Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Tình hình lạm phát của việt nam nguyên nhân và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (276.46 KB, 18 trang )

GV Trần Thị Bích Dung

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH
KHOA KINH TẾ PHÁT TRIỂN

Môn học :Kinh Tế Vĩ Mô II

Đề tài: LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY


GVHD: GV Trần Thị Bích Dung
Nhóm SVTH: Nhóm 1
1.Trần Thị Ánh Duyên NL01
2.Trần Thị Thanh Hậu NL02
3.Hồng Sơn Niê NL02
4. Hoàng Phú Tân NL02
5. Nguyễn Anh Vũ NL01
6. Bùi Thi Mỹ Vy NL02

Tp HCM,ngày 29 tháng 2 năm 2012

1


GV Trần Thị Bích Dung
Mục Lục .............................................................................................2
Lời nói đầu..........................................................................................3
I. Cơ Sở Lý Thuyết và Khái Niệm Liên Quan..................................4
1 Định nghĩa và phân loại lạm phát......................................................4
1.1 Định Nghĩa....................................................................................4
1.2 Phân loại lạm phát.........................................................................4


2 Biểu hiện và diễn biến của lạm phát..................................................4
II. Thực Trạng Lạm Phát Ở Việt Nam.............................................6
III. Nguyên Nhân Gây ra Lạm Phát.................................................9
IV. Tác Động Của Lạm Phát Đến Nền Kinh Tế.............................13
V. Giải Pháp Kiềm Chế Lạm Phát.................................................15

2


GV Trần Thị Bích Dung

LỜI NÓI ĐẦU
Ngày nay lạm phát là một trong những vấn đề nhức nhối của nước ta nói
riêng và toàn thế giới nói chung. Nó đã trở thành mối quan tâm lớn của các
nhà chính trị và công chúng. Trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của các
quốc gia trên thế giới và ở Việt Nam, lạm phát nổi lên là một vấn đề đáng
quan tâm về vai trò của nó đối với sự nghiệp phát triển kinh tế. Càng ngày
cùng với sự phát triển đa dạng và phong phú của nền kinh tế, và nguyên nhân
của lạm phát cũng ngày càng phức tạp. Lạm phát ảnh hưởng không nhỏ tới
nền kinh tế Việt Nam đặc biệt trong bối cảnh nước ta đang trong quá trình hội
nhập và phát triển kinh tế hiện nay. Nhất là cho đến thời điểm này giá cả các
mặt hàng thiết yếu trong và ngoài nước diễn ra rất phức tạp. Giá hầu hết các
mặt hàng nhập khẩu thiết yếu như: xăng dầu, sắt thép, chất dẻo, phân bón…
đều tăng. Đặc biệt trong thời gian gần đây khi giá vàng trong ngoài nước, tỷ
giá ngoại hối đột ngột tăng cao.
Hiện nay vấn đề lạm phát đã được nhiều người quan tâm, nghiên cứu và
đề xuất các phương án khắc phục. Đã từ lâu tiền giấy xuất hiện và chẳng bao
lâu sau đó diễn ra tình trạng giảm giá tiền và dẫn đến lạm phát. Nét đặc trưng
nổi bật của thực trạng nền kinh tế khi có lạm phát, giá cả của hầu hết các hàng
hoá đều tăng cao và sức mua của đồng tiền ngày càng giảm nhanh.

Mỗi giai đoạn khi lạm phát xuất hiện với hình thức và dáng vẻ khác
nhau thì lại có nhiều câu hỏi tranh luận được đặt ra: bản chất của lạm phát là
gì? Các hình thức biểu hiện biểu hiện của nó ra sao? Nó có tác động nghiêm
trọng như thế nào đối với nền kinh tế? Thực trạng về vấn đề lạm phát ở Việt
Nam hiện nay đang diễn biến như nào? Chúng ta cần phải làm gì để điều tiết
nền kinh tế và kiềm chế lạm phát…? Vì thế lạm phát là một vấn đề kinh tế vĩ
mô mà nhóm chúng em thảo luận và nghiên cứu cho bài tiểu luận của nhóm.

3


GV Trần Thị Bích Dung
I. Cơ Sở Lý Thuyết vá Khái Niệm Liên Quan.
1/ Định nghĩa và phân loại lạm phát
1.1/ Định nghĩa
Lạm phát là hiện tượng tiền trong lưu thông vượt quá nhu cầu cần thiết
làm cho chúng bị mất giá, giá cả của hầu hêt các loại hàng hoá tăng lên đồng
loạt.
Để tính mức độ lạm phát các nhà kinh tế sử dụng chỉ số giá. Chỉ số giá
thường được sử dụng là chỉ số giá tiêu dùng (CPI). Ngoài ra, người ta còn sử
dụng những chỉ số giá khác như: chỉ số giá cả sản xuất, chỉ số giảm lạm phát
GNP.
1.2/ Phân loại lạm phát.
Có nhiều cách để phân loại lạm phát nhưng hum nay muốn nói đền 3
loại mà mình hay gặp và nghe đến nhiều nhất.
a) Lạm phát vừa phải: còn gọi là lạm phát một con số,có tỷ lệ lạm phát
dưới 10% một năm.
b) Lạm phát phi mã: lạm phát xảy ra khi giá cả tăng tương đối nhanh với
tỷ lệ 2 hoặc 3 con số một năm.
c) Siêu lạm phát: xảy ra khi lạm phát đột biến tăng lên với tốc độ cao

vượt xa lạm phát phi mãm siêu lạm phát kéo dài trên một năm với tỷ lệ lạm
phát trên 200%
2/ Biểu hiện và diễn biến của lạm phát
Biểu hiện của lạm phát là tiền giấy bị mất giá, giá cả hàng hóa tăng.
Lúc đầu giá vàng tăng, sau đó lan rộng ra đối với giá cả các hàng hóa
khác, nhưng giá cả các loại hàng hóa tăng không giống nhau. Đối với hàng tư
liệu tiêu dùng thiết yếu (lương thực, thực phẩm, hàng may mặc), giá cả tăng
cao so với các hàng tiêu dùng khác. Đối với tư liệu sản xuất thì giá cả tăng
nhanh nhất lsf những vật tư nguyên liệu quan trọng (sắt, thép, kim loại…)
Giá cả hàng hóa tăng lên làm cho đời sống người lao động ngày càng
khó khăn, vì vậy cơ cấu tiêu dùng của người lao động sẽ bị thay đổi theo
chiều hướng giảm tiêu dùng xa xỉ, lâu dài, tập trung cho tiêu dùng trước mắt.
Điều đó khiến cho chỉ số lạm phát của từng nhóm mặt hàng có thể không
giống nha, thậm chí có những mặt hàng giảm giá, nhưng chỉ số giá chung thì
vẫn tăng. Ngoài những biểu hiện nói trên, lạm phát còn biểu hiện là tỷ giá
4


GV Trần Thị Bích Dung
ngoại tệ tăng liên tục, tức là tiền trong nước bị giảm giá còn ngoại tệ thì tăng
giá.
Thông thường trong nước có lạm phát, tiền giấy bị mất giá so với vàng,
giá vàng trong nước tăng thì nó cũng sẽ làm tỷ giá ngoại tệ tăng. Điều này đối
với nước có lạm phát cũng có lợi thế là có thể đẩy mạnh được xuất khẩu hàng
hóa.
Cần chý ý là vì biểu hiện trực tiếp của lạm phát là sự tăng liên tục của
giá cả hàng hóa, nên người ta thường đồng nhất lạm phát và tăng giá, và vì
vậy người ta lấy chỉ số tăng gủa giá cả hàng hóa (nói chung) làm chỉ số lạm
phát. Thực ra chỉ số lạm phát và chỉ số tăng giá không hoàn toàn giống nhau.
Nói cách khác tỷ lệ tăng tiền (tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ hay tố độ tăng tiền) và

tỷ lệ mất giá của tiền giấy(chỉ số tăng giá-tỷ lệ lạm phát) không phải là hai
khái niệm đồng nhất.
Tại Việt Nam, từ năm 1990 trở về trước, tỷ lệ tăng giá (lạm phát) cao
hơn tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ, chứng tỏ lạm phát rất nghiêm trọng.
Từ sự phân biệt nói trên người ta đánh giá tình trạng của lạm phát qua
việc so sánh hai chỉ tiêu là tỷ lệ tăng giá (tỷ lệ lạm phát) và tỷ lệ tăng trưởng
tiền tệ. Từ đó cho rằng lạm phát diễn biến qua hai giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhất: ở giai đoạn này tỷ lệ lạm phát (tỷ lệ tăng giá) nhỏ
hơn tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ, nói cách khác tốc độ mất giá của tiền giấy chậm
hơn tốc độ tăng tiền. Tình trạng này xảy ra ở Mỹ từ năm 1982 đến nay, còn ở
Việt Nam, bắt đầu từ năm 1991 tỷ lệ tăng giá thấp hơn tỷ lệ tăng tiền.
Theo các nhà nghiên cứu khi tỷ lệ lạm phát (tăng giá) nhỏ hơn tỷ lệ tăng
tiền thì có nghĩa là lạm phát đang ở trong tình trạng có thể chấp nhận được và
thậm chí người ta còn cho rằng với điều kiện đó lại là liều thuốc thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế.
Giai đoạn thứ hai: đấy là bước phát triển nguy hiểm hơn của lạm phát.
Tỷ lệ lạm phát (tăng giá) cao hơn tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ, nói cách khác tốc
độ mất giá tiền giấy lớn hơn, nhanh hơn tốc độ tăng tiền. tình trạng này xảy ra
ở Việt Nam từ năm 1990 trử về trước. Tại Mỹ từ năm 1971 đến năm 1981 đã
xảy ra tình trạng này.
Khi tố độ tăng giá lớn hơn tốc độ tăng tiền nghĩa là tiền tăng thêm ít mà
giá cả tăng lên tì nhiều. Trong trường hợp này, lạm phát không còn là hiện
tượng của tiền tệ nữa, và vì vậy chứng tỏ một tình trạng nguy hiểm và bi đát
của nền kinh tế tài chính.Lạm phát như vậy là lạm phát nguy hiểm và trầm
trọng vô cùng. Ở đó, người ta thấy sự mất giá của tiền giấy diễn ra nhanh
chóng như một cổ xe xuống dốc mất thắng.
5


GV Trần Thị Bích Dung

Đánh giá mức độ lạm phát bằng cách so sánh nó với tỷ lệ tăng trưởng
tiền tệ mới thấy tình trạng nguy hiểm và hiệu ứng của nó đối với nền kinh tế
xã hội.
II. Thực Trạng Lạm Phát Ở Việt Nam.
Nhìn chung, lạm phát ở nước ta từ năm 2004 đến nay luôn ở mức khá
cao. Từ năm 2007 đến nay, lạm phát luôn cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm giai đoạn 2006-2010 khoảng
7,1%, trong khi đó lạm phát bình quân hàng năm khoảng gần 11%.
Mức lạm phát nói trên ở nước ta cũng cao hơn nhiều so với lạm phát của
các nước trong khu vực. Ví dụ, lạm phát bình quân hàng năm ở Trung Quốc
giai đoạn 2006-2009 khoảng 3%, ở Indonesia khoảng 8,4%, Thái Lan khoảng
3,1%, Malaysia khoảng 2,7% và Philipine khoảng 5,8%,v.v… Bốn tháng đầu
năm 2011, lạm phát ở nước ta vẫn ở mức cao và diễn biến phức tạp.
Lạm phát cuối tháng 4 năm 2011 so với tháng 12 năm 2010 đã tăng 9,64%;
tăng 17,51% so với tháng 4 năm 2010; lạm phát 4 tháng đầu năm 2011 so với
cùng kỹ năm 2010 đã tăng 13,95%.

Bảng: chỉ số giá tiêu dùng tháng 12/2011 của cả nước

6


GV Trần Thị Bích Dung
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 10/2011 tăng
0,36% so với tháng trước, trong đó nhóm giáo
dục tăng cao nhất với 3,2%; thiết bị và đồ dùng
gia đình tăng 0,73%; may mặc, mũ nón, giày dép
tăng 0,63%; đồ uống và thuốc lá tăng 0,49%;
thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,45%. Các nhóm
hàng hoá và dịch vụ còn lại tăng nhẹ hoặc giảm

so với tháng trước gồm: Nhóm văn hóa, giải trí
và du lịch tăng 0,3%; hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,06% (Lương thực tăng
1,27%; thực phẩm giảm 0,49%); bưu chính viễn thông giảm 0,17%; giao thông
giảm 0,13%; nhà ở và vật liệu xây dựng giảm 0,03%.
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 10/2011 tăng 17,05% so với tháng 12/2010 và
tăng 21,59% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân mười
tháng năm 2011 tăng 18,5% so với bình quân cùng kỳ năm 2010.
So với Báo cáo Triển vọng phát triển châu Á được công bố hồi tháng
4,Ngân Hàng phát triên Châu Á (ADB) không thay đổi nhận định về tăng
trưởng của Việt Nam trong ngắn hạn. Theo đó, tốc độ tăng GDP năm 2011
vẫn ở mức 6,1% (giảm so với mức 7% đưa ra vào cuối năm 2010) và sẽ đạt
khoảng 6,7% trong năm 2012.

Diễn biến lạm phát (tính theo năm) tại Việt Nam kể từ năm 2007.
7


GV Trần Thị Bích Dung
Nguồn: ADB
Theo ADB, việc kinh tế Việt Nam tăng trưởng chậm lại chủ yếu là do
Chính phủ phải áp dụng chính sách thắt chặt tiền tệ và cắt giảm chi tiêu công
nhằm kiểm soát lạm phát. Điều này là dễ hiểu khi mặt bằng giá vào thời điểm
kết thúc tháng 6/2011 đã cao hơn tới 20,8% so với cùng kỳ. Đây là mức lạm
phát cao nhất trong 14 nền kinh tế Đông Á mà ADB tiến hành khảo sát và cao
gấp đôi so với nước xếp ở vị trí thứ 2 là Lào.

Tiền đồng có mức giảm giá mạnh nhất trong khu vực kể từ tháng 3/2011. Nguồn: ADB

Lạm phát cao và bất ổn kinh tế vĩ mô là bất lợi lớn đối với khuyến khích
và thu hút đầu tư; làm cho môi trường kinh doanh ở nước ta kém cạnh tranh

hơn so với các nước khác. Lạm phát cao, biến động liên tục đã làm gia tăng
chi phí sản xuất, giảm lợi nhuận; làm cho các kế hoạch đầu tư trung và dài
hạn trở nên rủi ro hơn và không dự tính được một cách chắc chắn. Hệ quả là,
các doanh nghiệp nói chung không những phải cắt giảm đầu tư phát triển, mà
có thể phải cắt giảm cả quy mô sản xuất hiện hành để đối phó với lạm phát
cao.
Thực tế cho thấy, lượng vốn FDI đăng ký bốn tháng đầu năm nay chỉ
bằng 52% của cùng kỳ năm ngoái. Lần đầu tiên trong hơn 10 năm qua, số
doanh nghiệp đăng ký mới và số vốn đăng ký đã giảm xuống, chỉ bằng
khoảng 75% của cùng kỳ năm ngoái. Điều tra của Hiệp hội doanh nghiệp
châu Âu cũng cho thấy chỉ số lạc quan kinh doanh của các doanh nghiệp
8


GV Trần Thị Bích Dung
thành viên ở Việt Nam trong quý I/2011 đã giảm đáng kể. Lạm phát cao
(nhưng tiền lương và thu nhập bằng tiền khác của người lao động không tăng
lên tương ứng) đã làm cho thu nhập thực tế của họ giảm xuống. Ví dụ, trong
hai năm qua, lạm phát đã làm cho thu nhập thực tế của người lao động mất
hơn 20%; từ đó, đời sống của đa số dân cư đã trở nên khó khăn hơn nhiều so
với trước đây. Lạm phát cao làm giảm giá trị thực của đồng tiền nội tệ, làm
xói mòn giá trị số tiền tiết kiệm của dân chúng; làm giảm lòng tin và mức độ
ưa chuộng của người dân trong việc nắm giữ và sử dụng đồng nội tệ. Điều đó
vừa gây áp lực thêm đối với lạm phát, bất ổn kinh tế vĩ mô trước mắt, vừa làm
xói mòn nền tảng phát triển lâu dài trong trung và dài hạn.
III. Nguyên nhân gây ra lạm phát:
Về mặt lý thuyết lạm phát có thể do các nhóm nguyên nhân:
Lạm phát do chính sách: thường xảy ra do những biện pháp tiền tệ mở
rộng, phản ánh thâm hụt thu chi ngân sách lớn và việc tài trợ thâm hụt bằng
tiền tệ, thường là cội rễ của lạm phát cao. Một ví dụ kinh điển đó là những

trận siêu lạm phát ở Áo và Đức những năm 20 do mở rộng tiền tệ thái quá.
Lạm phát do chi phí đẩy: xảy ra do tăng chi phí và có thể phát triển ngay
cả khi thất nghiệp và việc sử dụng nguồn lực còn thấp. Vì tiền lương ( tiền
công ) thường là chi phí sản xuất quan trọng nhất, sự gia tăng tiền lương
không phù hợp với tăng trưởng năng suất có thể khơi mào cho quá trình lạm
phát. Nhưng lạm phát do chi phí đẩy có thể không dai dẳng nếu chính sách
tiền tệ tác động vào, trong trường hợp đó, tiền lương tăng dẫn tới thất nghiệp
cao hơn thay vì lạm phát cao hơn.
Lạm phát do cầu kéo: xảy ra do tổng cầu vượt trội đẩy mức giá chung
lên cao. Sự thúc đẩy của cầu có thể xuất phát từ những cú sốc bên trong hay
bên ngoài nhưng thường hình thành từ những chính sách thu chi ngân sách
hay tiền tệ mở rộng.
Lạm phát trơ ì (lạm phát quán tính): có xu hướng dai dẳng ở cùng tỷ lệ
cho đến khi những sự kiện kinh tế gây ra nó thay đổi. Nếu lạm phát cứ đều
đặn, tỷ lệ lạm phát thịnh hành có thể được dự đoán và do đó được đưa vào các
hợp đồng tiền lương và tài chính, điều này lại tiếp tục duy trì nó. Tỷ lệ lạm
phát quán tính đôi khi ngụ ý lạm phát cơ bản hay cốt lõi.
Lạm phát do cơ cấu: ngành kinh doanh có hiệu quả tăng tiền công danh
nghĩa cho người lao động. Ngành kinh doanh không hiệu quả, vì thế, không
thể không tăng tiền công cho người lao động trong ngành mình. Nhưng để
9


GV Trần Thị Bích Dung
đảm bảo mức lợi nhuận, ngành kinh doanh kém hiệu quả sẽ tăng giá thành sản
phẩm. Lạm phát nảy sinh từ đó.
Lạm phát do cầu thay đổi: giả dụ lượng cầu về một mặt hàng giảm đi,
trong khi lượng cầu về một mặt hàng khác lại tăng lên. Nếu thị trường có
người cung cấp độc quyền và giá cả có tính chất cứng nhắc phía dưới (chỉ có
thể tăng mà không thể giảm), thì mặt hàng mà lượng cầu giảm vẫn không

giảm giá. Trong khi đó mặt hàng có lượng cầu tăng thì lại tăng giá. Kết quả là
mức giá chung tăng lên, dẫn đến lạmphát.
Lạm phát do xuất khẩu: xuất khẩu tăng dẫn tới tổng cầu tăng cao hơn
tổng cung, hoặc sản phẩm được huy động cho xuất khẩu khiến lượng cung
sản phẩm cho thị trường trong nước giảm khiến tổng cung thấp hơn tổng cầu.
Lạm phát nảy sinh do tổng cung và tổng cầu mất cân bằng.
Lạm phát do nhập khẩu : khi giá hàng hoá nhập khẩu tăng thì giá bán sản
phẩm đó trong nước cũng tăng. Lạm phát hình thành khi mức giá chung bị giá
nhập khẩu đội lên.
Nói chung nguyên nhân chủ yếu của lạm phát bao gồm những yếu tố
tác động đến hai vế của quan hệ cân đối cung cầu, tức là các yếu tố tác động
đến tổng cung, đến hàng và các yếu tố tác động đến tổng cầu, đến tiền.
Xét theo các mặt này, thì các nguyên nhân của lạm phát thời gian qua
bao gồm các yếu tố sau:
1. Xét tổng quát là sản xuất trong nước chưa đủ cho đầu tư và tiêu dùng
cuối cùng, hay đầu tư và tiêu dùng vượt qua sản xuất lên đến trên dưới 10%
hàng năm, phải nhập siêu, phải vay nợ từ nước ngoài để bù đắp.
Khi tổng cầu vượt quá tổng cung thì Việt Nam không chỉ ở vị thế nhập
siêu, mà còn rất dễ rơi vào lạm phát cao, nếu có sự bất ổn ở bên ngoài (khủng
hoảng, lạm phát...) và có trục trặc ở bên trong (thiên tai, dịch bệnh, bất ổn vĩ
mô...).
Vốn đầu tư/GDP gia tăng từ 34,9% trong thời kỳ 1996-2000 lên 39,1%
trong thời kỳ 2001-2005 và lên 43,5% trong thời kỳ 2006-2010. Tiêu dùng
cuối cùng/GDP của Việt Nam đã tăng tương ứng từ 71,1% thời kỳ 2001-2005
lên 72,2% thời kỳ 2006-2010.
Tiêu dùng cuối cùng/GDP của Việt Nam cao và tăng lên, có một phần do
quy mô GDP bình quân đầu người thấp, có một phần do tiêu dùng có xu
hướng tăng lên; nhưng có một phần do đã xuất hiện tình trạng “ăn chơi sớm”
và chuộng hàng ngoại của một bộ phận dân cư.
10



GV Trần Thị Bích Dung
Trong tình trạng thiếu hụt nguồn cung, phải nhập khẩu từ nước ngoài,
trong đó đáng lưu ý có các mặt hàng mà một nước đi lên từ nông nghiệp phải
nhập khẩu lớn như thủy sản, sữa và sản phẩm sữa, rau quả, ngô, dầu mỡ động
thực vật, thức ăn gia súc và nguyên phụ liệu, cao su, gỗ và nguyên phụ liệu,
đường, thịt; mà một nước có bờ biển dài nhưng phải nhập muối; một nước có
tỷ lệ xuất khẩu/GDP cao, nhưng do tính gia công, lắp ráp cao mà nhập khẩu
nguyên phụ liệu lớn, như nguyên phụ liệu dệt may, giày dép, chất dẻo nguyên
liệu, máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện; một số loại hàng tiêu dùng có
kim ngạch lớn, như điện thoại các loại và linh kiện, ô tô nguyên chiếc, xe máy
nguyên chiếc, hóa mỹ phẩm... lên đến mấy tỷ USD.
2. Nguyên nhân tiềm ẩn, sâu xa của lạm phát là hiệu quả đầu tư và năng
suất lao động thấp. Hiệu quả đầu tư thấp thể hiện ở hệ số ICOR cao và tăng
lên qua các thời kỳ (thời kỳ 1996-2000 là 5 lần, thời kỳ 2001-2005 lên 5,2
lần, thời kỳ 2006-2010 lên 6,2 lần, cao gấp đôi nhiều nước trong khu vực).
Tỷ trọng đầu tư công trong tổng đầu tư của Việt Nam từ năm 2003 trở về
trước ở mức trên dưới 57%, từ 2004 đã giảm xuống nhưng vẫn ở mức trên
dưới 40%, trong khi ICOR của khu vực này cao gấp rưỡi hệ số chung của cả
nước.
3. Tổng thu ngân sách/GDP của Việt Nam thuộc loại khá cao (mấy năm
nay đạt trên dưới 28%), nhưng thu từ dầu thô, từ hải quan, thu từ đất đai là
những khoản không trực tiếp phản ánh hiệu quả kinh tế và có xu hướng giảm
(thu từ dầu thô năm 2005 chiếm 29,2%, 6 tháng đầu năm 2011 chiếm 13,9%;
thu từ hải quan, tương ứng chiếm 16,7% và 22,5%; thu từ đất đai chiếm
khoảng 6-7%).
Bội chi ngân sách/GDP từ năm 2006 trở về trước ở mức thấp, nhưng từ
năm 2007 đến nay ở mức cao, tuy đã có xu hướng giảm xuống trong vài năm
nay, nhưng vẫn thuộc loại cao. Trong tổng chi ngân sách, tỷ trọng chi cho đầu

tư, chi cho lĩnh vực xã hội là cần thiết, nhưng thuộc loại cao, nhất là chi cho
đầu tư công-thể hiện Nhà nước còn “ôm” nhiều quá mà cần khuyến khích các
nguồn lực xã hội.
4. Tiền tệ là nguyên nhân trực tiếp và bộc lộ ra cuối cùng của lạm phát.
Tốc độ tăng dư nợ tín dụng cao gấp nhiều lần tốc độ tăng GDP.
5. Tình trạng vàng hóa và Đô la hóa khá cao, tác động tiêu cực đối với
lạm phát trên 4 mặt.

11


GV Trần Thị Bích Dung
- Hút vào đây một lượng vốn lớn của xã hội mà không được đầu tư trực
tiếp cho sản xuất kinh doanh tạo ra sản phẩm để cân đối với tiền.
- Vàng và USD trở thành phương tiện thanh toán, làm cho tổng phương
tiện thanh toán tăng lên.
- Giá vàng trong nước biến động, nhiều lần cao hơn giá vàng thế giới, tác
động tới nhập lậu, kéo tỷ giá biến động theo. Khi giá vàng và tỷ giá tăng cao
lại tác động đến tâm lý, đến lòng tin vào đồng nội tệ...
- Tỷ giá tăng tuy khuyến khích xuất khẩu, nhưng lại làm khuyếch đại
lạm phát ở trong nước và đây là yếu tố lạm cho lạm phát của Việt Nam cao
hơn lạm phát của thế giới; làm tăng nợ quốc gia khi tính bằng VND.
6. Việc thực hiện lộ trình giá thị trường khi chuyển sang kinh tế thị
trường là tất yếu, đúng hướng, là một nội dung quan trọng của đường lối đổi
mới. Tuy nhiên, kết quả của việc thực hiện lộ trình này nếu thực hiện dồn dập
cùng một lúc sẽ tạo ra mặt bằng giá mới cao hơn.
7. Giá cả thế giới tăng là một trong những yếu tố quan trọng tác động đối
với lạm phát ở trong nước xét trên các góc độ khác nhau.
8. Ngoài ra, cũng cần tính đến sự chuyển động của dòng tiền giữa các
kênh đầu tư. Từ quý II/2007, thị trường chứng khoán sau khi lên đỉnh đã đao

xuống mạnh, làm cho một lượng tiền lớn từ kênh này chuyển sang làm cho
giá bất động sản bốc lên và giá tiêu dùng tăng cao vào cuối năm 2007, đạt
đỉnh điểm vào năm 2008.
Giá vàng, giá bất động sản tăng cao vào năm 2009, đầu năm 2010 cũng
đã hút một lượng tiền lớn vào đây, nên CPI cũng tăng chậm lại. Từ cuối 2010,
chứng khoán và bất động sản đều giảm, góp phần làm cho sức ép tăng giá tiêu
dùng cao lên. Sự chuyển động của dòng tiền giữa các kênh cũng góp phần tạo
lên sự cộng hưởng và chia sẻ dòng tiền với thị trường tiêu dùng.
Tóm lại nguyên nhân sâu xa, bao trùm và cơ bản nhất của thực trạng lạm
phát hiện nay bắt nguồn từ mô hình tăng trưởng và cách thức mà chúng ta sử
dụng để đạt được mục đích tăng trưởng. Tăng trưởng của chúng ta cho đến
nay chủ yếu vẫn dựa vào mở rộng đầu tư, nhưng đầu tư nhìn chung lại kém
hiệu quả, nhất là đầu tư nhà nước. Tổng đầu tư xã hội nhiều năm liền luôn ở
mức cao từ 40-42% GDP; hệ số sinh lời từ đồng vốn đầu tư (viết tắt là ICOR)
cao và đang có xu hướng gia tăng. Trong giai đoạn 2006-2010 hệ số này của
khu vực nhà nước là 10,2, của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là 9,7, và
của khu vực tư nhân trong nước là 5(1). Đóng góp của yếu tố vốn vào tăng
12


GV Trần Thị Bích Dung
trưởng trong giai đoạn nói trên chiếm khoảng 65%; các yếu tố khác như đổi
mới công nghệ, tri thức và kỹ năng, phương thức tổ chức quản lý,… góp phần
chưa đáng kể. Do đó, cái giá hay phí tổn phải trả cho một đơn vị tăng trưởng
là rất lớn và có xu hướng tăng thêm. Tuy mô hình và cách thức tăng trưởng đã
tới hạn nhưng chúng ta vẫn dựa vào đó để đạt được mục tiêu tăng trưởng, do
đó về ngắn hạn thì cách chủ yếu để đạt tăng trưởng đó là mở rộng đầu tư. Do
đó, tốc độ tăng trưởng tín dụng, tổng phương tiện thanh toán, thâm hụt tài
khóa gia tăng, thâm hụt cán cân thanh toán gia tăng… tất cả những điều đó là
nguyên nhân mang tính nội tại làm cho lạm phát của chúng ta trong mấy năm

qua luôn ở mức cao và cao hơn nhiều so với các nước.
Còn đối với lạm phát 4 tháng đầu năm 2011 như trên, thì ngoài những
nguyên nhân nói trên, thì điều chỉnh tăng giá xăng dầu, điện, tỷ giá, các mặt
hàng khác .v.v… là nguyên nhân trực tiếp làm cho lạm phát trong mấy tháng
gần đây cao hơn so với cùng kỳ của các năm trước.
IV. Tác Động Của Lạm Phát Đến Nền Kinh Tế
Theo Gregory Mankiw thì lạm phát gây ra 5 tổn thất sau:
(1) Làm giảm sức mua của đồng tiền. Vì vậy, lạm phát đồng nghĩa với
một loại thuế vô hình lấy đi một phần thu nhập của công dân và những người
nắm giữ tiền mặt.
(2) Buộc các doanh nghiệp phải thay đổi biểu giá thường xuyên. Việc
thay đổi này gây ra chi phí cho doanh nghiệp.
(3) Gây ra thay đổi giá tương đối trong khi đó người sản xuất và tiêu
dùng không thích ứng kịp. Nền kinh tế thị trường dựa vào giá tương đối để
phân bố nguồn lực một cách hiệu quả. Lạm phát làm cho việc phân bố nguồn
lực trở nên kém hiệu quả, khi xét dưới góc độ kinh tế học vi mô.
(4) Làm giảm nguồn thu thuế do nhiều điều khoản của luật thuế không
tính đến tác động của lạm phát. Lạm phát có thể thay đổi nghĩa vụ thuế của cá
nhân mà người làm luật không lường hết được.
(5) Gây ra bất tiện cho cuộc sống trong một thế giới mà giá cả thị trường
thường xuyên thay đổi. Tiền là thước đo mà trong đó chúng ta tính chi phí các
giao dịch kinh tế. Lạm phát làm cho thước đo này co giãn, làm đảo lộn kế
hoạch tài chính cá nhân và doanh nghiệp.
Như vậy, có thể thấy lạm phát gây ra nhiều mặt tiêu cực cho xã hội và
nền kinh tế. John Maynard Keynes đã chỉ trích gay gắt và vạch rõ bản chất
của lạm phát gây ra những thiệt hại không gì bù đắp nổi cho nhân loại.
13


GV Trần Thị Bích Dung

Tuy nhiên, trên thực tế lạm phát không hẳn là hoàn toàn có tác động tiêu
cực. Trong cuốn “Lý thuyết về việc làm, tiền tệ và lãi suất”, Keynes đã chủ
trương thực hiện chính sách tiền tệ giảm giá.
Lập luận của Keynes cho rằng trong điều kiện kinh tế trì trệ, thất nghiệp
tăng cao thì chính phủ có thể chi tiêu nhiều hơn (chính tài khóa mở rộng) và
duy trì một tỷ lệ lạm phát nhất định để kích thích kinh tế tăng trưởng.
Lập luận này của ông dựa trên cơ sở là khi tiền giảm giá trị, người dân có xu
hướng tiêu dùng cho sinh hoạt và sản xuất nhiều hơn là tích luỹ. Việc tiêu
dùng này làm tăng tổng cầu, đẩy nhanh vòng quay vốn và vực dậy sản xuất
thoát khỏi vòng suy thoái.
Thực tế, lý thuyết này được áp dụng một cách có hiệu quả vào những
năm sau Chiến tranh Thế giới lần thứ II, giúp một loạt các quốc gia thoát khỏi
vòng suy thoái.
Trong đợt khủng hoảng kinh tế năm 2008, mối lo sợ nhất của nhiều nền
kinh tế là giảm phát. Vì vậy, hầu hết các quốc gia đều thực hiện chính sách
tiền tệ nới lỏng để chống suy thoái kinh tế và giảm phát. Chính sách này đã
đạt được những thành công nhất định.
Tuy nhiên, nếu chính sách tiền tệ nới lỏng bị lạm dụng quá mức, không
phù hợp với hoàn cảnh kinh tế sẽ khiến thâm hụt ngân sách kéo dài, lạm phát
tăng cao và có thể
Trên thực tế hiện nay thì lạm phát cao có một số tác động sau:
Bất ổn vĩ mô
Dấu hiệu rõ nét của những bất ổn của kinh tế vĩ mô là việc vàng tăng giá
đột biến trong thời gian ngắn, từ dưới 30 triệu hiện đã đạt mức 47 đồng Việt
Nam chỉ trong vòng 1 năm.
Bên cạnh những tác động từ bên ngoài, nền kinh tế Việt Nam đang phải
gánh chịu những tác dụng phụ của việc thắt chặt tín dụng để kiềm chế lạm
phát,
“Các doanh nghiệp không tiếp cận được vốn vay hoặc phải vay với lãi
suất cao nên không có vốn sản xuất,” ông nói.

“Thậm chí khi sản xuất được thì cũng không xuất khẩu được.”
Sản xuất đình đốn nên doanh nghiệp phải cho lao động nghỉ việc dẫn đến
thất nghiệp gia tăng.
14


GV Trần Thị Bích Dung
Doanh nghiệp không phát triển thì an sinh xã hội không thể bảo đảm
mặc dù đây là mục tiêu Chính phủ rất muốn thực hiện,
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp tiếp tục làm ăn thua lỗ thì thị trường
chứng khoán sẽ kéo dài thời kỳ ảm đạm.
Giảm đầu tư công
Đầu tư công của Việt Nam rất lớn, đến hơn 90.000 tỉ, trong khi chỉ cắt
giảm được khoảng 3%
Giá xăng có thể tăng
có thể sẽ tăng nhưng theo hướng không tạo cú sốc cho thị trường vì giá
xăng dầu hiện nay đã được điều tiết theo thị trường nhưng vẫn có sự điều
chỉnh của Chính phủ.
V. Giải Pháp Kiềm Chế Lạm Phát.
Bước sang năm 2012, trước bối cảnh khó khăn chung của nền kinh tế thế
giới, nước ta sẽ tiếp tục chịu tác động tiêu cực và diễn biến khó lường do
khủng hoảng và suy thoái. Bên cạnh đó cũng cho thấy triển vọng phát triển
kinh tế trong năm này khi mà tình tình kinh tế đã dần đi vào ổn định, một số
lĩnh vực đã đạt kết quả khả quan. Nhiệm vụ quan trọng trong năm 2012 là tiếp
tục kiên định thực hiện có hiệu quả Nghị quyết 11 của chính phủ về kiềm chế
lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội. Theo đó cần thực
hiện nghiêm chỉnh và có hiệu quả 6 gói giải pháp đã đề trong Nghị quyết 11,
cụ thể:
1.


Thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng

Thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng, phối hợp hài hòa giữa
chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa để kiềm chế lạm phát; tập trung ưu
tiên vốn tín dụng phục vụ phát triển sản xuất kinh doanh, nông nghiệp, nông
thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa; giảm tốc độ và
tỷ trọng vay vốn tín dụng của khu vực phi sản xuất, nhất là lĩnh vực bất động
sản, chứng khoán.
Điều hành chủ động, linh hoạt, hiệu quả các công cụ chính sách tiền tệ,
nhất là các loại lãi suất và lượng tiền cung ứng để bảo đảm kiềm chế lạm
phát.
Điều hành tỷ giá và thị trường ngoại hối linh hoạt, phù hợp với diễn biến
thị trường. Tăng cường quản lý ngoại hối, thực hiện các biện pháp cần thiết
để các tổ chức, cá nhân trước hết là các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà
15


GV Trần Thị Bích Dung
nước bán ngoại tệ cho ngân hàng khi có nguồn thu và được mua khi có nhu
cầu hợp lý, bảo đảm thanh khoản ngoại tệ, bình ổn tỷ giá, đáp ứng yêu cầu ổn
định, phát triển sản xuất kinh doanh và tăng dự trữ ngoại hối.
Kiểm soát chặt chẽ hoạt động kinh doanh vàng; trong quý II năm 2011
trình Chính phủ ban hành Nghị định về quản lý hoạt động kinh doanh vàng
theo hướng tập trung đầu mối nhập khẩu vàng, tiến tới xóa bỏ việc kinh
doanh vàng miếng trên thị trường tự do; ngăn chặn hiệu quả các hoạt động
buôn lậu vàng qua biên giới.
Phối hợp chặt chẽ với Bộ Công an, Bộ Công Thương, Ủy ban nhân dân
các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các cơ quan chức năng kiểm tra,
giám sát việc tuân thủ các quy định về thu đổi ngoại tệ, kinh doanh vàng. Ban
hành quy định và chế tài xử lý vi phạm, kể cả việc đình chỉ, rút giấy phép

hoạt động, thu tài sản; quy định khen, thưởng đối với việc phát hiện các hành
vi vi phạm hoạt động thu đổi, mua bán ngoại tệ, vàng. Xử lý nghiêm theo
pháp luật đối với hành vi cố tình vi phạm.
2. Thực hiện chính sách tài khóa thắt chặt, cắt giảm đầu tư công, giảm bội chi
ngân sách nhà nước.
Tiến hành tăng cường kiểm tra các hoạt động thu thuế, chống thất thu
thuế. Đồng thời triển khai các các biện pháp thu hồi nợ đọng và hạn chế phát
sinh số dư nợ mới.
Đảm bảo rà soát các dự án kinh tế khu vực công, đình chỉ các dự án
không cần thiết hoặc các dự án không hiệu quả. Tuy nhiên bên cạnh đó không
được dừng các dự án phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai cấp bách.
Điều chỉnh khắt khe các hoạt động thu chi ngân sách nhà nước một cách
hợp lý.
Các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước rà soát, cắt giảm, sắp xếp lại
các dự án đầu tư, tập trung vào lĩnh vực sản xuất, kinh doanh chính.
Thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, khuyến khích xuất khẩu, kiềm chế
nhập siêu, sử dụng tiết kiệm năng lượng.
3.

Điều tiết cân đối cung - cầu đối với từng mặt hàng thiết yếu, bảo đảm kết
hợp hợp lý, gắn sản xuất trong nước với điều hành xuất nhập khẩu; tiếp tục
chỉ đạo, kịp thời tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong sản xuất, kinh doanh
để đẩy mạnh sản xuất hàng hóa, cung ứng dịch vụ; điều hành xuất khẩu gạo
bảo đảm hiệu quả, ổn định giá lương thực trong nước.
Xây dựng kế hoạch điều hành các hoạt động xuất nhập khẩu. Đồng thời
các cơ quan chức năng phải tổ chức giám sát thực hiện nghiêm chỉ thị của
16


GV Trần Thị Bích Dung

Thủ tướng Chính phủ nhằm kích thích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu bất
hợp lý.
Thực hiện cung cấp năng lượng đặc biệt là năng lượng điện. Ưu tiên
cung cấp điện cho hoạt động sản xuất. Thực hiện việc sử dụng điện tiết kiệm,
phân bổ hợp lý để bảo đảm đáp ứng cho các nhu cầu thiết yếu của sản xuất và
đời sống.
Tiến hành hỗ trợ hoạt động sản xuất thông qua giảm thuế, bình ổn lãi
suất đối với các loại hình sản xuất kinh doanh nhạy cảm.
Ngân hàng Nhà nước đảm bảo nguồn ngoại tệ để nhập khẩu các mặt
hàng phục vụ sản xuất trong nước.
Các tập đoàn kinh tế, tổng công ty, doanh nghiệp nhà nước tiếp tục đẩy
mạnh cổ phần hoá, tái cơ cấu, kiểm soát chặt chẽ chi phí sản xuất, đổi mới
quản trị doanh nghiệp để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, bảo đảm giá
sản phẩm hàng hoá, dịch vụ ở mức hợp lý; tập trung vốn cho ngành nghề sản
xuất kinh doanh chính.
4. Điều chỉnh giá điện, xăng dầu gắn với hỗ trợ hộ nghèo.
Tiếp tục thực hiện lộ trình điều hành giá xăng dầu, điện theo cơ chế thị
trường. Bên cạnh đó, Nhà nước phải có những chính sách hỗ trợ hộ nghèo sau
khi đã điều chỉnh giá điện.
5.

Tăng cường bảo đảm an sinh xã hội.

Đẩy mạnh thực hiện các giải pháp bảo đảm an sinh xã hội theo Nghị
quyết số 02/NQ-CP của Chính phủ.
Hỗ trợ giảm nghèo tại các địa phương, nhất là tại các xã, thôn, bản đặc
biệt khó khăn; hỗ trợ các hộ nghèo, địa phương nghèo xuất khẩu lao động;
cho vay học sinh, sinh viên,....
Các cơ quan, địa phương cũng cần triển khai thực hiện đầy đủ, kịp thời,
đúng đối tượng các quy định hỗ trợ đối tượng chính sách, người có công,

người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn (già yếu cô đơn, không nơi nương
tựa,...),...
6.

Đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền.

Các cơ quan thông tin, truyền thông, báo chí bám sát các chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước và nội dung của Nghị quyết này thông tin,
tuyên truyền đầy đủ, kịp thời, nhất là các nội dung thuộc lĩnh vực tài chính,
tiền tệ, giá cả, các chính sách an sinh xã hội, chính sách hỗ trợ hộ nghèo trực
tiếp chịu tác động của việc thực hiện điều chỉnh giá điện để nhân dân hiểu,
đồng thuận.
17


GV Trần Thị Bích Dung

18



×