hơn. Quy luật chung đó có thể được thực hiện bằng con
10


đường tuần tự, kế tiếp từ hình thái thấp đến cao, nhưng cũng có thể thực hiện
bằng con đường rút ngắn, bỏ qua một hình thái nào đó. Tại sao có tình trạng đó?
2.2. Đối với việc phân tích 1 giai đoạn lịch sử, một hình thái kinh tế - xã
hội:
Tiến trình lịch sử cụ thể của một dân tộc, một quốc gia cụ thể thường
xuyên bị những yếu tố bên trong và những yêu tố bến ngoài chi phối như hoàn
cảnh địa lý, truyền thống văn hóa, tâm lý dân tộc, tình trạng chiến tranh hay hòa
bình, quan hệ giao lưu với các dân tộc khác. Tất cả những yếu tố đó đều có thể
kìm hãm hay thúc đảy sự phát triển của một quốc gia, dân tộc nhất định. Do sự
tác động tổng hợp của nhiều nhân tố làm cho quá trình cho quá trình lịch sử của
nhân loại diễn ra không đồng đều, thường xuất hiện những trung tâm phát triển
cao hơn về SXVC, kỹ thuật, văn hóa. Chính từ những trung tâm ấy có sự phát

triển lan rộng nhờ giao lưu, trao đổi, đua tranh giữa các nước có trình độ phát
triển khác nhau. Đó là cơ sở thúc đảy sự tiến bộ xã hội, làm xuất hiện một số
nước có thể bỏ qua một chế độ nào đó, khả năng lợi dụng tính không đồng đều
của lịch sử một cách có ý thức để rút ngắn quá trình phát triển của mình mà
không cần phải lặp lại tuần tự các quá trình lịch sử.
Ví dụ: + Pháp, Italya lần lượt trải qua cac HTKT-XH
+ Mỹ bỏ qua PK, Nga và Balan bỏ qua CHNL
+ Australia bỏ qua CHNL và PK
Điều kiện để bỏ qua: - Trên thế giới xuất hiện HTKT-XH cao hơn.
- Có sự giúp đỡ, quan hệ hợp tác với các nước.
III. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội – con đường phát triển tất yếu của
cách mạng Việt Nam:
1. Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về thời kỳ quá độ (vắn tắt
về nhận thức trước đây và hậu quả thực tế của nó)
Dựa vào các quy luật khác quan và học thuyết của Mác – Lênin về hình
thái kinh tế - xã hội, Đảng ta đã vận dụng những lý luận này vào thực tiễn cách
mạng Việt Nam trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Theo sự vận động
và phát triển của hình thái kinh tế - xã hội thì chủ nghĩa cộng sản mà giai đoạn
đầu là CNXH là sự phát triển tất yếu lịch sử của CNTB. Đối với đất nước ta một
quốc gia chưa trãi qua thời kỳ phát triển TBCN thì để đi tới CNXH, Đảng ta đã
chọn lựa con đường phát triển rút ngắn - hay nói theo cách của Lênin phát triển
không phải trãi qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
Tuy nhiên do trong giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ, nhận thức của Đảng
và Nhà nước ta về quá trình “phát triển rút ngắn” chưa đầy đủ, toàn diện cộng
với bệnh chủ quan duy ý chí, nóng vội nên việc vận dụng “bỏ qua giai đoạn phát
triển tư bản chủ nghĩa” đã có nhiều sai lầm, muốn rút ngắn thật nhanh quá trình
đi lên chủ nghĩa xã hội nên đã “bỏ qua” quá giới hạn, vi phạm các quy luật
khách quan khi muốn tạo ra những bước nhảy vọt về kinh tế trong khi điều kiện
chưa cho phép.
11



Việc sai lầm do “bỏ qua những bước đi cần thiết” được thể hiện trong các
chủ trương chính sách lớn của Đảng trong thời kỳ trước đổi mới. Trước nhất đó
là việc bỏ qua bước trung gian quá độ kinh tế hàng hóa TBCN, phủ nhận các
hình thức, bước đi mang tính quá độ từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn - nội dung
mà trước đây CNTB ra đời nó đã từng thể hiện. Chính vì vậy, việc phát triển lực
lượng SX không được chú trọng , đã để kéo dài quá lâu trình độ SX thấp, thủ
công, đầu tư công nghiệp nặng không đúng hướng, đầu tư dàn đều, tràn lan
không chú ý chiều sâu. Trong việc đề ra chủ trương, chính sách, Đảng và Nhà
nước ta đã bỏ qua không chú ý vận dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật,
những quy luật của SX hàng hóa đang tồn tại khách quan vàp việc chế định các
chủ trương, chính sách kinh tế.
Cũng trong thời kỳ này, Đảng và Nhà nước ta do chủ quan, nóng vội
muốn cải tạo nhanh quan hệ SX nên đã áp đặt một mô hình quan hệ sản xuất
“cao hơn” trình độ lực lượng sản xuất. Nó thể hiện qua việc “nóng vội muốn xóa
bỏ ngay các thành phần kinh tế phi XHCN” để chỉ còn lại 2 thành phần kinh tế :
quốc doanh và tập thể. Trong việc tổ chức hình thức sản xuất, chúng ta đã có xu
hướng tổ chức quá nhanh mô hình sản xuất, tập đoàn, hợp tác xã … với quy mô
lớn mà không tính đến khả năng trang bị kỹ thuật, trình độ quản lý và năng lực
của cán bộ. Đồng thời việc xác lập quan hệ SX cũng không đồng bộ “về nội
dung cải tạo, thường nhấn mạnh việc thay đổi quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất
mà không coi trọng giải quyết các vấn đề tổ chức quản lý và chế độ phân phối”.
Bên cạnh đó, việc duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu bao
cấp, có nhiều chủ trương sai trong việc cải cách giá cả, tiền tệ, tiền lương, chính
sách kinh tế đối ngoại khép kín ... đã làm kìm hãm, phá hoại sự phát triển của
lực lượng sản xuất dẫn đến sản xuất đình trệ, kinh tế không phát triển, lạm phát
gia tăng. Mặt khác trong kiến trúc thượng tầng, đã buông lỏng chuyên chính vô
sản, bộ máy nhà nước nặng nề, nhiều tầng, nhiều nấc, cồng kềnh kém hiệu lực..
dẫn đến khủng hoảng kinh tế - xã hội.

2. Những quan điểm phương pháp luận xuất phát để xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam
Đứng trước thực tế, khủng hoảng kinh tế xã hội nảy sinh và ngày trở nên
trầm trọng, Đảng cộng sản Việt Nam đề ra đổi mới đất nước đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VI. Để thực hiện thắng lợi công cuộc CNXH ở nước ta, chúng
ta phải nỗ lực hơn nữa trong việc nhận thức và sử dụng quy luật khách quan của
sự phát triển xã hội, trong đó về hình thái xã hội.
Từ Đại hội VI (1986), Đảng ta đã tự phê phán nghiêm túc về những sai
lầm mắc phải, nhận thức lại quan niệm bỏ qua chế độ TBCN một cách đúng đắn,
đầy đủ hơn. Quan điểm đó đã được Đại hội VII, Đại hội VIII và Đại hội IX bổ
sung hoàn thiện hơn. Văn kiện Đại hội IX của Đảng đã khẳng định “Quá độ lên
CNXH, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị
của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng TBCN “Điều này có nghĩa là
trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH, chúng ta không thể để quan hệ sản xuất tư
hữu thống trị, không để cho chính quyền rơi vào tay tư sản, không được để mất
12


vai trò lãnh đạo của Đảng, không được để Nhà nước mất vai trò quản lý kinh tế xã hội, kinh tế Nhà nước mất vai trò chủ đạo. Bên cạnh việc bỏ qua những nội
dung trên, khi xây dựng mới cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng CNXH thì
phải chủ động kế thừa biện chứng những nhân tố hợp lý của cả cơ sở hạ tầng và
kiến trúc thượng tầng của CNTB.
Về lộ trình đi lên CNXH, Đại hội IX cũng đã khẳng định : “Xây dựng
CNXH bỏ qua chế độ TBCN tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả lĩnh
vực là một sự nghiệp rất khó khăn phức tạp cho nên phải trãi qua một thời kỳ
quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế - xã hội
có tính chất quá độ”. (VK9 – Tr85)
Như vậy, rõ ràng nhận thức lý luận của Đảng về quá trình quá độ đi lên
CNXH đã xác định đây là một quá trình lâu dài để tạo ra sự biến đổi về chất (đối
với quan hệ SX, lực lượng SX, kiến trúc thượng tầng), nó phải trải qua nhiều

chặng đường, bước đi thích hợp và nhiều hình thức trung gian về tổ chức kinh tế
- xã hội.
Như chúng ta biết, trong quan niệm triết học Mác - Lênin, tiến trình phát
triển của lịch sử nhân loại được qui định bởi sự phát triển của lực lượng sản
xuất. Mọi sự phát triển rút ngắn đều phải nhằm mục đích cuối cùng là tạo ra sự
phát triển vượt bậc, thậm chí là nhảy vọt của lực lượng sản xuất và do vậy, về
thực chất, phát triển rút ngắn chỉ có thể là rút ngắn các giai đoạn hay bước đi
trong tiến trình phát triển liên tục của lực lượng sản xuất. Nước ta còn nghèo,
lực lượng SX kém phát triển nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế là rất lớn cho nên
phải tập trung sức phát triển LLSX. Trong thời đại của cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ hiện đại, với tốc độ phát triển như vũ bão của khoa học và
công nghệ sản xuất, trình độ sản xuất, kỹ năng lao động, trình độ tổ chức và
quản lý sản xuất của con người được tăng lên đáng kể. Điều đó cho phép chúng
ta có thể rút ngắn các giai đoạn phát triển hay hình thức công nghệ của sự phát
triển lực lượng sản xuất
Đồng thời với việc tạo ra sự phát triển nhảy vọt của lực lượng sản xuất
qua con đường CNH-HĐH, Đảng cũng đã xác định việc phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần trong giai đoạn quá độ là một tất yếu khách quan, đây là bước
đi tuần tự trong việc phát triển Các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà
nước ta từ sau Đại hội VI đến nay đã khẳng định : các thành phần kinh tế là
những bộ phận cấu thành phần kinh tế thống nhất, được phát triển lâu dài, hợp
tác và cạnh tranh lành mạnh với nhau. Trong xu hướng vận động chung, thành
phần kinh tế Nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo, hỗ trợ các thành phần kinh tế
khác phát triển. .
Sự phát triển của LLSX đòi hỏi phải có quan hệ SX phù hợp. Đại hội 9 đã
xác định : “Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ
sản xuất trên cả 3 mặt : sở hữu, quản lý và phân phối”
Đại hội Đảng lần VII đã nêu : để phù hợp với sự phát triển của LLSX,
chúng ta phải thiết lập từng bước quan hệ SX XHCN từ thấp đến cao với sự đa
dạng về hình thức sở hữu, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo

13


định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước. Như vậy, từ việc phát triển kinh tế nhiều thành phần, Đảng ta đã thừa
nhận sự tồn tại của nhiều hình thức sở hữu về tư liệu SX và các loại hình tổ chức
kinh tế gắn liền với các hình thức sở hữu đó do lịch sử để lại, phù hợp với từng
thành phần kinh tế. Chính điều này đã tạo ra sức sống động cho sự phát triển
kinh tế, tạo ra được nhiều sản phẩm do khơi dậy tiềm năng, sức sản xuất và năng
động vốn có của các thành phần kinh tế. Văn kiện Đại hội IX cũng đã xác định
việc xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu không thể xác lập
nhanh chóng ồ ạt như trước đây mà phải là một quá trình kinh tế - xã hội lâu dài,
qua nhiều bước, nhiều hình thức từ thấp đến cao …
Song song với sự đổi mới về kinh tế là sự đổi mới về kiến trúc thượng
tầng bắt đầu từ việc đổi mới về chính trị , văn kiện Đaị hội 8 đã chỉ rõ “kết hợp
chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế
làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị"
Kết luận
Lý luận hình thành kinh tế xã hội là một trong những thành tựu khoa học
mà C. Mác đã để lại cho nhân loại. Chính nhờ xuất phát từ con người hiện thực con người đang sống hiện thực của mình, C. Mác đã vạch ra sản xuất vật chất là
cơ sở đời sống xã hội. Xã hội là một hệ thống mà trong đó quan hệ sản xuất phải
phù hợp với trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất. Sự vận động và
phát triển của Xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên. Các hình thành kinh tế xã
hội thay thế nhau từ thấp đến cao thông qua cách mạng xã hội. Sự vận động phát
triển của các hình thái kinh tế xã hội. Sự vận động phát triển của các hình thái
kinh tế xã hội vừa bị chi phối bởi các quy luật chung, vừa bị tác động bởi các
điều kiện lịch sử cụ thể của từng quốc gia, từng dân tộc.
Mặc dù hiện nay, xã hội loài người có những đặc điểm khác với C.Mác,
Lý luận hình thành kinh tế xã hội vẫn giữ nguyên giá trị. Nó là phương pháp
luận thực sự khoa học để phân chia giai đoạn phát triển, xem xét mỗi quan hệ

lẫn nhau giưa các mặt trong đời sống xã hội như quy luật vận động, phát triển từ
hình thái kinh tế xã hội. Lý luận đó không tham vọng giải thích được tất cả các
mặt của đời sống xã hội là nó đòi hỏi bằng các phương pháp tiếp cận khoa học
khác. Cùng với sự phát triển của thực tiễn xã hội và khoa học, loài người ngày
nay cũng tìm ra những phương pháp tiếp cận mới về xã hội, nhưng không phải
vì thế mà lý luận hình thành kinh tế xã hội trở lên lỗi thời.
Cùng với việc khái quát lý luận hình thành kinh tế xã hội, các nhà kinh
điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã vạch ra các quy luật phát sinh phát triển và
diệt vong của nó. Từ đó, các Ông đi đến dự đoán về sự ra đời của hình thành
kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn thấp là chủ nghĩa xã hội.

14


Lý luận đó cũng cung cấp cho chúng ta một phương pháp luận thực sự
khoa học để phân tích. Sự vận động phát triển đầy đủ mâu thuẫn hiện nay của
nhân loại. Nó cho thấy: Măc dù chủ nghĩa xã hội bị khủng hoảng dẫn đến sự sụp
đổ của Liên Xô và Đông Âu, chủ nghĩa tư bản vẫn tiếp tục phát triển và đạt
được nhiều thành tựu, những tất yếu của chủ nghĩa tư bản sẽ được thay thế bằng
hình thái kinh tế xã hội cao hơn theo dự đoán của các nhà kinh điển chủ nghĩa
Mác Lê-nin. Lý luận hình thái kinh tế xã hội cũng là phương pháp luận khoa học
để ta phân tích công cuộc xây dựng đất nước hiện nay, luận chứng được tất yếu
của định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Phân tích đúng nguyên nhân của
tình hình khủng hoảng kinh tế xã hội và chỉ ra được: Đổi mới theo định hướng
của xã hội vừa phù hợp với xu hướng phát triển thời đại vừa phù hợp với điều
kiện cụ thể của Việt Nam.
Như vậy có thể khẳng định rằng: Lý luận hình thái kinh tế xã hội vẫn giữ
nguyên giá trị khoa học và đúng thời đại của nó. Nó là phương pháp luận thực
sự khoa học để phân tích thời đại cũng như của công cuộc xây dựng đất nước
hiện đại ở Việt Nam


15



×