Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Thực trạng và giải pháp cơ bản để phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại từ nay đến hết năm 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.44 KB, 30 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Phần I- Mở đầu
Kinh tế đối ngoại - một bộ phận cực kỳ quan trọng và chủ đạo của nền
kinh tế quốc dân. Kinh tế đối ngoại là hoạt động kinh tế đã có từ lâu đời: dới
chế độ chiếm hữu nộ lệ, và tiếp đó là chế độ phong kiến. Trong các xã hội nộ
lệ và phong kiến do kinh tế tự nhiên còn chiếm địa vị thống trị nền kinh tế
đối ngoại chỉ phát triển với qui mô nhỏ bé. kinh tế đối ngoại chỉ thực sự phát
triển trong thời đại TBCN. Ngày nay sản xuất đã đợc quốc tế hoá, không một
quốc gia nào có thể tồn tại và phát triển kinh tế mà lại không tham gia vào
phân công lao động quốc tế và trao đổi hàng hoá với bên ngoài.
Và Việt Nam cũng thế, sau khi dành độc lập, đặc biệt công cuộc đổi
mới, mở cửa nền kinh tế đợc Đảng cộng sản Việt Nam khởi xớng từ hội nghị
trung ơng lần thứ 6 (khoá IV) họp cuối năm 1986 và đợc phát triển qua các kì
đại hội lần thứ 8, 9. Từ đó đến nay nớc ta thật sự có những biến đổi sâu sắc.
Kinh tế đối ngoại nớc ta hiện đã bớc sang một gia đoạn mới chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế. Nớc ta đã học hỏi và tích luỹ đợc nhiều kinh nghiệm
của các quốc gia đi trớc, đã đạt đợc những thành tựu đáng kể trên lĩnh vực
kinh tế đối ngoại, đã có đợc những nền tảng bớc đầu để thể gia tăng hội nhập
kinh tế quốc tế trong gia đoạn mới. Đồng thời những điều kiện quốc tế đã
thay đổi, các quốc gia trong khu vực đã tiên xa so với chúng ta trên con đờng
hội nhập quốc tế và đang đặt ra những thách thức luật pháp. Trong bối cảnh
đó, chúng ta phải nhận thức rõ thực trạng kinh tế đối ngoại cửa nớc ta. Do
thấy đợc tầm quan trọng của vấn đề này nên em đã chọn đề tài: Thực trạng và
giải pháp cơ bản để phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại từ nay
đến hến năm 2020.
Để nghiên cứu tận đề trên thì ta phải biết lựa chọn sử dụng phơng pháp
luận hợp lý và hiệu quả. Đó là, nhận thức khoa học phải bắt đầu bằng sự quan
sát các hiện tợng cụ thể biểu hiện các quá trình kinh tế rồi dùng phơng pháp
trừu tợng hoá để tìm ra bản chất và tính qui luật của sự phát triển, sau đó các
mối quan hệ nội tại, cơ chế tác động cụ thể của quá trình lu chuyển hàng hoá
Website: Email : Tel : 0918.775.368


Website: Email : Tel : 0918.775.368
và liên kết kinh tế với nớc ngoài. Kinh tế đối ngoại là tổng thể các quan hệ
kinh tế của nền kinh tế quốc dân với nớc ngoài, là một bộ phận của quá trình
tái sản xuất xã hội. Các quy luật của lu thông hàng hoá bắt nguồn từ các quy
luật hoạt động bên trong và bên ngoài ngoài nớc đó, do vậy, cần phải có quan
điểm hệ thống và toàn diện trong nghiên cứu. Mặt khác, quá trình hình thành
và phát triển các quan hệ buôn bán gắn liền với những hoàn cảnh lịch sử nhất
định, do đó phải có quan điểm lịch sử khi nghiên cứu các vấn đề của kinh tế
đối ngoại.
Nh vậy, nội dung gói gọn trong bài viết này là trình bày những quan
điểm, đáng giá, nhận xét của em về thực trạng và giải pháp để phát triển và
nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại ở Việt Nam hiện nay.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Phần II- Nội dung
Chơng I: Một số vấn đề cơ bản về lý luận
1. Thế nào là kinh tế đối ngoại
Ta có thể hiểu một cách nôm na, kinh tế đối ngoại là việc mua, bán
hàng hoá và dịch vụ qua biên giới quốc gia hay nói cách khác là nó nh chiếc
cầu nối giữa cung và cầu hàng hoá, dịch vụ của thị trờng trong và ngoài nớc
về số lợng, chất lợng và thời gian sản xuất.
Điều kiện để kinh tế đối ngoại sinh ra, tồn tại và phát triển là: có sự tồn
tại và phát triển của nền kinh tế hàng hoá - tiền tệ kèm theo đó là sự suất hiện
của t bản thơng nghiệp; có sự ra đời của Nhà nớc và sự phát triển của phân
công lao động quốc tế giữa các nớc.
Ngoài ra, ta còn phải hiểu thế nào là kinh tế quốc tế, thế nào là toàn cầu
hoá?
Kinh tế quốc tế là sự trao đổi, buôn bán hàng hoá, dịch vụ trên phạm vi
tào thế giới, trong đó thể hiện mối quan hệ kinh tế giữa các nớc với nhau, hay
giữa các khu vực với nhau.

Còn toàn cầu hoá là quá trình liên kết ngày một rộng lớn giữa các nớc
và thể hiện là mối quan hệ bình đẳng về kinh tế giữa các nớc trên thế giới với
nhau.
Trên đây là một số khái niệm cơ bản ta cần nắm rõ để có thể nghiên cứu
những lý luận khác.
2. Tại sao nớc ta phải mở rộng và nâng cao hiệu quả của kinh tế đối
ngoại
Vài trò và tác dụng của nó, trong điều kiện nớc ta hiện nay, kinh tế đối
ngoại có vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Vì vậy
Đảng và Nhà nớc luôn luôn coi trọng lĩnh vực này và nhấn mạnh: "Nhiệm vụ
ổn định và phát triển kinh tế cũng nh sự nghiệp phát triển khoa học kỹ thuật
và công nghiệp hoá của nớc ta tiến hành nhanh hay chậm, điều đó phụ thuộc
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
một phần vào việc mở rộng và nâng cao hiệu quả của kinh tế đối ngoại " (văn
kiện Đại hội Đảng lần thứ VI).
Sự gia tăng mạnh mẽ của toàn cầu hoá kinh tế đặt ra yêu cầu đòi hỏi các
quốc gia phải có chiến lợc hội nhập phù hợp vào nền kinh tế thế giới và khu
vực. Thực vậy, hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới không chỉ cho
phép Việt Nam thu đợc vốn mà dựa vào đó Việt Nam nắm bắt đợc những
công nghệ kỹ thuật và quản lý tiên tiến, từng bớc tạo ra một đội ngũ công
nhân có trình độ phù hợp cho việc phát triển nền công nghiệp hiện đại trong
thời đại ngày nay.
Tuy nhiên, trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới Việt
Nam đang phải đối mặt với nhiều thách thức, trong đó đặc biệt là năm thách
thức sau đây:
Thứ nhất, tiềm lực vật chất của Việt Nam còn yếu, nguồn nhân lực nói
chung có trình độ thấp và có kỹ năng không cao, điều này kiến cho việc tham
gia vào hệ thống phân công lao động quốc tế gặp nhiều bất cập. Khó khăn
này thể hiện ở chổ năng lực tiếp nhận công nghệ yếu, khó phát huy lợi thế

của nớc đi sau trong việc tiếp nhận các nguồn lực có sẵn từ bên ngoài để
năng cao cơ sở hạ tầng kỹ thuật; dẫn đến nguy cơ Việt Nam có thể trở thành
"bãi rác" của các công nghệ lạc hậu.
Thứ hai, sức cạnh tranh, đặc biệt là của các sản phẩm công nghiệp Việt
Nam quá thấp, do đó Việt Nam gặp nhiều khó khăn trong việc củng cố và
phát triển các thị trờng mới trong điều kiện nhiều nớc đang phát triển cuàng
chọn chiến lợc tăng cờng hớng về xuất khẩu nên Việt Nam sẽ bị áp lực cạnh
tranh ngay tại thị trờng nội địa; việc mở cửa thị trờng nội địa theo AFTA,
WTO có thể biến Việt Nam thành thị trờng tieu thụ sản phẩm nớc ngoài nếu
các doanh nghiệp trong nớc không bám giữ đợc.
Thứ ba, do tri thức và trình độ kinh doanh của dân ta còn thấp, cộng với
hệ thống tài chính và ngân hàng còn yếu kém nên còn thụ động và thao túng.
Từ kinh nghiệm và các nớc đang phát triển trong khu vực cho thấy, nguy cơ
lệ thuộc vào các tổ chức tài chính nớc ngoài và quốc tế là một thực tế.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Thứ t, hệ thống thông tin - viễn thông toàn cầu hoá với t cách là một thứ
quyền lực siêu hạng đang phát triển nhanh có thể gây ra tác động tiêu cực
trực tiếp đến án ninh kinh tế, văn hoá xã hội, theo hớng rối loại làm lợi cho
các thế thực bên ngoài. Vấn đề là kiểm soát việc tự do hoá thông tin, truyền
thống nh thế nào để không từ bỏ lợi ích tận dụng khai thác nó mà vẫn hạn
chế tối đa nguy hại có thể gây ra.
Thứ năm, trong quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ yếu là với các quốc gia
có tiềm lực mạnh, có thể chứa đựng những yếu tố tiêu cực nh muốn kìm hãm
thậm chí gây sức ép, buộc Việt Nam phải thay đổi những vấn đề có tính
nguyên tắc nh định hớng, mục tiêu, mục đích phát triển. Ví dụ: mục đích
chính của các công ty xuyên quốc gia là lợi nhuận, còn đối với Việt Nam thì
vấn đề có lợi nhuận vẫn cha đủ, mà mục đích chính là vì "dân giầu nớc mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Trong rất nhiều trờng hợp, quan hệ
kinh tế đã giúp tạo ra lợi nhuận, nhng không công bằng, một số tầng lớp dân

c đợc hởng lợi nhng lại làm cho nớc nhà nghèo đi.
Bên cạnh đó những thách thức nêu trên, Việt Nam cũng đã tận dụng đợc
nhiều cơ hội trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Đó
là:
Thứ nhất, với quan điểm và nguyên tắc rõ rằng, Việt Nam chủ động
đẩy nhanh quá trình hội nhập. Từ nhận thức này, trong những năm qua Việt
Nam đã có bớc chuyển đổi lớn trong chính sách phát triển kinh tế đối ngoại.
Các chính sách này đều theo hớng tự do hoá, tất nhiên ở các tầng lớp khác
nhau phụ thuộc vào thực lực cụ thể của mỗi lĩnh vực.
Thứ hai, tham gia tào cầu hoá chính là nhằm tranh thủ những điều kiện
quốc tế để khai thác các tiềm năng nớc nhà, phục vụ cho việc nâng cao đời
sống nhân dân. Việt Nam là quốc giá có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong
phú nhng cha đợc khai thác hiệu quả. Với nguồn tài nguyên phong phú
không chỉ tạo điều kiện cho việc phát triển các ngành công nghiệp khai thác
chế biến mà còn là sức thu hút đối với các Công ty nớc ngoài. Trên cơ sở các
nguồn tài nguyên thiên nhiên sẵn có, Việt Nam có thể xác lập cơ cấu ngành
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
kinh tế với những sản phẩm có tính cạnh tranh đáp ứng đợc nhu cầu thị trờng
thế giới.
Thứ ba, trong điều kiện nền kinh tế thế giới đang quá độ sang nền kinh
tế trí tuệ, khoa học công nghệ phát triển mạnh trở thành lực lợng sản xuất
trực tiếp, chi phối mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội nhng cũng không thể thay thế
vai trò của nguồn lực lao động. Hơn nữa, nguồn lực lao động còn là nhân tố
sáng tạo công nghệ thiết bị và sử dụng chúng trong quá trình phát triển kinh
tế.
Trên thực tế nhiều Công ty nớc ngoài ở Việt Nam, một trong những lý
do quan trọng tận dụng nguồn lao động dồi dào, rẻ và có khả năng tiếp thu
công nghệ mới ở Việt Nam. Theo đánh giá của các Công ty Nhật khi phân
tích thế môi trờng kinh doanh của các quốc gia ASEAN, Việt Nam đứng thứ

7 trong tổng số quốc gia, lớn hơn Lào, Campuchia, Myanma. Tuy vậy nếu xét
riêng về yêu nguồn lực, lợi thế của Việt Nam không thua kém Thái Lan,
thậm chí còn vợt cả Indônêxia và Singapore. Chỉ số HDI (Huma
Development Index) của Việt Nam tuy cha so với thế giới, mới chỉ đạt 0,56,
song nếu so với các quốc gia có thu nhập tơng ứng thì Việt Nam lại thuộc
nhóm cao hơn.
Hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo cơ hội cho nguồn lực của nớc ta khai
thông, giao lu với thế giới bên ngoài. Việt Nam đã xuất khẩu lao động qua
các hợp đồng gia công chế biến hàng xuất khẩu và nhập khẩu lao động kỹ
thuật cao công nghệ mới rất cần thiết. Nh vậy với lợi thế nhất định về nguồn
lao động cho phép lựa chọn dạng hình phù hợp tham gia vào hội nhập và quá
trình hội nhập đã tạo điều kiện để nâng cao chất lợng nguồn lao động ở Việt
Nam.
Thứ t, Việt Nam đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế trong
điều kiện hoà bình, chính trị - xã hội ổn định. Đây là cơ hội rất quan trọng để
tập trung phát triển kinh tế, mở rộng quan hệ đối ngoại, chính trị xã hội ổn
định là bộ lọc quan trọng trong quá trình giao lu hội nhập, hơn nữa nó đảm
bảo vai trò định hớng trong hội nhập quốc tế.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Đảm bảo không ngừng nâng cao hiệu quả kinh tế là mối quan tâm hàng
đầu của bất kỳ nền kinh tế nói chung và của mỗi doanh nghiệp nói riêng.
Hiểu đúng bản chất của hiệu quả kinh tế đối ngoại cũng nh mục tiêu đảm bảo
hiệu quả kinh tế của mỗi thời kỳ, là vấn đề có ý nghĩa thiết thực không những
về lý luận thống nhất quan niệm về bản chất của hiệu quả kinh tế đối ngoại
mà còn rất cần thiết cho hoạt động thực tiễn trong lĩnh vực này. Hiểu đúng
bản chất hiệu quả kinh tế đối ngoại chính là xác định yêu cầu đối với việc đề
ra mục tiêu và biện pháp nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Nh vậy mở
rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại là góp phần thúc đẩy tăng nhanh
năng suất lao động xã hội qua đó tạo thêm nguồn tích luỹ cho sản xuất và

nâng cao mức sống ở trong nớc.
Chúng ta thực hiện mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại phải
dựa trên những nguyên tắc và hình thức cơ bản của kinh tế đối ngoại.
3. Những nguyên tắc và hình thức cơ bản của kinh tế đối ngoại
Không một quốc gia nào có thể tồn tại và phát triển kinh tế mà lại
không tham gia vào phân công lao động quốc tế và trao đổi hàng hoá với nớc
ngoài. Nền kinh tế đối ngoại không chỉ là nhân tố bổ sung cho kinh tế trong
nớc mà kinh tế trong nớc phải thích nghi với lựa chọn phân công lao động
quốc tế. Do vậy, phải khai thác đợc mọi lợi thế của hoàn cảnh chủ quan trong
nớc phù hợp với xu thế phát triển của kinh tế thế giới và quan hệ kinh tế quốc
tế. Mặt khác phải tính toán lợi thế tơng đối có đợc nhờ tham gia vào buôn
bán và phân công lao động quốc tế. Do đó nói đến kinh tế đối ngoại là nói
đến khả năng liên kết kinh tế, hội nhập với kinh tế khu vực vầ quốc tế đòi hỏi
khả năng xử lý thành công mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau.
Những nỗi bật lên, đó là nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi, nó chi phối
các quan hệ kinh tế đối ngoại.
Hình thức cơ bản của kinh tế đối ngoại là xuất khẩu và nhập khẩu là
việc bán hàng hoá và dịch vụ cho nớc ngoài. Nhập khẩu là việc mua bán hàng
hoá và dịch vụ của nớc ngoài.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Trên đây là những vấn đề lý luận mà chúng ta cần phải nắm rõ để có thể
đi vào nghiên cứu thực trạng và các giải pháp nhằm mở rộng và nâng cao
hiệu quả kinh tế đối ngoại từ nay đến hết năm 2020.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chơng II: Thực trạng và giải pháp
Sự phát triển kinh tế đối ngoại nớc ta trong thời gian vừa qua đã có ý
nghĩa hết sức quan trọng, thậm chí là quyết định đối với sự tăng trởng kinh tế
của nớc ta. Nớc ta đã đã đạt đợc nhiều thành tựu cả về tăng trởng xuất nhập

khẩu, thu hút vốn nớc ngoài và phát triển du lịch. Tuy nhiên còn rất nhiều
vấn đề nan giải mà chúng ta phải quan tâm.
1. Thực trạng
Kinh tế đối ngoại đã đạt tốc độ tăng trởng kinh tế khá cao trong cả
thập kỷ 90, mặc dù có sự giảm sút tốc độ từ năm 1999
Lý do cho sự tăng tởng cao của các lĩnh vực kinh tế đối ngoai trên có
thể là tơng đối rõ, những lý do cho sự sụt giảm tốc độ tăng trởng kinh tế đối
ngoại trong những năm gần đây còn có thể có những ý kiến khác nhau. Đóng
là có lý do khách quan do suy giảm kinh tế toàn cầu và khu vực, do giá hàng
xuất khẩu của ta giảm nghiêm trọng... Tuy nhiên, Trung quốc cũng chịu tác
động bởi những hoàn cảnh khách quan bên ngoài nh nớc ta nhng cả giá trị
xuất khẩu lẫn FDI vào Trung Quốc trong vài năm nay vẫn có mức tăng trởng
cao. Do vậy, việc giảm tăng trởng của cả giá trị xuất khẩu lẫn FDI vào nớc ta
trong thời gian qua không chỉ do nguyên nhân khách quan, mà có thể lại do
những nguyên nhân chủ quan là chính
Trớc hết, đó là tình trạng bảo hệ mậu dịch không giảm đáng kể mà còn
gia tăng.
Mức thuế suất nhập khẩu bình quân đã đợc giảm từ trên 16% xuống
còn trên 13% trong thời gian 1996 - 1998, nhng đã tănglên tới 16% vào năm
1001. khung thuế nhiều và nhiều mặt hàng nhập khẩu còn chịu mức thuế cao;
chỉ có 20% số dòng thuế đợc áp dụng mức thuế 5%. Việc hoàn thuế cho các
hàng hoá nhập để xuất có quá nhiều thủ tục phức tạp phiền hà và kém hiệu
lực. Các biện pháp phi thuế quan nhằm bảo hộ mậu dịch vẫn còn đợc áp dụng
đối với nhiều lĩnh vực, đặc biệt là sự quản lý của các bộ chuyên ngành. Hàng
rào bảo hộ mậu dịch cao này tởng nh chỉ có tác dụng ngăn chặn các dòng
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hàng nhập khẩu, nhng trên thực tế chúng đã tác động tiêu cực tới toàn bộ
hoạt động kinh tế đối ngoại. Vì khi đánh thuế cao vào các hàng hoá nhập
khẩu, giá bán của chúng và các hàng hoá liên quan ở trong nớc đã tăng lên.

Các nhà xuất khẩu phải sử dụng các hàng hoá giá cao này, công nhân viên
của họ cũng phải tiêu dùng các hàng hoá nhập khẩu giá cao, mà mức cao giá
này ớc tính vào khoảng 20 - 100% tuỳ theo mặt hàng. Do vậy đã đẩy chi phí
của các hàng xuất khẩu tăng lên, giảm khả năng cạnh tranh của chúng và tác
động xuấu đến xuất khẩu. Hàng rào bảo hộ mậu dịch cao chỉ khuyến khích
sản xuất thay thế nhập khẩu, FDI cũng tự nhiên phải theo hớng này, trong khi
thị trờng nội địa của ta nhỏ bé và ngày càng bão hoà, do vậy FDI không tăng
lên đợc và thậm chí đã chậm lại. Hàng rào bảo hộ còn ảnh hởng xấu tới cả du
lịch, vì giá cả tiêu dùng ở Việt nam cao, không hấp dẫn khách du lịch.
Thứ hai, chi phí sản xuất của ta nói chung còn cao so với các quốc gia
khu vực, do vậy lợi thế cạnh tranh bị giảm thiểu.
Chi phí sản xuất đã phụ thuộc vào các yếu tố: thuế nhập khẩu, thuế
doanh thu VAT, các phụ phí, tiền lơng, giá các dịch vụ, công nghệ đợc sử
dụng...
Thuế xuất khẩu, kể cả hàng rào phi thuế quản của nớc ta hiện nay có lẽ
ở vào hàng cao nhất khuvực, cao hơn cả Trung Quốc, trong khi mức thuế
quan của nhiều quốc gia Đông á hiện chỉ còn khoảng 4 - 6%. Thuế doanh
thu của ta ở mức 32%, cũng vào hàng cao nhất khu vực. Thuế VAT, thuế tiêu
thụ đặc biệt, phụ thu... đều ở mức cao . Thế thu nhập đối với ngời nớc ngoài
của ta hiện ở mức cao nhất trong khu vực, trong khi ở Indônêxia là 30%. Thái
Lan là 37%, ở Trung Quốc là 45%. Mức thuế thu nhập cao này đã làm cho
ngời nớc ngoài không muốn làm việc ở Việt Nam.
Tính chung chi phí lao động của nớc ta hiện nay tơng tự với Inđônêxia,
còn thấp hơn các nớc ASEAN - 4, nhng mức thấp này đã giảm dần.
Giá các dịch vụ nh liên lạc, viễn thông, hàng không, diện, nớc... đều ở
mức cao: chi phí điện cao hơn 4 nớc ASEAN: Xingapo, Ma laixia, Thái Lan,
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Indônêxia; giá nớc cao hơn Philipin gà gần ngang với Malaixia, Thái Lan; chi
phí liên lạc, viễn thông vào loại cao nhất khu vực; chi phí cả Trung Quốc.

Công nghệ đợc sử dụng trong các doanh nghiệp Việt Nam khá lạc hậu
so với các quốc gia khác trong khu vực. Ví dụ, xí nghiệp sản xuất xi măng
Sai Mai do nớc ngoài đầu t sản xuất ở nớc ta 1 tấn xi măng chi phí 12 USD,
trong khi các xí nghiệp sản xuất xi măng của ta chi phí 26 USD
Chi phí sản xuất của ta cao nh vậy, nên khả năng cạnh tranh của hàng
Việt Nam bị giảm thiểu cả ở thị trờng trong nớc và nớc ngoài.
Thứ ba, chính sách tiền tệ và tín dụng hỗ trợ hoạt động kinh tế đối
ngoại yếu.
Tỷ giá giữa đồng Việt Nam với USD và các đồng tiền khác tuy đã đợc
nhiều lần điều chỉnh kể từ 1996, nhng hiện vẫn còn cao. Theo một số chuyên
gia nớc ngoài, mức cao này khoảng trên 10% và đã tác động tiêu cực đến
hàng xuất khẩu của Việt Nam vào thị trờng ASEAN, Nhật Bản và liên minh
Châu Âu, trừ Trung Quốc và Mỹ, Việt Nam đông cao và cha do thị trờng
đích thực xác định đã tác động xuấu không chỉ tới xuất khẩu mà cả với FDI
và du lịch. Đồng tiền Việt Nam cho đến nay, cha có thể chuyển đổi tự do.
Trong khi tổng giá trị xuất khẩu của nớc ta đã ngang bằng tổng GDP, thì đây
là một vấn đề rất bất lợi. Buôn bán quốc tế lớn đến thế mà đồng tiền không
chuyển đổi tự do đợc, có nghĩa là các nhà kinh doanh nhập khẩu của ta phải
chịu các chi phí chuyển đổi tiền với thủ tục phiền hà và tốn kém thời gian. Đã
thế họ còn phải chịu thiệt do quy định về kết hối ngoại tệ, tiền của họ thu đợc
do xuất khẩu, khi nhập khẩu cần ngoại tệ lại phải xin phép ngân hàng cấp.
Ngoài ba nguyên nhân trên còn có thể có những nguyên nhân khác nh:
lao động Việt Nam ít đợc đào tạo, không lành nghề; thể chế hành chính luật
pháp không minh bạch; bộ máy quản lý yếu kém và quan liêu tham nhũng
và...
Sự phát triển vợt trội của khu vực kinh tế đối ngoại.
Kim ngạch xuất khẩu của nớc ta năm 2001 đã đạt tới 31,2 tỷ USD,
nghĩa là xấp xỉ với tổng giá trị GDI, trong đó giá trị xuất khẩu khoảng 15 tỷ.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368

Trớc thập kỷ 1990, tổng kim ngạch xuất khẩu so với GDI của nớc ta chỉ vào
khoảng 30%. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu so với GDP của Trung Quốc
hiện nay cũng chỉ vào khoảng trên 30%. Các nớc Xingapore, Malaixia, Thái
Lan đã có tỷ trọng so sánh giữa giá trị xuất nhập khẩu và GDP cao hơn ta
Tổng vốn đầu t trực tiếp nớc ngoài đã đăng ký vào Việt Nam đến năm
2001 là 38,8 tỷ USD, tỷ trọng của vốn FDI đợc thực hiện trong tổng đầu t xã
hội vào khoảng 20% - 32%, nghĩa là năm cao nhất (1996) đã đạt tới trên 32%
nhăm năm đạt thấp vào khoảng trên 20%, nếu tính cả các nguồn vốn nớc
ngoài khác nh vốn ODA, và vốn vay thơng mại thì nguồn vốn nớc ngoài đã
chiếm khoảng 50% tổng đầu t xã hội vào giữa những năm 1990 (những năm
say tỷ trọng này đã giảm).
Ngành du lịch Việt Nam đã có bớc phát triển đáng kể. Số khách đu
lịch quốc tế vào Việt Nam đã tăng đều, năm 2001 đạt 2,3 triệu khách và hiện
có hàng năm ngàn lao động Việt Nam đang làm việc ở nớc ngoài đem lại
nguồn thu nhập hàng tỷ USD hàng năm cho đất nớc
Vấn đề đặt ra là một khi giá trị xuất khẩu xuấp xỉ bằng tổng GDP, vốn
FDI và các nguồn vốn nớc ngoài khác đã chiếm tới gần 50% tổng vốn đều t
xã hội, số khách du lịch vào Việt Nam lên tới 2,3 triệu ngời, thì các thể chế
kinh tế nớc ta không thể vẫn mang tính chất hớng nội nh trớc đợc. Đồng tiền
Việt Nam không chuyển đổi đợc đã gây thiệt hại cho cả hoạt động xuất nhập
khẩu, đầu t nớc ngoài và du lịch, ngời nớc ngoài và cả ngời Việt Nam kinh
doanh đối ngoại cũng sẽ nản lòng vì việc chuyển đổi ngoại tệ khó khăn, tốn
kém. Các vấn đề về tỷ giá, thuế quan, hải quan, những quy chế về đầu t nớc
ngoài, chính sách xuất nhập cảnh... cần phải đợc xem xét lại và đổi mới thích
hợp với những điều kiện mới của khu vực kinh tế đối ngoại đã gia tăng vợt
trội.
Kinh tế đối ngoại và đối nội thực chất chỉ là hai mặt của một nền kinh
tế, vì vậy những thay đổi về kinh tế đối ngoại đòi hỏi kinh tế đối nội phải
thay đổi. Chính sự tiến triển không kịp của kinh tế đối nội sẽ cản trở kinh tế
đối ngoại phát triển và ngợc lại. Nớc ta đang ở thời điểm kinh tế đối nội

Website: Email : Tel : 0918.775.368

×