Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

Vấn đề lãi suất tiền gửi ngân hàng của việt namd năm 2010 thực trạng, nguyên nhân và 1 số giải pháp nhằm phát huy vai trò của nó với tư cách là 1 công cụ của chính sách tiền tệ ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.42 KB, 5 trang )

Đề bài: vấn đề lãi suất tiền gửi ngân hàng của VND năm 2010: Thực trạng,
nguyên nhân và 1 số giải pháp nhằm phát huy vai trò của nó với tư cách là 1 công cụ
của chính sách tiền tệ ở Việt Nam.
MỞ ĐẦU
John Maynard Keynes lập luận rằng lãi suất là một hiện tượng tiền tệ phản ánh mối
quan hệ giữa cung và cầu về tiền. Cung tiền được xác định một cách ngoại sinh, cầu tiền
phản ánh các nhu cầu đầu cơ, phòng ngừa và giao dịch về tiền. Bởi thế lãi suất trở thành
một trong những công cụ quan trọng của chính sách tiền tệ được ngân hàng trung ương
sử dụng để điều tiết nền kinh tế.
Có nhiều loại lãi suất như: lãi suất tiền vay; lãi suất tiền gửi; lãi suất tái cấp vốn;
lãi suất liên ngân hàng... Trong phạm vi bài viết ta xét đến một loại lãi suất đó là lãi suất
tiền gửi cùng những biến động của nó trong nền kinh tế rơi vào lạm phát ở nước ta năm
2010.
NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận:
Lãi suất hiểu theo một nghĩa chung nhất là giá cả của tín dụng, vì nó là giá của
quyền được sử dụng vốn vay trong một khoảng thời gian nhất định, mà người sử dụng
phải trả cho người cho vay; là tỷ lệ của tổng số tiền phải trả so với tổng số tiền vay trong
một khoảng thời gian nhất định. Lãi suất là giá mà người vay phải trả để được sử dụng
tiền không thuộc sở hữu của họ và là lợi tức người cho vay có được đối với việc trì hoãn
chi tiêu.
Các nhân tố ảnh hưởng tới lãi suất: sự thay đổi của tổng cầu(GDP), sự chi tiêu cảu
Chính phủ, chính sách tiền tệ của chính phủ và nhu cầu tiêu dùng và đầu tư.
Lạm phát là chỉ số kinh tế quan trọng nhất mà NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG
xem xét khi đưa ra quyết định về lãi suất. Lạm phát một cách chung nhất được hiểu là sự
tăng giá liên tục và kéo dài của hàng hóa và dịch vụ. Các NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG
luôn phải theo dõi sự gia tăng của lạm phát. Khi NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG nhận
thấy lạm phát gia tăng vượt qua mức lạm phát vừa phải, họ sẽ thực hiện bất cứ biện pháp
nào để kiềm hãm sự tăng trưởng này. Một công cụ để NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG
kiềm hãm sự gia tăng của lạm phát là lãi suất – các NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG có
thể chống lại sự gia tăng của lạm phát bằng cách tăng lãi suất , tức là thực hiện chính sách


tiền tệ thắt chặt trong nền kinh tế nóng. Từ đó thu hẹp được tổng cầu, làm mức giá chung
giảm xuống.
2. Thực trạng:
Có thể nói trong năm 2010 nền kinh tế nước ta đã phải trải qua một cuộc khủng
hoảng, khiến nước ta rơi vào tình trạng lạm phát ở mức 11,75 %. Trước tình hình đó các
ngân hàng thương mại có thể nói là đã bước vào một “ cuộc chạy đua” về lãi suất tiền
gửi.
Trong những tháng đầu năm 2010, cuộc “vượt rào đầu tiên” là khi ngân hàng
Thương mại cổ phần Á Châu( ACB) công bố tăng mạnh lãi suất tiết kiệm đồng. Cụ thể,
lãi suất nổi bằng VND có mức cao nhất lên tới 11,6%/năm đối với các khoản tiền gửi có
giá trị từ 10 tỷ đồng trở lên. Mức lãi suất 10,7%-11,58%/năm được áp dụng với nhiều kỳ
1


hạn khác dành cho các khoản gửi từ 500 triệu đồng đến dưới 10 tỷ đồng. Với công bố
trên, ACB thực sự gây sốc bởi lãi suất tại đây vượt trội so với biểu lãi suất mà các ngân
hàng thương mại đang áp dụng lúc đó (cao nhất là 4,99%). Đây cũng là ngân hàng đầu
tiên công bố mức lãi suất huy động vượt 10,5%/năm như các ngân hàng vẫn áp dụng theo
mức quy định chung của Ngân hàng nhà nước. Tiếp theo đó Ngân hàng Việt Á
(VietABank) thông báo tăng mạnh lãi suất tiết kiệm VND lên mức cao nhất là 11,9%.
Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín (Sacombank) chính thức áp dụng biểu lãi suất
huy động VND mới trên toàn hệ thống với mức cao nhất là 11,58%. Không nằm ngoài
cuộc, OceanBank tăng lãi suất ở tất cả các kỳ hạn, nâng mức lãi suất cao nhất lên đến
11,49%/năm. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) cũng cho biết lãi suất
huy động VND tối đa của ngân hàng này không vượt quá 11,5%/năm. Như vậy, sau một
thời gian dài duy trì mức lãi suất dưới mức 10,5%/năm, các ngân hàng đã chính thức đưa
lãi suất huy động có một cuộc bứt phá. Mà trước đó để tạo sự ổn định mặt bằng lãi suất
chung, vào đầu tháng 12 năm 2009, Ngân hàng Nhà nước có văn bản khuyến cáo các
ngân hàng thương mại áp dụng lãi suất huy động VND cao nhất dưới 10,5%/năm.
Tiếp đó, trong quý IV năm 2010, chỉ trong một thời gian ngắn, lãi suất huy động

của các ngân hàng liên tục bị phá, từ 13% đến 14%. Khi Ngân hàng Đông Á nâng lãi suất
huy động lên 14%/năm. Chỉ một tuần sau một vài ngân hàng cổ phần đã đẩy lãi suất tiết
kiệm kỳ hạn một tháng lên 18%/năm cho các khoản tiền gửi nhỏ và đối với khoản tiền
hàng tỷ đồng trở lên, mức lãi suất có thể được nâng lên tiếp. Cuộc đua lãi suất huy động
đã lan rộng, tăng từng giờ. Điển hình trong hai ngày 7 và 8-12, lãi suất huy động bằng
VND trên thị trường tiền tệ tăng đột biến lên mức 17-18%/năm, xuất hiện tâm lý lo ngại
trên thị trường tiền tệ. Đỉnh điểm là ngày 8-12 Ngân hàng Thương mại cổ phần Kỹ
Thương Việt Nam (Techcombank) công bố mức lãi suất 17%/năm cho kỳ hạn một tháng
thông qua sản phẩm tiết kiệm “3 ngày vàng” cùng với nhiều chương trình khuyến mại,
tặng thưởng nên mức lãi suất trên thực tế có thể vượt con số đó. Năm 2008, lạm phát lên
đến 19,89%/năm nhưng lãi suất huy động cao nhất ở một số thời điểm cũng chỉ
18%/năm. Năm 2010, lạm phát chỉ hơn một nửa so với năm 2008 nhưng lãi suất bị đẩy
lên 17-18%/năm là điều bất thường.
3. Nguyên nhân:
Như vậy có thể thấy rằng mức tăng lãi suất chỉ trong một năm của các ngân hàng
thương mại đã liên tục vượt “mức trần” so với quy định của ngân hàng nhà nước nhất là
việc đánh dấu những mức tăng kỷ lục trong những tháng cuối năm 2010. Nghịch lý trong
đợt tăng lãi suất tiết kiệm đó là lãi suất tăng nhanh trong khi thanh khoản của các ngân
hàng thương mại không căng thẳng do được NHNN hỗ trợ trên thị trường mở từ trước
đó. Mặt khác, lãi suất tăng mạnh nhưng sức ép về tăng trưởng tín dụng trong những tháng
cuối năm không lớn. Vậy nên theo đánh giá của các chuyên gia thì có một số nguyên nhân
cơ bản dân tới tình trạng “rối” trong việc tăng lãi suất các ngân hàng thương mại.
Về mặt lý thuyết, lãi suất danh nghĩa chịu tác động của mấy yếu tố sau: cung - cầu
vốn vay, tỷ lệ lạm phát kỳ vọng, cung tiền cơ sở, rủi ro thị trường vốn và lợi nhuận của
các thị trường đầu tư (như chứng khoán, vàng, ngoại tệ, bất động sản…). Xét về cung cầu vốn vay, có thể thấy cầu luôn lớn hơn cung. Ở nước ta, tỷ lệ tiết kiệm đơn thuần trên
2


tổng thu nhập quốc dân luôn dưới 30% trong khi tỷ lệ vốn đầu tư trên GDP luôn ở mức
trên 40%, các doanh nghiệp sử dụng huy động vốn từ kênh ngân hàng khá lớn. Yếu tố

này không chỉ ảnh hưởng tới lãi suất huy động nội tệ mà còn là yếu tố có tính đặc thù của
nền kinh tế Việt Nam. Tại thời điểm các ngân hàng tăng lãi suất xét về lạm phát kỳ vọng,
chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của 11 tháng đã tăng tới 9,58% so với cuối năm trước và tăng
11,1% so với cùng kỳ năm 2009 khiến lạm phát kỳ vọng năm 2010 được dự đoán sẽ ở
mức hai chữ số. Đây là yếu tố chính và tác động trực tiếp tới việc tăng lãi suất huy động
trong thời gian đó.
Tháng 11 và 12 cung vốn giảm do tốc độ tăng tín dụng lớn hơn huy động vốn,
quan hệ giữa lãi suất Việt Nam đồng - tốc độ tăng của tỷ giá - lãi suất USD có chênh lệch
âm (-2,38%), khác với các năm gần đây (2005: 3,79%/năm; 2006: 2,87%/năm; 2007 là
4,06%/năm): thanh khoản trên thị trường nội tệ liên ngân hàng không dồi dào, lãi suất
vẫn có sức ép tăng; các ngân hàng thương mại có nhu cầu lớn huy động vốn dài hạn
nhưng thị trường tiền tệ chưa ổn định, người gửi tiền ít gửi kỳ hạn dài (trên 3 tháng) làm
cho các tổ chức tín dụng phải ấn định lãi suất huy động ở mức cao để tăng khả năng huy
động vốn khi vàng, ngoại tệ trở thành kênh đầu tư an toàn mà lợi nhuận cao do giá vàng
thế giới và tỷ giá USD/VNDD tăng mạnh. Vì thế một lượng tiền VND lớn bị hút qua
kênh đầu tư vàng và ngoại tệ.
Bên cạnh đó, tính thanh khoản của các ngân hàng thương mại VN không tương
đồng, thậm chí rất khác nhau nên các ngân hàng thương mại có thanh khoản không tốt
(có quy mô nhỏ và trung bình) buộc phải đẩy lãi suất huy động lên khi giảm sự trông cậy
vào thị trường liên ngân hàng, do đó kéo theo các ngân hàng thương mại có thanh khoản
tốt hơn vào cuộc đua lãi suất.
Khi Ngân hàng Nhà nước phải tăng lãi suất cơ bản từ 8% lên 9% sau khi đã cố
định nó suốt từ tháng 12/2009 với kỳ vọng thắt chặt chính sách tiền tệ để kiểm soát lạm
phát thì động thái thắt chặt này lại được đưa ra không đúng thời điểm khi mà nguồn cầu
tín dụng đang tăng mạnh và nguồn tăng tín dụng ngân hàng cả năm đã hết.
Một nguyên nhân khác không thể không kể đến đó là trong một thị trường cạnh
tranh như hiện nay, ngân hàng nào cũng có động thái không muốn mất khách hàng. Thực
tế đã có rất nhiều khách hàng rút tiền của ngân hàng này để sang ngân hàng khác có mức
lãi suất cao hơn để gửi. Trong tình thế đó, buộc các ngân hàng, kể cả các ngân hàng quốc
doanh đều phải tìm mọi cách để giữ khách, bằng việc tăng lãi suất, thưởng khuyến mãi...

Như vậy có thể thấy việc các ngân hàng thương mại chạy đua lãi suất tiềm ẩn rất
nhiều lý do và cả do hiệu ứng tâm lý. Mặc dù đã có sự can thiệp của ngân hàng nhà nước
nhưng dường như động thái này chưa mang lại hiệu quả rõ rệt do nhận thức và chấp hành
chỉ đạo của Chính phủ và của NHNN ở một số NHTM chưa cao, chưa thể hiện tinh thần
trách nhiệm đầy đủ đối với an toàn hệ thống, nhất là trong thực hiện cam kết đồng thuận
của Hiệp hội Ngân hàng.
4. Giải pháp:
Có thể nói theo lý thuyết lý luận chung về kinh tế vĩ mô thì khi nền kinh tế nóng và
ở mức lạm phát cao như hiện nay thì việc các ngân hàng tăng lãi suất để kiểm soát thị
trường là điều hợp lý. Tuy nhiên việc các ngân hàng thương mại liên tục vượt mức trần
3


đối với quy định về lãi suất tiền gửi lại gây một tác động không tốt đến thị trường. Một
thị trường tiền tệ bất ổn, lãi suất tăng không chỉ gây khó khăn cho doanh nghiệp, tăng
thêm nguy cơ cho nền kinh tế mà chính các ngân hàng cũng gặp khó khăn. Huy động lãi
suất cao, tất nhiên sẽ phải chấp nhận cho vay cao. Lãi suất cho vay cao khiến cho việc
giải ngân khó khăn hơn, trong khi các ngân hàng Việt Nam sống chủ yếu nhờ vào tín
dụng. Không cho vay được tất nhiên sẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận ngân hàng đồng thoeif
làm tăng cao tính chất rủi ro trong hoạt động của ngân hàng. Bởi vậy để có thể phát huy
vai trò của lãi suất như một công cụ của chính sách tiền tệ và được thực hiện một cách có
hiệu quả yêu cầu sự phối hợp của nhiều biện pháp mà trước hết là để kiểm soát tình trạng
lãi suất liên tục tăng như năm 2010.
Ngân hàng nhà nước cần điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt và thận
trọng theo nguyên tắc thị trường, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính
sách kinh tế vĩ mô khác nhằm kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô. Việc kiềm
chế lạm phát ở mức dưới 3,5% để phấn đấu đạt mục tiêu lạm phát cả năm 2011 không
quá 7% - đó là điều kiện cơ bản để ổn định và giảm dần lãi suất thị trường.
Giải pháp tiếp theo được nhấn mạnh là các tổ chức tín dụng tiếp tục ấn định lãi
suất huy động vốn theo mức “trần” 14%/năm và giảm dần theo xu hướng lạm phát, điều

hành linh hoạt các mức lãi suất chính sách của Ngân hàng Nhà nước, hoàn thiện cơ chế
điều hành lãi suất theo quy định của Luật Ngân hàng nhà nước, trong đó lãi suất cơ bản là
lãi suất cho vay bình quân thực tế bằng Việt Nam đồng của tổ chức tín dụng, do Ngân
hàng Nhà nước xác định và công bố hàng tháng, làm cơ sở để thực hiện quản lý nhà nước
đối với quan hệ dân sự theo quy định của Bộ luật Dân sự, cho vay nặng lãi của Bộ luật
Hình sự và các quan hệ kinh tế khác theo quy định của pháp luật; lãi suất kinh doanh
(huy động và cho vay) của tổ chức tín dụng được thực hiện theo cơ chế thỏa thuận. các
NHTM cần phối hợp chặt chẽ và tăng cường đồng thuận.
Mỗi NHTM có một mục tiêu, chiến lược hoạt động riêng. Các NHTM là đối thủ cạnh
tranh của nhau nhưng cũng đồng thời là đồng minh của nhau trong những “trận tuyến
chung”: chống lạm phát, chống suy giảm kinh tế, … Và sự tương hỗ, phối hợp hành động
giữa các NHTM với nhau trong những giai đoạn khó khăn chung là hết sức cần thiết và
quan trọng. Vai trò của Hiệp Hội Ngân hàng trong việc tăng cường sự phối hợp và đồng
thuận
của
các
NHTM
cần
được
đẩy
mạnh
hơn
nữa.
Việc đồng thuận trong huy động vốn đặc biệt là ngoại tệ sẽ tạo thuận lợi cho cả nền kinh
tế và phù hợp với mặt bằng thế giới. Đồng thuận trong áp dụng tỷ giá mua bán ngoại tệ sẽ
làm giảm áp lực căng thẳng về ngoại tệ.
Nên xem xét thu hẹp phạm vi hỗ trợ lãi suất, tiến tời dừng thực hiện hỗ trợ lãi suất.
Trước hết phải nói rằng, hạn chế mức cung tiền trong thời điểm hiện nay là một động thái
đúng đắn khi tín dụng có xu hướng tăng nóng và cần thiết để ngăn chặn nguy cơ lạm
phát. NHNN nên xem xét đề xuất với Chính Phủ giảm dần, tiến tới ngừng hỗ trợ lãi suất.

Tiếp tục duy trì hỗ trợ lãi suất một mặt sẽ tạo sức ép gia tăng lạm phát, mặt khác có thể
dẫn đến việc sử dụng vốn thiếu hiệu quả gây tác động không tốt cho nền kinh tế và hệ lụy
xấu cho các NHTM. Dừng hỗ trợ lãi suất cũng sẽ trực tiếp giảm áp lực bội chi ngân sách,
giảm áp lực lạm phát.
4


Cần kiểm soát chặt chẽ thị trường ngoại tệ, giá vàng biến động phù hợp với giá
vàng thế giới và không có biến động đột biến, kiểm soát tỷ giá biến động thấp hơn mức
lạm phát kỳ vọng; tiếp tục thực hiện các giải pháp để tăng cung ngoại tệ, giảm cầu ngoại
tệ như trong năm 2010, đi đôi với chống đầu cơ và găm giữ ngoại tệ. Cùng với đó là các
giải pháp đảm bảo cung-cầu vốn thị trường, giám sát chặt chẽ tình hình kinh doanh của
từng tổ chức tín dụng; nâng cao tần suất và chất lượng công tác truyền thông của các cơ
quan Chính phủ, nhất là về chính sách tiền tệ, tài khóa, thương mại để tạo tâm lý tốt cho
công chúng đồng thuận với các chính sách kinh tế của Nhà nước.
Cần tăng cường kiểm tra giám sát và xử lý nghiêm các sai phạm trong việc thực
hiện các quy định liên quan đến chính sách tiền tệ: vi phạm về biên độ tỷ giá, về trần lãi
suất, trong cho vay hỗ trợ lãi suất…
Thời gian qua công tác này đã được NHNN hết sức chú trọng. Tuy nhiên để đảm bảo tính
nghiêm minh của pháp luật, tạo ra sự cạnh tranh bình đẳng giữa các NHTM và đặc biệt là
để các công cụ của chính sách tiền tệ thực sự phát huy tác dụng tích cực, cần phải xiết
chặt hơn các chế tài đi đôi với tăng cường công tác kiểm tra của các cơ quan chức năng
cũng như phát huy cơ chế giám sát chéo, cơ chế giám sát của cộng đồng, công luận.
KẾT LUẬN
Lãi suất là một trong những biến số được theo dõi một cách chặt chẽ nhất trong
nền kinh tế, đặc biệt là trong nền kinh tế thị trường. Diễn biến của nó được đưa tin hàng
ngày trên các phương tiện thông tin đại chúng. Sự dao động của lãi suất ảnh hưởng trực
tiếp đến các quyết định của Chính phủ, cá nhân, doanh nghiệp, ngân hàng cũng như hoạt
động của các tổ chức tín dụng và toàn bộ nền kinh tế. Nền kinh tế thế giới đang vượt qua
suy thoái và dần hồi phục. Kinh tế Việt Nam cũng đang bước vào thời kỳ “hậu suy

giảm”. Với những công cụ hữu hiệu và sự điều hành linh hoạt của NHNN, chắc chắn
chính sách tiền tệ sẽ là động lực tạo đà thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam nhanh chóng phục
hồi và tiếp tục phát triển bền vững.

5



×