Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Thực trạng, nguyên nhân lạm phát ở việt nam năm 2010 2011 2012 và một số giải pháp chống lạm phát

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (211.95 KB, 23 trang )

ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN NGÂN HÀNG – TÀI CHÍNH

------    ------

ĐỀ ÁN LÝ THUYẾT
TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
ĐỂ TÀI:

LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM

Họ và tên sinh viên

: Đoàn Trọng Hưởng

Mã sinh viên

:

Lớp

:

Giảng viên hướng dẫn :

Hà Nội, 2012


MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU................................................................................................................1


CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LẠM PHÁT.....................................2
1.1. Lạm phát và bản chất của lạm phát............................................................... 2
1.1.1. Lạm phát........................................................................................................2
1.1.2. Bản chất của lạm phát.................................................................................. 3
1.2. Hình thức biểu hiện của lạm phát và các loại lạm phát................................3
1.2.1. Hình thức biểu hiện của lạm phát................................................................ 3
1.2.2. Các loại lạm phát........................................................................................... 4
1.3. Tác động của lạm phát đến nền kinh tế.......................................................... 5
1.3.1. Tác động tích cực:......................................................................................... 5
1.3.1. Tác động tiêu cực:......................................................................................... 5
1.3.1.1. Đối với lạm phát dự kiến được...................................................................5
1.3.1.2. Đối với lạm phát không dự kiến được........................................................ 6
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM.....................................7
2.1. Lạm phát ở Việt Nam năm 2010..................................................................... 7
2.1.1. Thực trạng.....................................................................................................7
2.1.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến lạm phát trong năm 2010............................9
2.1.2.1. Điều chỉnh giá điện, xăng dầu và một số hàng hóa cơ bản khác..................9
2.1.2.2. Ảnh hưởng của việc điều chỉnh tỷ giá.........................................................10
2.1.2.3. Hiệu ứng từ việc tăng lương tối thiểu.........................................................10
2.1.2.4. Lạm phát do yếu tố cầu kéo........................................................................10
2.1.2.5. Lạm phát từ nguyên nhân tiền tệ................................................................10
2.2. Lạm phát ở Việt Nam năm 2011................................................................... 11
2.2.1. Thực trạng...................................................................................................11
2.2.2. Những nguyên nhân lạm phát ở Việt Nam năm 2011...................................13
2.2.2.1. Tình trạng đầu tư công dàn trải và thiếu hiệu quả.....................................13
2.2.2.2. Tình trạng thâm hụt ngân sách và thâm hụt thương mại............................14
2.2.2.3. Chính sách ổn định tỷ giá cứng nhắc.........................................................14
2.2.2.4. Lạm phát từ nguyên nhân tiền tệ................................................................14
2.2.2.5. Sự chênh lệch trong việc phân bổ vốn ở khu vực doanh nghiệp.................15



2.3. Diễn biến lạm phát ở Việt Nam những tháng đầu năm 2012......................15
CHƯƠNG III: GIÁI PHÁP CHỐNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM.......................17
3.1. Điều hành chính sách tài chính-tiền tệ chặt chẽ...........................................17
3.2. Tăng cường quản lý nhà nước về giá............................................................17
3.3. Thúc đẩy trên thực tế quá trình tái cấu trúc nền kinh tế............................18
3.4. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước............................................19
3.5. Chính sách ổn định tỷ giá..............................................................................19
3.6. Thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, khuyến khích xuất khẩu..........................19
3.7. Chống lạm phát bằng cách tác động lên cung..............................................19
KẾT LUẬN...................................................................................................................20
TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................................20


LỜI NÓI ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường hoạt động đầy sôi động và cạnh tranh gay gắt, để
thu được lợi nhuận cao và đứng vững trên thương trường, các nhà kinh tế cũng như
các doanh nghiệp phải nhanh chóng tiếp cận, nắm bắt nhanh nhạy mọi vấn đề của nền
kinh tế. Tuy nhiên, một yếu tổ nổi cộm nhất của nền kinh tế ảnh hưởng tác động trực
tiếp đến các nhà kinh tế và các doanh nghiệp là lạm phát.
Lạm phát là một hiện tượng kinh tế xã hội gắn liền với nền kinh tế thị trường,
lạm phát được coi là một căn bệnh kinh niên của mọi nền kinh tế hàng hóa – tiền tệ.
Lạm phát ảnh hưởng tới toàn bộ nền kinh tế quốc dân, đến đời sống xã hội, đặc biệt là
giới lao động. Nó có tính thường trực, nếu không thường xuyên kiểm soát, không có
những giải pháp kiềm chế lạm phát, đồng bộ và hữu hiệu thì lạm phát có thể xảy ra ở
bất quốc gia hay chế độ xã hội nào. Nét đặc trưng nổi bật nhất của nền kinh tế khi có
lạm phát là giá cả của hầu hết các hàng hóa đều tăng cao và sức mua của đồng tiền
ngày càng giảm nhanh.
Trong thời gian gần đây, vấn đề lạm phát đã được nhiều người quan tâm,
nghiên cứu và đề xuất phương án chống lạm phát. Chống lạm phát không chỉ là việc

của các nhà doanh nghiệp mà còn là nhiệm vụ của chính phủ. chống lạm phát giữ
vững nền kinh tế phát triển ổn định, cân đối là một mục tiêu rất quan trọng trong phát
triển kinh tế xã hội, nâng cao đời sống nhân dân.
Ở bài viết này em xin trình bày về nội dung: “Lạm phát ở Việt Nam”. Với
lượng kiến thức nghiên cứu thu thập còn hạn chế em chỉ nêu ra được một số vấn đề cơ
bản nên không tránh được những khiếm khuyết, rất mong nhận được sự đóng góp ý
kiến của cô. Em xin chân thành cảm ơn.


NỘI DUNG
CHƯƠNG I – NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LẠM PHÁT

1.1. Lạm phát và bản chất của lạm phát:
1.1.1. Lạm phát:
- Quan niệm cổ điển cho rằng “Lạm phát là phát hành tiền vượt quá số lượng
tiền cần thiết trong lưu thông”. Tuy nhiên định nghĩa này không giải thích được hiện
tượng lạm phát chi phí đẩy (xuất hiện trên thế giới từ những năm 70 hoặc ở Việt nam
năm 2005) do loại lạm phát này vẫn có thể xảy ra trong khi cung tiền tăng ổn định.
Nếu chỉ coi là lạm phát khi sự tăng giá là kết quả của việc tăng mạnh cung tiền thì sẽ
dẫn đến coi thường các nguy cơ lạm phát có thể xảy ra.
- Một quan điểm phổ biến khác cho rằng: Lạm phát là hiện tượng tăng lên của
mức giá chung (mức giá bình quân, mức giá tổng hợp) theo thời gian. Tuy nhiên
không phải mọi sự tăng lên của mức giá đều đáng lo ngại. Nếu giá cả chỉ tăng tạm
thời, trong ngắn hạn, chẳng hạn như dịp gần Tết Nguyên đán ở Việt nam, sau đó lại
giảm xuống thì đó là kết quả của những biến động cung cầu tạm thời, nhiều khi có tác
dụng tích cực hơn là tiêu cực tới nền kinh tế. Những trường hợp như vậy mà đã coi là
lạm phát thì sẽ dẫn đến sự cường điệu hoá nguy cơ lạm phát.
- Các nhà kinh tế học theo trường phái trọng tiền hiện đại, đứng đầu là Milton
Friedman đã định nghĩa “lạm phát là hiện tượng giá cả tăng nhanh và liên tục trong
một thời gian dài”. Theo trường phái này, sự tăng lên của mức giá chung mới chỉ

phản ánh hình thức biểu hiện của lạm phát, bản chất của lạm phát được thể hiện ở tính
chất của sự tăng giá đó: đó là sự tăng giá với tốc độ cao và kéo dài. Chính sự tăng giá
cao và liên tục từ thời gian này đến thời gian khác mới tạo ra những tác động đặc thù
của lạm phát. Cũng vì vậy, cái gọi là tỷ lệ tăng giá hàng tháng mà chúng ta có thể
nghe trên đài, báo hay vô tuyến chỉ cho biết mức giá cả đã thay đổi bao nhiêu phần
trăm so với tháng trước chứ chưa được coi là biểu hiện của lạm phát. Đó có thể chỉ là
sự thay đổi xảy ra duy nhất một lần hoặc chỉ là tạm thời chứ không kéo dài. Chỉ khi
nào tỷ lệ tăng giá vẫn duy trì cao trong thời gian dài thì mới được coi là biểu hiện của
lạm phát cao
1.1.2. Bản chất của lạm phát:


Lạm phát là sự gia tăng liên tục của mức giá chung nền kinh tế. Như vậy sự
tăng giá của một vài mặt hàng cá biệt nào đó trong ngắn hạn ngoài thị trường thì cũng
không có nghĩa đã có lạm phát. Các nhà kinh tế thường đo lạm phát bằng hai chỉ tiêu
cơ bản là CPI và chỉ số khử lạm phát GDP. Cách tính thứ nhất sẽ dựa trên một rổ
hàng hoá tiêu dùng và giá cả của những hàng hoá trong rổ ở hai thời điểm khác nhau.
Còn cách tính thứ hai thì căn cứ vào toàn bộ khối lượng hàng hoá và dịch vụ cuối
cùng được sản xuất trong một năm và giá cả ở hai thời điểm khác nhau thông thường
theo ngôn ngữ thống kê là giá cố định và giá hiện hành. Về cơ bản thì hai cách tính
này này không có sự khác biệt lớn. Phương pháp GDP sẽ tính lạm phát chính xác hơn
theo định nghĩa của lạm phát. Tuy nhiên CPI sẽ có ưu điểm là tính được lạm phát tại
bất kỳ thời điểm nào căn cứ vảo rổ hàng hoá, còn GDP thì chỉ tính được lạm phát của
một năm sau khi có báo cáo về GDP của năm đó.
Như vậy, những thông tin về thước đo lạm phát đến dân chúng hàng ngày
chủ yếu được tính từ phương pháp CPI. Nhưng CPI lại không thể đo lạm phát một
cách chính xác bởi nó bị tác động bởi hai yếu tố gây sai lệch. Những yếu tố gây sai
lệch này chủ yếu đến từ rổ hàng hoá được quy định trước. Sai lệch cơ cấu vì rổ hàng
hoá chậm thay đổi, nó không bao gồm những hàng hoá tiêu dùng mới phát sinh nhưng
được đa số người tiêu dùng sử dụng. Ví dụ khi mọi người đều có điện thoại di động,

giá của mặt hàng này đang giảm theo thời gian nhưng nó lại không nằm trong rổ hàng
hoá. Sai lệch thứ hai là sai lệch thay thế, khi giá cả một loại hàng hoá nào đó trong rổ
gia tăng dân chúng sẽ chuyển sang tiêu dùng mặt hàng hoá thay thế với giá rẻ hơn. Ví
dụ khi gia cầm bị dịch thì người tiêu dùng sẽ chuyển sang sản phẩm thay thế cùng
chức năng cung cấp năng lượng cho cơ thể như thủy sản, hải sản hay thịt gia súc. Từ
hai sai lệch trên chúng ta nhận thấy rằng, nếu tính lạm phát từ CPI thì có thể dẫn đến
một dự báo lạm phát quá mức vì những mặt hàng trong rổ đang tăng giá còn những
mặt hàng ngoài rổ thì lại đang giảm giá.
1.2. Hình thức biểu hiện của lạm phát và các loại lạm phát:
1.2.1. Hình thức biểu hiện của lạm phát:
Có ba loại lạm phát chủ yếu trong nền kinh tế: loại lạm phát tiền tệ, lạm phát
cầu kéo, lạm phát chi phí đẩy.
Loại lạm phát thứ nhất là lạm phát tiền tệ. Loại này xảy ra khi tốc độ tăng
trưởng cung tiền vượt quá tốc độ tăng trưởng thực sự của nền kinh tế. Đơn giản hơn là


tiền trong lưu thông tăng nhanh hơn số lượng hàng hoá và dịch vụ được sản xuất ra
trong nền kinh tế. Loại lạm phát này thường xảy ra tại các nước đang phát triển khi
các nước này theo đuổi chính sách tiền tệ mở rộng, áp chế tài chính là tình trạng ngân
hàng trung ương tài trợ cho thâm hụt ngân sách chính phủ bằng cách in tiền, quá
nhiều tiền trong lưu thông vượt quá tốc độ tăng trưởng thực sẽ dẫn đến lạm phát.
Chính sách tiền tệ mở rộng sẽ kính thích tổng cầu hàng hoá dịch vụ trong nền kinh tế,
khi tốc độ tăng trưởng tổng cầu cao hơn tốc độ tăng trưởng tổng cung thì cũng dẫn
đến lạm phát.
Lạm phát thứ hai là lạm phát cầu kéo. Nó xuất phát từ sự thay đổi hành vi tổng
cầu mang tính đột biến trong nền kinh tế. Các nguyên nhân có thể là do chính phủ chi
tiêu quá mức khi thực hiện chính sách thu chi ngân sách mở rộng, hoặc tăng chi tiêu
tiêu dùng quá mức bình thường do khu vực hộ gia đình quá lạc quan, hoặc do khu vực
hộ gia đình có nguồn thu nhập bất thường như viện trợ nước ngoài, thu nhập do giá cả
xuất khẩu tăng đột biến.

Loại lạm phát thứ ba là lạm phát chi phí đẩy. Lạm phát chi phí đẩy là loại lạm
phát do thu hẹp tổng cung hoặc do các doanh nghiệp buộc lòng phải nâng cao giá bán
sản phẩm vì những lí do bất lợi. Khác với hai loại lạm phát trên, thì loại lạm phát này
chủ yếu đến từ phía phía cung và nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ hiện tượng tăng
chi phí sản xuất không mong đợi từ phía các doanh nghiệp.
1.2.2. Các loại lạm phát:
- Lạm phát vừa phải: còn gọi là lạm phát một con số, có tỷ lệ lạm phát dưới
10% một năm
- Lạm phát phi mã: Mức lạm phát tương ứng với tốc độ tăng giá trong phạm vi
hai hoặc ba chữ số một năm thường được gọi là lạm phát phi mã, nhưng vẫn thấp hơn
siêu lạm phát. Việt Nam và hầu hết các nước chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập
trung sang nền kinh tế thị trường đều phải đối mặt với lạm phát phi mã trong những
năm đầu thực hiện cải cách.
Nhìn chung thì lạm phát phi mã được duy trì trong thời gian dài sẽ gây ra
những biến dạng kinh tế nghiêm trọng. Trong bối cảnh đó, đồng tiền sẽ bị mất giá
nhanh, cho nên mọi người chỉ giữ lượng tiền tối thiểu vừa đủ cho các giao dịch hàng
ngày. Mọi người có xu hướng tích trữ hàng hóa, mua bất động sản và chuyển sang sử


dụng vàng hoặc các ngoại tệ mạnh để làm phương tiện thanh toán cho các giao dịch
có giá trị lớn và tích lũy của cải
- Siêu lạm phát : xảy ra khi lạm phát đột biến tăng lên với tốc độ cao vượt xa
lạm phát phi mã, siêu lạm phát kéo dài trên một năm với tỷ lệ lạm phát trên 200%
1.3. Tác động của lạm phát đến nền kinh tế:
1.3.1. Tác động tích cực:
Nhà kinh tế đoạt giải Nobel James Tobin nhận định rằng lạm phát (tỷ lệ tăng
giá mang giá trị dương) vừa phải sẽ có lợi cho nền kinh tế. Ông dùng từ "dầu bôi
trơn" để miêu tả tác động tích cực của lạm phát. Mức lạm phát vừa phải làm cho chi
phí thực tế mà nhà sản xuất phải chịu để mua đầu vào lao động giảm đi. Điều này
khuyến khích nhà sản xuất đầu tư mở rộng sản xuất. Việc làm được tạo thêm. Tỷ lệ

thất nghiệp sẽ giảm.
1.3.1. Tác động tiêu cực:
1.3.1.1. Đối với lạm phát dự kiến được:
Trong trường hợp lạm phát có thể được dự kiến trước thì các thực thể tham gia
vào nền kinh tế có thể chủ động ứng phó với nó, tuy vậy nó vẫn gây ra những tổn thất
cho xã hội:
Chi phí mòn giày: lạm phát giống như một thứ thuế đánh vào người giữ tiền và
lãi suất danh nghĩa bằng lãi suất thực tế cộng với tỷ lệ lạm phát nên lạm phát làm cho
người ta giữ ít tiền hay làm giảm cầu về tiền. Khi đó họ cần phải thường xuyên đến
ngân hàng để rút tiền hơn. Các nhà kinh tế đã dùng thuật ngữ "chi phí mòn giày" để
chỉ những tổn thất phát sinh do sự bất tiện cũng như thời gian tiêu tốn mà người ta
phải hứng chịu nhiều hơn so với không có lạm phát.
Chi phí thực đơn: lạm phát thường sẽ dẫn đến giá cả tăng lên, các doanh
nghiệp sẽ mất thêm chi phí để in ấn, phát hành bảng giá sản phẩm.
Làm thay đổi giá tương đối một cách không mong muốn: trong trường hợp do
lạm phát doanh nghiệp này tăng giá (và đương nhiên phát sinh chi phí thực đơn) còn
doanh nghiệp khác lại không tăng giá do không muốn phát sinh chi phí thực đơn thì
giá cả của doanh nghiệp giữ nguyên giá sẽ trở nên rẻ tương đối so với doanh nghiệp


tăng giá. Do nền kinh tế thị trường phân bổ nguồn lực dựa trên giá tương đối nên lạm
phát đã dẫn đến tình trạng kém hiệu quả xét trên góc độ vi mô.
Lạm phát có thể làm thay đổi nghĩa vụ nộp thuế của các cá nhân trái với ý
muốn của người làm luật do một số luật thuế không tính đến ảnh hưởng của lạm phát.
Ví dụ: trong trường hợp thu nhập thực tế của cá nhân không thay đổi nhưng thu nhập
danh nghĩa tăng do lạm phát thì cá nhân phải nộp thuế thu nhập trên cả phần chênh
lệch giữa thu nhập danh nghĩa và thu nhập thực tế.
Lạm phát gây ra sự nhầm lẫn, bất tiện: đồng tiền được sử dụng để làm thước
đo trong tính toán các giao dịch kinh tế, khi có lạm phát cái thước này co giãn và vì
vậy các cá nhân khó khăn hơn trong việc ra các quyết định của mình.

1.3.1.2. Đối với lạm phát không dự kiến được
Đây là loại lạm phát gây ra nhiều tổn thất nhất vì nó phân phối lại của cải giữa
các cá nhân một cách độc đoán. Các hợp đồng, cam kết tín dụng thường được lập trên
lãi suất danh nghĩa khi lạm phát cao hơn dự kiến người đi vay được hưởng lợi còn
người cho vay bị thiệt hại, khi lạm phát thấp hơn dự kiến người cho vay sẽ được lợi
còn người đi vay chịu thiệt hại. Lạm phát không dự kiến thường ở mức cao hoặc siêu
lạm phát nên tác động của nó rất lớn.
Các nhà kinh tế có quan điểm rất khác nhau về quy mô của các tác động tiêu
cực của lạm phát, thậm chí nhiều nhà kinh tế cho rằng tổn thất do lạm phát gây ra là
không đáng kể và điều này được coi là đúng khi tỷ lệ lạm phát ổn định và ở mức vừa
phải. Khi lạm phát biến động mạnh, tác động xã hội của nó thông qua việc phân phối
lại của cải giữa các cá nhân một cách độc đoán rõ ràng là rất lớn và do vậy chính phủ
của tất cả các nước đều tìm cách chống lại loại lạm phát này.

CHƯƠNG II – THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM


2.1. Lạm phát ở Việt Nam năm 2010
2.1.1. Thực trạng:
Năm 2010, lạm phát ở Việt Nam ở mức 11,75%, chỉ số tiêu dùng (CPI) tháng
12/2010 của cả nước tăng 1,98%, qua đó đẩy mức lạm phát năm của cả nước lên
11,75% so với năm 2009. Con số này vượt gần 5% so với chỉ tiêu được Quốc hội đề
ra ngay từ đầu năm 2010 (khoảng 7%).
Lạm phát tăng cao trong các tháng đầu năm và cuối năm, mức tăng có độ vênh
lớn, tháng cao nhất so với tháng thấp nhất lệch nhau đến hơn 1,5%. Các tháng từ
tháng 9 đến tháng 11, mức tăng đều đạt kỷ lục của 15 năm trở lại đây.
Tính chung CPI năm 2010, CPI giáo dục tăng mạnh nhất gần 20%. Tiếp đó là
hàng ăn (16,18%), nhà ở - vật liệu xây dựng (15,74). Các ngành Giao thông, hàng hóa
và dịch vụ khác, thực phẩm đều có mức tăng trên 10%. Bưu chính viễn thông là nhóm
duy nhất giảm giá với mức giảm gần 6% trong năm 2010. Chỉ số giá vàng tăng

36,72%, chỉ số giá USD tăng 7,63%. Về CPI của các vùng miền, đáng chú ý là chỉ số
CPI khu vực nông thôn tháng 12 tăng 2,04%, cao hơn 1,87% của khu vực thành thị.
Bội chi ngân sách đã được kéo xuống còn dưới 6%, nhưng nếu tính cả huy
động trái phiếu, thì tỷ lệ vẫn còn ở mức 7%. Đó là mức rất cao, không những là một
trong những nguyên nhân của lạm phát cao, mà còn làm gia tăng nợ nần.
Nhập siêu năm 2010, so với các năm trước đã giảm và thấp hơn cả về kim
ngạch tuyệt đối cũng như tỷ lệ nhập siêu so với xuất khẩu, nhưng nhập siêu liên tục,
kéo dài và ở mức khá cao (năm 2007 là 14,2 tỷ USD, năm 2008 là 18,0 tỷ USD, năm
2009 gần 12,9 tỷ USD, năm 2010 khoảng 12 tỷ USD). Điều này đã tác động tiêu cực
tới cán cân thanh toán, dự trữ ngoại hối và tạo sức ép lên tỷ giá. Giá USD trên thế giới
giảm, nhưng ở trong nước vẫn tăng (năm 2008 tăng 6,31%, năm 2009 tăng 10,7%,
năm 2010 tăng 6,63%), làm tăng mạnh gánh nặng lạm phát …
Yếu tố tiền tệ cũng “đóng góp” đáng kể trong sự gia tăng vượt chỉ tiêu của lạm
phát năm 2010. Nguyên nhân chủ yếu không phải do sai lầm của chính sách và điều
hành vĩ mô, chính sách tiền tệ trong năm cũng không phải là nhân tố làm cho lạm phát
tăng cao. Nguyên nhân chính là xuất phát từ những nhân tố khách quan như sự bất ổn
kinh tế, giá cả thế giới và một số yếu tố chủ quan nội tại của nền kinh tế. Tuy nhiên


chính sách tiền tệ cũng đã được nới lỏng hơn. Từ mức tăng chỉ chưa đầy 13% vào
cuối tháng 7, tổng phương tiện thanh toán và tín dụng được “bồi đắp” nhanh chóng,
đến cuối tháng 11 đã đạt mức tăng 22,54% với M2 và 26,31% với tín dụng, so với
cuối năm 2009. Ghi nhận tích cực từ chính sách nới lỏng, giá trị sản xuất công nghiệp
tháng 11 đã tăng 4,9% so với tháng 10 và tháng 12 tăng khoảng 6% so với tháng
trước. Chỉ số tồn kho ngành công nghiệp chế biến cũng giảm dần về mức 28% tăng
hơn so với cùng kỳ.
Trong năm 2010, giá cả một số hàng hóa thiết yếu thế giới tiếp tục tăng cao
(giá dầu thô và giá xăng - gas tăng, sắt thép, nguyên vật liệu nhập khẩu tăng do kinh
tế thế giới phục hồi, giá cả nguyên vật liệu tăng trên 10%), giá vàng biến động mạnh.
Trung Quốc mất mùa nên đã thu hút hàng hóa của Việt Nam khá mạnh.

Trong nước, dịch bệnh trong nông nghiệp, bão lũ nặng nề ở miền Trung làm
ảnh hưởng khá lớn đến cung cầu hàng hóa, giá lương thực thực phẩm tăng do việc
chủ động đưa giá lên để tạo điều kiện cho các nhà sản xuất trong nước và nông dân.
Tăng lương cơ bản, tăng chi phí giáo dục, y tế. Do chi tiêu ngân sách và đầu tư công
khá lớn những năm trước đó và cả năm 2010, kết hợp tỷ giá tăng (đặc biệt tỷ giá đôla
Mỹ tăng xấp xỉ 10%), giá vàng tăng 30%, yếu tố tâm lý kỳ vọng lạm phát trong dân
dẫn đến tổng cầu tăng đột biến, làm giá tăng mạnh trong năm 2010…
Trong khi đó, nhiều mặt hàng thuộc diện Nhà nước quản lý cũng được điều
chỉnh lên mức giá mới, đồng loạt áp dụng từ ngày 1/3/2010: giá than bán cho điện
tăng đến 47% tùy loại, giá điện tăng 6,8%, giá nước sạch tại Tp.HCM tăng khoảng
50%. Một tác động khác gây ảnh hưởng lớn đến giá cả và tâm lý người dân, ngay
trước ngày các viên chức trở lại làm việc sau kỳ nghỉ Tết kéo dài, trưa 21/2/2010, giá
xăng đột ngột được điều chỉnh tăng khoảng 3,6% cùng lúc dòng xe cộ ùn ùn đổ về các
thành phố. Tiếp theo các diễn biến này, gas, xi măng, sắt thép… cũng kéo nhau tăng
giá.
Thị trường chứng khoán cũng trải qua giai đoạn đi ngang, Vn-Index dao động
trong khoảng hẹp kéo dài từ giữa tháng 9 đến đầu tháng 11, sau đó xuất hiện dấu hiệu
đi lên. Nhưng trước sức nóng của lạm phát tăng cao, đến đầu tháng 11, tín hiệu thắt
chặt lại xuất hiện. Ngày 5/11, các lãi suất chủ chốt được điều chỉnh tăng thêm 100
điểm cơ bản. Cung tiền và tín dụng cũng thu hẹp tốc độ tăng, chốt lại cả năm M2 còn


tăng 23%, tín dụng tăng 27,65% so với cuối năm 2009. Thể hiện trên Vn-Index, từ
giữa tháng 12 đến cuối năm 2010, chỉ số thị trường trong chuỗi giảm điểm liên tiếp.
Trong khi đó, dưới tác động từ giá thế giới, gạo xuất khẩu liên tục lên giá đẩy
mặt bằng giá trong nước lên theo. Cả năm 2010, giá sàn xuất khẩu gạo đã được điều
chỉnh tăng đến 6 lần. Riêng giai đoạn cuối năm, giá gạo tăng bình quân khoảng 3 4%/tháng, kéo dài từ tháng 8 đến những ngày cuối cùng năm dương lịch
Các địa phương cũng không thiếu phần góp trong việc tăng giá CPI giai đoạn
này. Khi mà Nghị định 49/NĐ-CP cho phép điều chỉnh học phí có lộ trình, các tỉnh,
thành phố đã đồng loạt tăng học phí lên rất cao trong tháng 9, dẫn tới nhóm giáo dục

và đào tạo góp phần làm cho CPI tháng đó tăng tới 0,7%. Vẫn chưa hết, Đại lễ 1000
năm Thăng Long - Hà Nội kéo dài 10 ngày cũng ảnh hưởng không nhỏ đến chỉ số giá
tiêu dùng. Lại thêm lũ lụt diễn ra liên miên tại miền Trung kéo dài thêm chuỗi tác
động đễn chỉ số giá tiêu dùng giai đoạn cuối năm.
2.1.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến lạm phát trong năm 2010
Các yếu tố tác động đến lạm phát trong năm 2010 dưới ba nhóm chính: (i)
nguyên nhân chi phí đẩy (tăng giá xăng dầu, điện nước, điều chỉnh tỷ giá...), (ii)
nguyên nhân cầu kéo (kích cầu, thâm hụt ngân sách…), (iii) nguyên nhân tiền tệ (tăng
cung tiền, tăng tín dụng…).
2.1.2.1. Điều chỉnh giá điện, xăng dầu và một số hàng hóa cơ bản khác
Trong năm 2010, giá nhiều mặt hàng cơ bản đã được điều chỉnh tăng. Giá điện
tăng 6.8% từ 01/3/2010, giá xăng dầu điều chỉnh tăng 6.5% (tổng cộng 2 lần), than
bán cho ngành điện tăng từ 28 – 47%. Một số ngành công nghiệp với chi phí tiền điện
cao (chiếm 30 - 40% giá thành) như cấp nước, điện phân… giá đầu ra sản phẩm tăng
thêm khoảng 2.83 – 3.5%. Những ngành sản xuất thâm dụng năng lượng khác như
cán thép, xi măng giá thành tăng thêm khoảng 0.20 – 0.69%. Tổng hợp chi phí tiêu
dùng cuối cùng chỉ tăng từ 0.19 – 0.27%. Việc tăng giá điện và các hàng hóa cơ bản
này ảnh hưởng mạnh đến giá cả hàng hóa trong toàn bộ nền kinh tế và mức tăng
trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP), ngoài ảnh hưởng đến chi phí sản xuất, còn tác
động lên kỳ vọng của người tiêu dùng. Nếu kỳ vọng về mức lạm phát cao trong tương
lai thì mức lạm phát thực tế càng trở nên trầm trọng. Điều này thường xảy ra đối với
những nền kinh tế mà cơ chế thị trường kém hiệu quả.


2.1.2.2. Ảnh hưởng của việc điều chỉnh tỷ giá
Ngày 10/02/2010, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) quyết định điều chỉnh tỷ giá
liên ngân hàng tăng thêm 3.3%, đưa mức trần tỷ giá chính thức lên 19,100
VND/USD, vì tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hiện nay đã bằng khoảng 1.5 lần GDP.
Việc điều chỉnh tỷ giá ảnh hưởng tới đà tăng giá của hàng hóa trong nước. Nhiều mặt
hàng tiêu dùng thiết yếu của Việt Nam bị ảnh hưởng khá mạnh bởi tỷ giá. Một số

hàng hóa như sữa, sắt thép… cũng điều chỉnh giá bán sau khi tỷ giá được điều chỉnh.
2.1.2.3. Hiệu ứng từ việc tăng lương tối thiểu
Năm 2010, mức lương cơ bản được điều chỉnh tăng khoảng 10-15%, tùy từng
khu vực. Việc tăng lương tối thiểu sẽ ảnh hưởng đến chi phí sản xuất của doanh
nghiệp và ảnh hưởng tới giá cả hàng hóa. Ngoài ra, việc tăng lương tối thiểu cũng có
thể tạo ra một hiệu ứng tăng giá ăn theo trên thị trường.
2.1.2.4. Lạm phát do yếu tố cầu kéo
Lạm phát do cầu kéo xuất phát từ sự chênh lệch cung cầu làm cho giá hàng hóa
biến động mạnh. Khi nhu cầu tăng cao đột biến trong khi nguồn cung chưa kịp thay
đổi hoặc ngược lại khi nguồn cung giảm xuống cầu vẫn giữ nguyên đều làm cho giá
hàng hóa tăng.
Năm 2009, các gói kích thích kinh tế và việc tăng chi tiêu của chính phủ khiến
nhu cầu một số hàng hóa tăng mạnh. Hiệu ứng từ việc gia tăng nhu cầu này tiếp tục
kéo dài sang năm 2010, gây sức ép lên giá cả nhiều hàng hóa. Ngoài ra, năm 2010
người dân có thể sẽ tăng cường chi tiêu khi triển vọng kinh tế khả quan hơn, tạo ra
một sức cầu lớn hơn đối với nhiều loại hàng hóa.
2.1.2.5. Lạm phát từ nguyên nhân tiền tệ
Năm 2009, chính sách tiền tệ được mở rộng, lãi suất và tỷ lệ dự trữ bắt buộc
được ấn định ở mức thấp. Tăng trưởng tín dụng năm 2009 lên đến 37.74%, và là mức
khá cao so với trung bình những năm vừa qua. Tăng trưởng cung tiền M2 lên mức
28.7%, mức tăng này thấp hơn so với năm 2006 và 2007, nhưng vẫn khá cao so với
năm 2008 và những năm còn lại trước đó.
Tăng trưởng tín dụng và cung tiền cao trong năm 2009 đã ảnh hưởng đến lạm
phát trong năm 2010. Chúng ta đều biết lạm phát có quan hệ chặt chẽ với cung tiền,
nhưng thường có độ trễ từ 5 – 7 tháng


2.2. Lạm phát ở Việt Nam năm 2011
2.2.1. Thực trạng:
Nhìn chung, lạm phát ở nước ta trong năm 2011 ở mức khá cao và diễn biến

khá phức tạp, thể hiện ở việc tăng cao những tháng đầu năm và giảm dần từ quý II.
Theo đó, lạm phát cả năm 2011 dừng ở 18,58%, cao hơn nhiều so với mục tiêu mà
chính phủ đề ra.
Trong 3 tháng đầu năm 2011, lạm phát ở nước ta đã leo tới 6,12%. Theo tổng
cục Thống kê, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 3/2011 tăng 2,17%. Trong tháng này,
11 nhóm hàng được đưa vào tính CPI, không có mặt hàng nào giảm giá. Mức tăng cao
nhất là nhóm giao thông. Do chịu tác động mạnh của đợt tăng giá xăng dầu, cước vận
chuyển và giá vé nhiều loại hình vận tải tăng nhanh, dẫn tới chỉ số giá nhóm này nhảy
vọt lên 6,69% trong tháng 3; nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng cũng tăng tới 3,67% do
ảnh hưởng của tăng giá chất đốt, thép xây dựng, xi măng và nhiều loại vật liệu xây
dựng khác; nhóm hàng ăn uống ngoài gia đình sau khi chiếm ngôi tăng mạnh nhất
trong nhiều tháng, nay đứng vị trí thứ 3 với mức tăng 3,06%. Chỉ số giá vàng tháng 3
tăng 5% so với tháng trước; chỉ số giá USD tăng tương ứng 3,06%.
Lạm phát cuối tháng 4 năm 2011 so với tháng 12 năm 2010 đã tăng 9,64%;
tăng 17,51% so với tháng 4 năm 2010; lạm phát 4 tháng đầu năm 2011 so với cùng kỹ
năm 2010 đã tăng 13,95%. Như vậy, lạm phát 4 tháng đầu năm (so với các kỳ gốc
khác nhau của năm 2010) đều đã cao hơn nhiều so với chỉ tiêu lạm phát của năm 2011
đã được Quốc hội thông qua. Lạm phát 4 tháng đầu năm nay ở nước ta cũng cao hơn
nhiều so với các nước khác trong khu vực. Ví dụ, lạm phát tháng 3 năm nay ở Trung
Quốc là 5,4% so với cùng kỳ năm ngoái; còn lạm phát quý I năm nay ở Indonesia có
thể tăng lên 7,1%, ở Phillipine là 4,9%, Thái Lan là 4% và Malaysia là khoảng 2,8%
so với cùng kỳ năm ngoái.
Lạm phát Việt Nam lên tới cao điểm là 23% hồi tháng 8/2011, khiến cho nước
ta bị liệt vào hàng những nước có lạm phát cao nhất thế giới. Việt Nam đã tái tập
trung nỗ lực từ việc tăng trưởng kinh tế sang việc bình ổn để đối phó với nạn giá cả
tăng và những thách thức khác, kể cả việc giảm bớt dự trữ ngoại tệ, thâm thủng
thương mại và áp lực đối với đồng bạc Việt Nam


Trong 4 tháng cuối năm, lạm phát có dấu hiệu giảm tốc, chỉ dưới 1% mỗi

tháng. Tuy nhiên, lạm phát tháng 12 lại có dấu hiệu nhích lên so với 2 tháng trước đó.
Cụ thể, lạm phát tháng 10 và tháng 11 chỉ là 0,36% và 0,39% nhưng lạm phát tháng
12 lên 0,53%.
Chỉ số giá cả các mặt hàng lương thực thực phẩm, nhà ở, giáo dục và giao
thông tăng mạnh nhất. Tổng cục Thống kê cho biết giá lương thực thực phẩm tăng
22,8%, giá nhà ở 19,7% trong khi các chỉ số giá giao thông và giáo dục tăng 16% và
23%.
Thị trường bất động sản năm 2011 được chứng kiến việc chào bán giảm giá
của nhiều dự án, đặc biệt là đối với phân khúc chung cư cao cấp. Tuy nhiên, tâm lý
của nhà đầu tư cũng như chính sách thắt chặt tín dụng đã không tạo điều kiện thuận
lợi, các giao dịch trên thị trường gần như đóng băng.
Thị trường vàng liên tiếp lập kỷ lục về giá. Đỉnh điểm của cơn sốt giá vàng
phải kể đến ngày 22/8, giá lập kỷ lục 49 triệu đồng/lượng. Năm 2011 cũng ghi nhận
hoạt động thao túng thị trường của giới đầu cơ, điển hình là việc giá vàng SJC
(thương hiệu chiếm hơn 90% thị phần), có lúc đắt hơn thế giới gần 5 triệu
đồng/lượng.
Sau quãng thời gian tăng trưởng quá nóng với 130 tổ chức tín dụng, gần
10.000 chi nhánh và phòng giao dịch trên cả nước, hệ thống ngân đã lộ rõ nhiều điểm
yếu nguy hiểm: tỷ trọng sở hữu chéo cao, đạo đức kinh doanh xuống thấp, những
cuộc đua lãi suất không ngừng và có dấu hiệu "sa lầy" vào bất động sản, nợ xấu gia
tăng..
Thị trường chứng khoán 2011 liên tiếp bắt đáy với nhiều cổ phiếu “rẻ hơn giá
mua một mớ rau”, thậm chí giá nhiều cổ phiếu tương đương giá một nửa cốc trà đá.
65 công ty chứng khoán thua lỗ và 71 công ty chứng khoán có lỗ lũy kế. Giá trị vốn
hóa thị trường chỉ còn hơn 20% GDP.
Hàng trăm vụ vỡ nợ tín dụng đen liên tiếp lộ ra ở nhiều địa phương đã khiến
không ít người lao đao, khốn đốn. Không có gì ngạc nhiên khi những "con nợ"
thường gắn với giới bất động sản, ngân hàng và chứng khoán. Tín dụng đen được cho
là gắn với sự tăng trưởng "bong bóng" của bất động sản trong vài năm qua, gắn với
thời tranh tối tranh sáng "tiền tái cấu trúc" của hệ thống ngân hàng và sức chịu đựng



tới hạn của chứng khoán. Điều đáng lo ngại là đã có dấu hiệu liên kết giữa tín dụng
đen và các kênh huy động vốn chính thống. Hiệu ứng domino này được dự báo sẽ còn
tiếp tục, cho đến khi thị trường bất động sản còn đóng băng và nguồn vốn giá rẻ từ
ngân hàng chưa cởi mở
Năng lực sản xuất kinh doanh của hàng loạt doanh nghiệp bị suy yếu nghiêm
trọng, khả năng tiếp cận vốn bị suy giảm do lãi suất tín dụng trở nên đắt đỏ và nguồn
vốn khan hiếm. Ước tính, khoảng trên dưới 50.000 doanh nghiệp đã lâm vào cảnh phá
sản
Trong bối cảnh lạm phát tăng vọt, đầu tư công tràn lan kém hiệu quả và các
"đầu tàu" của nền kinh tế đầu tư ồ ạt ra ngoài ngành, Nghị quyết 11 (ngày 24/2/2011)
của Chính phủ được coi như một phát súng lệnh để tổng rà soát và tái cơ cấu lại hoạt
động của nền kinh tế, ổn định vĩ mô.
Việc thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, chính sách tài khóa thắt chặt, cắt
giảm đầu tư công, kiềm chế nhập siêu... và đảm bảo an sinh xã hội theo Nghị quyết 11
đã được thể hiện xuyên suốt trong điều hành vĩ mô của Chính phủ năm 2011. Mặc dù
lạm phát vẫn cán mốc trên 18,58% nhưng những dấu hiệu cải thiện vĩ mô rõ rệt vào
thời điểm cuối năm cũng như các định hướng tái cấu trúc kinh tế, cắt giảm lãi suất,
thoái vốn ngoài ngành, tăng hiệu quả đầu tư công... đã mở ra triển vọng sáng sủa hơn
cho mục tiêu duy trì tăng trưởng 6% và giữ lạm phát 9% trong năm 2012
2.2.2. Nguyên nhân lạm phát ở Việt Nam năm 2011:
2.2.2.1. Tình trạng đầu tư công dàn trải và thiếu hiệu quả: Theo thống kê mỗi năm
Việt Nam đầu tư công khoảng 17-20% GDP, trong khi các nước trong khu vực chỉ
dưới 5% như Trung Quốc 3,5%, Indonesia 1,6%; Riêng năm 2011, đầu tư công mặc
dù đã cắt giảm song vẫn dàn trải. Không thể phủ nhận sự cần thiết của đầu tư công.
Nhưng nhà nước chỉ nên tham gia vào những lĩnh vực đem lại lợi ích lớn cho cả nền
kinh tế. Trên thực tế nhà nước đã tham gia quá nhiều vào các hoạt động kinh tế và
nhiều khi còn cạnh tranh và chèn lấn khu vực tư nhân. Với mức chi tiêu của khu vực
công (bao gồm chi tiêu thường xuyên và chi đầu tư) trong những năm vừa qua luôn ở

mức 35-40% GDP và đầu tư của nhà nước bằng khoảng 20% GDP (một nửa tổng đầu
tư toàn xã hội) là một mức quá cao.


2.2.2.2. Tình trạng thâm hụt ngân sách và thâm hụt thương mại diễn ra trong thời
gian dài: Tình trạng này nếu tiếp tục kéo dài gây khó khăn cho việc hoạch định triển
khai chính sách tỷ giá, nỗ lực giảm thâm hụt ngân sách của Chính phủ và quá trình
tăng trưởng bền vững của nền kinh tế.
2.2.2.3. Chính sách ổn định tỷ giá cứng nhắc và có nhiều vi phạm: Việc theo đuổi
chính sách ổn định tỷ giá đồng tiền trong bối cảnh lạm phát luôn tăng cao làm giảm
sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam. Khi lạm phát cao mà tỷ giá cứng nhắc
sẽ làm cho hàng hóa của các doanh nghiệp Việt Nam (kể cả tiêu thụ trong nước và
xuất khẩu) trở nên đắt đỏ hơn so với hàng nhập khẩu. Điều này làm cho một lượng
hàng hóa ít hơn sẽ được sản xuất ra trong nền kinh tế Việt Nam và sức cạnh tranh của
các doanh nghiệp Việt Nam bị giảm sút. Sự lãng phí tham nhũng trong đầu tư công
cũng như sự phân bổ vốn thiệc lệch như trên còn dẫn đến một hệ lụy khác là nhiều
người giàu lên bất thường có nhu cầu chi tiêu các hàng hóa xa xỉ nhập ngoại cộng với
việc định giá cao đồng tiền làm cho tình trạng nhập siêu ngày một căng thẳng hơn.
Nói chung tình trạng phân bổ nguồn lực cộng với chính sách điều hành tỷ giá như trên
đã dẫn đến sự mất cân bằng kép trong nền kinh tế mà nó thể hiện bởi thâm hụt thương
mại, thâm hụt ngân sách luôn dai dẳng và trầm trọng hơn cùng với lạm phát luôn ở
mức rất cao
2.2.2.4. Lạm phát từ nguyên nhân tiền tệ: Mở rộng tín dụng và đầu tư một cách quá
mức để hy vọng đạt được tăng trưởng kinh tế cao. Vàng được coi là một loại hàng hóa
đặc biệt, giá vàng được coi là một trong những sự kiện đáng chú ý của năm 2011,
theo Tổng cục Thống kê, trong năm 2011, giá vàng đã tăng 39%. Tỷ giá USD cũng
tăng đến 8,47% so với năm 2010.
Các chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương còn kém hiệu quả. Cung ứng
lượng tiền qui ước vượt quá mức mà nền kinh tế đòi hỏi. Chính sách tiền tệ mở rộng
được thực hiện trong thời gian dài, khiến lượng cung tiền tăng cao, làm đồng tiền bị

mất giá, gây lạm phát. Đặc biệt là trong thời gian gần đây, tình trạng thừa USD trong
thị trường tiền tệ Việt Nam đã khiến cho ngân hàng nhà nước phải dùng một lượng
tiền VNĐ lớn để mua vào dự trữ lượng USD, thừa ra một lượng tiền mặt lớn được
đưa vào lưu thông gây tăng cung tiền.
2.2.2.5. Sự chênh lệch trong việc phân bổ vốn ở khu vực doanh nghiệp (khu vực thị
trường): Nhìn vào nền kinh tế sẽ thấy rằng các doanh nghiệp nhà nước và một số


doanh nghiệp tư nhân lớn có nhiều quan hệ đang là đối tượng dành được sự ưu ái
trong việc phân bổ vốn. Câu chuyện của Vinashin đã chi tiêu hoang phí khoảng 4 tỷ
đô la trong thời gian qua và hiện vẫn được khoanh nợ và tiếp tục vay vốn là một ví dụ
rất điển hình của sự ưu ái dành cho các doanh nghiệp nhà nước.
2.3. Diễn biến lạm phát ở Việt Nam những tháng đầu năm 2012:
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) trong quý I-2012 đã có xu hướng giảm dần và có
tốc độ tăng thấp nhất so với cùng kỳ các năm trước. So với tháng trước, CPI tháng 3
chỉ tăng 0,16%; so với tháng 12/2011, CPI tháng 3/2012 tăng khoảng 2,55%, thấp hơn
nhiều so với cùng kỳ (năm 2011 tăng 6,12%, năm 2010 tăng 4,12%). Lãi suất tín dụng
hiện nay đã giảm khoảng 1 - 1,5% so với đầu năm. Tuy nhiên, bên cạnh đó, sức ép
lạm phát cao vẫn tiếp tục hiện diện, mà nổi bật là Việt Nam tiếp tục chịu ảnh hưởng
tiêu cực từ hệ quả cuộc khủng hoảng nợ công và suy giảm kinh tế toàn cầu, trực tiếp
làm giảm động lực tăng trưởng từ xuất khẩu, thậm chí tô đậm hơn xu hướng bảo hộ
kỹ thuật từ cả 3 thị trường xuất khẩu lớn nhất là Mỹ, EU và Nhật Bản. Ngoài ra, Việt
Nam còn chịu áp lực tăng lạm phát trên thế giới gắn với các động thái tiêu cực về
chính sách tiền tệ, thị trường tài chính và căng thẳng chính trị cũng như quan hệ quốc
tế ở nhiều nơi trên thế giới
Trong những tháng đầu năm, làn sóng tăng giá hàng thiết yếu đã đẩy người dân
vào một mặt bằng giá mới khá bất lợi. Giá gas liên tiếp tăng và giá xăng cũng tăng
2100đ/lít. Giá sữa của nhiều hãng nhập ngoại từ đầu tháng 3-2012 tăng từ 10 – 12%.
Giá của một số mặt hàng hóa mỹ phẩm, nhất là xà bông cục, nước rửa tay, chăm sóc
cơ thể, tẩy rửa, băng vệ sinh, một số đồ dùng và thực phẩm giành cho trẻ em cũng bị

ép tăng từ 5-10%. Giá nước sinh hoạt ở nhiều đô thị lớn cũng tăng mạnh, như từ ngày
1-1-2012 TP.HCM tiếp tục tăng 10%, còn TP.Hải Phòng tăng khoảng 40%. Đặc biệt,
theo dự thảo thông tư về khung giá nước sạch sinh hoạt do Bộ Tài chính xây dựng
đầu năm 2012, giá nước sạch có thể lên tới 18.000 đồng/m3. Giá thành điện 2012 dự
kiến sẽ là 1.242 đồng mỗi kWh, tăng 4,6% so với 2011... Những làn sóng tăng giá các
hàng thiết yếu nêu trên - vốn chiếm tỷ trọng lớn trong rổ tính CPI của Việt Nam đang và sẽ làm cho mục tiêu an sinh xã hội bị đe dọa, mức sống thực tế của người dân
bị hạ thấp. Hơn nữa, chúng còn gây áp lực tăng lạm phát với mức cao.
Thực tế những tháng đầu năm đang cho thấy khả năng hiện thực hóa mục tiêu
kiềm chế lạm phát năm 2012 xuống còn khoảng 9-9,5% được xác lập bởi những nhân


tố tích cực như nhận thức và quyết tâm chính trị mới từ cấp cao nhất; sự nhất quán
chính sách tài chính-tiền tệ linh hoạt và thận trọng, theo hướng tiếp tục thắt chặt, nâng
cao hiệu quả đầu tư công; đổi mới mô hình và cơ chế phát triển...

CHƯƠNG III – GIẢI PHÁP CHỐNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM

3.1. Điều hành chính sách tài chính-tiền tệ chặt chẽ, thận trọng và linh
hoạt theo tín hiệu thị trường: bảo đảm tăng tổng phương tiện thanh toán và tăng dư
nợ tín dụng hàng năm không vượt quá mức khoảng 15%; giảm dần mặt bằng lãi suất


hợp lý; tiếp tục chủ động điều hành tỷ giá linh hoạt theo thị trường, không để chênh
lệch 2 giá cao, kéo dài; bảo đảm và giảm chi phí vốn cho sản xuất; kiểm soát chặt cho
vay bất động sản và kinh doanh chứng khoán; kiểm soát nợ xấu; phối hợp tốt các cơ
quan, tổ chức có liên quan nhằm giữ vững và đảm bảo cao nhất sự ổn định các thị
trường tài chính- tiền tệ và thị trường bất động sản.
Cùng với đó, giảm sâu hơn bội chi ngân sách; tăng cường tiết kiệm chi thường
xuyên ngân sách nhà nước (NSNN) các cấp và áp khoán, lượng hóa bắt buộc tiết kiệm
chi phí quản lý, kinh doanh đối với khu vực doanh nghiệp nhà nước (DNNN); sắp xếp

lại danh mục đầu tư công, nâng cao hiệu quả đầu tư, kinh doanh từ NSNN và của
doanh nghiệp nhà nước theo tiêu chí rõ ràng được luật hóa; bảo đảm nợ công trong
giới hạn an toàn.
Đồng thời, đổi mới cơ chế phân bổ vốn đầu tư; kiên quyết tập trung vốn cho
các công trình dự án cấp thiết, sớm hoàn thành, nhanh đưa vào sử dụng để phát huy
hiệu quả; ưu tiên bố trí vốn cho các công trình đã hoàn thành và đã đưa vào sử dụng,
các công trình cần thiết phải hoàn thành trong năm 2012 và vốn đối ứng cho các dự án
ODA.
3.2. Tăng cường quản lý nhà nước về giá: thực hiện đúng quy luật và trình tự
quy trình kinh tế thị trường. Chỉ cho phép doanh nghiệp thực hiện giá thị trường khi
có cạnh tranh thị trường đầy đủ, lành mạnh trong lĩnh vực đó; tăng cường công tác
thông tin về giá, kiểm tra, kiểm toán giá, đồng thời đề cao trách nhiệm, sự chủ động
và minh bạch về giá của doanh nghiệp.
Đi liền với đó, tăng cường công tác quản lý thị trường, trừng phạt các hoạt
động quảng cáo quá mức; kiểm soát hoạt động của các hệ thống đại lý phân phối, nhất
là phân phối độc quyền nhằm giảm thiểu tình trạng tăng giá độc quyền, đầu cơ và
nhiễu loạn giá, phi thị trường; đấu tranh phòng ngừa hiệu quả với các hiện tượng
chuyển giá, làm giá, gian lận về giá và các gian lận thương mại khác; hoàn thiện các
quy định pháp lý cần thiết theo hướng thiết thực, công bằng, dân chủ và có tính pháp
quyền cao nhằm nâng cao hiệu quả công tác bình ổn giá và bảo đảm an sinh xã hội.
Xử lý nghiêm khắc các hành vi tăng giá bất hợp lý, nhất là đối với các nguyên
vật liệu quan trọng và các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu; tăng cường công tác thông tin


tuyên truyền về các chủ trương, biện pháp điều hành giá cả của Chính phủ, không gây
hoang mang, tạo tâm lý tăng giá và kỳ vọng đầu cơ.
Đặc biệt, cần thay việc đăng ký giá bằng tăng cường kiểm soát, kiểm tra giá.
Thực tế cho thấy, đăng ký giá là một động thái quản lý nhà nước về giá mang tính
hình thức cao, ít có giá trị quản lý thực sự, thậm chí còn tạo điều kiện “hợp pháp hóa
giá cả độc quyền’. Nghĩa là, doanh nghiệp chỉ việc đăng ký giá bán (theo mức tự

mình định ra) và tìm cách giải trình lý do khi muốn tăng giá sao cho hợp lý (kể cả khi
việc tăng giá này không phải do tăng giá nhập, mà do cả các yếu tố khác như tăng chi
phí vận chuyển, tăng mức chiết khấu và lợi nhuận) là có thể hợp pháp bán hàng theo
giá đăng ký đó, mà rất ít khi bị “tuýt còi”. Hơn nữa, giá đăng ký chỉ áp dụng được tại
các đại lý trực thuộc hệ thống của doanh nghiệp, còn các đại lý tư nhân thì không thể
kiểm soát được (do luật cho phép được lấy hàng từ 3 doanh nghiệp khác nhau).
3.3. Thúc đẩy trên thực tế quá trình tái cấu trúc nền kinh tế theo một
chương trình tổng thể, đồng thời, chủ động giảm thiểu các tác động mặt trái của
quá trinh này: kiểm soát chặt chẽ hơn nhập khẩu các mặt hàng không khuyến khích;
phát triển sản xuất thay thế có hiệu quả hàng nhập khẩu để giảm nhập siêu và cải
thiện cán cân thanh toán; tiếp tục khuyến khích thu hút và đẩy nhanh tiến độ giải ngân
các nguồn vốn ODA và FDI trong các lĩnh vực mục tiêu (đặc biệt trong phát triển cơ
sở hạ tầng, công nghiệp phụ trợ và nông nghiệp); tăng cường quản lý các dòng vốn
đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII); tạo điều kiện thuận lợi để tăng khách du lịch quốc tế
và nguồn kiều hối. Kiên quyết thực hiện thoái vốn nhà nước tại các doanh nghiệp mà
Nhà nước không cần chi phối và thoái vốn đã đầu tư vào các hoạt động ngoài ngành
kinh doanh chính.
Đẩy mạnh cải thiện môi trường đầu tư, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp
phát triển sản xuất, kinh doanh và mở rộng thị trường; đa dạng các hình thức và các
nguồn vốn đầu tư theo các cơ chế BOT, BT, BTO; đẩy mạnh hình thức hợp tác công tư (PPP) để phát triển hạ tầng có quy mô lớn nhằm tạo bước đột phá trong lĩnh vực
quan trọng này. Phát triển ổn định các vùng sản xuất, chế biến lúa gạo và các hàng
nông sản, thực phẩm khác, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
3.4. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và tăng cường công tác
phòng chống tham nhũng: tăng cường cơ chế bảo vệ lợi ích quốc gia và đổi mới
công tác cán bộ, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; chú trọng cải cách thể chế


và thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp và nhân dân; đề cao trách
nhiệm giải trình của các cơ quan nhà nước; nâng cao chất lượng công tác tham mưu,
công tác thông tin, dự báo và phản biện chính sách xã hội, tăng cường tham vấn nhân

dân, cộng đồng doanh nghiệp và các chuyên gia khi xây dựng chính sách và hoàn
thiện thể chế
3.5. Chính sách ổn định tỷ giá: Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước cần sớm
có những biện pháp mạnh hơn để kiểm soát chặt thị trường ngoại tệ tự do, thu hẹp các
giao dịch và xử phạt nặng hơn các trường hợp vi phạm về thu đổi ngoại tệ trái phép
nhằm thu hẹp sự chênh lệch tỷ giá giữa thị trường ngoại hối chính thức và phi chính
thức. Đồng thời có các chính sách mạnh tay yêu cầu các tổng công ty và doanh nghiệp
nhà nước không được găm giữ USD; khi có USD, buộc phải gửi vào ngân hàng hoặc
đẩy ra thị trường.
3.6. Thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, khuyến khích xuất khẩu, kiềm chế
nhập siêu, sử dụng tiết kiệm năng lượng: Điều tiết cân đối cung cầu đối với từng
mặt hàng thiết yếu, bảo đảm kết hợp hợp lý, gắn sản xuất trong nước với điều hành
xuất nhập khẩu; chủ động có biện pháp chống đầu cơ, nâng giá; áp dụng các biện
pháp phù hợp để khuyến khích, khuyến cáo các doanh nghiệp, nhân dân sử dụng tiết
kiệm năng lượng (điện, xăng dầu), sử dụng công nghệ cao, công nghẹ xanh, sạch,
công nghệ tiết kiệm.
3.7. Chống lạm phát bằng cách tác động lên cung: Thực hiện phương pháp
cắt giảm chi phí sản xuất, giảm chi phí bỏ ra cho các yếu tố đầu vào nhằm hạ giá
thành sản phẩm như cắt giảm số lao động, sử dụng một cách tiết kiệm và có hiệu quả
nguyên nhiên vật liệu trong sản xuất… Tiến hành đầu tư nâng cao khoa học công
nghệ ứng dụng trong sản xuất, nâng cao hiệu quả quản lý sản xuất… nhằm tăng sản
lượng sản phẩm trong khi không làm tăng giá thành sản phẩm.

KẾT LUẬN

Giải quyết vấn đề lạm phát một cách triệt để là công việc nhiều Chính phủ làm
chưa thành công. Song ta có thể kiềm chế lạm phát, chủ động với lạm phát và do đó
hạn chế tác hại của nó. Có thể thấy trong dài hạn, lạm phát sẽ thấp nếu mức tăng cung



tiền thấp. Như vậy phải duy trì chính sách tài khóa chặt chẽ sao cho thâm hụt ngân
sách cũng thấp, phải có những thay đổi trong chính sách thu nhập, trong thể chế, trong
luật lệ và phải học cách sống với lạm phát.
Qua sự tìm hiểu về vấn đề lạm phát ở nước ta hiện nay, chúng ta thấy rằng lạm
phát là một vấn đề nan giải, nó đã đang và sẽ tiếp tục ảnh hưởng đến sự phát triển bền
vững của nền kinh tế. Vì vậy Nhà nước ta cần có những chính sách có hiệu quả hơn
để kiềm chế lạm phát, giúp cho cuộc sống của nhân dân ta ngày càng ổn định hơn

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1/ Giáo trình lý thuyết tài chính tiền tệ (Trường Đại học Kinh tế Quốc dân)
2/ Giáo trình kinh tế đại cương (Nhà xuất bản Công an Nhân dân)
3/ Giáo trình Kinh tế học vĩ mô (Bộ Giáo dục và đào tạo)
4/ Tạp chí kinh tế và phát triển
4/ Tạp chí nghiên cứu kinh tế
6/ Báo Thời báo kinh tế
7/ Báo điện tử Chính phủ Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
7/ Báo điện tử vneconomy.vn, cafef.vn



×