Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

Thực trạng và giài pháp thống nhất hệ thống thẻ ngân hàng tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.36 MB, 85 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Ngành ngân hàng Việt Nam trong những năm gần đây phát triển mạnh,
đặc biệt là hoạt động phát hành và thanh toán thẻ không ngừng gia tăng về
nhiều mặt như số lượng chủ thẻ, doanh số thanh toán, số lượng máy ATM, số
lượng ĐVCNT, các tính năng của sản phẩm thẻ,…Dịch vụ thẻ Ngân hàng
phát triển đã mang lại nhiều tiện ích cho cả người sử dụng, ngân hàng và cho
toàn xã hội.
Tuy nhiên theo nhận định của nhiều chuyên gia kinh tế, đây là sự phát
triển “ồ ạt” thiếu tính liên kết, chưa có tính cạnh tranh cao, khó tạo đà cho
phát triển lâu dài, bền vững. Vì vậy, vấn đề đặt ra cho nền kinh tế Việt Nam là
làm sao để thống nhất được hệ thống thẻ Ngân hàng, xây dựng tương lai tươi
sáng cho phương thức thanh toán hiện đại này.
2.Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu và đánh giá thực trạng hệ thống thẻ Ngân hàng tại Việt Nam,
chỉ ra thành tựu đạt được và hạn chế còn tồn tại. Từ đó xây dựng nên các giải
pháp nhằm thống nhất thị trường thẻ trong nước.
3.Đối tượng nghiên cứu
Tìm hiểu về lý luận một cách tổng quan về thẻ thanh toán và bài học
kinh nghiệm từ các thị trường thẻ phát triển trên thế giới. Sau đó phân tích
thực trạng hoạt động kinh doanh thẻ tại các NHTM Việt Nam. Trên cơ sở
nghiên cứu lý thuyết và tình hình thực tế, đưa ra các giải pháp, kiến nghị để
thống nhất hệ thống thẻ Ngân hàng, góp phần nâng cao uy tín, thương hiệu và
hiệu quả kinh doanh cho các NHTM.
4.Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu, đề tài đã sử dụng các phương
1


pháp nghiên cứu bao gồm: phương pháp hệ thống hóa, so sánh, thống kê,
phân tích, tổng hợp và luận giải nhằm làm sáng tỏ những vấn đề đặt ra trong


quá trình nghiên cứu.
Nguồn dữ liệu được thu thập từ các báo cáo của các tổ chức nghiên cứu
thị trường quốc tế; thống kê, báo cáo của Chính phủ, NHNN, Hiệp hội Ngân
hàng Việt Nam và các NHTM trong nước cũng như quốc tế; các tạp chí, các
website có liên quan do chính tác giả tổng hợp và xử lý.
5.Giới hạn đề tài
Đề tài được nghiên cứu trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam trong khoảng
thời gian từ những năm 1990 khi thẻ thanh toán bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam
đến tháng 4/2011.
6.Cấu trúc khóa luận
Ngoài danh mục từ viết tắt. danh mục bảng biểu, mục lục và danh mục
tài liệu tham khảo, nội dụng chính của khóa luận gồm ba chương:
Chương I: Cơ sở lý luận
Chương II: Thực trạng hệ thống thẻ Ngân hàng tại Việt Nam.
Chương III: Giải pháp thống nhất hệ thống thẻ Ngân hàng tại Việt Nam.

2


CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Tổng quan về NHTM và dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt của
NHTM
1.1. NHTM và hoạt động cơ bản của NHTM
1.1.1. Khái niệm
NHTM là thuật ngữ khá phổ biến trên thế giới, đã hình thành và tồn tại từ
rất lâu gắn liền sự phát triển của kinh tế hàng hoá. Sự phát triển của hệ thống
NHTM đã có tác động lớn và quan trọng đến quá trình phát triển của nền kinh
tế hàng hoá; ngược lại kinh tế hàng hoá phát triển mạnh mẽ đến giai đoạn cao
của nó- kinh tế thị trường- thì NHTM cũng ngày càng được hoàn thiện và trở
thành định chế tài chính không thể thiếu được.

Theo đạo luật ngân hàng của Pháp năm 1941: NHTM là những Xí nghiệp
hay cơ sở mà nghề nghiệp thường xuyên là nhận tiền bạc của công chúng dưới
hình thức ký thác, hoặc dưới các hình thức khác và sử dụng tài nguyên đó cho
chính họ trong các nghiệp vụ về chiết khấu, tín dụng và tài chính.
Theo luật NHNN Việt Nam năm 2010: Hoạt động ngân hàng là việc kinh
doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc một số nghiệp vụ sau đây: nhận tiền
gửi, cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản.
Như vậy, NHTM là trung gian tài chính quan trọng vào loại bậc nhất trong
nền kinh tế thị trường. Nhờ hệ thống định chế này mà các nguồn tiền nhàn rỗi
sẽ được huy động, tạo lập nguồn vốn tín dụng to lớn để có thể cho vay cũng
như thực hiện các dịch vụ thanh toán nhằm mục tiêu phát triển kinh tế.
1.1.2. Hoạt động cơ bản của NHTM
Trích điều 98 Luật các tổ chức tín dụng 2010 về hoạt động ngân hàng của
NHTM, NHTM có các hoạt động cơ bản sau:
• Nhận tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và
các loại tiền gửi khác.
3


• Phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu để huy động vốn trong
nước và nước ngoài.
• Cấp tín dụng dưới các hình thức:
-

Cho vay;

-

Chiết khấu, tái chiết khấu công cụ chuyển nhượng và giấy tờ có giá
khác;


-

Bảo lãnh ngân hàng;

-

Phát hành thẻ tín dụng;

- Bao thanh toán trong nước; bao thanh toán quốc tế đối với các ngân
hàng được phép thực hiện thanh toán quốc tế;
- Các hình thức cấp tín dụng khác sau khi được NHNN chấp nhận.
• Mở tài khoản thanh toán cho khách hàng.
• Cung ứng các phương tiện thanh toán.
• Cung ứng các dịch vụ thanh toán sau đây:
- Thực hiện dịch vụ thanh toán trong nước bao gồm séc, lệnh chi, ủy
nhiệm chi, nhờ thu, ủy nhiệm thu, thư tín dụng, thẻ ngân hàng, dịch vụ
thu hộ và chi hộ;
- Thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế và các dịch vụ thanh toán khác
sau khi được NHNN chấp nhận;
1.2. Dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt của NHTM
1.2.1. Định nghĩa
Theo giáo trình “Tín dụng ngân hàng” (PGS.TS Nguyễn Đăng Dờn Nxb
Thống kê 8/2005): TTKDTM là quan hệ thanh toán được thực hiện và tiến
hành bằng cách trích chuyền tiền từ tài khoản của đơn vị này sang tài khoản
của đơn vị khác hoặc bù trừ lẫn nhau giữa các đơn vị thông qua ngân hàng.

4



1.2.2. Ðặc điểm
TTKDTM có các đặc điểm sau:
• Trong TTKDTM, sự vận động của vật tư hàng hóa độc lập với sự vận
động của tiền tệ cả về thời gian lẫn không gian, thường không ăn khớp với
nhau. Nếu như trong thanh toán bằng tiền mặt, vận động của hàng hóa gắn
liền với vận động của tiền tệ, thì trong TTKDTM người bán có thể thu được
tiền trước hoặc sau khi xuất hàng hóa cho người mua. Sự tách rời về mặt
thời gian và không gian trong quá trình thanh toán đặt ra yêu cầu cho ngân
hàng khi tổ chức hệ thống TTKDTM là phải rút ngắn khoảng cách giữa tiền
và hàng.
• Trong TTKDTM, vật trung gian trao đổi (tiền mặt) không xuất hiện
như thanh toán bằng tiền mặt theo kiểu hàng-tiền-hàng (H-T-H), mà chỉ xuất
hiện dưới hình thức tiền tệ kế toán (tiền ghi sổ) và được ghi chép trên các
chứng từ, sổ sách kế toán (gọi là tiền chuyển khoản). Ðây là đặc điểm riêng
của thanh toán không dùng tiền mặt. Với đặc điểm này thì mỗi bên tham gia
thanh toán (chủ yếu là người mua) buộc phải mở tài khoản tại ngân hàng và
phải có tiền trên tài khoản đó, bởi vì nếu không như vậy thì việc thanh toán sẽ
không thực hiện được
• Khác với thanh toán bằng tiền mặt chỉ là quan hệ trực tiếp giữa người
mua và người bán, trong TTKDTM, ngoài chủ thể chịu trách nhiệm thanh
toán và chủ thể được thụ hưởng, còn có sự tham gia của ít nhất một ngân
hàng. Quá trình TTKDTM được diễn ra tại ngân hàng, nên ngân hàng có một
vai trò lớn và không thể “vắng mặt” trong thanh toán qua ngân hàng, vừa là
người tổ chức, vừa là người thực hiện các khoản thanh toán.

1.2.3. Tác dụng
5


Với các đặc điểm như trên, TTKDTM có tác dụng:

• Trực tiếp thúc đẩy quá trình vận động của vật tư, hàng hoá trong nền
kinh tế, thông qua đó các mối quan hệ kinh tế lớn sẽ được giải quyết, nhờ vậy
mà quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá được bình thường.
• Nhờ tổ chức tốt công tác thanh toán, mà cho phép ngân hàng tập trung
ngày càng nhiều các khoản vốn tiền tệ trong nền kinh tế, làm tăng thêm nguồn
vốn tín dụng để đầu tư vào các quá trình tái sản xuất của xã hội, cũng chính
nhờ đó mà rút bớt một lượng tiền mặt trong lưu thông, tiết kiệm nhiều chi phí
cho xã hội (chi phí in ấn, bảo quản, vận chuyển tiền) tạo điều kiện để làm tốt
công tác quản lý tiền tệ.
• Thông qua việc tổ chức TTKDTM hạn chế được những thiệt hại, khắc
phục và ngăn chặn được những tiêu cực có thể xảy ra trong sản xuất kinh
doanh của các đơn vị.
2. Giới thiệu về thẻ Ngân hàng
2.1. Lịch sử hình thành và phát triển của thẻ Ngân hàng
Lịch sử ra đời của thẻ Ngân hàng được thừa nhận là vào thời kỳ hưng
thịnh của nền kinh tế thế giới những năm 30 của thế kỷ trước và đặc biệt sau
cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933 mà hậu quả là nền kinh tế thế
giới bị tàn phá nặng nề.
Để góp phần khắc phục ảnh hưởng của cuộc đại khủng hoảng kinh tế
1929-1933, hệ thống cửa hàng bán lẻ của các nước giàu đã đưa ra một hình
thức tài trợ tiêu dùng: bán chịu, nhằm khuyến khích tiêu dùng, tăng doanh thu
và góp phần đẩy mạnh nền kinh tế phát triển sau chiến tranh của các nước lúc
bấy giờ.
Mặc dù thương phiếu là công cụ tín dụng thương mại, nhưng đặc điểm
và cơ chế sử dụng lại khá phức tạp, không thích hợp với việc triển khai đại trà
phương thức bán chịu ở mọi nơi, đa dạng trong thanh toán, đa phương trong
sử dụng. Nhu cầu có một loại công cụ tín dụng sử dụng linh hoạt hơn để có
6



thể thanh toán tại tất cả các điểm bán hàng trở nên cấp thiết và điều này thúc
đẩy các tổ chức tài chính vào cuộc, trong đó phải kể đến Ngân hàng. Thẻ
Ngân hàng ra đời từ thời điểm đó.
Năm 1946, dạng đầu tiên của thẻ Ngân hàng là Charge.it của Ngân
hàng John Biggins xuất hiện tại Mĩ, cho phép khách hàng thực hiện các giao
dịch nội địa bằng các phiếu có giá trị do Ngân hàng phát hành. Các đại lý nộp
lại các phiếu cho Ngân hàng Biggins; Ngân hàng sẽ thanh toán các giao dịch
đó cho các đại lý và thu tiền về từ khách hàng. Hệ thống này là tiền đề cho
việc phát triển thẻ tín dụng Ngân hàng đầu tiên của Ngân hàng Franklin
National vào năm 1951.
Vào năm 1949, Frank Mc. Namara, một thương nhân Mĩ, trong một lần
ăn tối tại nhà hàng ở New York đã phát hiện ra mình quên không mang theo
tiền mặt và phải gọi điện cho vợ nhanh chóng mang tiền đến thanh toán. Tình
trạng khó xử đó khiến ông tìm tòi nghiên cứu ra một phương tiện TTKDTM.
Mc Namara lần đầu tiên cho ra đời loại thẻ Diner Club. Đến năm 1951, hơn
một triệu USD được tính nợ, số lượng thẻ ngày càng tăng lên, công ty phát
hành thẻ Diners nhanh chóng thu được lãi.
Năm 1955, hàng loạt thẻ mới ra đời như Trip Charge, Golden Key,
Gourmet Club, Esquire Club, và đến năm 1958 thẻ Carde Blanche, American
Express ra đời và thống lĩnh thị trường. Phần lớn các thẻ chỉ dành cho giới
doanh nhân trong khi các Ngân hàng đã dự cảm rằng giới bình dân mới là đối
tượng sử dụng thẻ chủ yếu trong tương lai.
Năm 1966, các Ngân hàng lớn của Hoa Kỳ thành lập Hiệp hội thẻ liên
ngân hàng quốc tế (Interbank Card Association – ICA) phát hành thẻ Master
Card và được sử dụng rộng rãi trên phạm vi toàn thế giới từ năm 1979 đến nay.
Cùng với Hoa Kỳ, các nước kinh tế phát triển ở Châu Âu và sau đó là ở
Châu Á, đặc biệt là Nhật Bản, thẻ Ngân hàng được sử dụng ngày một rộng rãi
với chất lượng phát triển rất cao nhờ sự phát triển công nghệ kỹ thuật số.
7



Như vậy, thẻ Ngân hàng đã trải qua gần một thế kỷ sử dụng và phát
triển. Trong thời gian này, thẻ Ngân hàng nổi lên một số thẻ điển hình như sau:
• Thẻ Diners Club: Là loại thẻ du lịch và giải trí do tổ chức thẻ tự phát
hành vào năm 1949 tại Hoa Kỳ.
• Thẻ American Express: Năm 1958, tổ chức American Express phát
hành thẻ tín dụng Green Amex, không có hạn mức tín dụng, chủ thẻ được tiêu
tiền trước và sau đó có trách nhiệm trả tiền một lần vào cuối tháng. Năm
1987, Amex cho ra đời thêm 3 loại thẻ mới là Amex Gold, Amex Platinum và
Optima. Đây là tổ chức thẻ du lịch và giải trí lớn nhất thế giới, trực tiếp phát
hành và quản lý chủ thẻ, không cấp giấy phép để trở thành thành viên cho các
tổ chức khác.
• Thẻ Visa: Thẻ Visa credit cards tiền thân là Bank Americard do Ngân
hàng Mỹ (Bank of America) phát hành, được đổi tên thành thẻ Visa vào năm
1977. Tổ chức thẻ Visa quốc tế hình thành và phát triển, không trực tiếp phát
hành thẻ mà giao lại cho các thành viên khiến Visa có thể nhanh chóng mở
rộng thị trường.
• Thẻ JCB: Loại thẻ du lịch giải trí xuất hiện ở Nhật Bản từ năm 1961 bởi
Ngân hàng Sanwa, bắt đầu phát triển thành cơ sở quốc tế vào năm 1981.
• Thẻ Master Card: Năm 1966, để cạnh tranh với Bank of America, 14
Ngân hàng Hoa Kỳ liên kết thành lập Hiệp hội thẻ liên ngân hàng quốc tế
(Interbank Card Association – ICA) và cho ra đời Master Charge. Năm 1979,
Master Charge đổi tên thành Master Card và trở thành tổ chức thẻ thanh toán
quốc tế lớn thứ hai sau Visa.
2.2. Khái niệm và lợi ích của thẻ Ngân hàng
2.2.1. Khái niệm

8



Theo giáo trình “Thanh toán quốc tế” (GS.NGƯT.Đinh Xuân Trình- Nxb
Lao động xã hội- 2006): Thẻ Ngân hàng là một công cụ tín dụng do tổ chức
tài chính phát hành và cấp cho khách hàng (gọi là chủ thẻ), trong đó dành
quyền cho khách hàng có thể dùng nó nhiều lần để rút tiền mặt cho chính
mình hoặc ra lệnh rút một số hoặc tất cả số tiền hiện có trên tài khoản mở ở tổ
chức phát hành thẻ để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ cho các ĐVCNT
(người cung ứng dịch vụ, hàng hóa).
Tổ chức phát hành thẻ thường bao gồm nhiều đơn vị như các trung gian tài
chính, các trung tâm thanh toán bù trừ, các tập đoàn thương mại, du lịch…Tuy
nhiên, Ngân hàng là tổ chức phát hành thẻ chủ yếu trong nền kinh tế quốc dân.
2.2.2. Lợi ích của thẻ Ngân hàng
• Tính tiện lợi: là một công cụ tín dụng thay cho tiền mặt thực hiện chức
năng phương tiện lưu thông, thẻ Ngân hàng tạo cho khách hàng sự tiện lợi mà ít
có công cụ thanh toán nào có thể sánh được. Đặc biệt, trong lĩnh vực thanh toán
quốc tế, thẻ Ngân hàng có thể dùng để thanh toán ở bất cứ nơi nào mà không
cần mang theo tiền mặt hay séc du lịch, không phụ thuộc vào quy mô số tiền họ
cần thanh toán. Thẻ được coi như là công cụ thanh toán phi thương mại.
• Tính an toàn và nhanh chóng: Chủ thẻ có thể tiếp cận trực tiếp với tài
khoản của mình mở ở Ngân hàng từ Hệ thống chuyển tiền điện tử (Electronic
Funds Transfer System – EFTS), mà điển hình là hệ thống máy ATM. Qua
máy ATM, chủ thẻ có thể rút tiền mặt, chuyển khoản, xem số dư Có tài khoản
của mình, thậm chí có thể nạp tiền vào tài khoản của mình qua máy ATM.
Nhờ vào hệ thống thanh toán bù trừ liên Ngân hàng (Clearing House
Interbank Payment System – CHIPS) mà người ta đã kết nối máy ATM của
nhiều Ngân hàng với nhau ở trong nước và ngoài nước khiến cho việc thanh
toán trở nên hết sức nhanh chóng. Lệnh rút tiền của thẻ chỉ được máy tiếp
nhận nếu như máy được nhập mã số cá nhân PIN chính xác. Khác với séc, chữ
ký của người ký phát thẻ là chữ ký không thay đổi và phù hợp với mẫu chữ ký
9



đã đăng ký tại Ngân hàng, mã số cá nhân PIN thực sự là chữ ký điện tử, chữ
ký này luôn có thể thay đổi nhằm đảm bảo bí mật của thẻ. Sự thay đổi này là
do chủ thẻ tự thực hiện và chỉ có chủ thẻ biết được mã PIN của mình. Nhờ
vào kỹ thuật này, sử dụng thẻ an toàn hơn sử dụng séc.
• Tính linh hoạt: Nhờ vào hai tính năng ưu việt nêu trên của thẻ Ngân
hàng, cho nên, thẻ Ngân hàng phát triển rất đa dạng với nhiều chủng loại khác
nhau thích hợp với mọi đối tượng trong xã hội. Đối với đối tượng khách hàng
thu nhập thấp, có loại thẻ thường, với khách hàng thu nhập cao, có loại thẻ
vàng. Đối với khách hàng có nhu cầu vay mượn tại Ngân hàng, có loại thẻ tín
dụng. Thẻ tín dụng lại chia thành loại có hạn mức, loại không có hạn mức,
loại vay một lần, loại vay tuần hoàn.
2.3. Phân loại thẻ
2.3.1.Theo công nghệ sản xuất
Thẻ khắc chữ nổi: là loại thẻ được làm dựa trên kĩ thuật khắc chữ nổi, trên
bề mặt được khắc nổi những thông tin cần thiết. Hiện nay, người ta không còn
sử dụng loại thẻ này nữa vì kĩ thuật thô sơ dễ bị lợi dụng làm giả.
Thẻ từ tính: là loại thẻ được sản xuất dựa trên kĩ thuật gắn kết băng từ tính ở
phía sau thẻ. Các băng từ tính này sẽ chứa thông tin được mã hoá. Thẻ này được
sử dụng phổ biến trong vòng 20 năm trở lại đây. Thẻ từ tính có nhược điểm là dễ
bị lộ thông tin cá nhân của chủ thẻ do người ta có thể đọc được bằng công nghệ
máy tính.
Thẻ thông minh: là loại thẻ thế hệ mới được gắn chip điện tử nhờ đó có
tính an toàn bảo mật rất cao. Kỹ thuật chip điện tử là kỹ thuật hiện đại nhất
của CNTT. Do đó, khả năng làm giả thẻ thông minh rất khó. Tuy vậy, do là
công nghệ mới, có giá thành cao nên việc sử dụng loại thẻ này mới chỉ phổ
biến ở các nước phát triển.
2.3.2. Theo tính chất thanh toán của thẻ
10



Thẻ tín dụng: là loại thẻ cho phép chủ thẻ sử dụng với hạn mức tín dụng
nhất định để thanh toán các khoản giao dịch về mua hàng hoá và dịch vụ mà
không cần phải làm đơn xin vay Ngân hàng. Để khuyến khích khách hàng sử
dụng dịch vụ thẻ của mình, NHPH thẻ thường cấp cho chủ thẻ một thời hạn
ưu đãi không tính lãi khi sử dụng thẻ. Thời hạn này dài ngắn có thể khác nhau
tuỳ theo chính sách tín dụng của Ngân hàng.
Thẻ ghi nợ: là loại thẻ do Ngân hàng phát hành cho người có tài khoản
tiền gửi tại Ngân hàng, cho phép chủ thẻ dùng thẻ để thanh toán cho chủ hàng
toàn bộ hay một phần số dư của tài khoản. Việc thanh toán này được tiến hành
trên cơ sở chuyển khoản tiền từ tài khoản của chủ thẻ sang tài khoản của
người bán hàng. Chủ thẻ được chi tiêu trong phạm vi mình có, nhưng để gia
tăng tính cạnh tranh sản phẩm thẻ của mình, các Ngân hàng có thể cấp cho
chủ thẻ một mức thấu chi.
Thẻ rút tiền mặt: là loại thẻ với chức năng chuyên biệt để rút tiền mặt tại
các máy ATM hoặc tại các Ngân hàng. Chủ thẻ phải chuyển tiền vào tài
khoản mở ở Ngân hàng hoặc phải được cấp tín dụng thấu chi mới sử dụng thẻ
được. Số tiền rút ra mỗi lần sẽ được trừ dần vào số tiền trên tài khoản tiền gửi.
Thẻ trả trước: Khách hàng bỏ tiền ra mua thẻ thanh toán. Mỗi một loại thẻ
có một mệnh giá chuẩn. Mỗi lần sử dụng thẻ thì số tiền trên thẻ bị trừ dần. Thẻ
này thường được sử dụng để mua bán hàng hoá có giá trị tương đối nhỏ như
xăng dầu ở các trạm bán xăng tự động, gọi điện thoại, thanh toán phí cầu đường.
2.3.3. Theo mục đích sử dụng
Thẻ công ty: là loại thẻ được phát hành cho nhân viên của công ty sử
dụng, nhằm giúp công ty quản lý chặt chẽ việc chi tiêu vào các công việc
chung của nhân viên công ty mình. Hàng tháng, hàng quý, hàng năm công ty
sẽ được cung cấp những thông tin quản lý một cách tóm tắt và chi tiết về
những chi tiêu này.

11



Thẻ du lịch và giải trí: là loại thẻ do các tập đoàn hay công ty tư nhân lớn
phát hành để phục vụ cho ngành du lịch và giải trí.
2.3.4. Theo đối tượng sử dụng
Thẻ chuẩn: là loại thẻ tín dụng do Master Card phát hành. Đây là loại thẻ
căn bản nhất, mang tính chất phổ thông đại chúng, được hơn 142 triệu người
trên thế giới sử dụng mỗi ngày.
Thẻ vàng: là loại thẻ phục vụ cho thị trường cao cấp với các khách hàng có
thu nhập cao, phát hành cho các đối tượng có uy tín, có khả năng tài chính lành
mạnh, có nhu cầu chi tiêu lớn. Thẻ vàng thường là thẻ tín dụng do hệ thống
Master Card phát hành. Loại thẻ này có hạn mức tín dụng lớn hơn thẻ chuẩn.
2.4. Nghiệp vụ phát hành và thanh toán thẻ
2.4.1. Nghiệp vụ phát hành thẻ
Hoạt động phát hành thẻ ở mỗi quốc gia, mỗi Ngân hàng có thể khác nhau về
thủ tục và các điều kiện do có nhiều yếu tố ràng buộc về luật pháp, chính trị hay
kinh tế xã hội. Tuy nhiên, xét một cách toàn diện, nó bao gồm các nội dung:
Bước 1: Yêu cầu phát hành
Khi một khách hàng có nhu cầu sử dụng thẻ, NHPHT yêu cầu khách hàng
cung cấp các hồ sơ, chứng từ cần thiết. Hồ sơ chứng từ này có thể khác nhau
tuỳ thuộc vào từng Ngân hàng, từng quốc gia trên thế giới nhưng về cơ bản là
để chứng minh nhân thân của khách hàng, khả năng thanh toán của khách
hàng cũng như của các tổ chức, cá nhân có quan hệ.
Bước 2: Phát hành thẻ
Sau khi thẩm định, nếu thấy đủ điều kiện Ngân hàng sẽ phát hành thẻ cho
khách hàng, đồng thời hướng dẫn cách sử dụng và bảo quản thẻ.
2.4.2. Sử dụng thẻ trong thanh toán
Sau khi được cấp thẻ, chủ thẻ có thể sử dụng thẻ để thanh toán tiền hàng
hoá dịch vụ hay rút tiền mặt tại các cơ sở chấp nhận thẻ. Quy trình thanh toán
thẻ bao gồm các bước:

12


Bước 1: Chấp nhận thẻ
ĐVCNT kiểm tra khả năng thanh toán của thẻ. Nếu số tiền thanh toán nhỏ
hơn hạn mức cho phép của NHPHT thì ĐVCNT chỉ cần kiểm tra bảng tin cảnh
giác (warning bulletin) để đảm bảo tính hiệu lực của thẻ. Nếu số tiền thanh toán
lớn hơn hạn mức cho phép thì ĐVCNT cũng phải xin chuẩn chi của NHTTT
bằng điện thoại, telex (nếu là máy cà tay) hoặc truyền thông tin giao dịch (nếu
là thiết bị đọc thẻ điện tử). Các thông tin này sẽ lần lượt được truyền qua hệ
thống mạng của tổ chức thẻ quốc tế về NHPHT và phản hồi cho ĐVCNT.
Bước 2: Cung cấp hàng hoá dịch vụ
Nếu nhận được mã chuẩn, ĐVCNT yêu cầu chủ thẻ ký tên lên hoá đơn và
so sánh chữ ký đó và chữ ký mẫu trên thẻ. Sau đó đơn vị chấp nhận thẻ cung
cấp hàng hoá, dịch vụ cho chủ thẻ cùng với một liên hoá đơn.
Bước 3: Nộp hoá đơn
Với máy cà tay, ĐVCNT lập hoá đơn và bản sao kê nộp cho NHTTT
(không quá 5 ngày kể từ khi thương vụ xảy ra)
Với thiết bị đọc thẻ điện tử, dữ liệu thanh toán được truyền về NHTTT và
hoá đơn nộp định kỳ.
Bước 4: Thanh toán cho ĐVCNT
NHTTT sau khi kiểm tra tính hợp lệ của các thông tin trên hoá đơn, sẽ ghi
Nợ tạm ứng thanh toán thẻ, ghi Có cho ĐVCNT .
Bước 5: Gửi thông tin dữ liệu
NHTTT tổng hợp toàn bộ hoá đơn, chứng từ về các giao dịch và gửi đến
trung tâm (tổ chức thẻ quốc tế).
Bước 6: Xử lý bù trừ thanh toán
Trung tâm ghi Nợ và báo Nợ cho NHPHT, ghi Có và báo Có cho NHTTT
số tiền giao dịch sau khi trừ phí trao đổi thông tin.
Bước 7: NHPHT chấp nhận thanh toán


13


Sau khi nhận được thông tin từ thông tin từ trung tâm, nếu không có khiếu
nại gì, NHPHT chấp nhận thanh toán cho trung tâm.
Bước 8: Thông báo cho chủ thẻ
Định kỳ hàng tháng, NHPHT lập bảng thông báo giao dịch gửi đến cho
chủ thẻ và yêu cầu chủ thẻ thanh toán.
Bước 9: Thanh toán cho NHPHT
Sau khi nhận được bảng thông báo giao dịch, nếu không thấy có sai sót gì,
chủ thẻ tiến hành thanh toán cho NHPHT.
3. Hoạt động kinh doanh thẻ Ngân hàng
3.1. Các chủ thể tham gia trên thị trường thẻ
Các chủ thẻ tham gia trên thị trường thẻ bao gồm:
3.1.1. Chủ thẻ
Chủ thẻ có thể là cá nhân hoặc là người được các công ty uỷ quyền nếu là
thẻ công ty được NHPH cấp thẻ để sử dụng. Chỉ có chủ thẻ mới có quyền sử
dụng thẻ đứng tên mình để thanh toán tiền hàng hoá dịch vụ hay rút tiền mặt
trong giới hạn Ngân hàng quy định. Chủ thẻ gồm chủ thẻ chính và chủ thẻ phụ.
Chủ thẻ chính: là người đứng tên xin cấp thẻ và được NHPH cấp thẻ để
sử dụng.
Chủ thẻ phụ: là người được cấp thẻ theo đề nghị của chủ thẻ chính.
Chủ thẻ có quyền hạn và nghĩa vụ:
• Quyền sử dụng thẻ để thanh toán hay rút tiền mặt tại máy ATM; khiếu
nại NHPHT trong trường hợp do lỗi của ngân hàng.
• Nghĩa vụ cung cấp đầy đủ và chính xác các thông tin cần thiết khi yêu
cầu phát hành thẻ; thanh toán đầy đủ và đúng hạn cho NHPHT các khoản vay,
lãi và phí theo quy định.
3.1.2. NHPHT

NHPHT là Ngân hàng được NHNN cho phép thực hiện nghiệp vụ phát
hành thẻ. Đối với thẻ nội địa, NHPHT phải có năng lực tài chính, không vi
14


phạm pháp luật, đảm bảo hệ thống trang thiết bị phù hợp tiêu chuẩn an toàn
cho hoạt động phát hành và thanh toán thẻ, có đội ngũ cán bộ đủ năng lực
chuyên môn để vận hành và quản lý. Đối với thẻ quốc tế, NHPHT phải được
NHNN cấp giấy phép hoạt động ngoại hối và cho phép thực hiện dịch vụ
thanh toán quốc tế, phải là thành viên của tổ chức thẻ quốc tế.
NHPHT có quyền hạn và nghĩa vụ:
• Quyền chấp nhận có phát hành thẻ hay không; thu các khoản lãi và phí
trong các hoạt động phát hành và thanh toán thẻ; yêu cầu NHTT và ĐVCNT
cung cấp thông tin và thực hiện các biện pháp cần thiết nhằm đảm bảo an toàn
trong hoạt động thanh toán thẻ.
• Nghĩa vụ tuân thủ các quy định về phát hành thẻ của các tổ chức thẻ quốc
tế và NHNN; đăng ký mẫu thẻ và nhãn hiệu thương mại in trên thẻ tại NHNN;
thanh toán đầy đủ kịp thời cho NHTT và ĐVCNT theo đúng hợp đồng.
3.1.3. NHTTT
NHTTT là Ngân hàng chỉ làm chức năng trung gian thanh toán giữa chủ thẻ
và NHPHT. NHTTT nhận thanh toán thẻ qua mạng lưới các đơn vị chấp nhận
thẻ mà nó ký hợp đồng thanh toán thẻ. Khi tham gia thanh toán thẻ, NHTTT thu
được các khoản phí chiết khấu đại lý, đồng thời cung cấp các dịch vụ đại lý khác
cho các ĐVCNT như: dịch vụ thấu chi; xử lý tổng kết; giải quyết khiếu nại; thắc
mắc cho các ĐVCNT.
NHTTT có quyền hạn và nghĩa vụ:


Quyền yêu cầu NHPHT thanh toán đầy đủ và kịp thời theo đúng hợp


đồng; yêu cầu ĐVCNT hoàn trả tiền đối với các giao dịch thực hiện không
đúng hợp đồng, thu giữ thẻ không hợp lệ; yêu cầu ĐVCNT cung cấp các
thông tin cần thiết liên quan đến các giao dịch của chủ thẻ tại ĐVCNT.


Nghĩa vụ hướng dẫn các biện pháp, quy trình kĩ thuật nghiệp vụ và bảo

mật trong thanh toán thẻ đối với ĐVCNT theo quy định của NHPH và phải chịu
15


trách nhiệm về các thiệt hại gây ra do không thực hiện đúng các quy định đó;
cung cấp kịp thời và đầy đủ bản tin cảnh giác do tổ chức thẻ quốc tế cung cấp.
3.1.4. ĐVCNT
ĐVCNT là đơn vị bán hàng hoá, dịch vụ có ký kết hợp đồng chấp nhận
thanh toán thẻ với NHTTT hoặc với NHPHT. ĐVCNT có thể là nhà hàng,
khách sạn, sân bay, cửa hàng, siêu thị hay các đơn vị nhận ứng tiền mặt, các
Ngân hàng đại lý.
ĐVCNT có quyền hạn và nghĩa vụ:
• Quyền yêu cầu NHPHT, NHTTT thanh toán một cách đầy đủ, kịp thời
các giao dịch thẻ được thực hiện theo đúng hợp đồng; kiểm tra tính hiệu lực
của thẻ, từ chối chấp nhận thẻ không theo tiêu chuẩn của NHPHT hoặc
NHTTT và từ chối chấp nhận thẻ không còn hiệu lực.


Nghĩa vụ giữ bí mật các thông tin liên quan đến thẻ và chủ thẻ trừ

trường hợp chủ thẻ đồng ý hay NHPHT và NHTTT yêu cầu; thực hiện đầy đủ
các quy trình kĩ thuật nghiệp vụ liên quan đến các giao dịch thẻ của chủ thẻ
mà NHTTT hoặc NHPHT yêu cầu và hướng dẫn.

3.1.5. Tổ chức thẻ quốc tế (TCTQT)
Là tổ chức quốc tế cấp phép thành viên cho các NHPHT và NHTTT, các tổ
chức này có nhiệm vụ chính:
• Cung cấp một mạng lưới viễn thông toàn cầu phục vụ cho quy trình
thanh toán, cấp phép của các Ngân hàng thành viên.
• Đưa ra các luật lệ quy định về thẻ thanh toán.
• Là trung gian giải quyết các tranh chấp khiếu nại giữa các thành viên.
• Xây dựng các chương trình khuếch trương mở rộng thương hiệu của
mình.
• Phát triển các sản phẩm mới về thẻ.
3.1.6. Các chủ thể khác
16


• Ngân hàng Nhà nước (NHNN): là cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực tài
chính ngân hàng nói chung. Nhiệm vụ chủ yếu của NHNN là đưa ra các văn bản
pháp quy có liên quan; tiếp nhận hồ sơ, xem xét và cho phép các NHTM phát
hành thẻ; kiểm tra và giám sát hoạt động của các Ngân hàng đảm bảo không trái
pháp luật, tạo sự cạnh tranh lành mạnh trên thị trường thẻ thanh toán.
• Hiệp hội thẻ Việt Nam: Là một tổ chức do các NHPHT và NHTTT
thành lập để có thể trao đổi những vướng mắc trong hoạt động phát hành và
thanh toán thẻ, cùng phối hợp tìm ra giải pháp.
3.2. Các loại rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ của NHTM
Rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ Ngân hàng xuất hiện trong tất cả
các khâu, từ hoạt động phát hành đến hoạt động thanh toán. Rủi ro cũng có
thể là rủi ro tín dụng, rủi ro kỹ thuật hay rủi ro đạo đức của cán bộ ngân hàng.
3.2.1. Rủi ro trong hoạt động phát hành thẻ
Rủi ro trong hoạt động phát hành bao gồm các rủi ro:
3.2.1.1. Giả mạo
Giả mạo là hành vi lừa đảo nhằm thực hiện các giao dịch bằng thẻ bất hợp

pháp gây tổn thất cho ngân hàng kinh doanh thẻ và các thành phần tham gia
vào quá trình hoạt động thẻ ngân hàng. Các hình thức giả mạo thẻ bao gồm:
a/ Đơn phát hành thẻ giả mạo: Ngân hàng có thể phát hành thẻ cho khách
hàng có đơn xin phát hành thẻ với các thông tin giả mạo do không thẩm định
kỹ các thông tin khách hàng cung cấp trên hồ sơ xin phát hành thẻ. Thông tin
không chính xác dẫn đến những khó khăn cho ngân hàng khi muốn liên hệ với
chủ thẻ và đặt ngân hàng trước nguy cơ tổn thất tín dụng khi chủ thẻ sử dụng
thẻ nhưng không có đủ khả năng thanh toán hoặc chủ thẻ cố tình lừa đảo để
chiếm dụng tiền của ngân hàng.
b/ Thẻ giả: Thẻ giả là thẻ do các tổ chức hoặc cá nhân làm giả căn cứ vào
các thông tin có được từ việc đánh cắp các dữ liệu trên băng từ của thẻ thật từ
các thẻ mất cắp, thất lạc. Thẻ có thể được làm giả dưới các hình thức: Thông
17


tin dập nổi trên thẻ bị sửa lại, thẻ bị mã hóa lại băng từ, thẻ trắng nhưng đã
được mã hóa băng từ hoặc thẻ bị làm giả hoàn toàn dựa trên các dữ liệu của
thẻ thật. Thẻ giả được sử dụng sẽ gây tổn thất cho NHPH bởi vì theo quy định
của tổ chức thẻ quốc tế, NHPH chịu hoàn toàn trách nhiệm với mọi giao dịch
mang mã số BIN của NHPH. Đây là loại hình rủi ro có tỷ lệ cao, thường được
tội phạm thẻ sử dụng rộng rãi, phổ biến nhất.
• Thẻ bị dập nổi lại: là loại thẻ giả mà các thông tin trên thẻ được dập lại
bằng công nghệ đơn giản trên nền phôi thẻ bị mất cắp, thất lạc. Có thể
phát hiện thẻ giả khi đối chiếu thông tin in nổi ở mặt trước thẻ với các
thông tin in chìm trên băng chữ ký mặt sau hoặc với dữ liệu trên băng
từ khi đọc thẻ qua máy EDC.
• Thẻ bị mã hóa lại băng từ: là loại thẻ giả mà các thông tin trên băng từ
đã bị mã hóa lại trong khi vẫn giữ nguyên các thông tin dập nổi trên thẻ
và thường được sử dụng tại các ĐVCNT có trang bị máy EDC. Loại
hình thẻ giả mạo này thường có liên quan đến tội phạm có tổ chức vì

yêu cầu sử dụng công nghệ hiện đại hơn.
• Thẻ trắng: là loại thẻ mô phỏng đầy đủ chức năng của một thẻ ghi nợ,
thẻ tín dụng, được sử dụng tại ĐVCNT cấu kết với tội phạm thẻ hoặc
tại các điểm bán hàng tự động không được kiểm soát chặt chẽ. Do loại
hình này thực hiện với sự cấu kết thông đồng chặt chẽ của ĐVCNT nên
rất khó phát hiện. Thẻ trắng cũng đã được mã hóa nhưng không hề dập
nổi các thông tin lên mặt trước của thẻ như: ngân hàng phát hành, số
thẻ, ngày hiệu lực, tên chủ thẻ…
• Thẻ bị làm giả hoàn toàn: là sản phẩm thẻ giả tinh vi nhất, là hoạt động
của tội phạm thẻ có tổ chức. Thẻ rất hoàn chỉnh với băng từ được mã
hóa dựa trên việc lấy cắp dữ liệu trên băng từ của thẻ thật và trên phôi

18


thẻ có đầy đủ những yếu tố như thẻ thật. Thẻ giả chỉ bị phát hiện nếu
thực hiện đầy đủ chính xác quy trình chấp nhận thanh toán thẻ.
3.2.1.2. Chủ thẻ không nhận được thẻ do NHPH gửi
Là trường hợp thẻ bị đánh cắp hoặc bị lợi dụng thực hiện giao dịch trong
quá trình chuyển từ ngân hàng phát hành đến chủ thẻ. Việc xác định thẻ bị ăn
cắp trên đường mất nhiều thời gian do khoảng thời gian chủ thẻ nhận được thẻ
và gửi xác nhận cho ngân hàng thường kéo dài, đôi khi chủ thẻ khiếu nại là
không nhận được thẻ thì ngân hàng mới phát hiện được.
3.2.1.3. Tài khoản của chủ thẻ bị lợi dụng
Rủi ro này phát sinh khi NHPH nhận được những yêu cầu thay đổi thông
tin của chủ thẻ, đặc biệt là thay đổi địa chỉ của chủ thẻ. Do không xác minh kỹ
nên NHPH đã gửi thẻ về địa chỉ như yêu cầu mà không đến tay chủ thẻ thật.
3.2.2. Rủi ro trong hoạt động thanh toán thẻ
Rủi ro xuất hiện trong hoạt động thanh toán thẻ là các trường hợp như sau:
3.2.2.1. ĐVCNT giả mạo

ĐVCNT cố tình đăng ký các thông tin không chính xác với NHTTT.
NHTTT sẽ chịu tổn thất khi không thu được những khoản đã tạm ứng cho
ĐVCNT này trong trường hợp ĐVCNT thông đồng với chủ thẻ hoặc cố tình
tạo ra các hoá đơn hoặc giao dịch giả mạo để chiếm dụng vốn của ngân hàng.
3.2.2.2. ĐVCNT thông đồng với tội phạm thẻ
Có hai hình thức thông đồng:
• CPP – Common Purchase Point: Là hiện tượng một ĐVCNT hoặc một
địa điểm được xác định là lưu trữ dữ liệu thẻ và sử dụng vào mục đích
tạo các thẻ giả hoặc thực hiện các giao dịch giả mạo. ĐVCNT có thể
nhận thức hoặc không nhận thức được hành vi này.
• POC – Point of Compromise: Là hiện tượng ĐVCNT thông đồng với
chủ thẻ chấp nhận thanh toán những thẻ giả (thẻ bị sửa đổi, thẻ trắng,
thẻ bị sao chép và tạo băng từ giả…)
19


3.2.2.3. Rủi ro thẻ bị mất cắp, thất lạc
Rủi ro xảy xa khi thẻ bị mất cắp, thất lạc và bị sử dụng trước khi chủ thẻ
thông báo cho NHPH để có các biện pháp chấm dứt sử dụng hoặc thu hồi thẻ.
Thẻ bị mất cắp thất lạc cũng có thể bị tội phạm thẻ sử dụng làm thẻ giả như
trường hợp thẻ giả. Đôi khi giả mạo có liên quan đến chủ thẻ cố tình báo mất
thẻ và sau đó sử dụng thẻ.
3.2.2.4. Rủi ro khi thanh toán hàng hóa dịch vụ bằng thẻ qua thư, điện
thoại (Mail order, telephone order)
ĐVCNT cung cấp hàng hóa dịch vụ theo yêu cầu của chủ thẻ qua thư hoặc
điện thoại và thanh toán trên cơ sở các thông tin như: loại thẻ, số thẻ, ngày hiệu
lực, tên chủ thẻ…ĐVCNT và NHTTT có thể chịu tổn thất nếu như chủ thẻ thực
không phải là khách đặt mua hàng và giao dịch đó bị từ chối thanh toán.
3.2.2.5. Nhân viên ĐVCNT sửa đổi thông tin trên các hóa đơn thẻ hoặc in
nhiều hóa đơn thanh toán của một thẻ.

Trong trường hợp này nhân viên khi thực hiện giao dịch đã cố tình in
nhiều hóa đơn thanh toán thẻ nhưng chỉ giao một bộ cho chủ thẻ ký để hoàn
thành giao dịch. Sau đó nhân viên sẽ mạo nhận chủ thẻ hoàn tất giao dịch và
nộp các hóa đơn thanh toán còn lại để đòi tiền, chiếm đoạt tiền của ngân hàng.
Ngoài ra nhân viên tại ĐVCNT cũng có thể sửa đổi hoá đơn giao dịch, ghi
tăng giá trị giao dịch mà không được sự đồng ý của chủ thẻ để lấy tiền tạm
ứng của ngân hàng.
3.2.2.6. Sao chép và tạo băng từ giả (Skimming)
Trên các thiết bị đọc thẻ tại ĐVCNT có thể bị cài thêm thiết bị để thu thập
các thông tin trên băng từ của thẻ thật thanh toán tại các ĐVCNT hoặc nhân
viên ĐVCNT có thể cấu kết với các tổ chức tội phạm đọc dữ liệu thẻ thật
bằng các thiết bị chuyên dùng riêng.
3.2.3. Rủi ro tín dụng

20


Rủi ro tín dụng là rủi ro xuất hiện khi chủ thẻ không thực hiện thanh
toán hoặc không đủ khả năng thanh toán. Như ta đã biết tính chất của thẻ tín
dụng là chi tiêu trước trả tiền sau, tại thời điểm thanh toán ngân hàng sẽ đứng
ra tạm ứng tiền cho chủ thẻ để thanh toán với đơn vị cung ứng hàng hóa dịch
vụ và thu lại sau từ chủ thẻ. Như vậy khi ngân hàng đồng ý phát hành thẻ
cũng có nghĩa là cam kết cho chủ thẻ vay tiền, nếu như chủ thẻ không thanh
toán hoặc không đủ khả năng thanh toán các khoản chi tiêu đó ngân hàng sẽ bị
mất vốn. Nếu hiện trạng này xảy ra với số lượng và quy mô lớn sẽ dẫn đến
tình trạng vỡ nợ, ngân hàng bị mất vốn và có thể dẫn đến phá sản như đối với
trường hợp cho vay không thu hồi được.
3.2.4. Rủi ro kỹ thuật
Rủi ro kỹ thuật là các rủi ro phát sinh khi hệ thống quản lý thẻ có sự cố
liên quan đến xử lý dữ liệu hoặc kết nối, bảo mật hệ thống cơ sở dữ liệu và an

ninh. Do hoạt động thẻ có tính chất liên tục và online 24/24h nên bất kỳ một
sự cố kỹ thuật nào cũng ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện giao dịch, đến
tính chính xác trong công tác thanh toán cũng như quyền lợi của khách hàng.
Khi hệ thống có sự cố nó không chỉ ảnh hưởng đến riêng một khách hàng, đến
riêng một ngân hàng hay tổ chức tài chính mà ảnh hưởng đến hoạt động kinh
doanh thẻ của toàn bộ tổ chức thẻ quốc tế và các khách hàng tham gia hoạt
động thẻ. Do đó nếu tổn thất xảy ra sẽ rất lớn và khó kiểm soát được, chính vì
vậy đảm bảo hệ thống vận hành một cách chính xác liên tục là yêu cầu hàng
đầu đối với các thành viên khi tham gia kinh doanh thẻ.
3.2.5. Rủi ro đạo đức
Rủi ro đạo đức là các rủi ro phát sinh do hành vi gian lận trong lĩnh vực
thẻ của cán bộ thẻ ngân hàng. Trong hoạt động tác nghiệp hàng ngày, cán bộ
thẻ lợi dụng những hiểu biết của mình, lợi dụng vị trí công tác, những lỗ hổng
trong quy trình tác nghiệp để tự mình hoặc cấu kết với người khác tiến hành
các hành vi gian lận, giả mạo gây tổn thất cho ngân hàng. Rủi ro có thể xảy ra
21


nếu như cán bộ đó lợi dụng các thông tin thẻ của người khác để sử dụng thanh
toán mua sắm hàng hoá dịch vụ qua mạng, lấy cắp thẻ mới phát hành để sử
dụng hoặc thay đổi các thông số hệ thống, thông tin khách hàng để trục lợi...
Các hành vi gian lận này thường được che giấu kỹ càng, khó phát hiện gây tổn
thất lớn và mang tính hệ thống với ngân hàng. Ngân hàng có thể hạn chế rủi
ro đạo đức khi có một cơ chế quản lý giám sát hoạt động một cách chặt chẽ
trong toàn bộ quá trình hoạt động. Tuy nhiên mọi giải pháp chỉ có hiệu quả
nếu ngân hàng gắn chặt quyền lợi, trách nhiệm của cán bộ thẻ với quyền lợi
của ngân hàng trong hoạt động kinh doanh thẻ.
3.3. Các nhân tố tác động đến hoạt động kinh doanh thẻ
Các nhân tố tác động đến hoạt động kinh doanh thẻ bao gồm cả nhân tố
khách quan và nhân tố chủ quan.

3.3.1. Nhóm nhân tố khách quan
• Trình độ dân trí và thói quen tiêu dùng của người dân: Trong một xã
hội mà trình độ dân trí cao thì các phát minh, ứng dụng của khoa học kĩ thuật
công nghệ cao sẽ dễ dàng tiếp cận với người dân. Tiêu dùng thông qua thẻ là
một cách thức tiêu dùng hiện đại, nó sẽ dễ dàng xâm nhập và phát triển hơn
với những cộng đồng dân trí cao và ngược lại. Cũng như vậy, thói quen tiêu
dùng cũng ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của dịch vụ thẻ. Khi người
dân quen với việc thanh toán các dịch vụ, hàng hóa bằng tiền mặt họ sẽ ít có
nhu cầu về thanh toán qua thẻ.
• Thu nhập của người dùng thẻ: Thu nhập con người càng cao, nhu cầu
của họ cũng ngày càng phát triển, việc thanh toán đối với họ đòi hỏi một sự
thỏa dụng cao hơn, nhanh chóng hơn, an toàn hơn. Việc sử dụng thẻ đáp ứng
rất tốt nhu cầu này. Hơn nữa, ngân hàng chỉ có thể cung cấp dịch vụ cho
những người có một mức thu nhập hợp lý, những người thu nhập thấp sẽ
không đủ điều kiện sử dụng dịch vụ.
• Môi trường pháp lý: Việc kinh doanh dịch vụ thẻ tại bất kỳ quốc gia
22


nào đều được tiến hành trong một khuôn khổ pháp lý nhất định. Các quy chế,
quy định về thẻ sẽ gây ra ảnh hưởng hai mặt: có thể theo hướng khuyến khích
việc kinh doanh và sử dụng thẻ nếu có những quy chế hợp lý, nhưng mặt khác
những quy chế quá chặt chẽ, hoặc quá lỏng lẻo có thể mang lại những ảnh
hưởng tiêu cực tới việc phát hành và thanh toán thẻ.
• Môi trường công nghệ: Hoạt động thanh toán thẻ chịu ảnh hưởng rất
nhiều bởi trình độ khoa học công nghệ, đặc biệt là CNTT. Đối với một quốc gia
có công nghệ khoa học phát triển, các ngân hàng có thể cung cấp dịch vụ thẻ
với sự nhanh chóng và an toàn cao hơn. Chính vì thế, việc luôn đầu tư nâng cấp
công nghệ, nghiên cứu khoa học là những việc làm vô cùng cần thiết để nâng
cao chất lượng dịch vụ cũng như bảo mật cho hoạt động của ngân hàng.

• Môi trường cạnh tranh: Đây là yếu tố quyết định đến việc mở rộng và
thu hẹp thị phần của một ngân hàng khi tham gia vào thị trường thẻ. Nếu trên
thị trường chỉ có một ngân hàng cung cấp dịch vụ thẻ thì ngân hàng đó sẽ có
được lợi thế độc quyền nhưng giá phí lại có thể rất cao và thị trường khó trở
nên sôi động. Nhưng khi nhiều ngân hàng tham gia vào thị trường, cạnh tranh
diễn ra ngày càng gay gắt sẽ góp phần phát triển đa dạng hóa dịch vụ, giảm
phí phát hành và thanh toán thẻ.
3.3.1. Nhóm nhân tố chủ quan
Khác với nhóm nhân tố khách quan, nhóm nhân tố chủ quan chịu tác động
bởi trình độ đội ngũ cán bộ làm công tác thẻ, tiềm lực kinh tế và trình độ kỹ thuật
công nghệ của NHPHT, NHTTT hay định hướng phát triển của các ngân hàng.
• Trình độ của đội ngũ cán bộ làm công tác thẻ: Đội ngũ cán bộ có năng
lực, năng động và có nhiều kinh nghiệm là một trong những yếu tố quan trọng
để phát triển hoạt động dịch vụ thẻ, ngân hàng nào có sự quan tâm, có chính
sách đào tạo nhân lực trong kinh doanh thẻ hợp lý thì ngân hàng đó sẽ có cơ
hội đẩy nhanh việc kinh doanh thẻ trong tương lai.
23


• Tiềm lực kinh tế và trình độ kỹ thuật công nghệ của NHPHT,
NHTTT: Khi đưa ra dịch vụ thẻ, ngân hàng phải đảm bảo một hệ thống thanh
toán hiện đại, theo kịp yêu cầu của thế giới. Việc vận hành bảo dưỡng, duy trì
hệ thống máy móc phục vụ phát hành và thanh toán thẻ có hiệu quả cũng làm
giảm giá thành của dịch vụ, từ đó thu hút thêm người sử dụng.
• Định hướng phát triển của các ngân hàng: một ngân hàng nếu có định
hướng phát triển dịch vụ thẻ thì phải xây dựng cho mình các kế hoạch, chiến
lược marketing phù hợp, tham gia khảo sát các đối tượng khách hàng mục tiêu,
tìm mọi cách để nâng cao tính tiện ích của thẻ cũng như sự thuận lợi cho người
sử dụng thẻ thì ngân hàng đó sẽ có thể mở rộng và phát triển việc kinh doanh.
4. Kinh nghiệm của một số thị trường thẻ trên thế giới

Châu Âu và Hàn Quốc là hai thị trường thẻ lớn của thế giới, nhưng lại có khá
nhiều điểm tương đồng với thị trường thẻ Việt Nam. Vì vậy, quá trình phát triển
mà hai thị trường thẻ này đã trải qua sẽ là bài học kinh nghiệm lớn cho Việt Nam.
4.1. Thị trường thẻ thanh toán Châu Âu
4.1.1. Một số nét chung về thị trường thẻ thanh toán Châu Âu
Thị trường thẻ Châu Âu có các đặc điểm nổi bật như sau:
• Thẻ thanh toán đầu tiên ra đời ở Đức vào cuối những năm 1960. Ban
đầu thẻ chỉ được sử dụng như là séc có đảm bảo. Dần dần theo thời gian nó đã
trở thành những chiếc thẻ đa năng và cho đến ngày nay, nó là công cụ thanh
toán không thể thiếu cho nền kinh tế phát triển.
• Với 80% giao dịch hiện tại vẫn được thực hiện bằng tiền mặt, Châu Âu
vẫn là thị trường thẻ tiềm năng khổng lồ đối với các nhà phát hành. Theo báo
cáo năm 2008 của Datamonitor thị trường thanh toán bằng thẻ phát triển khá
nhanh ở Tây Âu, tổng giá trị giao dịch đạt mức 87,1 triệu Euro năm 2006, ước
tính phát triển lên mức 180,3 triệu Euro vào năm 2011. Datamonitor cũng
nhận định, thị trường thẻ thậm chí phát triển mạnh mẽ hơn cả thị trường tiêu
24


dùng. Trong khi dự đoán thị trường thẻ tăng ở mức tỷ lệ tăng trưởng gộp hàng
năm CAGR (compound annual growth rate) là 16% trong khoàng thời gian
2007-2011, thị trường tiêu dùng chỉ tăng ở mức 8%. Nhờ đó mà các nhà phát
hành sẽ nhanh chóng thu được lợi nhuận từ thị trường tiềm năng này.
Hình 1.1. Các công cụ thanh toán chính tại EU giai đoạn 2000-2009

Nguồn: ECB
• Từ hình 1.1 có thể thấy thẻ thanh toán phát triển nhanh nhất trong số
các công cụ TTKDTM khác tại Châu Âu, năm 2000, thanh toán bằng thẻ mới
chiếm khoảng 12% trong các phương tiện TTKDTM thì năm 2009, con số này
là gần 35%. Ngoài ra, theo báo cáo của ECB năm 2009, tổng số lượng

TTKDTM đạt 82 tỷ euro năm 2009 so với năm 2008. Thanh toán bằng thẻ
ước tính chiếm gần 40% tổng các giao dịch trên, trong khi chuyển khoản
(credit transfer) và ghi nợ trực tiếp (direct debit) bằng nhau, cùng chiếm hơn
26%. Số lượng máy ATM đang phục vụ cũng tăng 2% lên tới hơn 430,000
máy vào năm 2009 so với năm 2008. Điều này có nghĩa là đến cuối năm 2009
có khoảng 870 máy ATM cho một triệu người dân.
• Tùy theo tập quán thanh toán từng nước mà các phương thức TTKDTM
như chuyển khoản, ghi nợ trực tiếp, thẻ thanh toán, e-money, séc được sử dụng
phổ biến hơn. Ví dụ ở Pháp, séc được ưa chuộng sử dụng hơn, trong khi Đan
25


×