Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

tiểu luận ba giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản trong công nghiệp doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.97 KB, 24 trang )

MỞ ĐẦU

Chủ nghĩa tư bản ra đời từ trong lòng xã hội phong kiến, trên cơ sở
sự phân hoá những người sản xuất nhỏ và quá trình tích luỹ nguyên thuỷ của
tư bản. Từ đó đến nay, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã trải qua
một quá trình phát triển dài hàng bốn, năm thế kỷ.
Quá trình phát sinh phát triển của chủ nghĩa tư bản là quá trình công
nghiệp hoá tư bản chủ nghĩa, tiến từ nền sản xuất nhỏ, lao động thủ công lên
nền sản xuất lớn, lao động chủ yếu bằng máy móc; là quá trình ngày càng xã
hội hoá lao động và sản xuất. Trong quá trình đó lực lượng sản xuất tư bản
chủ nghĩa được phát triển từng bước đi đôi với sự hoàn thiện dần dần quan
hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, dẫn tới sự thống trị tuyệt đối của phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa trong nền kinh tế - xã hội của một nước cũng như
trên phạm vi thế giới.
Mác khái quát quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản trong công
nghiệp thành ba giai đoạn: hiệp tác giản đơn, công trường thủ công và đại
công nghiệp cơ khí. Khi phân tích ba giai đoạn phát triển chủ nghĩa tư bản
trong công nghiệp, Mác cho rằng đó là ba giai đoạn phát triển của lực lượng
sản xuất, ba giai đoạn tăng năng xuất lao động; đồng thời đó cũng là quá
trình phát triển của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, quá trình tăng cường
bóc lột lao động làm thuê.
NỘI DUNG
I. Hiệp tác giản đơn
1. Quan điểm của Mác về hiệp tác và hiệp tác giản đơn
Khi nghiên cứu và phân tích về quá trình sản xuất giá trị thặng dư
tương đối, Mác đã tìm ra được những phương pháp đặc thù của quá trình sản


xuất ấy. Trong đó hiệp tác là một trong những phương pháp mà Mác đã phân
tích và lý giải. Mác cho rằng, lao động hiệp tác là khi nhiều người lao động
cùng làm việc với nhau nhằm mục đích chung, trong một quá trình sản xuất,


hoặc trong quá trình sản xuất khác nhau, nhưng có quan hệ với nhau. Mác
viết: ''Cái hình thái lao động trong đó nhiều người làm việc theo kế hoạch
bên cạnh nhau và cùng với nhau, trong cùng một quá trình sản xuất, hay
trong những quá trình sản xuất khác nhau nhưng gắn liền với nhau thì gọi là
hiệp tác''. (C.Mác, PH.Angghen, toàn tập, tập 23 NXB CTQG, Hà Nội –
1993, tr 473). Có hai hình thức hiệp tác: hiệp tác giản đơn và hiệp tác trên
cơ sở phân công. Khi nhiều người cùng làm một việc hoặc những công việc
giống nhau, thì đó là hình thức hiệp tác giản đơn nhất. Thí dụ: nhiều người
cùng khiêng một vật nặng, hoặc cùng cày trên một đám ruộng, nhiều thợ nề
cùng xây một bức tường…
Hiệp tác giản đơn là khởi điểm của sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa sinh ra trên cơ sở sản xuất hàng hoá
nhỏ. Nó bắt đầu khi tư liệu sản xuất tập trung vào tay một số ít người, còn
người lao động thì mất hết tư liệu sản xuất, buộc phải đem bán sức lao động
của mình như một thứ hàng hoá. Những xưởng thủ công tương đối lớn của
nhà tư bản hình thành, trong đó qui mô sản xuất được mở rộng, nhưng chưa
có sự thay đổi gì căn bản về công cụ lao động cũng như phương pháp lao
động. Đó là giai đoạn phát triển ban đầu của sản xuất tư bản chủ nghĩa, gọi
là hiệp tác giản đơn tư bản chủ nghĩa.
Những xí nghiệp theo kiểu hiệp tác như vậy đầu tiên là do thương
nhân, người cho vay nặng lãi, thợ cả và thợ thủ công phát tài xây dựng trên
cơ sở lao động làm thuê của những người thợ thủ công phá sản, nông dân
nghèo…Khi nói về lịch sử ra đời của chủ nghĩa tư bản Mác viết: ''Nền sản
xuất tư bản chủ nghĩa chỉ thực tế bắt đầu ở nơi nào mà cũng một tư bản cá


biệt ấy thuê nhiều công nhân trong cùng một lúc, do đó quá trình lao động
mở rộng qui mô của nó và cung cấp sản phẩm với một số lượng lớn. Sự hoạt
động của một số công nhân làm việc trong cùng một thời gian, trên cùng một
không gian để sản xuất ra cùng một loại hàng hoá, dưới sự điều khiển của

cùng một nhà tư bản - đó là điểm xuất phát lịch sử và lô-gích của nền sản
xuất tư bản chủ nghĩa''. (Tr 468)
Để có thể tạo ra khối lượng giá trị thặng dư đủ bảo đảm cho tái sản
xuất mở rộng tư bản chủ nghĩa và nuôi sống nhà tư bản hoàn toàn thoát ly
lao động sản xuất, thì lao động làm thuê bị bóc lột đó phải đạt đến một số
lượng nhất định. So với sản xuất nhỏ cá thể, hiệp tác giản đơn tư bản chủ
nghĩa khác về qui mô sản xuất và số lượng người lao động, còn về kỹ thuật
thì chưa có gì thay đổi. Nhưng chỉ riêng sự khác nhau về qui mô cũng đã
làm cho hiệp tác giản đơn tư bản chủ nghĩa có những ưu thế to lớn, tạo ra
một năng suất lao động cao hơn so với sản xuất nhỏ cá thể.
So với sản xuất nhỏ cá thể, hiệp tác giản đơn tư bản chủ nghĩa có
những ưu thế sau đây:
+ Tạo ra một sức sản xuất mới, sức sản xuất tập thể. Do đó có thể dễ
dàng hoàn thành những công việc mà từng cá nhân hay một số ít người
không làm nổi, như khiêng một vật nặng …Mặt khác trong cùng một thời
gian, cùng một số người, nhưng làm việc tập thể thì có thể được nhiều việc
hơn là làm riêng lẻ. Mác đã chứng minh như sau: “Trong một ngày tự nhiên
thì một người riêng rẽ chỉ có thể rút ra một ngày lao động thôi, ví dụ là 12
giờ chẳng hạn nhưng sự hợp tác của 100 người lại có thể mở rộng một ngày
12 giờ thành một ngày lao động 1200 giờ”.(tr 476). Mác viết: '' Trong tất cả
những trường hợp ấy, lao động của từng người riêng rẽ không thể nào đạt tới
kết quả của lao động chung, hoặc chỉ đạt tới sau một thời gian rất lâu, hoặc
với một qui mô rất nhỏ. ở đây vấn đề không phải chỉ là nâng cao sức sản


xuất cá nhân bằng sự hiệp tác, mà còn tạo ra một sức sản xuất mà tự nó đã là
tập thể rồi. ''. (tr 473)
+ Tiết kiệm được chi phí sản xuất. Do sản xuất tập trung, nên nhiều
công cụ có thể dùng chung, nhà xưởng và kho tàng có thể thu gom, chi phí
về vận chuyển có thể giảm bớt…tất cả những điều đó dẫn đến tiết kiệm được

chi phí làm cho giá trị hàng hoá giảm xuống.
Thí dụ: 12 người thợ dệt, nếu tập trung sản xuất trong một xí nghiệp
thì chỉ cần làm một nhà xưởng, một nhà kho, một số dụng cụ do làm chung
nên có thể giảm bớt đi những máy quay sợi, nên chi phí sản xuất sẽ thấp hơn
là cũng vẫn 12 người nhưng chia làm hai nhóm mỗi nhóm 6 người.
+ Kích thích sự thi đua và khả năng lao động của mỗi người.
Mác viết M: ''Chưa nói đến một sức mới, xuất hiện khi nhiều sức
hợp nhất lại thành một sức chung, trong phần lớn các công việc sản xuất,
ngay sự tiếp xúc xã hội cũng đã đẻ ra sự thi đua, cũng kích thích nguyên khí
làm tăng năng suất cá nhân của từng người riêng rẽ''. (tr 474)
+ San đi bù lại những chênh lệch cá nhân về thể lực, kỹ năng … giữa
những người sản xuất, nhờ đó mà hao phí lao động cá biệt của xí nghiệp
hiệp tác gần sát với hao phí lao động xã hội cần thiết trung bình. Đó là cơ sở
làm cho sản xuất và tiêu thụ hàng hoá của xí nghiệp hiệp tác được ổn định
và vững chắc hơn sản xuất nhỏ riêng lẻ.
Mác viết:'' Chúng ta nhấn mạnh rằng nhiều công nhân bổ xung cho nhau
cùng làm một việc hoặc một loại công việc như nhau, vì hình thức lao động chung
giản đơn nhất đó cũng có một tác dụng lớn ngay cả trong hình thức hiệp tác phát
triển nhất. Nếu quá trình lao động là một quá trình phức tạp thì chỉ việc kết hợp
một khối lượng đông những người lao động làm việc chung với nhau cũng đã cho
phép phân phối những công việc khác nhau cho những người khác nhau, do đó


tiến hành những công việc ấy cùng một lúc, và nhờ thế mà rút ngắn được thời gian
lao động cần thiết để làm ra tổng sản phẩm''. ( Tr. 476)
+ Bảo đảm tính liên tục trong lao động, hạn chế thời giờ trống.
+ Bảo đảm mở rộng hoặc thu hẹp không gian trên đó lao động tiến hành.
Mác viết: “Một mặt sự hợp tác cho phép mở rộng phạm vi không
gian của lao động và vì vậy, đối với một quá trình lao động nhất định, mối
liên hệ về mặt không gian giữa các đối tượng lao động cũng đã đòi hỏi phải

có sự hiệp tác, ví dụ như công trình tiêu nước, đắp đập, đưa nước vào ruộng,
đào kênh, đắp đường, làm đường xe lửa,...Mặt khác, sự hiệp tác cho phép
thu hẹp tương đối, tức là so với qui mô sản xuất, phạm vi không gian của sản
xuất. Sự giới hạn phạm vi không gian đó của lao động trong khi đồng thời
mở rộng phạm vi tác động của nó mà kết quả là giảm bớt được hao phí của
sản xuất - Sự giới hạn đó nảy sinh từ việc tập trung một khối đông công
nhân, từ việc hợp nhất những quá trình lao động khác nhau và tập trung
những tư liệu sản xuất lại”. (tr 477)
+ Bảo đảm tính thời vụ của công việc. Vì hiệp tác cho phép tập trung
lao động một cách kịp thời cho những công việc mang tính thời vụ, thí dụ,
thu hoạch mua màng, cắt lông đàn cừu, hộ đê chống lụt…
Để làm rõ vai trò của hiệp tác, Mác đã đưa ra ví dụ về hậu quả của
việc không hiệp tác, Mác viết: “Chính vì thiếu sự hiệp tác ấy mà ở miền Tây
nước Mỹ hàng năm mất một khối lượng lớn lúa mì và ở một số vùng thuộc
Đông Ấn, nơi mà nền thống trị của Anh đã thủ tiêu chế độ công xã cũ, hàng
năm cũng mất một khối lượng lớn bông”. (tr 477)
Những ưu thế trên đây của hiệp tác giản đơn tạo khả năng tiết kiệm
được lao động quá khứ và lao động sống. Do đó, tạo ra một năng suất lao
động cao hơn, một sức sản xuất mới của lao động, giúp cho con người làm
được những việc to lớn mà khi lao động riêng lẻ không thể làm được.


2. Tính chất tư bản chủ nghĩa của hiệp tác giản đơn
Trong xã hội tư bản, dưới quyền lực của tư bản, hiệp tác trở thành
công cụ để bóc lột, một hình thức sản xuất giá trị thặng dư tương đối.
Mác cho rằng: ''nếu một mặt, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
là một tất yếu lịch sử để biến quá trình lao động thành một quá trình xã hội,
thì mặt khác, hình thức xã hội đó của quá trình lao động lại là một phương
pháp mà tư bản đã dùng để bóc lột quá trình đó một cách có lợi hơn bằng
cách nâng cao sức sản xuất của quá trình đó''. (tr 486)

Như đã trình bày ở trên, ưu thế của hiệp tác rõ ràng là do lao động
tập thể quyết định. Đứng về ý nghĩa đó, thì ưu thế của hiệp tác không thuộc
về một thời đại lịch sử riêng biệt nào. Nhưng dưới chủ nghĩa tư bản, dưới
quyền lực của nhà tư bản, hiệp tác giản đơn với những ưu thế của sự tập
trung và xã hội hoá lao động, tạo ra năng suất lao động cao, không những
không mang lại phúc lợi cho người lao động mà trở thành công cụ để nhà tư
bản bóc lột công nhân lao động làm thuê. Trong quá trình sản xuất nhà tư
bản là người chỉ đạo, kiểm soát đối với quá trình sản xuất. Sự chỉ đạo, kiểm
soát của nhà tư bản đối với quá trình sản xuất xuất phát từ hai lý do sau:
Một là, hiệp tác lao động ở bất kỳ chế độ xã hội nào cũng cần có sự
điều khiển chung, một sự chỉ đạo tập trung và thống nhất để điều hoà hoạt
động sản xuất của các cá nhân cho ăn khớp với hoạt động sản xuất của tập
thể. Đó là tính tất yếu khách quan của tổ chức quản lý một nền sản xuất lớn
so với sản xuất nhỏ, cá thể.
Mác viết: ''Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung
nào tiến hành trên qui mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng cần đến một sự chỉ
đạo để điều hoà những hoạt động của cá nhân…Một người độc tấu vĩ cầm tự
mình điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng.
Các chức năng chỉ đạo, giám sát, điều hoà ấy trở thành những chức năng của


tư bản, khi lao động phụ thuộc vào tư bản đó trở thành lao động hiệp tác. Là
một chức năng đặc biệt của tư bản”. (tr 480)
Hai là, nhà tư bản có chức năng tổ chức điều khiển sự hiệp tác lao
động đó. Bởi vì, nhà tư bản là người nắm giữ tư liệu sản xuất nên họ phải là
người tổ chức quản lý và kiểm soát quá trình sản xuất. Sự chỉ đạo, kiểm soát
quá trình sản xuất trở thành quyền lực của nhà tư bản đối với công nhân và
tất yếu mang tính cưỡng bức và chuyên chế của đối kháng giai cấp nhằm
bóp nặng giá trị thặng dư.
Như vậy, hiệp tác giản đơn tư bản chủ nghĩa là một tất yếu đối với sự

hình thành và phát triển của nền sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa. Hiệp tác lao
động ở trình độ giản đơn cũng như ở trình độ phát triển cao đều phải lấy tập
trung tư liệu sản xuất làm tiền đề vật chất. Tập trung tư liệu sản xuất tất yếu
dẫn đến hiệp tác lao động; đồng thời hiệp tác lao động phải dựa trên cơ sở
tập trung tư liệu sản xuất.
Mác cho rằng: “Nói chung công nhân không thể trực tiếp cùng làm
với nhau khi họ không được tập hợp lại ở một chỗ, vì vậy, việc tập hợp nhau
lại tại một địa diểm nhất định là điều kiện của sự hiệp tác của họ; những
người công nhân làm thuê không thể hiệp tác được với nhau nếu như cũng
một tư bản ấy, không sử dụng họ cùng một lúc, tức là không mua sức lao
động của họ cùng một lúc... sự tích tụ một khối lượng lớn tư liệu sản xuất
vào trong tay những nhà tư bản riêng rẽ là điều kiện vật chất cho sự hiệp tác
của những người công nhân làm thuê, và qui mô hiệp tác hoặc qui mô sản
xuất phụ thuộc vào qui mô của sự tích tụ đó”. (tr 479).
Từ nghiên cứu vấn đề này cho thấy, hiệp tác giản đơn là một hình
thức xã hội hoá lao động, là một hình thức tổ chức lao động tất yếu của sản
xuất qui mô lớn, tập trung. Nó phù hợp với mọi hình thái kinh tế - xã hội từ
sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn.


Hiệp tác tuy có những ưu thế so với sản xuất cá thể, nhưng để tiếp
tục phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động tất yếu hiệp tác phải phát
triển lên phân công lao động và công trường thủ công.
II. Phân công lao động và công trường thủ công
1. Nguồn gốc và đặc điểm của công trường thủ công
Công trường thủ công tư bản chủ nghĩa là hình thức hiệp tác tư bản
chủ nghĩa xây dựng trên cơ sở phân công trong nội bộ xí nghiệp và trên cơ
sở kỹ thuật thủ công. Nó tồn tại từ khoảng nửa cuối thế kỷ XVI đến cuối thế
kỷ XVII, và sinh ra từ hai nguồn gốc sau đây:
Một là, từ sự tập hợp những nghề thủ công khác nhau vào trong

xưởng tư bản chủ nghĩa dưới sự chỉ huy chung của một nhà tư bản. Trong
các công trường thủ công này, những người thợ thủ công làm nghề khác
nhau đó không còn sản xuất một sản phẩm hoàn chỉnh nữa, mà làm những
bộ phận khác nhau của sản phẩm tập thể. Mác đã ra ví dụ: “một chiếc xe
ngựa đầu tiên là sản phẩm tập thể của lao động của một số lớn những người
thợ thủ công độc lập như thợ làm hòm xe, thợ đóng yên, thợ may, thợ nguội,
thợ làm đồ đồng, thợ tiện, thợ rèn, thợ kính, thợ sơn, thợ đánh vác ni, thợ mạ
vàng...Công trường thủ công đóng xe ngựa tập hợp tất cả những người thợ
thủ công khác nhau đó vào trong một xưởng, ở đó họ làm việc trong cùng
một lúc và hiệp đồng với nhau”.(tr 488)
Hai là, sự hiệp tác của những người thợ cùng nghề. Do có sự phân
công mà công việc sản xuất sản phẩm trước kia do một người làm, nay được
chia làm nhiều bộ phận, mỗi công nhân hoặc nhóm công nhân chỉ sản xuất
từng bộ phận thôi. Sản phẩm hoàn chỉnh là do những sản phẩm bộ phận đó
hợp lại. Mác viết: “ Những công trường thủ công cũng có thể phát sinh một
cách hoàn toàn ngược lại. Nhiều người thợ thủ công cùng làm một việc như
nhau hay một loại công việc giống nhau, ví dụ như làm giấy, đúc chữ in, làm


kim khâu, được một nhà tư bản tập hợp lại cùng một lúc trong cùng một
công xưởng”. Mác còn phân tích: “Ví dụ một số lượng hàng hoá thành phẩm
lớn hơn phải được giao trong một thời hạn nhất định. Vì vậy lao động bị
phân chia ra. Đáng lẽ giao cho một người thợ thủ công làm lần lượt hết các
công việc khác nhau, thì người ta tách những công việc đó ra, cô lập chúng xếp
chúng bên cạnh nhau trong không gian rồi giao mỗi công việc ấy cho từng
người thợ thủ công cá biệt, và tất cả những công việc ấy được những người lao
động hiệp tác tiến hành trong cùng một lúc. Trong khi người thợ phường hội
làm kim có thể làm lần lượt đến 20 công việc thì ở đây chẳng bao lâu 20 thợ
thủ công cùng làm bên cạnh nhau, mỗi người chỉ làm một công việc trong số
20 công việc đó”. (tr 490- 491). Từ những phân tích đó, Mác đi đến kết luận,

công trường thủ công tư bản chủ nghĩa được hình thành theo hai cách.
Một mặt, công trường thủ công phát sinh từ sự kết hợp những nghề
thủ công độc lập khác nhau, những nghề này đã mất tính chất độc lập của
chúng và đã trở thành phiến diện đến mức chỉ còn là những công việc bộ
phận bổ sung cho nhau trong quá trình sản xuất ra cùng một hàng hoá. Mặt
khác, phát sinh từ sự hiệp tác của những người thợ thủ công cùng nghề, nó
phân giải nghề thủ công cá biệt đó thành những công việc đặc thù khác
nhau, cô lập và tách riêng những công việc ấy đến mức mỗi công việc ấy trở
thành một chức năng riêng của một người công nhân đặc thù.
Tuy xuất phát từ hai nguồn gốc khác nhau, nhưng công trường thủ
công có chung những đặc điểm sau đây:
Một là, là một cơ cấu sản xuất dựa trên cơ sở kỹ thuật thủ công, tức
là dựa trên sức lực, sự khéo léo, sự nhanh nhẹn và sự chuẩn xác của bàn tay
con người khi họ sử dụng công cụ thủ công của họ để làm việc.
Mác chỉ rõ: “Để hiểu đúng sự phân công lao động trong công trường
thủ công thì điều căn bản là phải chú ý đến các đặc điểm sau đây. Trước


hết,...việc thực hiện những công việc đó vẫn mang tính chất thủ công, và vì
vậy nó phụ thuộc vào sức lực, sự khéo léo, sự nhanh nhẹn và sự chuẩn xác
của người công nhân riêng lẻ trong việc sử dụng công cụ của họ. Nghề thủ
công vẫn là cơ sở”. (tr 491)
Hai là, người thợ thủ công hoàn chỉnh trước kia bị chia ra thành
người lao động bộ phận. Đi đôi với việc phân chia người lao động bộ phận,
công cụ của họ cũng được phân chia, chuyên môn hoá.
Mác chỉ rõ: “Một người công nhân suốt đời chỉ làm có mỗi một công
việc đơn giản thôi, sẽ biến toàn bộ thân thể của anh ta thành một khí quan tự
động mang tính chất phiến diện của cái công việc đơn giản ấy...Đặc điểm
của công trường thủ công là sự phân hoá các dụng cụ lao động, nhờ đó mà
những dụng cụ cùng loại có được những hình thái cố định, đặc thù cho mỗi

hình thái sử dụng đặc thù”. (tr 492, 495)
Ba là, về mặt kinh tế - xã hội, công trường thủ công là khâu trung
gian giữa tiểu sản xuất hàng hoá và đại công nghiệp cơ khí. Nó gần với thủ
công nghiệp, vì kỹ thuật thủ công là cơ sở của công trường thủ công. Nó gần
với công xưởng về mặt qui mô lớn của sản xuất, do có sự hình thành thị
trường rộng lớn, xưởng lớn dùng công nhân làm thuê, một tư bản lớn chi
phối hoàn toàn quần chúng công nhân vô sản.
Như vậy, công trường thủ công là loại công trường tập trung những
người có ngành nghề khác nhau trong xí nghiệp tư bản để sản xuất ra một
loại sản phẩm nào đó, sản phẩm cuối cùng được nắp ráp bởi nhiều bộ phận
khác nhau. Và ở đó có nhiều người thợ thủ công cùng làm một nghề trong
một xí nghiệp tư bản.
Công trường thủ công có những ưu thế sau: từ sự phân tích ở trên
chúng ta có thể thấy rằng công trường thủ công tạo ra năng suất lao động cao
hơn so với hiệp tác giản đơn. Bởi vì, lao động được chuyên môn hoá nên


người lao động tích luỹ được nhiều kinh nghiệm, nâng cao nhanh chóng
trình độ thành thạo và dễ dàng cải tiến phương pháp lao động, vì vậy có thể
tiêu hao ít sức lực mà đạt hiệu quả sản xuất cao hơn. Hơn nữa do chuyên
môn hoá, nên giảm nhiều thời gian trong sản xuất như thời gian ngừng việc
để đổi nhiệm vụ, đổi chỗ, đổi dụng cụ…kết quả là giảm bớt được thời gian
chế tạo ra một đơn vị sản phẩm. So với hiệp tác giản đơn, phân công trong
công trường thủ công làm cho sản xuất và tiêu thụ hàng hoá có cơ sở kinh tế
vững chắc hơn. Bởi vì, cơ cấu sản xuất của công trường thủ công là lao động
tập thể gồm nhiều người lao động bộ phận chuyên môn hoá, nên trong ít thời
gian hơn mà công trường thủ công cung cấp được nhiều sản phẩm hơn, nói
cách khác là sức sản xuất của lao động đã tăng lên.
2. Phân công lao động trong công trường thủ công và phân công
lao động trong xã hội

Trước khi đi vào phân tích sự khác nhau và giống nhau giữa phân
công lao động trong công trường thủ công và phân công lao động trong xã
hội. Chúng ta cần đi vào phân biệt các loại phân công lao động. Theo Mác,
nếu chỉ xét riêng bản thân lao động thì người ta có thể gọi sự phân chia nền
sản xuất xã hội thành những ngành lớn như nông nghiệp, công nghiệp...là sự
phân công lao động chung và sự phân chia những ngành ấy thành loại và thứ
là sự phân công lao động đặc thù; sự phân công lao động trong công xưởng
thợ là sự phân công lao động cá biệt. Còn phân công lao động xã hội là sự
phân chia nền sản xuất xã hội thành nhiều ngành nghề khác nhau để sản xuất
ra các loại giá trị sử dụng khác nhau.
Ngày nay, ở mức độ phân công lao động chung nhất, nền sản xuất xã
hội của hầu hết các quốc gia được phân chia thành ba ngành lớn: công
nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ. Đồng thời phân công lao động đặc thù và
phân công lao động cá biệt cũng hết sức sâu sắc. Phân công lao động trong


công trường thủ công là sự chuyên môn hoá và hiệp tác hoá lao động trong
phạm vi từng công trường thủ công, tức là trong nội bộ xí nghiệp, chủ yếu
do kỹ thuật và tổ chức quá trình sản xuất quyết định.
Phân công lao động trong xã hội và trong công trường thủ công có
những điểm giống và khác nhau là:
- Giống nhau:
Cả hai loại phân công đều biểu hiện sự chuyên môn hoá và hiệp tác
hoá lao động, đánh dấu sự phát triển của lực lượng sản xuất và thúc đẩy sự
phát triển đó. Hai loại phân công đều có nguồn gốc tương tự: Phân công lao
động xã hội ra đời trên cơ sở hợp nhất nhiều công xã khác nhau trong cùng
một hệ thống kinh tế, hoặc làm tan rã các công xã, biến các thành viên công
xã thành những người sản xuất và trao đổi hàng hoá độc lập; phân công
trong công trường thủ công cũng ra đời trên cơ sở hợp nhất hoặc chia sẻ các
nghề thủ công trong thời kỳ đầu của chủ nghĩa tư bản. Tiền đề vật chất của

phân công trong công trường thủ công là phải có nhiều công nhân được dùng
cùng một lúc trong xí nghiệp. Tiền đề của phân công lao động xã hội là một
số lượng nhân khẩu và mật độ dân số lớn đến mức độ nào đó.
Phân công trong công trường thủ công chỉ có thể thực hiện ở nơi nào
mà phân công lao động xã hội đã phát triển đến một trình độ nhất định. Mặt
khác, sự phát triển của phân công trong công trường thủ công lại làm cho sự
phân công xã hội phát triển hơn nữa.
Mác viết: “Vì sản xuất hàng hoá và lưu thông hàng hoá là tiền đề
chung của phương thức sản xuất TBCN, cho nên sự phân công lao động
trong công trường thủ công đòi hỏi phải có một sự phân công lao động đã
phát triển đến một trình độ nào đó trong xã hội. Trái lại, bằng cách tác động
ngược trở lại, sự phân công lao động trong công trường thủ công lại phát
triển và nhân sự phân công lao động trong xã hội lên. Cùng với sự phân hoá


của công cụ lao động thì những nghề sản xuất và các công cụ đó cũng ngày
càng phát triển”. (tr 513)
- Khác nhau:
Mác cho rằng: Mặc dù có rất nhiều những sự giống nhau và những
mối liên hệ giữa sự phân công lao động trong xã hội và sự phân công lao
động trong xưởng thợ, nhưng hai loại phân công đó không những khác nhau
về mức độ mà còn khác nhau về cơ bản nữa.
Trong phân công xã hội, người lao động độc lập có mối quan hệ với
nhau, thông qua trao đổi hàng hoá. Nhưng trong công trường thủ công, từng
người lao động bộ phận không thể làm ra sản phẩm hàng hóa, chỉ có lao
động tập thể của cả xí nghiệp mới tạo ra sản phẩm hàng hoá.
Những người lao động trong công trường thủ công là những người
bán sức lao động cho cùng một nhà tư bản để họ sử dụng như một sức lao
động tập thể. Mối liên hệ giữa những người lao động trong công trường thủ
công được thực hiện trong sản xuất bằng mệnh lệnh của một nhà tư bản.

Mác khẳng định: Trong công trường thủ công những lao động bộ
phận khác nhau trong không gian, còn trong nền sản xuất xã hội thì do chúng
bị phân tán trên một không gian rộng lớn và do số lượng lớn công nhân làm
việc trong mỗi ngành riêng biệt nên người đó không thể thấy được mối liên hệ
ấy. Nhưng cái gì đã thiết lập lên mối liên hệ giữa những công việc độc lập của
người chăn nuôi, của người thuộc da và người thợ giày? đó là sự tồn tại của
những sản phẩm tương ứng của họ với tư cách là hàng hoá. Ngược lại cái gì là
đặc điểm của sự phân công lao động trong công trường thủ công? đó là việc
người công nhân bộ phận không sản xuất ra hàng hoá.
Tiền đề của sự khác nhau:
Trong công trường thủ công tiền đề của sự phân công là sự tước đoạt
tư liệu sản xuất của những người sản xuất trực tiếp và tập trung vào tay một


nhà tư bản và lấy việc bán sức lao động cho cùng một nhà tư bản làm môi
giới; còn tiền đề của sự phân công xã hội là tư liệu sản xuất phân tán vào tay
những người sản xuất hàng hoá độc lập đối lập với nhau và lấy việc mua bán
các sản phẩm của các ngành lao động khác nhau làm môi. Nếu phân công
trong công trường thủ công chỉ thực hiện được dưới quyền lực tối đa của
một nhà tư bản đối với những người đã bị biến thành những bộ phận đơn
giản của một cơ cấu thuộc về nhà tư bản đó, thì sự phân công lao động xã
hội lại làm cho những người sản xuất riêng lẻ độc lập với nhau, họ không
thừa nhận quyền lực nào khác, ngoài quyền quyền lực của cạnh tranh.
Sự phân công lao động trong xã hội lấy việc mua và bán các sản phẩm
của các ngành lao động khác nhau làm môi giới; còn mối liên hệ giữa các công
việc bộ phận trong công trường thủ công thì lấy việc bán những sức lao động
khác nhau cho cùng một nhà tư bản làm môi giới, nhà tư bản này sử dụng những
sức lao động đó với tư cách là một sức lao động kết hợp. Sự phân công lao động
trong công trường thủ công giả định phải có sự tích tụ những tư liệu sản xuất vào
trong tay một nhà tư bản, còn sự phân công lao động trong xã hội thì lại giả định

lại phải có sự phân tán những tư liệu sản xuất vào tay nhiều người sản xuất hàng
hoá độc lập đối lập với nhau.
Trong công trường thủ công, phân công lao động được thực hiện một
cách có ý thức, theo những tỷ lệ nhất định và được phân bố một cách chặt
chẽ; còn trong phân công lao động xã hội thì tỷ lệ lao động phân bố giữa các
ngành sản xuất khác nhau được thực hiện một cách tự phát, vô tổ chức,
nhưng lại là một sự tất yếu không sao tránh khỏi và chỉ thấy rõ thông qua sự
trao đổi trên thị trường.
Mác chỉ rõ: “Trong công trường thủ công, cái qui luật thép về tỷ số hay tỷ
lệ buộc phân phối những khối lượng công nhân nhất định cho những chức năng
nhất định; Ngược lại, sự ngẫu nhiên và tính tuỳ tiện lại phát huy tác dụng hỗn loạn


của chúng trong việc phân phối những người sản xuất hàng hoá và những tư liệu
sản xuất của họ cho những ngành lao động xã hội khác nhau”. (tr 516)
Từ những điểm giống nhau và khác nhau giữa sự phân công xã hội
và sự phân công trong công trường thủ công, Mác đã đi đến kết luận:
'' Trong khi sự phân công lao động trong toàn thể xã hội, không kể là
nó được sự trao đổi hàng hoá làm môi giới hay không, vẫn thuộc về những
hình thái kinh tế - xã hội rất khác nhau thì sự phân công lao động trong công
trường thủ công lại là vật sáng tạo hoàn toàn có tính chất đặc biệt của
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa''. (Tr. 521).
3. Tính chất tư bản chủ nghĩa của công trường thủ công
Công trường thủ công tuy có ưu thế to lớn làm cho năng suất lao
động cao một bước, nhưng do vẫn xây dựng trên cơ sở chế độ chiếm hữu tư
nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, nên công trường thủ công mang
tính chất tư bản chủ nghĩa sâu sắc. Nó là hình thức đặc biệt sản xuất giá trị
thặng dư tương đối cho nhà tư bản. Điều đó thể hiện trên các nội dung sau:
Một là, việc tăng năng suất lao động trong công trường thủ công giúp
cho nhà tư bản bóc lột công nhân một cách tàn khốc hơn và làm tàn phế

người công nhân. Suốt đời bị cột chặt vào một công việc bộ phận, người
công nhân luôn luôn chỉ làm một động tác, thân thể không thể phát triển cân
đối, sinh ra nhiều bệnh nghề nghiệp.
Mác viết: '' Sự phân công lao động trong công trường thủ công chỉ là
một phương pháp đặc biệt để sản xuất ra giá trị thặng dư tương đối, hay đẩy
mạnh việc tự tăng thêm giá trị của tư bản ở trên lưng công nhân. Nó không
những phát triển sức sản xuất xã hội của lao động cho nhà tư bản chứ không
phải cho công nhân mà còn phát triển sản xuất ấy bằng con đường làm què
quặt người công nhân cá biệt. Nó tạo ra những điều kiện mới cho tư bản
thống trị lao động. Vì vậy, nếu một mặt, nó là một sự tiến bộ lịch sử và là


một yếu tố tất yếu trong sự phát triển kinh tế của xã hội, thì mặt khác, nó lại
là một thủ đoạn bóc lột văn minh và tinh vi'' (Tr. 529).
Hai là, công trường thủ công biến công nhân thành công nhân bộ
phận, mất điều kiện làm ăn độc lập, họ chỉ có thể làm việc trong công trường
thủ công. Do đó, công nhân suốt đời phải làm thuê cho nhà tư bản, và ngày
càng bị lệ thuộc vào nhà tư bản.
Mác viết: “Công trường thủ công làm cho người lao động bị què quặt
đi, trở thành quái dị...nếu lúc ban đầu, người công nhân bán sức lao động
của mình cho nhà tư bản vì anh ta không có tư liệu vật chất để sản xuất ra
hàng hoá, thì bây giờ chính ngay sức lao động cá nhân của anh ta không thể
được sở dụng nếu nó không được bán cho nhà tư bản. (tr 524)
Chính vì vậy sức lao động đó chỉ còn hoạt động được trong một mối
liên hệ chỉ tồn tại sau khi nó được bán đi, nghĩa là trong công xưởng của nhà
tư bản. Vốn có đặc tính tự nhiên là không thể làm một việc gì độc lập cả,
người công nhân công trường thủ công chỉ còn có thể phát triển một đợt sản
xuất với tư cách là một vật phụ thuộc vào nhà tư bản mà thôi...rằng anh ta là
sở hữu của nhà tư bản”.
Ba là, chế độ lao động gia công, tức là lao động ở nhà cho nhà tư bản,

trở thành một hình thức phổ biến. Đó là một hình thức bóc lột rất tàn khốc.
Công trường thủ công tư bản chủ nghĩa làm cho lực lượng sản xuất
phát triển lên một bước, nâng cao năng suất lao động. Do đó tăng cường
được sự bóc lột và thống trị của tư bản đối với công nhân, quan hệ sản xuất
tư bản chủ nghĩa cũng được củng cố thêm một bước. Nhưng vì vẫn dựa trên
kỹ thuật thủ công, nên nó chưa đủ sức lấn át và chiếm ưu thế tuyệt đối so với
sản xuất nhỏ. Vì thế về mặt kinh tế, nảy sinh sự cần thiết phải chuyển từ
công trường thủ công sang đại công nghiệp cơ khí.
III. Máy móc và đại công nghiệp


1. Máy móc và cách mạng công nghiệp
Trong thời kỳ công trường thủ công, do cơ sở kỹ thuật còn là thủ
công, chủ nghĩa tư bản chưa làm thay đổi được tận gốc rễ toàn bộ đời sống
kinh tế của xã hội. Kỹ thuật thủ công không phải là kỹ thuật của chính
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Do đó, trong quá trình phát triển,
chủ nghĩa tư bản đã tự tạo ra cho mình một cơ sở kỹ thuật tương xứng là cơ
khí. Cơ khí ra đời đưa sản xuất tư bản chủ nghĩa lên giai đoạn phát triển cao
nhất là giai đoạn đại công nghiệp cơ khí và làm thay đổi tận gốc rễ toàn bộ
đời sống kinh tế của xã hội.
Máy móc ra đời, đã thay thế người lao động chỉ sử dụng mỗi một
dụng cụ, bằng một cơ cấu sử dụng ngay một lúc nhiều công cụ như nhau
hoặc cùng loại và do một động lực làm cho chuyển động. Nói chung máy
móc gồm ba bộ phận cơ bản: bộ phận phát lực, bộ phận chuyền lực và bộ
phận công tác. Máy móc càng phát triển, đỉnh cao của sự phát triển đó là
máy tự động. Ngoài ba bộ phận kể trên, máy tự động thường có thêm một bộ
phận điều khiển và kiểm tra toàn bộ hoạt động của máy. Máy móc lúc đầu
được sử dụng lẻ tẻ từng chiếc một, mỗi máy có máy công tác, bộ phận phát
lực và bộ phận chuyền lực riêng. Về sau xuất hiện máy phát lực có công suất
cao, điều tiết dễ dàng và có thể cung cấp lực cho nhiều máy công tác chuyển

động cùng một lúc. Khi máy công tác được sử dụng nhiều, máy phát lực lại
lớn lên và máy chuyền lực thì ngày càng phức tạp. Nhiều máy công tác do
cùng một động cơ trung tâm, làm cho chạy, thông qua một hệ thống chuyền
lực thống nhất gọi là hệ thống máy móc.
Hệ thống máy móc hoặc là sự hiệp tác giản đơn giữa nhiều máy công
tác cùng loại, như những máy dệt trong nhà máy dệt, hoặc là sự hiệp tác dựa
trên cơ sở phân công giữa những máy công tác khác nhau và bổ sung cho nhau,
như giữa máy dệt, máy kéo sợi, máy nhuộm …trong nhà máy liên hiệp dệt.


Ban đầu, máy móc được làm bằng gỗ theo phương pháp thủ công trong
các công trường thủ công. Dần dần máy móc được sử dụng nhiều, yêu cầu về kỹ
thuật ngày càng cao thì máy móc bằng gỗ và việc sản xuất theo lối thủ công
không còn đáp ứng được nữa. Do đó ngành công nghiệp chế tạo máy ra đời,
dùng máy móc để sản xuất máy móc bằng sắt thép và các kim loại khác.
Cách mạng công nghiệp của chủ nghĩa tư bản là cuộc cách mạng về
kỹ thuật thay thế lao động thủ công bằng lao động dùng máy móc, đưa chủ
nghĩa tư bản từ giai đoạn công trường thủ công lên giai đoạn đại công
nghiệp cơ khí, bảo đảm sự thắng lợi cuối cùng của chủ nghĩa tư bản.
Cuộc cách mạng công nghiệp diễn ra trong những năm cuối thế kỷ
XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX, trước tiên ở nước Anh rồi lan sang các nước
khác, nghiên cứu cuộc cách mạng công nghiệp đó, Mác đã khái quát tính qui
luật trong trình tự diễn biến của nó như sau : Cách mạng công nghiệp bắt đầu
từ máy công tác sau đó kéo theo các bộ phận phát lực và chuyền lực; Cơ khí
hoá ở một ngành thúc đẩy các ngành có liên quan cơ khí hoá theo; Cơ khí hoá
trong các ngành sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, thúc đẩy ngành giao thông
vận tải cơ khí hoá theo; Cơ khí hoá bắt đầu từ công nghiệp nhẹ đến các ngành
kinh tế khác, cuối cùng lại đưa đến cơ khí hoá bản thân ngành cơ khí.
Như vậy, cách mạng công nghiệp đã bắt đầu từ máy công tác rồi lan
sang các bộ phận khác của máy móc và kết thúc bằng việc sản xuất máy móc

bằng máy móc, trang bị cơ khí hiện đại cho các ngành kinh tế, làm cho công
nghiệp hiện đại đứng vững và phát triển trên kỹ thuật của bản thân nó.
Trong quá trình cách mạng kỹ thuật, cùng với sự phát triển của lực
lượng sản xuất xã hội, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa cũng ngày càng phát
triển và củng cố, khiến cho phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa dần dần
được xác lập vững chắc và chiếm địa vị tuyệt đối trong nền kinh tế quốc dân.


Cuộc cách mạng kỹ thuật đầu tiên, hay quá trình công nghiệp hoá tư
bản chủ nghĩa, là một quá trình tự phát diễn ra trên cơ sở các qui luật kinh tế
của chủ nghĩa tư bản và bắt đầu từ sự phát triển các ngành công nghiệp nhẹ.
Sở dĩ có tình hình đó là vì các ngành công nghiệp nhẹ, cần ít vốn,
chu chuyển tư bản nhanh, mau có lãi. Công nghiệp nhẹ phát triển đến một
mức độ nào đó, thì một mặt, đẻ ra ngày càng nhiều nhu cầu về máy móc,
thiết bị, nguyên liệu, vật liệu...Mặt khác, tư bản cũng đã tích luỹ được nhiều,
có đủ khả năng đầu tư vào các ngành công nghiệp nặng để thu được nhiều
lợi nhuận hơn. Do đó, các ngành công nghiệp nặng được xây dựng và phát
triển. Chỉ đến khi đó, chủ nghĩa tư bản mới thực sự đứng vững trên cơ sở vật
chất kỹ thuật của riêng nó. Quá trình công nghiệp hoá tư bản chủ nghĩa là
một quá trình từ phân tán đến tập trung, từ địa phương lan ra toàn quốc và
trải qua một thời gian dài mấy trăm năm.
Công nghiệp hoá tư bản chủ nghĩa được tiến hành dựa trên cơ sở bóc lột
công nhân lao động làm thuê và nông dân lao động trong nước; mặt khác, dựa
vào việc cướp bóc thuộc địa, chiếm đoạt tài nguyên của các nước khác, hoặc vay
nợ với những điều kiện khắt khe của nước ngoài. Công nghiệp hoá tư bản chủ
nghĩa còn làm cho thành thị và trung tâm công nghiệp lớn lên, mau chóng tách
khỏi nông nghiệp và nông thôn, đối lập với nông nghiệp và nông thôn.
Cuộc cách mạng công nghiệp và sự phát triển của công nghiệp cơ khí
đã làm cho giai cấp vô sản công nghiệp hình thành, ngày càng phát triển về
số lượng và trở thành một giai cấp thống nhất, như Ăng nghen nói: Một giai

cấp riêng biệt có lợi ích riêng biệt và mang sức mạnh lịch sử riêng biệt.
Như vậy, cách mạng công nghiệp vừa là một cuộc cách mạng kỹ
thuật, một cuộc cách mạng trong lực lượng sản xuất, vừa là một cuộc cách
mạng trong toàn bộ quan hệ sản xuất xảy ra trên cơ sở cuộc cách mạng kỹ


thuật đó. Cách mạng công nghiệp làm cho máy móc ngày càng được sử dụng
nhiều trong các ngành sản xuất và đẻ ra công xưởng tư bản chủ nghĩa.
Công xưởng tư bản chủ nghĩa là xí nghiệp đại công nghiệp, dựa vào
sự bóc lột công nhân lao động làm thuê và dùng hệ thống máy móc để sản
xuất hàng hoá. Công xưởng ra đời kết thúc thắng lợi cuộc cách mạng công
nghiệp của chủ nghĩa tư bản, đưa chủ nghĩa tư bản từ giai đoạn công trường
thủ công sang giai đoạn đại công nghiệp cơ khí, bảo đảm thắng lợi cuối cùng
của chủ nghĩa tư bản và sự thống trị tuyệt đối của tư bản đối với lao động.
2. Tác dụng của đại công nghiệp cơ khí
Đại công nghiệp có tác dụng vô cùng to lớn trong việc phát triển lực
lượng sản xuất xã hội và xã hội hoá lao động một cách rộng rãi. Đó là một
bước nhảy vọt của sự tiến bộ xã hội trên con đường phát triển của lịch sử.
Điều đó được thể hiện trên các nội dung sau:
Đại công nghiệp tạo ra một năng suất lao động cao chưa từng có,
nhờ đó của cải làm ra ngày càng dồi dào. Bởi vì, máy móc có ưu thế tuyệt
đối so với công cụ thủ công. Công cụ thủ công do con người trực tiếp sử
dụng, bị hạn chế về mặt sinh lý của con người; trái lại, ở máy móc, các dụng
cụ do chính máy móc sử dụng, không bị hạn chế nói trên, nhờ đó năng suất
lao động tăng lên mạnh mẽ và vô hạn. Năng suất lao động cao do đại công
nghiệp cơ khí mang lại là yếu tố cơ bản quyết định thắng lợi cuối cùng của
chủ nghĩa tư bản đối với chế độ phong kiến.
Đại công nghiệp cơ khí là cơ sở tự phát sinh ra quá trình xã hội hoá
lao động một cách rộng rãi. Điều đó thể hiện ở chỗ: do dùng máy móc, sản
xuất công nghiệp ngày càng tập trung vào xí nghiệp lớn có số lượng công

nhân ngày càng đông đảo; đại công nghiệp ra đời làm cho phân công lao
động xã hội không ngừng phát triển. Các ngành sản xuất tăng lên thường
xuyên và càng phụ thuộc vào nhau. Cơ cấu nền sản xuất xã hội trở thành hệ


thống ràng buộc lấy nhau và tác động lẫn nhau; tình trạng phân tán của kinh
tế tự nhiên mất dần, các thị trường địa phương hợp lại thành thị trường dân
tộc và thị trường thế giới; cùng với sự mở rộng sản xuất cơ khí, nhiều trung
tâm công nghiệp và thành thị lớn ra đời. Xã hội ngày càng tách ra thành hai
giai cấp đối kháng cơ bản: giai cấp vô sản và giai cấp tư sản.
Đại công nghiệp làm cho giá trị sử dụng của vật chất ngày càng phát
triển phong phú. Đại công nghiệp không những tiết kiệm được lao động, mà
còn sử dụng được nhiều tài nguyên. Nhờ đó, người ta có nhiều khả năng
chiến thắng thiên nhiên, bắt thiên nhiên phục vụ lợi ích con người.
Đại công nghiệp cơ khí tạo cơ sở để dần dần xoá bỏ những tập quán,
tác phong của người sản xuất nhỏ, tạo cho người lao động có ý thức tổ chức,
có kỷ luật lao động chặt chẽ, có tinh thần hợp tác, ý thức tập thể và tác
phong khẩn trương, hoạt bát trong lao động. Đại công nghiệp mang trong
bản thân nó tính cách mạng; đó là cơ sở vất chất tạo ra tính cách mạng của
giai cấp công nhân. Như vậy, kỹ thuật không những có khả năng cải tạo tự
nhiên, mà còn có khả năng cải tạo cả bản thân người lao động.
Đại công nghiệp cơ khí phá vỡ các quan hệ gia đình kiểu cũ. Nó tạo
ra khả năng sử dụng lao động của phụ nữ và trẻ em. Khả năng đó được thực
hiện thì uy quyền của người đàn ông và cha mẹ cũng mất cơ sở kinh tế của
nó và người phụ nữ được giải phóng khỏi sự ràng buộc có tính gia trởng của
quan hệ gia đình kiểu cũ.
Đại công nghiệp thúc đẩy sự phát triển không ngừng của văn hoá,
khoa học và kỹ thuật. Bản thân việc sản xuất theo lối đại công nghiệp đòi
hỏi phải có một trình độ văn hoá, khoa học, kỹ thuật nhất định. Không một
dân tộc nào xây dựng được nền đại công nghiệp của mình, nếu đại bộ phận

dân cư lại là người mù chữ và dốt nát về khoa học, kỹ thuật.


Đại công nghiệp tách hoàn toàn công nghiệp khỏi nông nghiệp,
dựng lên những trung tâm công nghiệp, làm tách biệt thành thị với nông
thôn, tách hẳn công nhân thành một giai cấp riêng biệt, đồng thời nó lại tạo
tiền đề cho mối quan hệ mới, cao hơn giữa công nghiệp và nông nghiệp.
Chính cuộc cách mạng trong nông nghiệp do cuộc cách mạng công
nghiệp quyết định. Mặt khác, cách mạng trong nông nghiệp cung cấp ngày
càng nhiều lao động, nguyên liệu, lương thực, thực phẩm cho công nghiệp.
Như vậy, đối với toàn xã hội việc sản xuất bằng máy móc có lợi rất
lớn so với sản xuất thủ công. Hiệu quả kinh tế của nó lớn hơn, năng suất lao
động cao hơn và sự nặng nhọc của lao động được giảm bớt. Nhưng đối với
nhà tư bản, điều quan trọng không phải là tiết kiệm lao động xã hội, cũng
không phải để giảm nhẹ lao động của công nhân. Mà chính là làm sao tiết
kiệm được tư bản và nhờ đó mà bóc lột được giá trị thặng dư nhiều hơn.
3. Hậu quả của đại công nghiệp cơ khí đối với lao động làm thuê
Vì mục đích lợi nhuận, việc sử dụng máy móc theo lối tư bản chủ
nghĩa gây ra những hậu quả tai hại cho nhân dân lao động. Biểu hiện của
những hậu quả đó là:
Tăng cường bóc lột giá trị thặng dư cả tương đối và tuyệt đối. Bản
thân máy móc là phương tiện có hiệu lực để giảm nhẹ lao động; nhưng trong
chủ nghĩa tư bản, nó trở thành phương tiện bóc lột tận xương tuỷ người lao
động. Máy móc là công cụ để tư bản bóc lột giá trị thặng dư tuyệt đối bằng
cách buộc công nhân phải tăng cường độ lao động; đồng thời máy móc cũng
là công cụ để tư bản tăng cường bóc lột giá trị thặng dư tương đối, vì nó hạ
thấp giá trị sức lao động một cách mạnh mẽ bằng cách tăng năng suất lao
động để làm giảm giá trị các tư liệu sinh hoạt, bằng cách sử dụng rộng rãi
lao động phụ nữ và trẻ em...



Nó làm cho nạn thất nghiệp thêm trầm trọng. Máy móc có thể thay
thế công việc của hàng chục, hàng trăm thợ thủ công, thải ra khỏi xí nghiệp
hàng trăm công nhân lao động làm thuê, làm phá sản hàng loạt người sản
xuất hàng hoá nhỏ. Máy móc còn đẩy đông đảo phụ nữ và trẻ em vào thị
trường lao động với điều kiện lao động nặng nề, tiền lương rẻ mạt. Tình hình
đó làm cho nạn thất nghiệp thêm trầm trọng. Chẳng hạn, ở Anh, từ năm
1860- 1865, trong các công xưởng dệt, máy dệt chạy bằng hơi nước tăng
11%, cọc sợi tăng 3%, mã lực hơi nước tăng 5% thì con số công nhân được
dùng lại giảm đi 5,5%. Điều đó chứng tỏ rằng máy móc mới được đem áp
dụng đã gạt bỏ lao động của những thời kỳ trước đó đến mức như thế nào.
Máy móc được sử dụng theo lối tư bản chủ nghĩa biến công nhân
thành vật phụ thuộc của máy móc. Từ địa vị người sử dụng, điều khiển công
cụ tiến hành sản xuất, người công nhân chỉ làm những thao tác lao động một
cách đơn điệu, còn lao động trí óc thì tách khỏi lao động chân tay và trở
thành đặc quyền của một số ít người. Do đó sự đối lập giữa lao động trí óc
và lao động chân tay ngày càng sâu sắc. Mác vạch rõ nguyên nhân của tình
hình đó không phải do bản thân máy móc mà do chế độ tư bản sử dụng máy
móc. Mác viết:'' Tự bản thân nó máy móc không chịu trách nhiệm gì về việc
''giải phóng'' người công nhân khỏi các tư liệu sinh hoạt. Máy móc làm rẻ và
làm tăng sản phẩm…những mâu thuẫn và đối kháng chỉ phát sinh từ việc sử
dụng chúng theo kiểu tư bản chủ nghĩa mà thôi! vì tự bản thân nó máy móc
rút ngắn thời gian lao động lại, còn việc sử dụng máy móc theo lối tư bản
chủ nghĩa thì lại kéo dài ngày lao động ra…tăng cường độ lao động, làm cho
con người bị các lực lượng tự nhiên nô dịch …lại biến họ thành người cùng
khổ'' ( Tr. 630).


KẾT LUẬN
Tóm lại, ba giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản trong công

nghiệp là quá trình xã hội hoá lao động, tăng năng suất lao động và phát
triển lực lượng sản xuất. Đó cũng là quá trình phát triển của quan hệ sản xuất
tư bản chủ nghĩa: phát triển sự lệ thuộc của lao động làm thuê vào nhà tư
bản, tăng cường sự bóc lột của giai cấp tư sản đối với giai cấp vô sản. Đồng
thời, quá trình phát triển tuần tự qua ba giai đoạn của chủ nghía tư bản chính
là quá trình từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa. Quá trình này
diễn ra một cách tự phát, ngoài ý muốn của con người; nó phát triển chế độ
tư hữu, làm phân hoá giai cấp, làm cho các mâu thuẫn của xã hội ngày càng
thêm sâu sắc và trầm trọng. Đó cũng là quá trình công nghiệp và thành thị
tách khỏi nông nghiệp và nông thôn. Quá trình đó dẫn đến chỗ xác lập sự
thống trị của chủ nghĩa tư bản đối với nền kinh tế xã hội.
.................................................



×