Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

ý nghĩa của tư tưởng kinh tế chủ nghĩa trọng thương đối với sự phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.45 KB, 20 trang )

Lịch sử học thuyết kinh tế

Học viện ngân hàng

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU...................................................................................................................1
PHẦN 1: TƯ TƯỞNG KINH TẾ CỦA............................................................................3
CHỦ NGHĨA TRỌNG THƯƠNG....................................................................................3
1.1. Khái niệm và những tư tưởng kinh tế chủ yếu của học thuyết kinh tế trọng
thương............................................................................................................................3
1.1.1. Khái niệm........................................................................................................3
1.1.2. Những tư tưởng kinh tế chủ yếu......................................................................4
1.2. Hoàn cảnh, điều kiện lịch sử ra đời của chủ nghĩa trọng thương...........................5
1.2.1. Nền sản xuất hàng hoá phát triển.....................................................................5
1.2.2. Có nhiều phát kiến địa lý.................................................................................6
1.2.3. Về chính trị- tư tưởng......................................................................................6
1.3. Các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa trọng thương: ..........................................7
1.4. Đặc điểm của học thuyết kinh tế trọng Thương:....................................................8
1.4.1. Học thuyết Kinh tế trọng thương xuất hiện một cách độc lập:........................8
1.4.2. Học thuyết Kinh tế trọng thương mang tính chất không triệt để:....................8
1.4.3. Học thuyết kinh tế trọng thương rất ít tính lý luận nhưng lại rất thực tiễn:.....8
1.5. Thành tựu và hạn chế của chủ nghĩa trọng thương: ..............................................9
1.5.1. Thành tựu của chủ nghĩa trọng thương:...........................................................9
1.5.2. Hạn chế..........................................................................................................10
PHẦN 2: Ý NGHĨA CỦA TƯ TƯỞNG KINH TẾ CHỦ NGHĨA TRỌNG THƯƠNG
ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở NƯỚC TA.................12
2.1. Kinh tế thị trường và thực trạng KTTT ở Việt Nam............................................12
2.2. Ý nghĩa của tư tưởng kinh tế chủ nghĩa trọng thương đối với sự phát triển kinh tế
thị trường ở Việt Nam:................................................................................................15
KẾT LUẬN.....................................................................................................................19
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................20



LỜI MỞ ĐẦU
Chủ nghĩa trọng thương ra đời tuy còn nhiều hạn chế, nhưng với
tư cách là học thuyết kinh tế đầu tiên cũng đã đưa ra những lý luận cơ
bản trong quá trình phát triển của chủ nghĩa Tư bản, tạo tiền đề cho
nền sản xuất hàng hoá phát triển, và giải quyết được vấn đề cấp bách về
vốn trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa Tư bản.

Nguyễn Cao Cường

1

Cao học 902


Lịch sử học thuyết kinh tế

Học viện ngân hàng

Việt Nam tiến lên Chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn Tư bản chủ
nghĩa trong điều kiện nền kinh tế còn nghèo nàn, lạc hậu, đó là một
nhiệm vụ rất khó khăn và trải qua quá trình lâu dài. Một trong những
tiền đề để hoàn thành nhiệm vụ đó là thực hiện sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước, trong đó vấn đề về tạo dựng và tích luỹ vốn
đóng vai trò quan trọng.
Phát triển Thương mại, đặc biệt là thương mại quốc tế là một
kênh thu hút nguồn vốn quan trọng của đất nước. Do vậy, coi trọng sự
phát triển của hoạt động thương nghiệp là việc làm cần thiết, tuy nhiên
cần phải đảm bảo nguyên tắc bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh, theo
chuẩn mực và thông lệ quốc tế.

Trong điều kiện thực tế nước ta hiện nay, phát triển thương
nghiệp vẫn còn có thể vận dụng những tư tưởng kinh tế của Chủ nghĩa
trọng thương, tuy nhiên, việc nắm bắt và nhận thức những tư tưởng đó
phải có chọn lọc, phù hợp với lịch sử và tình hình thực tế cũng như tuỳ
thuộc vào từng giai đoạn phát triển cụ thể nhằm mang lại hiệu quả cao
nhất, góp phần thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện
đại hoá đất nước.Vỡ những lý do trên, tụi đã chọn đề tài “Tư tưởng
kinh tế của Chủ nghĩa trọng thương – ý nghĩa đối với sự phát triển kinh
tế thị trường ở nước ta” làm bài tiểu luận của mình.
Vì thời gian và hiểu biết có hạn, tôi rất mong nhận được ý kiến
đóng góp của các thầy, cỏc cụ và các bạn để bài viết của tôi được hoàn
thiện hơn.
Ngoài lời mở đầu và phần kết luận, bài viết gồm 2 phần:
Phần 1: Tư tưởng kinh tế của Chủ nghĩa trọng thương
Phần 2: Ý nghĩa tư tưởng kinh tế của Chủ nghĩa trọng
thương đối với sự phát triển kinh tế thị trường ở nước ta.

Nguyễn Cao Cường

2

Cao học 902


Lịch sử học thuyết kinh tế

Học viện ngân hàng

PHẦN 1: TƯ TƯỞNG KINH TẾ CỦA
CHỦ NGHĨA TRỌNG THƯƠNG

1.1. Khái niệm và những tư tưởng kinh tế chủ yếu của học thuyết kinh
tế trọng thương
1.1.1. Khái niệm
CNTT là hệ thống quan điểm tư tưởng kinh tế đầu tiên của giai cấp
tư sản, mà trước hết là tầng lớp tư sản thương nghiệp. Nó ra đời trong thời
kì tan ra của PTSX phong kiến. Đó là thời kì chuyển từ nền kinh tế giản
đơn sang nền kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa hay còn gọi là thời kì tích
luỹ nguyên thuỷ tư bản, khi kinh tế hàng hoá và ngoại thương đã phát triển.
Chủ nghĩa trọng thương là một trào lưu tư tưởng kinh tế học chính trị
tư sản và chính sách kinh tế của nhiều nước Châu Âu các thế kỷ XVXVIII, phản ánh lợi ích của giai cấp tư sản mới ra đời có tham vọng tích
luỹ nhiều vàng bạc. Nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa trọng thương: lợi
nhuận được sáng tạo ra trong lĩnh vực lưu thông; tiền tệ là của cải của dân
tộc, xuất khẩu tiền ra nước ngoài làm cho của cải ít đi, ngược lại nhập khẩu
tiền thì của cải tăng lên.
Chủ nghĩa trọng thương chỉ là một nhóm nhỏ có nguồn gốc từ phong
trào và chiến lược mở rộng tài sản, mà tài sản đầu tiên là của các thương
gia, thứ hai là của chính phủ tư bản trong những năm đầu. Phong trào và
chiến lược đó bắt đầu từ thế kỷ XVI và kéo dài sang thế kỷ XVIII và một
phần của thế kỷ XIX
Hầu hết những người trong chủ nghĩa trọng thương chính họ cũng là
thương gia hay là những người trong bộ máy chính phủ và các bài viết của
họ đều ảnh hưởng đến khát vọng gia tăng lợi nhuận kinh doanh và các hỗ
trợ tài chính cho chính phủ thông qua việc đánh thuế trên tài sản được tạo
ra để bảo vệ cho chớnh cỏc lợi ích này. Đây là thời kỳ nổi bật của các tiểu
bang trong một nước và các chính phủ của một nước mà trong đó họ đóng
vai trò duy nhất trong việc huy động lợi nhuận cho các thương gia.
Trong những năm đầu của thời kỳ tư sản, khi đó nhu cầu thực sự của
hầu hết mọi người đều bị giới hạn do đồng lương thấp, các thương gia gấp
Nguyễn Cao Cường


3

Cao học 902


Lịch sử học thuyết kinh tế

Học viện ngân hàng

rút đi tìm thị trường và tài sản ở nước ngoài và cái họ cần là chính phủ phải
tiên phong trong việc mở rộng các thị trường này và ủng hộ thương nghiệp
cũng như cú cỏc chính sách tiền tệ có lợi cho họ.
Học thuyết kinh tế trọng thương là những chính sách, cương lĩnh
kinh tế của giai cấp tư sản thương nghiệp Châu Âu trong thời kỳ tích luỹ
vốn ban đầu của chủ nghĩa tư bản. Những chính sách, cương lĩnh này nhằm
kêu gọi thương nhân tận dụng ngoại thương, buôn bán để cướp bóc các
nước thuộc địa và nhằm bảo vệ lợi ích cho giai cấp tư sản đang hình thành.
Học thuyết kinh tế trọng thương là học thuyết đầu tiên của giai cấp
tư sản. Tuy chưa phải là một học thuyết kinh tế thật sự khoa học, nhưng đã
phản ánh một cách nổi bật những tiến bộ mới trong đời sống kinh tế Châu
Âu lúc bấy giờ.
1.1.2. Những tư tưởng kinh tế chủ yếu
Đồng nhất tiền tệ với của cải: Tiền là một nội dung căn bản của của
cải, là tài sản thực sự của một quốc gia. Tất cả các chính sách kinh tế phải
nhằm một mục đích là làm gia tăng khối lượng tiền tệ. Hàng hoá chỉ là
phương tiện để đạt đến cỏc đớch cuối cùng là tiền tệ.
Quan điểm về ngành nghề: Những người theo chủ nghĩa trọng
thương đã đứng trên quan điểm coi tiền là đại biểu duy nhất của của cải, là
tiêu chuẩn để đánh giá mọi hình thức nghề nghiệp. Những hoạt động nào
mà không dẫn đến tích luỹ tiền tệ là những hoạt động tiêu cực, không có

lợi. Hoạt động nghề công nghiệp làm ra sản phẩm về mặt vật chất, không
phải là tiền. Không những thế lại mất tiền để mua nguyên liệu, là ngành
tiêu cực, tuy nhiên trừ ngành công nghiệp khai thác vàng, bạc. Hoạt động
nghề nông nghiệp cũng tạo ra sản phẩm về vật chất, tuy nhiên không mất
tiền mua nguyên liệu (có thể khai thác từ tự nhiên), nhưng không làm ra
tiền, đây là ngành trung gian giữa tiêu cực và tích cực, chỉ có hoạt động
ngoại thương mới là nguồn gốc thật sự của của cải. Khối lượng tiền tệ chỉ
có thể gia tăng bằng con đường ngoại thương. Trong hoạt động ngoại
thương phải thực hiện chính sách xuất siêu (xuất nhiều, nhập ít).
Lợi nhuận thương nghiệp: Là kết quả của những trao đổi không
ngang giá, là sự lừa gạt, cướp bóc giống như chiến tranh. Nội thương: khối
Nguyễn Cao Cường

4

Cao học 902


Lịch sử học thuyết kinh tế

Học viện ngân hàng

lượng của cải tiền tệ quốc gia không tăng, giống như hành vi móc túi lẫn
nhau. Muốn gia tăng khối lượng của cải tiền tệ của quốc gia phải bằng
ngoại thương. Dân tộc này giàu lên phải bằng sự hy sinh dân tộc khác.
Muốn dành phần thắng trong quan hệ ngoại thương thì phải xuất siêu. Đại
biểu Montechretien (Pháp) coi nội thương là hệ thống ống dẫn, còn ngoại
thương như là chiếc máy bơm. Muốn tăng của cải thì phải có ngoại thương
nhập và dẫn của cải thông qua nội thương.
Không biết đến quy luật giá trị: Đặc điểm lý luận của chủ nghĩa

trọng thương là họ chưa biết và không thừa nhận quy luật kinh tế. Thay vào
đó, họ đánh giá cao chính sách kinh tế của Nhà nước, coi chính sách kinh tế
nhà nước giữ vai trò quyết định. Đặt nền móng cho học thuyết sự can thiệp
của nhà nước đối với nền kinh tế sau này.
1.2. Hoàn cảnh, điều kiện lịch sử ra đời của chủ nghĩa trọng thương.
1.2.1. Nền sản xuất hàng hoá phát triển
Chủ nghĩa trọng thương ra đời vào cuối Thời đại Nguyờn thuỷ, đầu
Chế độ Chiếm hữu nô lệ. Ở thời kỳ này, phân công lao động xã hội đã phát
triển làm xuất hiện chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, tạo điều kiện tiên
quyết cho sự ra đời của nền sản xuất hàng hoá. Nhưng mãi đến cuối thế kỷ
XVI đầu thế kỷ XVII, do sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công
lao động xã hội mới làm cho nền sản xuất phát triển mạnh mẽ. Do đó việc
sản xuất để trao đổi đã lôi kéo mọi tầng lớp trong xã hội, kể cả những
người tiểu thương và tiểu nông. Các nhà kinh tế đã từng nói: nền sản xuất
hàng hoá vào cuối thời đại phong kiến đã phát triển tới trình độ cổ điển, tức
là tới trình độ mà hàng ngày, hàng giờ đẻ ra chủ nghĩa tư bản. Vì lúc này
nền sản xuất hàng hoá tạo ra những tiền đề nhất định cho sự ra đời của tư
bản.
Việc sản xuất và trao đổi hàng hoá phát triển là nguồn gốc cho việc
ra đời của tiền tệ. Tiền tệ xuất hiện tạo điều kiện cho lưu thông hàng hoá và
làm cho thị trường được mở rộng, do đó lại có tác dụng thúc đẩy sản xuất
và lưu thông hàng hoá ngày càng phát triển mạnh mẽ hơn, không chỉ trong
phạm vi của quốc gia mà cũn trờn phạm vi toàn thế giới.

Nguyễn Cao Cường

5

Cao học 902



Lịch sử học thuyết kinh tế

Học viện ngân hàng

Sự phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hoá phát triển đã làm cho
địa tô tiền xuất hiện thay thế cho địa tô lao dịch và địa tô hiện vật. Đó cũng
là tiền đề cho sự ra đời của tư bản.
Việc phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hoỏ cũn phá vỡ nền
kinh tế tự cung tự cấp, đưa xã hội loài người thoát khỏi thời kỳ mông muội,
thúc đẩy sản xuất phát triển và làm cho kinh tế hàng hoá dần dần mang tính
chất phổ biến và thống trị trên toàn xã hội. Bên cạnh đú, nú cũn đẩy nhanh
quá trình phõn hoỏ giàu nghèo, từ đó hình thành nên hai giai cấp cơ bản
trong xã hội tư bản đó là giai cấp vô sản và giai cấp tư sản.
1.2.2. Có nhiều phát kiến địa lý
Cùng với sự phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hoá, đến cuối
thế kỷ XV đầu thế kỷ XVI đã có nhiều phát kiến địa lý để tỡm cỏc vựng
đất mới, nhờ đó thị trường thế giới được mở rộng. Tiêu biểu cho thời kỳ
này là việc tìm ra hai nước Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, vì đây là hai
nước có nền sản xuất và trao đổi hàng hoá phát triển nhất lúc bấy giờ.
Những phát kiến địa lý đã tạo tiền đề làm giàu nhanh cho Tư bản
thương nhân Châu Âu. Vì những phát kiến địa lý này đưa tới việc buôn bán
nô lệ giữa các châu lục, tìm ra các mỏ vàng ở châu Mỹ, đưa tới việc xâm
chiếm thuộc địa và hình thành các công ty buôn bán lớn như: Công ty
Đông Ấn của Anh (1600-1858), Công ty Đông Ấn Hà Lan (1602- 1798),
Công ty Đông Ấn Pháp (1664- 1793),… Các công ty này là những công cụ
quan trọng trong chính sách thuộc địa của các nước Châu Âu. Của cải do
các công ty này đem lại đã làm loá mắt những người trọng thương, khiến
họ dựa vào đó để giải thích nguồn gốc của lợi nhuận và kêu gọi thương
nhân đẩy mạnh ngoại thương để bóc lột các nước thuộc địa, nhằm tạo ra

nguồn vốn ban đầu cho chủ nghĩa tư bản.
1.2.3. Về chính trị- tư tưởng
Đặc điểm nổi bật về chính trị - tư tưởng ở Châu Âu lúc bấy giờ là
giai cấp phong kiến vẫn là giai cấp nắm địa vị thống trị, nhưng đang trong
thời kỳ suy tàn, cũn giai cấp tư sản tuy chưa nắm quyền thống trị nhưng lại
là giai cấp đang phát triển và tiên tiến hơn, có những cơ sở kinh tế tương
đối mạnh. Do vậy, trên lĩnh vực tư tưởng kinh tế chứa đựng đầy mâu thuẫn,
Nguyễn Cao Cường

6

Cao học 902


Lịch sử học thuyết kinh tế

Học viện ngân hàng

nó vừa phản ánh cơ sở kinh tế cũ, vừa phản ánh cơ sở kinh tế mới đang
hình thành; vừa phản ánh lợi ích kinh tế của giai cấp địa chủ, phong kiến,
vừa phản ánh lợi ích của giai cấp tư sản.
Học thuyết kinh tế trọng thương ra đời đã giải quyết được mâu thuẫn
trờn, vỡ nú đại diện cho giai cấp tiên tiến, đó là giai cấp tư sản. Nhưng đây
chưa phải là giai cấp tcư sản công nghiệp mà là giai cấp tư sản thương
nghiệp trước chủ nghĩa tư bản.
1.3. Các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa trọng thương:
Học thuyết kinh tế trọng thương là hình thái đầu tiên của hệ tư tưởng
tư sản trong lĩnh vực kinh tế, nó phản ánh xu thế đi lên của giai cấp tư sản
đang hình thành và phát triển trong lòng xã hội phong kiến. Do vậy, quá
trình hình thành của chủ nghĩa trọng thương được chia làm các giai đoạn:

Từ giữa thế kỷ XV đến giữa thế kỷ XVI: Các nhà kinh tế học như A.
Xeria, Staford đồng nhất của cải với tiền tệ. Quan hệ giữa lưu thông hàng
hóa và lưu thông tiền tệ chưa được hiểu rõ. Tư tưởng trung tâm của các tác
phẩm kinh tế là "Bảng cân đối tiền tệ." Bảng này được sử dụng làm cơ sở
cho các chính sách kinh tế như gia tăng của cải, tiền tệ, gìn giữ cho khối
lượng tiền hiện có không bị chuyển ra nước ngoài, tập trung buôn bán vào
những vựng cú kho tàng để nhà nước dễ kiểm soát, bắt thương nhân nước
ngoài khi đến buôn bán phải dùng toàn bộ số tiền mà họ để mua hàng mang
về nước, qui định tỷ giá trao đổi, cấm đổi cho người nước ngoài khối lượng
tiền tệ lơn hơn mức qui định của nhà nước.
Từ giữa thế kỷ XVI đến giữa thế kỷ XVII: Các nhà kinh tế học như
Thomas Mun (1571-1641) người Anh, Antoine Montchretien (1575-1629)
và Jean Batiste Colbert (1618-1683) người Pháp... đã nhìn nhận của cải là
số sản phẩm dư thừa được sản xuất trong nước sau khi đã thỏa mãn nhu cầu
tiêu dùng, song phải được chuyển thành tiền thông qua thị trường nước
ngoài. Tư tưởng trung tâm của các tác phẩm kinh tế là "Bảng cân đối
thương mại." Buôn bán thương mại phải đảm bảo xuất siêu để có chênh
lệch, tăng tiền tích lũy cho ngân khố quốc gia. "Bảng cân đối xuất siêu"
được gọi bằng tên "Bảng cân đối tích cực."

Nguyễn Cao Cường

7

Cao học 902


Lịch sử học thuyết kinh tế

Học viện ngân hàng


Để xuất siêu, các nhà kinh tế khuyến nghị chỉ xuất thành phẩm chứ
không xuất nguyên liệu; thực hiện thương mại trung gian, mang tiền ra
nước ngoài để mua rẻ ở nước này và bán đắt ở nước khác; thực hiện chính
sách thuế quan bảo hộ nhằm kiểm soát hàng hóa nhập khẩu, khuyến khích
phát triển sản xuất hàng hóa xuất khẩu.
Từ cuối thế kỷ XVII: Trường phái Trọng thương bắt đầu có mâu
thuẫn với các tầng lớp doanh nhân trong công nghiệp, nông nghiệp và nội
thương. Bên trong nền kinh tế bắt đầu xuất hiện tư tưởng cổ vũ tự do
thương mại, xóa bỏ độc quyền.
Các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa trọng thương đều cùng một
mục đích là tích luỹ tiền tệ cho sự ra đời của chủ nghĩa tư bản. Các giai
đoạn chỉ khác nhau về phương pháp và thủ đoạn để đạt được mục đích đó
mà thôi.
1.4. Đặc điểm của học thuyết kinh tế trọng Thương:
1.4.1. Học thuyết Kinh tế trọng thương xuất hiện một cách
độc lập:
Học thuyết kinh tế trọng thương không phải là một học thuyết kinh
tế thuần nhất có tính chất phổ biến đối với tất cả các nước, mà trong các
nước khác nhau có học thuyết kinh tế trọng thương khác nhau và phản ánh
sự phát triển kinh tế khác nhau.
1.4.2. Học thuyết Kinh tế trọng thương mang tính chất không
triệt để:
Học thuyết kinh tế trọng thương là trào lưu kinh tế tư sản, nhưng
trong thực tế, ở nhiều nước, giai cấp quý tộc đã lợi dụng để phục vụ cho lợi
ích của mình và để cứu vãn cho sự suy tàn của xã hội Phong kiến. Vì vậy
cơ sở giai cấp của chủ nghĩa trọng thương không phải chỉ có giai cấp tư sản
mà còn bao gồm cả giai cấp quý tộc.
1.4.3. Học thuyết kinh tế trọng thương rất ít tính lý luận
nhưng lại rất thực tiễn:

Thời kỳ đầu của Chủ nghĩa Tư bản, nhiệm vụ trung tâm của giai cấp
tư sản là tạo ra nguồn vốn ban đầu, nghĩa là phải tích luỹ được nhiều tiền.
Muốn có nhiều tiền phải dựa vào nhà nước để thực hiện các biện pháp phi
Nguyễn Cao Cường

8

Cao học 902


Lịch sử học thuyết kinh tế

Học viện ngân hàng

kinh tế chứ không dựa trên sự vận động của các quy luật kinh tế. Chính vì
vậy mà học thuyết kinh tế trọng thương có tính lý luận hết sức thô sơ, nông
cạn và giản đơn. Tuy nhiên, học thuyết kinh tế trọng thương đã đứng trên
hiện thực lịch sử để khái quát những kinh nghiệm thành những quy tắc,
cương lĩnh, chính sách nhằm giải quyết vấn đề cấp bách lúc bấy giờ là tích
luỹ vốn ban đầu.
1.5. Thành tựu và hạn chế của chủ nghĩa trọng thương:
1.5.1. Thành tựu của chủ nghĩa trọng thương:
Khởi đầu cho sự phát triển mới về kinh tế: Tư tưởng kinh tế thời kỳ
trung cổ bảo vệ kinh tế tự nhiên, bảo vệ sự chiếm hữu ruộng đất của phong
kiến, cấm lưu thông buôn bán và duy trì sự nô dịch con người. Ngược lại,
học thuyết kinh tế trọng thương ra đời đã thúc đẩy nền sản xuất hàng hoá
phát triển, xoá bỏ kinh tế tự nhiên, mở đường cho lực lượng sản xuất phát
triển. Đặc biệt đề cao thương nghiệp, ngoại thương, coi đó là đòn bẩy mạnh
mẽ để tích luỹ vốn ban đầu cho sự ra đời của chủ nghĩa tư bản.
Đây là học thuyết kinh tế đầu tiên trong lịch sử các học thuyết

kinh tế: Các tư tưởng kinh tế xuất hiện rất sớm và phát triển qua thời kỳ cổ
đại và trung đại và mãi tới trọng thương, các tư tưởng kinh tế mới được coi
là một học thuyết. Mặc dù học thuyết kinh tế này còn dừng lại ở cương
lĩnh, chính sách, song nó vẫn được coi là học thuyết kinh tế đầu tiên của
giai cấp tư sản nhằm khái quát hoá những vấn đề thực tiễn lúc bấy giờ và
bắt đầu nghiên cứu một số vấn đề lý luận của chủ nghĩa tư bản như: Vai trò
của tư bản thương nghiệp; về nguồn gốc và lợi nhuận thương nghiệp; về
lưu thông tiền tệ; về vai trò của tiền tệ;….
Nhận thấy được vai trò của phát triển công nghiệp: Tư tưởng cơ
bản của học thuyết kinh tế trọng thương là coi trọng ngoại thương, buôn
bán, coi đây là đòn bẩy mạnh mẽ nhất để làm giàu. Nhưng sang giai đoạn
hai họ đã nhận ra rằng, muốn cho thương nghiệp, ngoại thương phát triển,
có lợi trong cạnh tranh thì phải phát triển sản xuất, giảm chi phí sản xuất.
Do đó có nhiều nước đã hướng vào phát triển công trường thủ công trong
lĩnh vực sản xuất hàng hoá xuất khẩu, tiêu biểu là Anh, Pháp và Nga,…..
Xa rời với cách lý giải bằng đạo lý và tôn giáo: Trong thời kỳ trung
cổ người ta lý giải tất cả mọi sự việc, hiện tượng trong xã hội bằng những
Nguyễn Cao Cường

9

Cao học 902


Lịch sử học thuyết kinh tế

Học viện ngân hàng

lời giáo huấn, luân lý và bằng những lời trích trong kinh thánh, nghĩa là
trên cơ sở duy tâm. Nhưng khi học thuyết kinh tế trọng thương ra đời với

những cương lĩnh, chính sách kinh tế để thúc đẩy sản xuất phát triển, nú đó
đoạn tuyệt hoàn toàn với cách lý giải bằng đạo lý và tôn giáo. Lần đầu tiên
trong lịch sử những người trọng thương đã xuất phát từ cơ sở kinh tế, từ
hiện thực của xã hội để lý giải các sự việc và các hiện tượng trong đời sống
kinh tế- xã hội.
Như vậy, trong điều kiện lịch sử vào cuối thế kỷ XVI, khi chế độ
phong kiến đang suy tàn và chủ nghĩa tư bản đang hình thành thì những
cương lĩnh, chính sách của học thuyết chủ nghĩa trọng thương là hoàn toàn
hiện thực và tiến bộ.
Tuy nhiên, chúng ta không nên đánh giá quá cao những thành tựu lý
luận của chủ nghĩa trọng thương vì bên cạnh đó chủ nghĩa trọng thương
còn nhiều hạn chế sau:
1.5.2. Hạn chế
Mới nghiên cứu trên lĩnh vực lưu thông: Quá trình sản xuất là quá
trình thống nhất giữa hai mặt: sản xuất và lưu thông, trong đó sản xuất giữ
vai trò quyết định. Song những người theo chủ nghĩa trọng thương chưa
thấy vai trò của sản xuất vì những khoản lợi nhuận khổng lồ do ngoại
thương đem lại đã làm át lợi nhuận do các công trường thủ công thu được.
Nên họ chỉ thấy vai trò của lưu thông, do đó chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu
trên lĩnh vực lưu thông. Đánh giá về chủ nghĩa trọng thương, C. Mác viết:
“Cụng trỡnh nghiên cứu lý luận đầu tiên về phương thức sản xuất hiện đạitức học thuyết trọng thương- nhất định phải xuất phát từ những hiện tượng
bề ngoài của quá trình lưu thông, khi những hiện tượng đó trở thành độc
lập trong sự vận động của tư bản thương nghiệp. Vì vậy, học thuyết đó chỉ
nắm cái vỏ bên ngoài của những hiện tượng. Cái đó một phần do tư bản
thương nghiệp là hình thái tồn tại tự do đầu tiên của tư bản nói chung,…
khoa học thực sự của nền kinh tế hiện đại, chỉ bắt đầu từ lúc mà việc
nghiên cứu lý luận chuyển từ quá trình lưu thông sang quá trình sản xuất”.
Thành tựu lý luận nhỏ bé, giản đơn: Do phương pháp luận thiếu
khoa học và do điều kiện lịch sử quy định, nên học thuyết chủ nghĩa trọng
thương mới đề cập đến một vài phạm trù kinh tế và chưa có khái niệm về

Nguyễn Cao Cường

10

Cao học 902


Lịch sử học thuyết kinh tế

Học viện ngân hàng

quy luật kinh tế. Những phạm trù kinh tế mà họ nêu ra cũng chỉ dừng lại ở
hình thức bên ngoài, chứ chưa đi vào phân tích nội dung bên trong, nên
chưa hiểu được bản chất của các phạm trù kinh tế đó.
Như vậy, những người theo chủ nghĩa trọng thương chưa đưa ra
được một hệ thống lý luận khoa học, về phương pháp luận chủ yếu dựa trên
cơ sở kinh nghiệm chủ nghĩa. Họ chỉ nghiên cứu hình thức bên ngoài, ở
lĩnh vực lưu thông chứ không đi vào nghiên cứu quá trình sản xuất để tìm
ra bản chất và nội dung bên trong của các phạm trù, các quy luật kinh tế.

Nguyễn Cao Cường

11

Cao học 902


Lịch sử học thuyết kinh tế

Học viện ngân hàng


PHẦN 2: Ý NGHĨA CỦA TƯ TƯỞNG KINH TẾ
CHỦ NGHĨA TRỌNG THƯƠNG ĐỐI VỚI SỰ
PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở
NƯỚC TA
2.1. Kinh tế thị trường và thực trạng KTTT ở Việt Nam
2.1.1. Kinh tế thị trường và các đặc trưng của nền KTTT
Kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hoá,
trong đó toàn bộ các yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” của sản xuất đều thông
qua thị trường, tức là gắn chặt chẽ với quan hệ hàng hoá - tiền tệ và quan
hệ cung cầu...
Trong nền kinh tế thị trường nét biểu hiện có tính chất bề mặt của
đời sống xã hội là quan hệ hàng hóa. Mọi hoạt động xã hội đều phải tính
đến quan hệ hàng hóa, hay ít nhất thì cũng phải sử dụng các quan hệ hàng
hóa như mắt khâu trung gian.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực chất là nền kinh
tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản
lý Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đặc trưng của nền kinh tế thị trường:
- Các chủ thể kinh tế được tự do liên kết, liên doanh, tự do tổ chức
quá trình sản xuất theo luật định và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh
doanh của mình.
- Hàng hoỏ trờn thị trường rất đa dạng.
- Các hoạt động mua bán trao đổi hàng hoỏ trờn thị trường được thực
hiện thông qua giá cả.
- Cạnh tranh là cơ sở tồn tại của kinh tế thị trường. Cạnh tranh kích
thích cải nhà sản xuất cải tiến kỹ thuật để nâng cao năng suất lao động cá
biệt, giảm hao phí lao động cá nhân để tăng lợi nhuận siêu ngạch.
- Kinh tế thị trường là hệ thống kinh tế mở.
Trong cơ chế thị trường, nhà nước tác động vào nền kinh tế không

bằng hệ thống pháp lệnh mà bằng một hệ thống công cụ và luật pháp như:
Nguyễn Cao Cường

12

Cao học 902


Lịch sử học thuyết kinh tế

Học viện ngân hàng

+ Kế hoạch hóa không phải là chỉ giao chỉ tiêu thực hiện mà còn là
điều phối sự thực hiện theo dự án. Kế hoạch hóa là công cụ duy nhất để
Chính phủ có thể chuyển tải nội dung đường lối, chính sách.
+ Quản lý kinh tế vĩ mô bằng pháp luật: Pháp luật có vai trò cực kỳ
quan trọng trong quản lý kinh tế, tạo ra hành lang an toàn cho các hoạt
động kinh tế từ việc xác lập quyền sở hữu tự liệu sản xuất, đến việc bỏ vốn
đầu tư sản xuất - kinh doanh và điều tiết thu nhập.
+ Hệ thống các chính sách và công cụ kinh tế: giúp Nhà nước có thể
điều khiển hoạt động của các doanh nghiệp, hướng dẫn các doanh nghiệp
hành động một cách phù hợp với lợi ích toàn xã hội.
Các đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam
Đại hội IX khẳng định: “Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện
nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa; đó là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa”.
- Mục tiêu hàng đầu của phát triển kinh tế thị trường ở nước ta là giải

phóng sức sản xuất, động viên mọi nguồn lực trong nước và ngoài nước để
thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật
của chủ nghĩa xã hội, nâng cao hiệu quả kinh tế- xã hội, cải thiện từng bước
đời sống nhân dân, tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã
hội, khuyến khích làm giàu hợp pháp, gắn liền với xoỏ đúi giảm nghèo.
- Nền kinh tế thị trường gồm nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo. Các thành phần kinh tế tồn tại một cách khách
quan và là những bộ phận cần thiết của nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội.
- Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực
hiện nhiều hình thức phân phối thu nhập, trong đó lấy phân phối theo lao
động là chủ yếu.
Nguyễn Cao Cường

13

Cao học 902


Lịch sử học thuyết kinh tế

Học viện ngân hàng

- Cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế thị trường có sự quản lý của
nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trong điều kiện ngày nay, hầu như tất cả các
nền kinh tế của các nước trên thế giới đều có sự quản lý của nhà nước để
sửa chữa một mức độ nào đó “những thất bại của thị trường”.

- Nền kinh


tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng là nền kinh tế mở, hội nhập.
Do sự tác động của cuộc cách mạng khoa học- công nghệ, đang diễn ra quá
trình quốc tế hoá đời sống kinh tế, sự phát triển của mỗi quốc gia trong sự
phụ thuộc lẫn nhau. Vì vậy, mở cửa kinh tế, hội nhập vào kinh tế khu vực
và thế giới là tất yếu với nước ta. Chỉ có như vậy mới thu hút được vốn, kỹ
thuật công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến của các nước để
khai thác tiềm năng và thế mạnh của nước ta, thực hiện phát huy nội lực,
tranh thủ ngoại lực để xây dựng và phát triển kinh tế thị trường hiện đại
theo kiểu rút ngắn.
2.1.2. Thực trạng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam:
a/ Nền kinh tế Việt Nam trước khi đổi mới: là nền kinh tế Kế hoạch hoá
tập trung, quan liêu bao cấp. Kinh tế kém phát triển, Sản xuất thua lỗ, đình
đốn; lạm phát, tham nhũng tăng nhanh, đời sống nhân dân khổ cực. Nguyên
nhân sâu xa là do sai lầm trong đường lối chính sách của Đảng:
- Phủ nhận sự tồn tại của nền kinh tế thị trường, cho rằng nền kinh tế
thị trường chỉ tồn tại trong chế độ TBCN và là sản phẩm riờng cú
trong chế độ TBCN.
- Tập trung phát triển công nghiệp nặng trong điều kiện kỹ thuật lạc
hậu, nguồn vốn nghèo nàn, trình độ dân trí thấp. Điều nay vi phạm quy luật
về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất.
- Việc quản lý nền kinh tế của Nhà nước lại sử dụng các công cụ hành
chính, mệnh lệnh theo, không động viên khuyến khích sự sáng tạo của
người dân lao động…
b/ Nền kinh tế Việt Nam sau đổi mới:
- Đại hội VI của đảng đã chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần và thực hiện chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế từ cơ chế kế hoạch hóa
tập trung sang cơ chế hạch toán kinh doanh XHCN. Sau hơn 20 năm đổi
mới, nền kinh tế nước ta đó cú những bước phát triển tột bậc: GDP tăng 3
lần trong gần 20 năm qua. Thu nhập bình quân đầu người từ 200 USD/năm
Nguyễn Cao Cường


14

Cao học 902


Lịch sử học thuyết kinh tế

Học viện ngân hàng

tăng lên gần 500 USD/năm, gấp 2,5 lần. Điều quan trọng là nền kinh tế
thực sự hoạt động theo tín hiệu của thị trường. Tỷ trọng nông nghiệp trong
các ngành kinh tế giảm xuống, nhưng những phân ngành theo nhu cầu của
thị trường được phát triển nhanh như đánh bắt và nuôi trồng thủy hải sản,
cây thực phẩm, cây công nghiệp... Công nghiệp và xây dựng, thương mại
và dịch vụ phát triển có tỷ trọng không ngừng tăng trong nền kinh tế. Riêng
xuất khẩu đến nay đã chiếm khoảng 50% GDP
Nền kinh tế Việt Nam có những bước phát triển nhanh và bền vững
là do Đảng và Nhà nước ta đã nhận thức đúng đắn về kinh tế thị trường,
nhìn nhận thẳng thắn sai lầm trong tư duy, phát huy sáng tạo cơ sở của
kinh tế thị trường TBCN, và điều quan trọng nhất là nhận ra và giải
quyết được mâu thuẫn trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
2.2. Ý nghĩa của tư tưởng kinh tế chủ nghĩa trọng thương đối với sự
phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam:
Tư tưởng kinh tế của chủ nghĩa trọng thương vẫn còn đúng đối với
thực tế nước ta bởi vì nền kinh tế nước ta hiện nay là nền kinh tế hàng hoá,
mở cửa và hội nhập với kinh tế thế giới, phải phát triển thương mại, đặc
biệt là ngoại thương để tiêu thụ hàng hoá nhằm thực hiện giá trị và giá trị
thặng dư trong hàng hóa để tích luỹ tiền tệ và để tranh thủ các nguồn lực từ
nước ngoài nhất là vốn và công nghệ tiên tiến của các nước đi trước góp

phần vào quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước, thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế, tăng thu nhập.
Việt Nam xuất phát từ nước kinh tế lạc hậu, chịu hậu quả nặng nề
của các cuộc chiến tranh nên thương mại nước ta không tăng (cả về nội
thương lẫn ngoại thương). Đó cú thời kỳ, do sai lầm trong tư duy, nhận
thức, Đảng, Nhà nước ta đã thực hiện chính sách đóng cửa nền kinh tế, mọi
hoạt động của nền kinh tế chỉ xoay vần trong biên giới nhỏ hẹp. Chính điều
này đã kìm hãm sự phát triển kinh tế của đất nước, làm cho kinh tế tụt hậu
quá xa so với thế giới. Chúng ta đã duy trì nền kinh tế chỉ huy theo cơ chế
tập trung quan liêu bao cấp, trong thời gian đầu mô hình kinh tế này phù
hợp tình hình Việt Nam nhưng dần dần nó kìm hãm sự phát triển kinh tế,

Nguyễn Cao Cường

15

Cao học 902


Lịch sử học thuyết kinh tế

Học viện ngân hàng

làm cho thương mại kém phát triển cả về nội thương và ngoại thương. Đến
đại hội Đảng lần thứ VI (năm 1986) nhà nước chuyển đổi cơ cấu kinh tế, từ
nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế hàng hoá vận động
theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã đưa ra đòi hỏi phải
tăng mạnh thương mại cả về nội thương lẫn ngoại thương. Tính đến nay,
sau hơn 20 năm đổi mới đất nước ta đã thu được nhiều thành tựu kinh tế
quan trọng, chứng tỏ quan điểm trọng thương cũn đỳng đắn đối với Việt

Nam trong tình hình hiện nay, phải có giao lưu với nước ngoài mới có điều
kiện sản xuất trong nước, tăng tích lũy vốn để đầu tư tái sản xuất. Trong
thời gian vừa qua, Chính phủ, đặc biệt có vai trò quan trọng của bộ thương
mại, và các phương tiện thông tin đại chúng đã tạo ra một làn sóng thông
tin tích cực và đa chiều nâng cao nhận thức của cộng đồng về WTO, về
thương mại. Tuy nhiên, bên cạnh những biểu hiện tích cực ban đầu đó còn
tồn tại rất nhiều hành động đi ngược với tư duy đúng, gây cản trở cho
thương mại. Chính sách ưu tiên phát triển thương mại trong nước chưa
được đi vào thực tế. Nhiều địa phương vì chạy theo thành tích thu hút đầu
tư, đã ưu tiên các địa điểm kinh doanh đẹp cho các dự án thương mại nước
ngoài, thay vì phải ưu tiên cho trong nước. Nâng cấp các cửa hàng tạp hóa
lờn cỏc hình thức bán lẻ hiện đại hơn là một việc làm sống còn, cần được
khuyến khích, nhưng trên thực tế các cửa hàng dạng này ngay lập tức phải
chịu áp một mức thuế cao hơn. Xét về tổng thể, ngành thương mại vô cùng
lẻ loi, không được sự phối hợp, giúp sức, cộng hưởng hiệu quả từ các
ngành văn hóa, ngoại giao, giáo dục và đào tạo, khoa học, nghệ thuật.
Những biểu hiện thiếu nhất quán như trên còn tồn tại rất nhiều.
Cần thống nhất tư duy mới về thương mại để hoạch định nên chiến
lược cho thương mại nội địa và thương mại quốc tế, cũng như mô hình và
các nguồn lực để thực thi. Với thương mại nội địa, trước sức ép ngày càng
lớn của sự cạnh tranh, chúng ta phải đề ra những giải pháp để ổn định hệ
thống trong nước trước sự tấn công của hàng hoỏ cỏc nước trên thế giới.
Dù theo lộ trình cam kết, Việt Nam vẫn còn một khoảng thời gian cho đến
thời điểm mở cửa hoàn toàn ngành bán lẻ, nhưng với thực trạng yếu kém,
manh mún, phân tán (đối với bán lẻ truyền thống) và thiếu tính công nghệ,

Nguyễn Cao Cường

16


Cao học 902


Lịch sử học thuyết kinh tế

Học viện ngân hàng

thiếu kinh nghiệm (đối với bán lẻ hiện đại) như hiện nay, nếu chúng ta
không đoàn kết và quyết liệt thực thi những giải pháp chuyển đổi, nâng
cấp hệ thống hiện tại thì chắc chắn chúng ta không thể cạnh tranh được với
ngành thương mại .
Cần ưu tiên cho thương mại quốc tế với tư tưởng "lấy công làm
thủ", bởi chiến thắng trong cạnh tranh của sân chơi WTO dành cho những
ai có thể khai thác nhiều thị trường hơn trong tổng thể thị trường thế giới.
Chúng ta phải trăn trở với tình trạng "càng xuất khẩu càng thua thiệt" như
đại đa số các hàng hóa của chúng ta hiện nay, đặc biệt là các hàng hóa
nông sản, khoáng sản. Chúng ta phải tạm thời chấp nhận nghịch lý này vì
nền kinh tế có điểm xuất phát thấp khi bước vào cạnh tranh, nhưng phải
nhanh chóng và kiên quyết thay đổi, tham gia vào các phân khúc tạo giá
trị gia tăng cao hơn nếu chúng ta không muốn mãi mãi bị tụt hậu so với
thế giới.
Tóm lại, phát triển thương nghiệp, đặc biệt là tăng khả năng cạnh
tranh trên thị trường thế giới đối với hàng hoá sản xuất trong nước là điều
kiện tiên quyết để từng bước tích luỹ vốn, tạo tiền đề vững chắc để thực
hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên trong quá trình
xây dựng và phát triển ngành thương nghiệp, đặc biệt là ngoại thương, cần
phải hoạt động trên cơ sở củng cố vững chắc những điều kiện hiện có của
đất nước, chú trọng phát triển các ngành có khả năng xuất khẩu cao và có
nhiều lợi thế tuyệt đối nhằm thu hút được nhiều vốn nhất nhưng vẫn phải
đảm bảo công bằng, bình đẳng trong cạnh tranh, theo thông lệ quốc tế.

Cuối cùng, cần đổi mới việc xúc tiến thương mại, có tầm nhìn và
hiệu quả, không bao cấp, không hoạt động đơn lẻ. Hợp tác với các đối tác
hàng đầu trên thế giới là cần thiết, nhưng luôn phải giữ vững thế tự chủ để
tránh bị kiểm soát và bị thôn tính.
Tóm lại: Trong điều kiện toàn cầu hoá, khu vực hoá kinh tế hiện
nay, việc phát triển thương mại (nội thương và ngoại thương) là rất cần
thiết đối với các nước nói chung, đặc biệt là ở một nước kém phát triển như
nước ta nói riêng. Nó không chỉ là phương thức để phát huy lợi thế của nền

Nguyễn Cao Cường

17

Cao học 902


Lịch sử học thuyết kinh tế

Học viện ngân hàng

kinh tế, mà còn là cầu nối giữa các nguồn lực trong và ngoài nước, tạo điều
kiện cho sự phát triển nhanh nền kinh tế của mỗi quốc gia. Tuy nhiên,
thương mại không phải là con đường làm giàu duy nhất, do đó việc tuyệt
đối hoá vai trò của thương mại sẽ dẫn đến những sai lầm trong đường lối
phát triển.

Nguyễn Cao Cường

18


Cao học 902


Lịch sử học thuyết kinh tế

Học viện ngân hàng

KẾT LUẬN
Trong điều kiện nước ta hiện nay, những tư tưởng kinh tế của chủ
nghĩa trọng thương vẫn còn có ý nghĩa, điều này được thể hiện rõ nét trong
việc chú trọng phát triển thương nghiệp (bao gồm nội thương và ngoại
thương) nhằm tạo tiềm lực về vốn cho quá trình công nghiệp hoá - hiện đại
hóa đất nước, xây dựng thành công nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Tuy vậy, việc vận dụng tư tưởng kinh tế của chủ nghĩa trọng thương
phải được kết hợp chặt chẽ với các chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước
nhằm đảm bảo cho sự phát triển ổn định của nền kinh tế đất nước.

Nguyễn Cao Cường

19

Cao học 902


Lịch sử học thuyết kinh tế

Học viện ngân hàng

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình kinh tế chính trị Mỏc- Lờnin- NXB Chính Trị Quốc Gia- Hà
Nội 2002
2. Giáo trình Lịch sử học thuyết kinh tế- NXB Thống Kê- Hà Nội 2003
3. Lịch sử các học thuyết kinh tế- NXB Chính Trị Quốc Gia- Hà Nội 2004
4. Tìm hiểu môn học Lịch sử học thuyết kinh tế- NXB Lý luận chính trịHà Nội 2006
5. Http://www.kinhtehoc.com
6. Http://vnexpress.net
7. Http://dictionary.bachkhoatoanthu.gov.vn
8. Http://www.moet.gov.vn

TƯ TƯỞNG KINH TẾ CỦA CHỦ NGHĨA TRỌNG THƯƠNG - Ý NGHĨA
ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở NƯỚC TA

Nguyễn Cao Cường

20

Cao học 902



×