Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

thực trạng cung cầu tiền tệ, và các chính sách của ngân hàng trung ương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (237.14 KB, 23 trang )

Đề tài:

Giáo viên hướng dẫn:
Thành viên nhóm:
1. Nguyễn Văn Tân (nhóm trưởng)
2. Thái Minh Tân
3. Hồ Thị Thái
4. Trần Thị Tâm
5. Lê Nguyễn Thành Tân
6. Phạm Thị Thanh Tâm
7. Dương Văn Tây
8. (bạn Lào các bạn đánh tên giúp)


MỤC LỤC

trang

Lời mở đầu
I. Cung tiền tệ
1. Những khái niệm cơ bản
2. Kiểm soát tiền cơ sở - MB
3. Mô hình cung tiền và hệ số nhân tiền (m)
4. Đường cung tiền – Money supply curve
II. CẦU TIỀN
1. Khái niệm
2. Những lý do giao dịch
3. Lượng tiền thực tế:
4. Tốc độ và cầu lượng tiền thực tế
5. Những nhân tố của hệ thống thanh toán.
III Vai trò của ngân hàng trung uơng trong việc điều tiết quan hệ cung – cầu


tiền tệ
Kết luận


Ghi chú


Thực trạng quan hệ cung cầu tiền tệ trong nền kinh tế thị
trường nước ta hiện nay
Tiền tệ là những phạm trù kinh tế gắn liền với nền sản suất và lưu thông hàng hoá.
Nó có vai trò quan trọng thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế – xã hội của mỗi
quốc gia, cũng như trên phạm vi quốc tế; đặc biệt trong nền kinh tế thị trường nền
kinh tế được tiền tệ hoá cao độ. Trong nền kinh tế, tiền tệ là phương tiện trao đổi
khi nó được dùng để mua bán hàng hoá, dịch vụ, hoặc thanh toán các khoản nợ cả
trong và ngoài nước. Việc dùng tiền làm phương tiện trao đổi đã nâng cao hiệu
quả hoạt động của nền kinh tế, bởi nó đã tiết kiệm được các chi phí quá lớn trong
quá trình trao đổi trực tiếp (hàng đổi hàng). Trong nền kinh tế trao đổi trực tiếp
hàng đổi hàng, các chi phí giao dịch thường rất cao. Bởi vì, người mua người bán
phải tìm được những người trùng hợp với mình về nhu cầu trao đổi, thời gian trao
đổi, không gian trao đổi. Quá trình trao đổi chỉ được diễn ra khi có sự phù hợp đó.
Tiền tệ ra đời, đã trở thành môi giới trung gian trong trao đổi, đã hoàn toàn khắc
phục được các hạn chế của quá trình trao đổi trực tiếp.
Người ta thường nói “có tiền là có tất cả”. Điều này cho ta thấy nhu cầu tiền là rất
cao, có lẽ là vô tận. Chỉ có điều của cải của xã hội thì có hạn, làm cho nhu cầu
thực là có giới hạn. Chừng nào sản xuất hàng hóa còn tồn tại, thì nhu cầu tiền chưa
dừng lại.
I. CUNG TIỀN TỆ
1. Những khái niệm cơ bản
1.1. Các đối tượng tham gia quá trình cung ứng tiền tệ
1. NHTW: Là cơ quan của chính phủ hay trực thuộc quốc hội, có chức năng quản

lý hệ thống ngân hàng và chịu trách nhiệm điều hành chính sách tiền tệ.
2. Các tổ chức nhận tiền gửi: Là trung gian tài chính nhận tiền gửi từ các cá nhân
và tổ chức và cung cấp tín dụng, bao gồm: NHTM, Hội tiết kiệm và cho vay,
Ngân hàng tiết kiệm tương hỗ, và Liên hiệp tín dụng.
3. Những người gửi tiền: gồm các cá nhân và tổ chức có tiền gửi tại các ngân
hàng.
4. Những người đi vay: gồm:
(i) các cá nhân và tổ chức vay tiền từ các ngân hàng;
(ii) các tổ chức phát hành trái phiếu cho các ngân hàng mua.

1.2. Bốn hạng mục cơ bản trên bảng cân đối của NHTW

Tài sản có (TSC)

NHTW

Tài sản nợ (TSN)


− Chứng khoán chính phủ
− Tiền trong lưu thông
− Tín dụng chiết khấu
− Dự trữ
Tài sản nợ (Liabilities): gồm hai bộ phận:
- Tiền mặt trong lưu thông (Curency in circulation): bao gồm toàn bộ lượng tiền
giấy và tiền xu do NHTW phát hành nằm trong tay công chúng.
-Dự trữ (Reserves): bao gồm tiền gửi tại NHTW và tiền mặt tại quỹ, được phân
làm hai loại; dự trữ bắt buộc và dự trữ vượt mức.
Tài sản có (Assets): gồm hai bộ phận:
- Chứng khoán chính phủ (Government securities): bao gồm các chứng khoán do

kho bạc phát hành được NHTW nắm giữ (trong một số ít trường hợp gồm cả việc
cho chính phủ vay trực tiếp).
- Tín dụng chiết khấu (Discount loans): NHTW có thể cung cấp dự trữ cho hệ
thống ngân hàng bằng cách cung cấp các khoản tín dụng chiết khấu. Tín dụng
chiết khấu từ NHTW còn gọi là tiền vay NHTW.
2. Kiểm soát tiền cơ sở - MB
MB = C + R

Trong đó:

MB: tiền cơ sở
C: tiền mặt trong lưu thông
R: tiền dự trữ
- Tiền cơ sở là bộ phận quan trọng trong quá trình cung ứng tiền, bởi vì: với các
nhân tố khác không đổi, chỉ cần tăng hay giảm một hoặc đồng thời hai bộ phận
trên sẽ làm cho lượng tiền cung ứng thay đổi.
- NHTW kiểm soát tiền cơ sở thông qua các hoạt động:
2.1 Nghiệp vụ thị trường mở (OMO)
Là hoạt đông mua vào hoặc bán ra các chứng khoán.
a) Mua bán chứng khoán từ một ngân hàng:
Gỉả sử NHTW mua 100 tỷ đồng chứng khoán từ VCB và thanh toán cho VCB
100 tỷ bằng séc. Khi đó VCB sẽ gửi séc tại NHTW hoặc rút tiền mặt từ
NHTW. Cả hai khả năng này đều làm cho VCB: tăng dự trữ là 100 tỷ và giảm
chứng khoán 100 tỷ.
Tài sản có
NHTW
Tài sản nợ
Chứng khoán
- 100
Dự trữ

+ 100
Lúc này, NHTW: TSN đã tăng lên 100 tỷ tiền dự trữ và TSC cũng tăng lên 100
tỷ chứng khoán.
Tài sản có
NHTW
Tài sản nợ
-

Chứng khoán
+100 Dự trữ
+100
Hiệu ứng ròng từ việc NHTW mua chứng khoán là làm tăng dự trữ 100 tỷ. Do
tiền mặt trong lưu thông không đổi, nên tiền cơ sở MB cũng tăng lên đúng 100 tỷ.


b) Mua chứng khoán từ công chúng:
Xét hai trường hợp:
Thứ nhất, giả sử một cá nhân hay một công ty bán 100 tỷ chứng khoán cho
NHTW, và gửi tờ séc NHTW 100 tỷ tại VCB. Khi đó:
Tài sản có
CÔNG CHÚNG
Tài sản nợ
Chứng khoán
- 100
Tiền gửi thanh toán
+100
Khi nhận được tờ séc, VCB sẽ ghi có tài khoản khách hàng là 100 tỷ và ký gửi tờ
séc vào tài khoản tiền gửi của mình tại NHTW, làm tăng dự trữ của VCB. Khi đó:
Tài sản có
HỆ THỐNG NGÂN HÀNG

Tài sản nợ
Dự trữ
+100
Tiền gửi thanh toán
+100
Hiệu ứn lên bảng cân đối NHTW là: bên TSC tăng chứng khoán 100 tỷ, còn bên
TSN tăng 100 tỷ dự trữ.
Tài sản có
NHTW
Tài sản nợ
Chứng khoán
+100 Dự trữ
+100
Qua tài khoản chữ T ta thấy, khi tờ séc NHTW được ký gửi tại một ngân hàng
(VCB), thì hiệu ứng từ việc NHTW mua chứng khoán từ công chúng là giống với
hiệu ứng NHTW mua chứng khoán từ một ngân hàng, đó là: dự trữ tăng một
lượng đúng bằng giá trị chứng khoán mua vào và tiền cơ sở MB cũng tăng một
lượng tương ứng.
Thứ hai, nếu cá nhân hay công ty bán 100 tỷ chứng khoán cho NHTW, sau đó đem
tờ séc đến VCB hay đến NHTW để nhận tiền mặt, đồng thời thì hiệu ứng lên dự
trữ sẽ khác. Công ty sẽ nhận được 100 tỷ tền mặt, đồng thời giảm 100 tỷ chứng
khoán. Cụ thể:
Tài sản có
CÔNG CHÚNG
Tài sản nợ
Chứng khoán
-100
Tiền mặt
+100
Còn NHTW thì đã đổi 100 tỷ tiền mặt lấy 100 tỷ chứng khoán:

Tài sản có
NHTW
Tài sản nợ
Chứng khoán
+100
Tiền mặt trong lưu thông
+100
Khi công ty đem tờ séc đến VCB để nhận tiền mặt, thì tiền mặt của VCB giảm (dự
trữ giảm); nhưng sau đó VCB lại đem ký gửi tờ séc tại NHTW, dự trữ của VCB lại
tăng lên đúng nằng dự trữ tiền mặt giảm xuống. Khi đó, dự trữ của hệ thống ngân
hàng là không đổi và đây cũng chính là hiệu ứng ròng từ việc NHTW mua chứng
khoán trong trường hợp này, lúc này tiền mặt trong lưu thông tăng lên đúng bằng
giá trị chứng khoán NHTW mua vào, điều đó tương đương tiền cơ sở MB đẫ tăng
lên 100 tỷ.
c) NHTW bán chứng khoán trên OMO
Nếu NHTW bán 100 tỷ chứng khoán cho một công ty và thanh toán bằng tiền mặt,
nghĩa là công ty đã chuyển 100 tỷ tiền mặt thành 100 tỷ chứng khoán.
Tài sản có
CÔNG CHÚNG
Tài sản nợ


Chứng khoán
+100
Tiền mặt
-100
Còn NHTW, bên TSC chứng khoán giảm 100 tỷ, và bên TSN tiền mặt trong lưu
thông giảm 100 tỷ.
Tài sản có
NHTW

Tài sản nợ
Chứng khoán
-100
Tiền mặt trong lưu thông
-100
Hiệu ứng NHTWbán 100 tỷ chứng khoán trên OMO làm giảm tiền cơ sở đúng
bằng giá trị chứng khoán giao dịch là 100 tỷ, trong khi đó dự trữ là không đổi.
2.2 . Tín dụng chiết khấu
Giả sử NHTW cấp một khoản tín dụng chiết khấu 100 tỷ cho VCB bằng cách ghi
có 100 tỷ tiền dự trữ vào tài khoản của VCB tại NHTW. Hiệu ứng tín dụng chiết
khấu được thể hiện:
Tài sản có
HỆ THỐNG NGÂN HÀNG
Tài sản nợ
Dự trữ
+100 Tín dụng chiết khấu
+100
Tài sản có
Tín dụng chiết khấu

NHTW
+100 Dự trữ

Tài sản nợ
+100

Như vậy, TSN của NHTW cũng như MB đều tăng là 100 tỷ. Khi NHTM hoàn trả
khoản vay, thì TSN của NHTW và MB giảm tương ứng.
Tài sản có
HỆ THỐNG NGÂN HÀNG

Tài sản nợ
Dự trữ
-100 Tín dụng chiết khấu
-100
Tài sản có
NHTW
Tài sản nợ
Tín dụng chiết khấu
-100 Dự trữ
-100
Kết quả là, tiền cơ sở thay đổi tương thích với sự thay đổi tín dụng chiết khấu.
2.3 . Hoạt động can thiệp của NHTW trên Forex
Thị trường ngoại hối là nơi mua bán các đồng tiền khác nhau, hình thành nên
tỷ giá.
Khi cung ngoại tệ dồi dào, tỷ giá có xu hướng giảm. Tỷ giá giảm kích thích
nhập khẩu, hạn chế xuất khẩu, làm cho cán cân thương mại thâm hụt, giảm công
ăn việc làm. Để tỷ giá không giảm quá mức, NHTW tiến hành can thiệp trên Forex
bằng cách mua ngoại tệ, tức bán nội tệ.
Khi cầu ngoại tệ tăng, tỷ giá có xu hướng tăng. Tỷ giá tăng kích thích lạm phát,
hạn chế nhập khẩu, làm cho việc nhập khẩu nguyên vật liệu đầu vào cho sản xuất
và máy thiết bị gặp khó khăn. Để tỷ giá không tăng quá mức, NHTW phải tiến
hành can thiệp trên Forex bằng cách bán ngoại tệ ra, tức mua nội tệ vào.
Như vậy, thông qua hoạt động can thiệp trên Forex, khi NHTW mua ngoại tệ làm
cho MB tăng, ngược lại khi bán ngoại tệ làm cho MB giảm.
3. Mô hình cung tiền và hệ số nhân tiền (m).


Mô hình giản đơn, NHTW có thể kiểm soát được tiền gửi (D) thông qua việc ấn
định tỷ lệ dự trữ bắt buộc (r) và mức dữ trữ (R). Điều không may cho NHTW vì
thực tế không dễ làm như vậy. Để khắc phục những hạn chế của mô hình giản

đơn, cần xây dựng mô hình cung tiền gần với cuộc sống thực tiễn. Khái niệm
Cung tiền hay Tiền bao gồm tiền mặt trong lưu thông C và tiền gửi thanh toán D,
tức khối tiền M1.
Cung tiền = M = M1 = Tiền mặt + Tiền gửi thanh toán

⇔M =C+D

3.1. Mô hình cung tiền và các nhân tố tác động đến cung tiền.
a) Mô hình cung tiền.
Ví dụ: NHTW mua 100 triệu chứng khoán trên OMO từ VCB. Sau khi NHTW
mua 100 triệu chứng khoán, làm cho dự trữ của VCB tăng lên đúng 100 triệu.
Thông qua hệ thống ngân hàng, một lượng tiền mới được tạo ra (khi dân chúng
không có nhu cầu tiền mặt chỉ tiền gửi tăng 1000 triệu). Trong thực tế, tồn tại nhu
cầu tiền mặt C của công chúng và nhu cầu dự trữ dôi ra của hệ thống ngân hàng,
nên tiền được tạo ra nhỏ hơn nhiều so với kết quả của mô hình giản đơn tạo ra
1000 triệu.
b) Các nhân tố tác động đến cung tiền.
1+ c
M = m × MB =
× MB
r+c+e
Cung tiền phụ thuộc vào mức cung ứng MB và các nhân tố xác định hệ số nhân
tiền m. Mức MB phụ thuộc vào hoạt động của ngân hàng trung ương trên OMO,
tín dụng chiết khấu và các tài sản có ròng khác của NHTW. Điều này cho biết MB
không nhạy cảm với bất kỳ thông số nào ngoài ý chí của NHTW.
Cần xem xét cung tiền M phụ thuộc vào những thông số nào ngoài ý chí của
NHTW, tức những thông số xác định và tác động đến hệ số nhân tiền m. Với các
nhân tố khác không đổi, ta có:
b1. Thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc (r)
Nếu tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi thanh toán tăng, làm cho dự trữ bắt

buộc tăng, dự trữ bắt buộc tăng làm cho dự trữ dôi ra giảm, để dự trữ dôi ra cần
thiết buộc ngân hàng phải giảm tín dụng, tín dụng giảm dẫn đến tiền gửi thanh
toán, tiền gửi thanh toán giảm làm giảm mở rộng liền, kết quả là cung tiền giảm.
Để giải thích cho hiệu ứng tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, ta xem:
Bước 1: R = r.D + ER
Các nhân tố khác không đổi, r tăng, trong khi tiền gửi D và ER không đổi (ER là
tiền dự trữ thanh khoản, trong khi D không giảm, nên ER cũng không giảm), buộc
R tăng.
Bước 2: R tăng, buộc ngân hàng phải giảm tín dụng, tín dụng giảm, làm giảm tiền
gửi được tạo ra trong hệ thống ngân hàng.
Bước 3: M = (1+c) × D nên khi D giảm làm cho M giảm.
Như vậy:


- Với các nhân tố khác không đổi, r tăng làm m giảm, m giảm làm cho M giảm.
- Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là một công cụ chính sách tiền tệ, nên không phụ thuộc
vào các nhân tố thị trường mà chỉ phu thuộc vào ý chí của NHTW.
b2. Thay đổi tỷ lệ tiền mặt (c)
Tỷ lệ tiền mặt trên tiền gửi thanh toán tăng nghĩa là người gửi tiền đã di
chuyển một phần tiền gửi thanh toán sang tiền mặt. Thoạt nhìn thì có vẻ như cung
tiền không thay đổi, bởi vì:
M = C↑ +D↓
Nhưng thực ra không phải là như vậy. Vì tiền mặt trong lưu thông không tạo ra
tiền, trong khi đó tiền gửi thanh toán là một biến số tạo ra tiền. Do đó, khi tiền gửi
thanh toán giảm, thì làm cho lượng tiền được ra trong hệ thống ngân hàng giảm
theo, làm giảm cung tiền.
Công thức sau sẽ cho thấy rõ kết luận trên. Với các thông số khác không đổi:
1
∆D ↓=
.MB

r + c ↑ +e
Vì cả tiền mặt C và tiền gửi thanh toán D đều không có lãi suất (ngày nay tùy từng
thời điểm mà tiền gửi thanh toán có thể được trả lãi suất nhưng rất thấp), do đó
chúng không nhạy cảm với lãi suất thị trường (không vì lãi suất tăng mà dân
chúng không nắm giữ tiền mặt và tiền gửi thanh toán ở mức cần thiết). Do c không
nhạy cảm với lãi suất thị trường, nghĩa là lãi suất thị trường không tác động đến
mức cung tiền thông qua thông số c.
Như vậy:
− c tăng làm cho D giảm, D giảm làm hạn chế mở rộng tiền, kết quả là M giảm.
− Lãi suất thị trường không tác động đến mức cung tiền thông qua thông số c.
b3. Thay đổi tỷ lệ dự trữ vượt mức (e)
Ta có:
R = RR + ER
Khi tỷ lệ dự trữ vượt mức (e) tăng, làm tăng ER, vì D không đổi nên RR không
đổi, do đó, buộc R phải tăng, vì MB không đổi, nên để tăng được ER buộc ngân
hàng phải giảm tín dụng, tín dụng giảm dẫn đến hạn chế mở rộng tiền. Ngoài ra,
tiền gửi giảm làm giảm dự trữ bắt buộc, kết quả là MB được duy trì không đổi.
Có hai nhân tố tác động lên mức dự trữ vượt mức đó là:
Lãi suất :khi lãi suất tăng, làm cho chi phí cơ hội nắm giữ dự trữ vượt mức tăng,
ngân hàng có xu hướng giảm dự trữ vượt mức và tăng tín dụng, tín dụng tăng làm
tăng tiền gửi được tạo ra, và cuối cùng là làm tăng M.
Dòng tiền gửi dự kiến rút ra: trong điều kiện bất ổn, người gửi tiền có thể đến ngân
hàng rút tiền nhiều hơn, buộc ngân hàng phải tăng dự trữ vượt mức và gimr tín
dụng, kết quả là M giảm.
Như vây:
− e tăng làm cho tín dụng giảm, giảm tín dụng làm D giảm, d giảm làm M giảm.


− Có hai nhân tố tác đọng làm thay đổi e là: lãi suất thị trường, dòng tiền gửi dự
kiến rút ra.

b4. Một số nhân tố khác
Ta có: MBn = MB – DL

Trong đó:
MBn : tiền cơ sở phi tín dụng
MB : tiền cơ sở
DL : tín dụng chiết khấu
Thay MB vào phương trình M = m × MB, ta được:
M = m × (MBn + DL)
Phương trình trên cho thấy: cung tiền chịu ảnh hưởng không những bởi các yếu tố
trên mà còn chịu tác động bởi tiền dự trữ phi tín dụng (MB n) và tín dụng chiết
khấu (DL).
3.2. Hệ số nhân tiền: (m2)
M2 là khối lượng tiền cung ứng bao gồm M 1 cộng thêm một số tài sản tài chính
khác. Tiêu chí để đưa một tài sản tài chính vào M2:
(i) mức độ thanh khoản của tài sản, tức mức độ phát triển của thị trường thứ cấp
(ii) khả năng NHTW kiểm soát được tài sản này
Thực tế, các tài sản tài chính đáp ứng được 2 tiêu chí này bao gồm:
- Tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm (ký hiệu là T)
- Trái phiếu, kỳ phiếu ngân hàng phát hành (ký hiệu là B)
M2 = M1 + T + B = C + D + T + B
C
T
B
×D+ ×D+ ×D
D
D
D
C
T

B
Đặt: c = ; t = ; b =
D
D
D
×
M2 = (1 + c + t + b) D
M2 = D +

Hầu hết các nước không quy định dự trữ bắt buộc đối với trái phiếu, do đó chúng
không có mối liên hệ với MB. Tuy nhiên, đối với tiền gửi có kỳ hạn và tiết kiệm
thường phải tham gia dự trữ bắt buộc do đó chúng có mối liên hệ với MB.
4. Đường cung tiền – Money supply curve
Qua phân tích các nhân tố xác định và tác động đến cung tiền cho thấy, cung tiền
không phụ thuộc lãi suất thị trường, mà phụ thuộc duy nhất vào quan điểm của
NHTW (vì NHTW kiểm soát được hoàn toàn MB và r là hai thông số cơ bản nhất
trong cung tiền, còn c và e không nhạy cảm với lãi suất). Do đó, đường cung tiền
là đường thẳng đứng trong mối quan hệ với lãi suất, tức không nhạy cảm với lãi
suất và được biểu diễn như sau:
Lãi suất (i)


Lượng tiền M
O
M0
Đường cung tiền có thể dịch chuyển sang trái hay sang phải hoàn toàn phụ thuộc
quyết định của NHTW. Nếu NHTW quyết định chính sách tiền tệ mở rộng, thì
đương cung dịch chuyển sang phải, nếu quyết định chính sách tiền tệ thắt chặt , thì
đường cung dịch chuyển sang trái.
II. CẦU TIỀN.

1. Khái niệm. Cầu tiền tệ là tổng khối tiền tệ mà Nhà nước, các tổ chức kinh tế và
cá nhân cần có để thỏa mãn các nhu cầu.
2. Những lý do giao dịch
Chúng ta biết rằng mọi người giữ tiền bởi họ muốn sử dụng nó như một phương
tiện trao đổi, một sự dự trữ giá trị, một đơn vị tính toán và một phương tiện trả
góp. Các hộ gia đình và các nhà kinh doanh cần bao nhiêu tiền? Nhu cầu về tiền,
giống như các tài sản khác, phản ánh sự trao đổi và những quyết định về sự phân
bổ danh mục vố đầu tư. Một người dùng tiền (tiền mặt, tiền gửi séc và những vật
thay thế tương tự khác) phần lớn là để tiến hành những thương vụ. Vì lý do đó
lượng cầu về tiền phụ thuộc vào phần giá trị của thương vụ mong muốn. Hộ gia
đình và nhà kinh doanh phân phối các nguồn lực của họ trên các tài sản tiền tệ và
các tài sản phi tiền tệ. Khi đưa ra những quyết định này họ tính đến lợi nhuận
mong muốn trên tài sản, rủi ro, tính lỏng và những đặc tính thông tin của những tài
sản đó.
Theo quan điểm của Milton Friedman cho rằng tổng cầu tiền tệ phụ thuộc vào 4
nhân tố: Mức giá cả hàng hóa dịch vụ; Mức thu nhập thực tế và sản lượng trong
nền kinh tế; Lãi suất thực tế; Chỉ số giá cả (chỉ số lạm phát). Thu nhập thực tế ảnh
hưởng một cách trực tiếp và thuận chiều với cầu tiền tệ.
3. Lượng tiền thực tế:
Một vai trò quan trọng của đồng tiền là để giúp những giao dịch một cách dễ dàng,
nó gợi ý rằng việc giữ tiền nên phụ thuộc vào giá trị giao dịch.
Ví dụ: có hai cá nhân đang quyết định phân phối nguồn lực của họ, một người Mỹ
và một người Đức, có sự giàu có tài sản thực sự như nhau (tính theo sức mua) và
những sự thích thú như nhau. Họ cũng phải đối diện với những sự lựa chọn đầu tư
với lợi nhuận mong đợi được điều chỉnh theo rủi ro, tính lỏng và thông tin. Giả sử
sự giàu có của người Mỹ được tính bằng USD và người Đức tính bằng DM. Cũng
giả định rằng, cần 1,5 DM để cân bằng với 1 USD trong sức mua nghĩa là giá của
hàng hoá tính bằng DM thì cao hơn bằng 1,5 lần giá của hàng hoá tính bằng USD.
Nếu người Đức và người Mỹ có số tài sản thực sự bằng tiền như nhau, số DM
người Đức nắm giữ sẽ lớn bằng 1,5 lần người Mỹ giữ. Nói cách khác, sự cân bằng

tiền tệ danh nghĩa của người Đức lớn bằng 1,5 lần của người Mỹ. Vì thế cầu tiền
giao dịch tỷ lệ với mức giá. Chúng ta có thể vận dụng điều này cho toàn bộ cầu
tiền trong nền kinh tế.


Vào những năm 1960, mức giá cả của Mỹ thấp hơn 1/4 của ngày nay. Thật ra, để
tiến hành những giao dịch ngày nay tương đương với mức năm 1960, bạn sẽ cần
hơn 4 USD cho mỗi USD năm 1960. Lượng tiền danh nghĩa của bạn phải cao hơn
4 lần. Trong trường hợp người Mỹ và người Đức (nếu không có sự thay đổi khác)
một mức giá cao hơn dẫn đến một tỷ lệ cầu tiền danh nghĩa cao hơn, bởi vì sự thay
đổi trong việc giữ tiền danh nghĩa thì tỷ lệ với những thay đổi trong mức giá,
chúng ta có thể tập trung vào cầu của số dư tiền tệ được điều chỉnh theo những
thay đổi trong sức mua. Nếu chúng ta gọi M là mức cung tiền và P là mức giá của
nền kinh tế (giá tính bằng USD cho một nhóm hàng hoá được lựa chọn) lượng tiền
thực tế thì bằng mức cung tiền chia cho mức giá, hoặc:
Lượng tiền thực tế =

M
P

Lượng tiền thực tế thể hiện sức mua của lượng tiền hiện có.
4. Tốc độ và cầu lượng tiền thực tế
Học thuyết số lượng tiền tệ phát triển trên cơ sở thiết lập mối quan hệ giữa tổng
lượng tiền cung ứng (M) với nhu cầu chi tiêu lên hàng hóa và dịch vụ PY (P là
mức giá Y là tổng sản phẩm quốc nội thực). PY là tổng sản phẩm quốc nội danh
nghĩa GDP. Phương pháp kết nối M với PV thông qua vòng quay tiền tệ V, là số
lần trung bình mỗi đơn vị tiền tệ sử dụng để mua hàng hóa và dịch vụ trong một
năm. V được tính theo công thức:
V=


P.Y
M

Ví dụ, nếu số lượng tiền là 2000 tỷ USD và GDP danh nghĩa là 6000 tỷ USD,
vòng quay bằng 3, trung bình 1USD được sử dụng 3 lần mỗi năm để mua hàng
hoá và dịch vụ trong nền kinh tế.
V=

P.Y
⇔ M .V = P.Y
M

Phương trình này sử dụng lượng giao dịch như một yếu tố quyết định của cầu tiền
tệ tạo khả năng phán đoán. Chúng ta sớm khẳng định rằng, để thực hiện những
giao dịch hàng ngày, các hộ gia đình, các nhà kinh doanh cần nhiều hơn lượng tiền
danh nghĩa khi giá tăng. Khi thu nhập thực tế của các hộ gia đình và các hãng kinh
doanh tăng, họ tiến hành giao dịch nhiều hơn. Nói cách khác, sức mua của hộ gia
đình và thu nhập sẽ lớn hơn sức mua của gia đình có thu nhập thấp. Tương tự, một
cửa hàng lớn sẽ cần một số lượng tiền để đáp ứng số lượng hàng bán 10 triệu
USD/năm lớn hơn hẳn cửa hàng với số lượng bán mỗi năm 10 ngàn USD/năm,
chúng ta có thể khái quát hoá từ những quan sát này bằng nhận định rằng, cầu tiền
tệ của dân chúng tăng theo lượng giao dịch.
5. Những nhân tố của hệ thống thanh toán.
5.1. Theo học thuyết ưu tiên thanh khoản.
Theo nhà bác học Keynes cầu tiền có 3 động cơ:
5.1.1. Động cơ giao dịch (transaction motive):
Cầu tiền trước hết là phục vụ cho mục đích trao đổi thường xuyên và mức cầu tiền
là tỷ lệ thuận với thu nhập của dân chúng.



5.1.2. Động cơ dự phòng (precautionry motive):
Ngoài cầu tiền cho mục đích giao dịch thường xuyên, thì dân chúng còn có nhu
cầu tiền cho mục đích dự phòng những bất trắc xảy ra không lường trước, như:
hỏa họa, ốm đau, mất trộm,… Thu nhập càng cao thì nhu cầu dự phòng càng lớn,
do đó, nhu cầu tiền cho dự phòng tỷ lệ thuận với thu nhập.
5.1.3. Động cơ đầu cơ (speculative motive).
Cầu tiền làm vật cất trữ giá trị hay đầu cơ. Keynes chia tài sản làm vật cất trữ
thành 2 thành phần, là tiền và trái phiếu. Và ông đặt ra câu hỏi: Tại sao dân chúng
lại quyết định cất trữ giá trị ở dạng tiền hơn trái phiếu và ngược lại?
Vì tiền không có lãi suất nên không mang lại bất cứ thu nhập nào. Còn trái phiếu
có 2 kênh thu nhập là lãi suất và thị giá trái phiếu. Khi lãi suất thay đổi mạnh, giá
trái phiếu có thể tăng hoặc giảm làm cho trái phiếu trở nên hấp dẫn hơn hoặc kém
hấp dẫn hơn tiền.
Ví dụ: Tiền mặt không có lãi suất. Trái phiếu có mệnh giá 100, lãi suất là 5%/năm,
thời hạn là 1 năm. Nếu lãi suất thị trường hiện tại là 15%/năm. Hỏi thị giá của trái
phiếu là bao nhiêu?
Thị giá trái phiếu =

100 ( 1 + 0, 05 )
1 + 0,15

= 91,3

Như vậy, thị giá trái phiếu thấp hơn mệnh giá, cho thấy việc nắm giữ trái phiếu đã
lỗ so với năm giữ tiền mặt, do đó, trong trường hợp này tiền mặt được ưu tiên nắm
giữ hơn trái phiếu.
Hàm ưu tiên thanh khoản

( )


Md
= L i,Y
− +
P

Dấu (-) thể hiện cầu tiền thực nghịch biến với lãi suất; còn dấu (+) nói lên rằng cầu
thực đồng biến với thu nhập thực.
Tại thị trường cân bằng, thay Md bằng M, và biến đổi công thức trên ta được:
V=

PY
Y
=
M
L i, Y

( )
− +

Chỉ ra rằng cầu tiền nghịch biến với lãi suất, do đó, tại mức thu nhập Y không đổi,
khi lãi suất tăng, làm cho L(i,Y) giảm, tức V tăng. Tại mức thu nhập nhất định, lãi
suất tăng sẽ kích thích dân chúng giảm lượng tiền nắm giữ, làm cho vòng quay
tiền tăng.
Tóm lại, cầu tiền phụ thuộc vào 4 nhân tố là: Thu nhập thực Y, lãi suất I, mức giá
P và vòng quay tiền V. Cầu tiền đồng biến với thu nhập và mức giá, nghịch biến
với lãi suất và vòng quay tiền.

(

M d = L i , Y , P,V

+

+



)

5.2. Những quyết định của việc phân bổ danh mục vốn đầu tư
Tốc độ cũng thay đổi theo thời gian ứng với những quyết định phân bổ danh mục
vốn đầu tư. Bởi vì tiền là một tài sản với tư cách là một trung gian trao đổi, những


thay đổi trong lợi tức mong đợi hoặc trong rủi ro, tính lỏng, hoặc tin tức liên kết
với nó sẽ làm thay đổi cầu tiền mặt của hộ gia đình và doanh nghiệp.
5.3. Thu nhập và của cải
Lượng tiền thực tế dưới dạng tiền mặt và gửi Séc là một ví dụ của tài sản cần thiết.
Nếu hộ gia đình và doanh nghiệp với thu nhập cao, giàu có hơn sẽ không duy trì
cùng một tỷ lệ tài sản của họ dạng tiền mặt, mà mức sinh lời (lãi) bằng không hay
lãi thấp như những hộ gia đình và hãng thu nhập thấp. Họ sẽ chuyển đổi mục tiêu
cầu tiền thích hợp hơn có thể bằng cách chuyển đổi sang các loại tài sản sinh lời
như: bất động sản, trái phiếu, cổ phiếu,…
Ví dụ, những cá nhân với thu nhập cao có thể duy trì những tài sản sinh lợi cao mà
có thể chuyển nhượng dễ dàng thành tiền gửi Séc, các doanh nghiệp cũng có thể
làm tương tự như vậy. Thêm vào đó, những doanh nghiệp có thể có một giới hạn
tín dụng với những ngân hàng, mà cho phép họ tiến hành những giao dịch với
lượng tiền mặt và số dư tiền gửi Séc thấp. Những hộ gia đình thu nhập cao có thể
dùng thẻ tín dụng của ngân hàng. Lượng cầu tiền thực tế tăng với thu nhập thực tế
nhưng sẽ với tỉ lệ nhỏ hơn.
5.4. Lợi nhuận mong đợi.

Khi tính toán thu nhập trên tài sản tiền tệ của những hộ gia đình và nhà kinh doanh
không những tính đến số lãi trả trên số dư tiền gửi mà còn phải tính đến đặc tính
thuận tiện của đồng tiền. Đây là số thu nhập mà họ sẵn sàng hy sinh đổi lấy thu
nhập có rủi ro thấp, có chi phí giao dịch và thông tin thấp. Nếu không có thay đổi
khác, một sự tăng lãi suất tiền tệ hoặc trong sự thuận tiện tự nhiên của đồng tiền sẽ
khiến những hộ gia đình và nhà doanh nghiệp tăng lượng tiền tệ của họ và tăng
lượng cầu tiền.
Một sự giảm trong lãi suất tiền tệ hoặc trong sự thuận tiện tự nhiên sẽ khiến những
hộ gia đình và doanh nghiệp giảm số dư tiền tệ của họ và lượng cầu tiền. Theo
cách đó, những hộ gia đình và doanh nghiệp so sánh lợi tức mong đợi trên tiền (từ
lợi nhuận và sinh lợi tự nhiên) trong việc quyết định giữ bao nhiêu tiền.
5.5. Rủi ro tính lỏng và thông tin.
Khi phân bổ bao nhiêu tài sản của họ để nắm giữ dạng tiền, những cá nhân và
hãng cũng cân nhắc rủi ro, tính lỏng và thông tin về thu nhập của việc nắm giữ
tiền. Nếu thu nhập trên tài sản lựa chọn (thương phiếu, trái phiếu hoặc cổ phiếu)
có nhiều nguy hiểm, hay lãi suất ngân hàng giảm thì những người tiết kiệm có thể
chuyển sang giữ tiền của họ, làm tăng cầu tiền tệ. Những cải cách cho phép dễ
dàng chuyển vốn từ dạng ít lỏng sang dạng có tính lỏng cao như từ trái phiếu hoặc
cổ phiếu sang dạng một tài khoản Séc, hoặc từ cổ phần góp sang tín dụng sẽ làm
vốn có về tính lỏng của tiền. Các tài sản càng trở nên lỏng nhiều hơn thì càng có
nhiều người tiết kiệm chú tâm đến thu nhập về lãi suất tiền tệ. Cuối cùng một số cá
nhân tin tưởng cao vào việc giữ tiền, bởi vì nó mang lại cho họ sự kín đáo thông
tin về nguồn gốc của tiền mà họ nắm giữ, tăng cường tính thanh khoản giúp họ đối
phó được với các tình huống bất ngờ có thể xảy ra và nhu cầu tiền mặt cho các
giao dịch hằng ngày.
Điểm cân bằng cung cầu tiền tệ.


Biểu diễn đường cung cầu tiền tệ trên cùng 1 đồ thị, tại điểm giao nhau E, cung
cầu bằng nhau, tại mức lãi suất cân bằng của thị trường là i 0, tại đó lượng tiền là

M0.
Lãi suất (i)
Ms

E

i0

Md

O

Lượng tiền M

M0

Vì lãi suất chính là sản phẩm của đường cung và đường cầu, nên về nguyên tắc bất
kỳ nhân tố nào làm cung tiền thay đổi đều làm cho lãi suất thay đổi đều làm cho
lãi suất thay đổi. Tuy nhiên, ngân hàng trung ương chủ động và có sẵn các công cụ
trong tay để kiểm soát cung tiền, nên cơ bản NHTW có khả năng ảnh hưởng nhất
đến lãi suất thị trường.
Ví dụ: Với các nhân tố khác không đổi, nếu NHTW muốn lãi suất giảm, thì áp
dụng chính sách tiền tệ nới lỏng, lãi suất thị trường sẽ giảm.

Lãi suất (i)

M 0S

M 1S


i0
i1

Md


O

M1
M0
Lượng tiền M
Ví dụ: Với các nhân tố khác không đổi, nếu NHTW muốn lãi suất tăng, thì áp
dụng chính sách tiền tệ thắt chặt, lãi suất thị trường sẽ tăng.
Lãi suất (i)

i1

Md

i0

O

M1

M0

Lượng tiền M

Lãi suất là một nhân tố tác động đến kinh tế vĩ mô, do đó, qua mô hình cung cầu

tiền cho thấy, NHTW tác động làm thay đổi lãi suất, qua đó tác động đến nền kinh
tế như một tổng thể.
* Khái quát về ngân hàng trung ương
1. Khái niệm: NHTW là một định chế công cộng, có thể độc lập hoặc trực thuộc
chính phủ; thực hiện chức năng độc quyền phát hành tiền, là ngân hàng của các
ngân hàng, ngân hàng của chính phủ và chịu trách nhiệm quả lý nhà nước về các
hoạt
động
quản

tiền
tệ,
tín
dụng,
ngân
hàng.
2. Định nghĩa: Ngân hàng trung ương (có khi gọi là ngân hàng dự trữ, hoặc cơ
quan hữu trách về tiền tệ) là cơ quan đặc trách quản lý hệ thống tiền tệ của quốc
gia/nhóm quốc gia/vùng lãnh thổ và chịu trách nhiệm thi hành chính sách tiền tệ.
Mục đích hoạt động của ngân hàng trung ương là ổn định giá trị của tiền tệ, ổn
định cung tiền, kiểm soát lãi suất, cứu các ngân hàng thương mại có nguy cơ đổ
vỡ. Hầu hết các ngân hàng trung ương thuộc sở hữu của Nhà nước, nhưng vẫn có
một mức độ độc lập nhất định đối với Chính phủ.
3. Vai trò của ngân hàng trung uơng
-. Ngân hàng trung ương là ngân hàng độc quyền phát hành tiền
- Ngân hàng trung ương là chủ ngân hàng của hệ thống các ngân hàng trung gia
- Ngân hàng trung ương là chủ ngân hàng, đại lý và cố vấn cho chính phủ
- Ngân hàng trung ương là ngân hàng trực tiếp quản lý dự trữ quốc gia
- Vai trò điều tiết kinh tế vĩ mô của ngân hàng trung ương



III Vai trò của ngân hàng trung ương trong việc điều tiết quan hệ cung – cầu
tiền tệ
1. Ngân hàng trung ương là ngân hàng độc quyền phát hành tiền: Nhằm đảm bảo
sự thống nhất và an toàn cho hệ thống tiền tệ quốc gia. Đồng tiền do NHTW là
đồng tiền lưu thông hợp pháp duy nhất, nó mang tính chất cưỡng chế lưu hành, vì
mọi người không có quyền từ chối nó trong thanh toán. Với vai trò phát hành độc
quyền tiền trên toàn quốc như phương tiện trao đổi, ngân hàng trung ương trực
tiếp quản lý cung ứng tiền mặt. Việc quản lý mức độ cung ứng tiền mặt là công cụ
thứ nhất giúp ngân hàng trung ương điều tiết mức cung ứng tiền tổng hợp. Với
việc độc quyền phát hành tiền thì chính phủ có thể điều chỉnh được lượng tiền lưu
thông để có thể kiểm soát lạm phát và từ đó có thể tăng giảm lãi suất để tăng
lượng cầu hay giảm lượng cầu ứng với mỗi thời điểm của nền kinh tế
2. Ngân hàng trung ương là chủ ngân hàng của hệ thống các ngân hàng trung gian,
NHTW không tham gia kinh doanh tiền tệ - tín dụng trực tiếp với các chủ thể
trong nền kinh tế mà chỉ thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng với các ngân hàng
trung gian
a. Ngân hàng trung ương là trung tâm thanh toán, chuyển nhượng, bù trừ của các
ngân hàng trung gian.Vai trò này giúp ngân hàng trung ương kiểm soát, theo dõi,
quản lý hoạt động của toàn bộ hệ thống tài chính trong nước. Mặt khác có thể
quản lý được lượng tín dụng ra vào trong hệ thống tài chính vào những thời điểm
nhất định.
b. Ngân hàng trung ương là ngân hàng quản lý dự trữ bắt buộc của hệ thống ngân
hàng trung gian. Tỷ lệ dữ trữ bắt buộc là khoản tiền mà các NH trung gian bắt
buộc phải gửi tại NHTW để đảm bảo khả năng chi trả của các NH này trước nhu
cầu cần rút tiền mặt của khách hàng. Được tính toán trên cơ sở số dư tiền gửi huy
động bình quân trong kỳ, thường là 1 tháng. Khoản tiền này không được NHTW
trả lãi suất. Chức năng ban đầu của khoản dự trữ bắt buộc này là nhằm hạn chế
khả năng rủi ro mất khả năng thanh khoản của hệ thống ngân hàng. Vì thế, khi tỉ lệ
dự trữ bắt buộc tăng lên, cung ứng tiền ngân hàng của hệ thống ngân hàng thương

mại và tổ chức tài chính cũng giảm ngay tức khắc và ngược lại. Bằng cách việc
quy định tỉ lệ dự trữ bắt buộc ngân hàng trung ương quản lý một cách chặt chẽ tốc
độ và cung ứng tiền ngân hàng của hệ thống ngân hàng trung gian. Tuy nhiên theo
thời gian ý nghĩa của các chức năng giảm dần do sự phát triển của thị trường tài
chính và chứng khoán hóa trong hoạt động ngân hàng thì, khả năng thanh khoản
của các tài sản có do NH nắm giữ và do đó khả năng đáp ứng nhanh nhu cầu về
tiền mặt của các NH tăng lên. Và hình thức bảo hiểm tiền gửi ra đời đã làm giảm
bớt nhu cầu rút tiền bất thường. Làm cho tỷ lệ dự trữ bắt buộc ngày càng giảm.


c. Ngân hàng trung ương cấp tín dụng cho các ngân hàng trung gian dưới hình
thức tái chiết khấu các chứng từ có giá do các ngân hàng trung gian nắm giữ.
Thông qua hành vi mua lại này, đã làm tăng lượng vốn khả dụng cho hoạt động
của ngân hàng trung gian, tạo điều kiện cho các ngân hàng trung gian mở rộng các
hoạt động tín dụng và khả năng thanh toán Việc cấp tín dụng của ngân hàng trung
ương cho các ngân hàng trung gian không chỉ giới hạn trong phạm vi các nghiệp
vụ tái chiết khấu các chứng từ có giá mà còn bao gồm cả các khoản cho vay ứng
trước có đảm bảo bằng các chứng khoán tiêu chuẩn, các khoản tiền gửi bằng ngoại
tệ tại NHTW. Do việc cấp tín dụng của NHTW gắn trực tiếp với việc phát hành ra
1 lượng tiền giấy bổ sung lưu thông nên các điều kiện tín dụng thường chặt chẽ,
được giới hạn bởi mức lãi suất chiết khấu, thời hạn và chủng loại chứng khoán cso
giá được chấp nhận chiết khấu.
d. Ngân hàng trung ương là cứu cánh cho vay cuối cùng của hệ thống ngân hàng
trung gian: Ngân hàng trung ương cho ngân hàng trung gian vay với phương thức
gọi là cho vay chiết khấu. Đó là hình thức cho vay qua cửa sổ chiết khấu. Lãi suất
của sự cho vay này là lãi suất chiết khấu. Ngân hàng trung ương là ngân hàng duy
nhất ít có khả năng vỡ nợ hay kẹt tiền mặt. Cho nên nó có thể cho ngân hàng trung
gian vay khi có yêu cầu. Như vậy khi ngân hàng trung ương tăng lãi suất chiết
khấu thì sẽ làm giảm lượng cung tiền của hệ thống ngân hàng trung gian, tức là
giảm lượng cung tiền trong toàn bộ nền kinh tế và ngược lại. Trong vai trò cứu

cánh cuối cùng với lãi suất cho mình quy định, ngân hàng trung ương dùng lãi suất
chiết khấu để điều tiết lượng tiền cung ứng của hệ thống ngân hàng trung gian và
của nền kinh tế. Tuy vậy, không phải tất cả các ngân hàng đều nhận được sự hỗ trợ
từ ngân hàng trung ương để tránh khỏi nguy cơ phá sản. Chỉ khi sự sụp đổ của
ngân hàng có ảnh hưởng lớn sự tồn tại và an toàn của cả hệ thống ngân hàng thì
NHTW mới can thiệp. Mức lãi suất cho vay của ngân hàng trung ương cũng
thường là lãi suất phạt và ngân hàng nhận hỗ trợ phải chịu nhiều quy định rất ngặt
nghèo của NHTW. Qua đây ta thấy được đây là một công cụ giúp chính phủ quản
lý nền kinh tế một cách vĩ mô.
3. Ngân hàng trung ương là trung tâm cho hệ thống ngân hàng trung gian: Vì các
ngân hàng trung gian đều mở tài khoản và ký gửi các khỏa dự trữ bắt buộc và dự
trữ dôi ra tại NHTW nên chúng thanh toán không sử dụng tiền mặt qua NHTW
thay vì thanh toán trực tiếp qua nhau. Khi đó, NHTW góp phần tiết kiệm chi phí
thanh toán cho các ngân hàng trung gian và toàn xã hội, đảm bảo vốn luân chuyển
nhanh cho hệ thống ngân hàng và phản ánh chính xác quan hệ thanh toán giữa các
chủ thể kinh tế trong xã hội.


Mặt khác, thông qua hoạt động này, NHTW có thể kiểm tra được sự biến động
vốn khả dụng của từng ngân hàng trung gian, là cơ sở để có giải pháp xử lý kiến
nghị kịp thời.
4. Ngân hàng trung ương là chủ ngân hàng, đại lý và cố vấn cho chính phủ
a. Ngân hàng trung ương là chủ ngân hàng của chính phủ: là chủ ngân hàng của
chính phủ.Thông qua vai trò là chủ ngân hàng của chính phủ với nghiệp vụ là cho
vay, ngân hàng trung ương làm thay đổi lượng tiền tệ trong nền kinh tế, nghĩa là
can thiệp vào những biến động của kinh tế vĩ mô
b. Ngân hàng trung ương là đại lý của chính phủ: Với tư cách là đại lý cho chính
phủ, ngân hàng trung ương thay mặt chính phủ tổ chức thu thuế qua hệ thống ngân
hàng của nó. Đồng thời nó thay mặt chính phủ trong các thỏa thuận tài chính, viện
trợ, vay mượn, chuyển nhượng và thanh toán với nước ngoài. Ngoài ra với tư cách

này nó có thể phát hành trái phiếu, cổ phiếu…cho chính phủ kể cả trong và ngoài
nước. Bằng việc phát hành trái phiếu, cổ phiếu…ngân hàng trung ương đã làm
trực tiếp tăng (giảm) lượng cung ứng tiền cho nền kinh tế. Và thông qua đó đã làm
tác động đến kinh tế vĩ mô.
c. Ngân hàng trung ương là cố vấn tài chính cho chính phủ: Ngân sách có tác động
khá quan trọng đến nền kinh tế vĩ mô vì nếu hoạt động của ngân sách không hài
hòa với chính sách tiền tệ nó sẽ làm cản trở hiệu quả của chính sách tiền tệ trong
điều tiết vĩ mô. Với lý do trên ngân hàng trung ương phải tham gia cố vấn cho
chính phủ trong chính sách tài chính và kinh tế. Với vai trò này ngân hàng trung
ương gián tiếp ảnh hưởng đến việc cung ứng trái phiếu của chính phủ và các hoạt
động chi tiêu khác cho hợp lý với ngân sách. Đây là một cách để điều tiết kinh tế
vĩ mô.
5. Ngân hàng trung ương là ngân hàng trực tiếp quản lý dự trữ quốc gia: Dự trữ
bao gồm: vàng, tiền tệ, …. Với tư cách là ngân hàng của chính phủ, ngân hàng
trung ương được giao phó nhiệm vụ quản lý dự trữ quốc gia. Khi nắm trong tay
công cụ này ngân hàng trung ương(NHTU) có thể can thiệt bất kì lúc nào vào thị
trường ngoại tệ để giữ giá đồng tiền trong nước, hay tăng hoặc giảm giá. NHTU
với nghiệp vụ mua bán trên thị trường vàng và ngoại tệ, nó tạo ra hai tác động
quan trọng là thay đổi cung ứng tiền và thay đổi tỉ giá hối đoái của đồng tiền trong
nước. Hai điều này tác động đến tổng cầu, sản xuất, thu nhập và giá cả và đương
nhiên điều này có tác động đến kinh tế vĩ mô.
6. Vai trò điều tiết kinh tế vĩ mô của ngân hàng trung ương
a. Mục tiêu trung gian trong điều tiết kinh tế thông qua điều tiết cung ứng tiền
Khi xem xét mục tiêu trung gian (lãi suất,dự trữ,tỷ giá) trong họat động điều tiết
kinh tế vĩ mô của ngân hàng trung ương, thì những mục tiêu này thực chất chỉ là
phương tiện giúp cho ngân hàng trung ương đạt được mục tiêu là điều tiết nền


kinh tế. Xét về ngắn hạn lãi suất, dự trữ, tỷ giá thay đổi ảnh hưởng một cách nhanh
chóng đến tiêu dùng và đầu tư và đến nền kinh tế. Từ đó về mặt ngắn hạn các nhà

kinh tế học xem ba tác nhân trên là những mục tiêu trung gian.
• Lãi suất
Lãi suất là tỉ lệ phần trăm giữa khỏan tiền ngưởi vay trả cho người cho vay trên
tiền vốn trong một khoảng thời gian nhất định như 1 năm, 1 tháng.

Giả sử lúc đầu lãi suất của thị trường tiền tệ là R0, ở mức lãi suất này nhu cầu tiêu
dùng của nhân dân là AD0 và sản lượng quốc gia là Y0.
Bây giờ cho rằng ngân hàng trung ương và chính phủ quyết định nâng lãi suất để
giảm lạm phát. Lãi suất cao hơn làm cho việc vay tiền trở nên khó khăn hơn do thế
sản xuất không dám tiêu dùng nhiều vốn và sản xuất có xu hướng giảm sút. Do lãi


suất cao nên người dân gửi tiền vào ngân hàng nhiều hơn và nhu cầu tiêu dùng
giảm xuống. Đường cầu AD0 dịch chuyển đến AD1. Tiêu dùng và đầu tư giảm
làm giá cả giảm từ P0 xuống P1, sản lượng tụt xuống Y1 và nền kinh tế đi vào tình
trạng suy thoái.
Ngược lại khi lãi suất hạ xuống R2, sản xuất sẽ tiêu dùng nhiều vốn hơn, sản xuất
được đẩy mạnh, lãi suất thấp người tiêu dùng sẽ tiết kiệm ít hơn và đầu tư và chi
tiêu nhiều hơn do đó cầu sẽ tăng lên. Giá cả cũng sẽ tăng và sản lượng quốc gia do
đó cũng tăng lên.
• Dự trữ
Khi ngân hàng trung ương sử dụng tỷ lệ dữ trự bắt buộc như một công cụ, nó tác
động trực tiếp đến cung ứng tiền. Lúc đó dự trữ bắt buộc là công cụ mà cung ứng
tiền là mục tiêu.
Khi ngân hàng trung ương không sử dụng cách điều tiết trực tiếp bằng việc áp đặt
tỷ lệ dựtrữ bắt buộc, nó có thể tác động đến dự trữ bắt buộc bằng cung ứng tiền.
Đó là cách điều tiết gián tiếp. Bằng việc bán chứng khoán ra để thu tiền về (giảm
lượng tiền trong lưu thông, tiền từ đó khan hiếm dần), từ đó mà lãi suất tăng lên và
làm giảm việc cho vay. Khi ngân hàng trung ương xuất tiền ra để mua chứng
khóan (tăng cung ứng tiền cho nền kinh tế, tiền dễ dàng để có hơn) do đó làm

giảm lãi suất, tăng khả năng cho vay. Trong trường hợp này cung ứng tiền là công
cụ mà dự trữ là mục tiêu.
• Tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái được xem là giá của một đồng tiền trên sự so sánh với một đồng
tiền nước khác ( kí hiệu là E).
Bằng việc thay đổi cung ứng tiền, ngân hàng trung ương có thể làm tăng hay giảm
giá đồng tiền nội địa so với nước ngòai. Khi ngân hàng trung ương tăng cung ứng
tiền từ LS0 lên LS2, có quá nhiều đơn vị tiền nội địa trong sự so sánh với nước
ngoài, hay nói cách khác chỉ cần ít tiền nước ngoài hơn để đổi lấy một đơn vị đồng
nội tệ, do vậy giá trị đồng tiền trong nước giảm từ RV0 xuống RV2 ( tỉ giá trao đổi
từ E0 lên E2 ). Trong trường hợp ngược lại, khi ngân hàng trung ương thắt chặt
tiền tệ, giảm cung ứng tiền xuống còn LS1, đồng tiền trong nước trở nên khan
hiếm hơn và từ đó giá trị đồng tiền trong nước tăng lên đến RV1. Tỉ giá trao đổi
giảm xuống E1.
Hay cũng có cách khác, là cách như Hoa Kì làm trong năm 1995. Hoa Kì bán
ngọai tệ để rút tiền nội địa về (thu hẹp cung ứng tiền) nhằm tăng giá đồng tiền nội
địa. Và bán đồng nội tệ để mua ngoại tệ (tăng cung ứng tiền) nhằm giảm giá đồng
nội tệ.
Khi đồng tiền trong nước bị mất giá (tức là với một đơn vị ngọai tệ có thể đổi
nhiều đồng nội tệ hơn) lúc đó sẽ làm gia tăng xuất khẩu (bán hàng ra nước ngòai
và thu tiền về bằng ngọai tệ, khi đổi ra nội tệ sẽ có lợi hơn do đồng nội tệ đã mất
giá hơn trước), do đó sẽ làm tăng GDP. Và khi đồng tiền nội tệ tăng giá sẽ làm
tăng nhập khẩu.
Do những lý do trên tỉ giá hối đoái có tác động đến kinh tế vĩ mô và nắm được tỉ
giá hối đoái này chính phủ cần ngân hàng trung ương điều tiết lượng cung ứng


tiền.
b. Các công cụ điều tiết
• Nghiệp vụ thị trường mở

Nghiệp vụ thị trường mở có 2 lọai: được phép mua bán chứng khóan vào những
thời điểm nhất định sau khi nghiệp vụ được tiến hành và lọai không được phép
mua bán lại.
Khi ngân hàng trung ương đem chứng khóan ra thị trường mở để bán nó thu tiền
hay séc về, cho nên:
+. Giảm lượng cung tiền mắt trong lưu thông từ đó giảm khả năng cho vay của các
ngân hàng trung gian.
+.Khi ngân hàng trung gian mua chứng khóan của ngân hàng trung ương thì dự trữ
tiền của nó sẽ giảm xuống và khả năng cung ứng tiền của nó bị thắt chặt.
+. Lượng chứng khoán tăng lên, chứng khoán trở nên thừa và giá của nó sẽ giảm
xuống, lãi suất của nó sẽ tăng lên. Lãi suất chứng khoán tăng lên buộc các ngân
hàng phải tăng lãi suất để tránh tình trạng người dân rút tiền ra khỏi ngân hàng để
đầu tư vào chứng khoán. Lãi suất ngân hàng tăng làm lượng tiền cung ứng giảm và
do đó tiền trở nên khan hiếm, do đó tỉ giá và giá cả hàng hóa giảm xuống. Và
ngược lại khi ngân hàng trung ương ra thị trường mở để mua chứng khoán.
Như vậy khi ngân hàng trung ương thực hiện nghiệp vụ bán, nó thắt chặt cung ứng
tiền, tăng lãi suất, giảm tỉ giá và giá cả hạ xuống và ngược lại khi thực hiện nghiệp
vụ mua.
• Lãi suất cho vay chiết khấu
Được ngân hàng trung ương quyết định trong cả hai trường hợp:
+ Cho vay bình thường với kí quỹ khi ngân hàng trung gian kẹt thanh toán.
+. Cho vay dưới hình thức cứu cánh cuối cùng.
Lãi suất cho vay chiết khấu có cả hai tác dụng: trực tiếp và gián tiếp. Tác động
gián tiếp là nó làm tăng, giảm lãi suất cho vay của ngân hàng trung gian và do đó
tác động đến cung ứng tiền và tín dụng. Tác động trực tiếp là nó làm tăng hay
giảm dự trữ của ngân hàng trung gian và do đó tác động đến lượng cho vay tiêu
dùng và đầu tư trong kinh tế.
Khi ngân hàng trung ương tăng lãi suất chiết khấu thì đó là biến cố quan trọng. Lãi
suất tăng khiến ngân hàng trung gian không thể vay mượn của ngân hàng trung
ương nhiều và dễ dàng như trước. Do đó nó phải giảm lượng cho vay và hậu quả

là tổng cầu và sản lượng giảm theo. Điều này cũng làm cho ngân hàng trung gian
ý thức rằng khi cần vay thì ngân hàng trung gian phải trã lãi suất cao, do đó ngân
hàng trung gian sẽ từ từ nâng lãi suất của mình để khỏi thiệt hại nặng khi phải vay
của ngân hàng trung ương. Lãi suất tiếp tục thắt chặt lượng cung tiền và tác động
đến nền kinh tế. Và ngược lại khi giảm lãi suất chiết khấu.
• Dự trữ bắt buộc
Sự thay đổi trong tỉ lệ dự trữ bắt buộc ảnh hưởng đến lượng cung của tiền và ảnh
huởng sâu sắc đến nền kinh tế.


• Chính sách tiền mặt
Ngoài việc có thể thay đổi cơ số tiền thông qua nghiệp vụ thị trường mở và cho
vay chiết khấu ngân hàng trung ương có thể có những cách khác như:
Khi ngân hàng tung tiền mặt ra mua ngọai tệ trên thị trưởng ngọai tệ, tức khắc nó
làm tăng giá trị của đồng ngọai tệ (ngọai tệ trong lưu thông ít đi, lượng tiền nội tệ
thì tăng thêm), nâng tỉ giá lên cao. Cung ứng tiền nội tệ tổng thể lập tức bành
trướng sau đó và ngược lại khi bán ngọai tệ.
Khi ngân sách chính phủ thâm hụt nó sẽ cho chính phủ vay, lượng tiền mặt nó cho
vay làm tăng lượgn tiền trong lưu thông và tăng cung ứng tiền trong nền kinh tế
thông qua việc chi tiêu của chính phủ.
Kết luận: Tiền tệ là một phần không thể thiếu trong cuộc sống của mỗi người
chúng ta, không chỉ thế nó còn giúp quá trình lưu thông hàng hóa trở nên dễ dàng,
ít tốn chi phí hơn trong việc trao đổi giữa những người bán. Tiền quan trọng như
vậy nên mỗi biến động của nó như tăng, giảm giá trị đều có ảnh hưởng lớn đến
cuộc sống của chúng ta, của nền kinh tế. Để giảm sự bất ổn đó, mỗi quốc gia
thường sẽ có ngân hàng trung ương phát hành, kiểm soát, đưa ra những giải pháp
để điều chỉnh tiền tệ giúp cho giá trị của tiền tệ ổn định trong dài hạn, để nền kinh
tế vận hành một cách hiệu quả, tăng trưởng bền vững hay phát triển nền kinh tế lâu
dài. Vì vậy, vai trò phát hành, kiểm soát của ngân hàng là vô cùng quan trọng, tuy
trên thế giới có các kiểu ngân hàng trung ương khác nhau, hiệu quả hoạt động

cũng khác nhau nhưng mục đích cuối cùng cũng là ổn định nền kinh tế trong dài
hạn, nâng cao đời sống nhân dân.



×