Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

Tái cơ cấu kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (310.43 KB, 21 trang )

TỔNG QUAN VỀ TÁI CƠ CẤU KINH TẾ VÀ ĐỔI MỚI MÔ
HÌNH TĂNG TRƯỞNG Ở VIỆT NAM
PGS. TS. Lê Xuân Bá
Viện nghiên cứu quản lý kinh tế TW
Từ khi đổi mới, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn được
trong và ngoài nước thừa nhận. Tuy vậy nền kinh tế nước ta còn nhiều yếu
kém và sự yếu kém này thể hiện rõ trong những năm gần đậy. Nhận rõ
những yếu kém nội tại của nền kinh tế, Đại hội toàn quốc lần thứ XI của
Đảng đã xác định “phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát
triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược” là quan điểm phát
triển cơ bản; và “đổi mới mô hình tăng trưởng, tái cơ cấu nền kinh tế” là
định hướng tổng quát của phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ 2011-2020. Hội
nghị trung ương 3 khoá XI (tháng 10 năm 2011) đã quyết định tái cơ cấu
kinh tế trong đó tập trung ưu tiên tái cơ cấu 3 lĩnh vực quan trọng nhất. Đó
là, tái cơ cấu đầu tư với trọng tâm là đầu tư công; tái cơ cấu doanh nghiệp
nhà nước mà trọng là các tập đoàn, tổng công ty nhà nước; và cơ cấu lại thị
trường tài chính với trọng tâm là tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thương mại
và các tổ chức tài chính khác. Thực hiện chủ trương nói trên, Chính phủ đã
chỉ đạo soạn thảo Đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế và các đề án tái cơ cấu
đầu tư, tái cơ cấu DNNN và tài cơ cấu hệ thống các tổ chức tín dụng. Bài
viết này nhằm góp thêm tiếng nói về việc tái cơ cấu kinh tế gắn với đổi mới
mô hình tăng trưởng. Bài viết gồn 3 phần: phần I trình bày khái quát sự cần
thiết hay lý do phải tiến hành; phần II trình bày mục tiêu và các nguyên tắc
chủ yếu; và phần III đề cập đến các định hướng giải pháp cần thực hiện
trong quá trình trình tái cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng.
I. SỰ CẦN THIẾT CỦA TÁI CƠ CẤU KINH TẾ VÀ CHUYỂN
ĐỔI MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG
Thành công của cải cách kinh tế và hội nhập của nước ta trong hơn 25
năm qua đã được thừa nhận một cách rộng rãi ở cả trong và ngoài nước. Tốc
độ tăng trưởng kinh tế trung bình hàng năm trong giai đoạn 2000-2010 là
7,26%; GDP theo giá thực tế năm 2011 đã gấp hơn 3,8 lần so với năm


2000; từ năm 2010, nước ta đã trở thành quốc gia có mức thu nhập trung
bình thấp theo xếp hạng của Ngân hàng thế giới. Đã đạt được thành tích
vượt bậc về xóa đói giảm nghèo; năm 2011 số hộ nghèo giảm xuống còn
khoảng hơn 8%. Cơ cấu kinh tế đã từng bước chuyển đổi tích cực theo
hướng hiện đại; cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội đã được cải thiện đáng kể cả
về số lượng và chất lượng; một số ngành công nghiệp mới, công nghệ cao
đã hình thành và phát triển.


Bên cạnh những thành công nêu trên, thời gian gần đây, nền kinh tế
nước ta đang phải đối mặt với không ít khó khăn và thách thức. Cụ thể là,
tăng trưởng GDP tuy vẫn ở mức tương đối cao nhưng đang có xu hướng
giảm dần1. Ngược lại, lạm phát luôn ở mức cao hơn nhiều so với mức lạm
phát bình quân của các nền kinh tế khu vực và kinh tế thế giới; mấy tháng
gần đây lạm phát đang có xu hướng giảm, nhưng vẫn ở mức cao2. Các cân
đối vĩ mô (gồm thâm hụt cán cân vãng lại, thâm hụt tài khóa, chênh lệch tiết
kiệm trong nước và đầu tư xã hội, dữ trự ngoại tệ quốc gia.v.v.) chưa vững
chắc đã nhiều năm; sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp gặp nhiều khó
khăn, thách thức; số doanh nghiệp phải giải thể, tạm ngừng sản xuất hoặc
thu hẹp quy mô sản xuất tăng lên đáng kể; nợ xấu của các tổ chức tín dụng
gia tăng, một số tổ chức tín dụng đã gặp khó khăn về thanh khoản, tốc độ
giảm nghèo có phần giảm sút, thấp hơn mục tiêu kế hoạch và tốc độ trung
bình về giảm nghèo của các năm trước đây.v.v..
Thực tế nói trên do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan,
nguyên nhân dài hạn và ngắn hạn, nhưng chủ yếu là do các vấn đề thuộc về
cơ cấu và mô hình tăng trưởng. Những đặc điểm yếu kém của cơ cấu kinh tế
và mô hình tăng trưởng hiện hành bao gồm:
- Tăng trưởng theo chiều rộng: động lực tăng trưởng tốc độ cao phụ
thuộc vào gia tăng vốn đầu tư và gia tăng số lượng lao động. Tỷ lệ đầu tư
toàn xã hội quá lớn (trong nhiều năm là 40% - 42% GDP). Năm 2008, tổng

đầu tư trên GDP của Việt Nam cao thứ 2 thế giới (trong số 145 nước được
xếp hạng)3. Đóng góp của đầu tư cho tăng trưởng GDP tăng rất nhanh (từ
5% vào năm 1990 lên trên 60% năm 2010). Đồng thời đóng góp của nhân
tố năng suất tổng hợp cho tăng trưởng giảm rất nhanh (từ gần 50% vào năm
1990 xuống 40% năm 2000 và khoảng 16% năm 2010).
- Nhà nước tham gia quá trực tiếp và quá chi phối hoạt động đầu tư,
kinh doanh, trong khi chưa thực hiện tốt các chức năng quan trọng thuộc về
nhà nước như quy hoạch, kế hoạch, giám sát và điều hành kinh tế vĩ mô.
Nền kinh tế lấy doanh nghiệp nhà nước (DNNN) làm động lực trung tâm:
1

Tốc độ tăng GDP bình quân năm cho giai đoạn 2000-2005 là 7,5%, cho 2006-2010 là 7%; nếu chỉ
tính cho giai năm 2008-2010 chỉ khoảng 6%; năm 2011, ước tính tăng trưởng GDP chỉ khoảng từ
5,89%,.v.v...Tăng trưởng GDP của nước ta không còn ở mức cao nhất trong khu vực, năm 2010 về
tăng trưởng GDP, nước ta đứng thứ 5 trong khu vực, đứng thứ 26. trên thế giới, năm 2011 đứng thứ 4
trong khu vực và đứng thứ 28 trên thế giới; trong các năm gần đây, tăng trưởng GDP của nước ta luôn
thấp hơn mức bình quân của các nước đang phát triển.
2
Lạm phát trung bình giai đoạn 2000-2005 là 5,1%/năm, và trung bình cho giai đoạn 2006-2010 là
11,4%/ năm. Năm 2011 tỷ lệ lạm phát hơn 18% so với năm 2010. Từ năm 2007, lạm phát luôn ở mức
hai con số (trừ năm 2009), cao hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng và thuộc vào một trong số các nền
kinh tế có lạm phát cao trên thế giới.
3

CIA World FactBook, List of countries by gross fixed investment as percentage of GDP, 2009

2


Trong giai đoạn 2006 - 2009, DNNN chiếm 45% tổng đầu tư của khu vực

doanh nghiệp, nhưng chỉ đóng góp 28% cho GDP và 19% cho tăng trưởng
GDP; 24% việc làm và âm 22% cho việc làm mới; 20% giá trị sản xuất công
nghiệp (GTSXCN) và 8% tăng trưởng GTSXCN. Chính phủ Việt Nam chi
khoảng 1/3 ngân sách cho đầu tư phát triển. Xét về tỷ lệ vốn đầu tư
công so với GDP thì chính phủ Việt Nam là nhà đầu tư lớn nhất so với
chính phủ các nước trong khu vực Đông Á và Đông Nam Á4.
- Hoạt động đầu tư nhìn chung kém hiệu quả. Xét tương quan với tốc
độ tăng trưởng kinh tế (hệ số ICOR), hiệu quả đầu tư của Việt Nam ở mức
rất thấp. Trong đó, đầu tư công kém hiệu quả nghiêm trọng: ICOR của khu
vực công hiện cao gấp rưỡi ICOR chung của nền kinh tế và gấp đôi ICOR
của khu vực dân doanh.
- Mở rộng tín dụng một cách mạo hiểm: Nếu như năm 1995, tổng
đầu tư tích lũy mới chỉ khoảng 100% GDP thì năm 2010, tỷ lệ này lên tới
gần 400% GDP. Để đáp ứng lượng đầu tư khổng lồ này, tổng dư nợ tín dụng
tăng từ 25% GDP năm 1995 lên 50% năm 2003 và 135% năm 2010.
- Điều hành vĩ mô bất cập: Tiếp tục sử dụng “hệ điều hành cũ” cho
một nền kinh tế mới. Trong nền kinh tế mới này, khu vực nhà nước chỉ còn
chiếm khoảng 1/4 GDP, Việt Nam đã gia nhập WTO, nền kinh tế rất mở với
kim ngạch xuất nhập khẩu tương đương 150% - 160% GDP, dư địa can
thiệp trực tiếp của “hệ điều hành” đã bị thu hẹp rất nhiều.
Hệ quả là bất ổn vĩ mô lặp đi lặp lại với tần suất ngày càng dày, mức
độ ngày càng nghiêm trọng. Tín dụng nhiều, tiết kiệm giảm, đầu tư cao,
nhưng hiệu quả thấp, dẫn đến: Lạm phát cao (vì nhiều tiền nhưng ít hàng);
lãi suất cao và đồng tiền chịu sức ép giảm giá (do lạm phát cao); thâm hụt
ngân sách lớn (vì chi tiêu quá nhiều); thâm hụt thương mại lớn (vì cầu trong
nước quá cao nhưng năng lực sản xuất kém); bong bóng tài sản (vì quá
nhiều tiền nhưng lợi nhuận của hoạt động sản xuất thấp).
Từ những phân tích ở trên, có thể rút ra hai kết luận sau :
Một là, các yếu tố của mô hình trưởng theo chiều rộng (trước hết là
gia tăng quy mô vốn đầu tư và lao động) đã đến mức tới hạn; động lực tăng

trưởng phụ thuộc vào gia tăng vốn đầu tư, gia tăng số lượng lao động,.v.v...
đã yếu và đang giảm dần.
Đặc biệt, yếu tố nhân khẩu học thuận lợi từng đóng góp tới 1/3 mức
tăng trưởng GDP của Việt Nam trong quá khứ, nhưng hiện đang suy yếu
dần. Một số doanh nghiệp đã thông báo tình trạng thiếu hụt lao động tại các
4

Vũ Tuấn Anh (2010), Tình hình đầu tư công trong 10 năm qua và giải pháp tái cơ cấu

3


thành phố lớn. Theo dự báo, tỷ trọng dân số nằm trong độ tuổi 5 – 19 sẽ
giảm dần từ mức 34% vào năm 1999 xuống còn 27% vào năm 2010 và chỉ
còn 22% vào năm 2020. Theo dự báo của Chính phủ, lực lượng lao động
Việt Nam có thể sẽ chỉ tăng 0,6%/năm trong thập niên tới, nghĩa là chỉ bằng
gần 1/4 mức tăng 2,8%/năm trong những năm 2000 – 2010. Sự gia tăng lực
lượng lao động vẫn sẽ tiếp tục đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế
nhưng mức độ đóng góp sẽ thấp hơn nhiều so với thập niên trước.
Trong khi dư địa và động lực tăng trưởng theo chiều rộng của nền
kinh tế đang giảm và yếu dần, thì các động lực của tăng trưởng theo chiều
sâu (gồm năng suất và hiệu quả sử dụng nguồn lực) chưa được cải thiện để
bù đắp những thiếu hụt của tăng trưởng theo chiều rộng. Hệ quả là, tiềm
năng tăng trưởng của nền kinh tế đang giảm, và bản thân nền kinh tế nước ta
hiện nay tự nó không còn có khả năng duy trì mức tăng trưởng cao như
những năm trước đây.
Để giữ nhịp tăng trưởng đã đạt được trong thời gian qua, Việt Nam
cần bù đắp sự suy giảm lợi thế cơ cấu dân số vàng bằng cách tăng năng suất
của nền kinh tế. Muốn kinh tế tăng trưởng bình quân 7%/năm, tốc độ tăng
năng suất lao động của Việt Nam cần đẩy nhanh 1,5 lần để đạt mức khoảng

6,4%/năm so với mức bình quân 4,1%/năm trước đây5. Đây là một thách
thức vô cùng lớn bởi khả năng nâng cao năng suất nhờ tái phân bổ lao động
từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ tất yếu sẽ suy giảm theo thời
gian. Vì vậy, để đạt được mục tiêu trên, Việt Nam sẽ cần đến sự đóng góp
mạnh mẽ hơn nữa của yếu tố tăng trưởng năng suất trong từng ngành kinh
tế.
Từ năm 2000, mức đầu tư toàn xã hội của Việt Nam đã vượt 30%
GDP, thậm chí đạt 40% vào năm 2007. Điều này nói lên rằng khả năng tiếp
cận nguồn vốn đầu tư không thể coi là một trở ngại cho tăng trưởng kinh tế
trong thời gian trước mắt. Thay vào đó, thách thức đối với Việt Nam là phải
làm thế nào để đảm bảo nguồn vốn đó được phân bổ cho nền kinh tế thông
qua những khoản đầu tư hiệu quả nhất. Điều đó có nghĩa là Việt Nam cần
giảm đầu tư vào các doanh nghiệp không tạo ra lợi nhuận, kể cả các DNNN,
đồng thời cần tăng cường giám sát ngành tài chính để đảm bảo đồng vốn
đầu tư được rót một cách đúng đắn vào những mục đích sử dụng đem lại
hiệu quả và lợi nhuận cao nhất. Hiện tại, các DNNN, mặc dù có hiệu quả sử
dụng vốn thấp hơn, song lại dễ dàng tiếp cận vốn hơn so với các doanh
nghiệp thuộc khu vực tư nhân. Với vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, việc
nâng cao năng suất của các DNNN Việt Nam có ý nghĩa sống còn, song,
5

McKinsey (2012), Giữ nhịp tăng trưởng bền vững tại Việt Nam: thách thức về năng suất

4


đồng thời với việc nâng cao năng suất, hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cũng
phải được nâng cao.
Hai là, cùng với duy trì quá lâu mô hình tăng trưởng theo chiều rộng
không còn phù hợp, thì chủ trương, chính sách và cách thức quản lý, điều

hành nền kinh tế ở các cấp, các ngành chưa thay đổi kịp thời; chậm khắc
phục các điểm nghẽn (về hạ tầng, về thể chế và nguồn lực lao động có trình
độ cao) kìm hãm gia tăng năng suất và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế
và của doanh nghiệp. Gia tăng vốn đầu tư dưới các hình thức và kênh khác
nhau vẫn là công cụ chủ yếu để thúc đẩy tăng trưởng. Để đáp ứng yêu cầu
nói trên, chính sách tài khoá và tiền tệ mở rộng đã phải liên tục duy trì trong
nhiều năm; và đó là một trong các nguyên nhân quan trọng của lạm phát cao
và bất ổn kinh tế vĩ mô ở nước ta trong thời gian gần đây.
Những lý do trên đây buộc chúng ta phải tiến hành tái cơ cấu kinh tế
gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng.
II. MỤC TIÊU VÀ NGUYÊN TẮC TÁI CƠ CẤU KINH TẾ
GẮN VỚI ĐỔI MỚI MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG
1. Mục tiêu
Có thể nhìn nhận mục tiêu tái cơ cấu kinh tế theo 3 chiều cạnh sau
đây:
Thứ nhất, về chiều cạnh phân phối nguồn lực, tái cơ cấu kinh tế về
bản chất là thay đổi thể chế, cơ chế, công cụ phân bố, quản lý và sử dụng
nguồn lực quốc gia, nhất là vốn đầu tư nhằm hình thành cơ cấu kinh tế hợp
lý hơn, hiệu quả hơn. Các nhân tố sản xuất (gồm vốn, đất đai và tài nguyên)
phải được phân bố và dịch chuyển từ ngành, từ hoạt động kinh doanh có
năng suất thấp sang các ngành, các hoạt động kinh doanh có năng suất lao
động cao hơn. Vốn sẽ được phân bố và chuyển sang các ngành, hoạt động
kinh doanh có lợi nhuận cao hơn; lao động sẽ được phân bố và chuyển dịch
đến các ngành, các vùng và các doanh nghiệp có tiền lương cao hơn; và đất
đai, tài nguyên cũng phải được phân bố cho những nhà đầu tư, những dự án
sử dụng có hiệu quả cao hơn.
Thứ hai, từ chiều cạnh vai trò của nhà nước trong nền kinh tế, tái cơ
cấu kinh tế được hiểu là sự thoái lui của nhà nước trong vai trò chủ đầu tư
và chủ sở hữu doanh nghiệp, và tăng cường vai trò định hướng và quản lý
kinh tế vĩ mô của nhà nước.

Thứ ba, từ chiều cạnh động lực tăng trưởng, chuyển đổi mô hình tăng
trưởng là thay đổi động lực của tăng trưởng kinh tế từ chủ yếu dựa vào tăng
quy mô các yếu tố đầu vào sang chủ yếu dựa vào tăng hiệu quả, tăng năng
5


suất lao động và năng suất các yếu tố tổng hợp, đồng thời, đảm bảo lợi ích
của tăng trưởng được phân phối hợp lý và công bằng hơn giữa các vùng và
các tầng lớp dân cư.
Như vậy, mô hình tăng trưởng mà chúng ta hướng đến là mô hình mà
trong đó tăng trưởng sẽ dựa chủ yếu vào hiệu quả sử dụng nguồn lực và
năng suất lao động, người dân có việc làm ổn định, chất lượng hơn với thu
nhập ngày càng được cải thiện phù hợp với tốc độ tăng năng suất lao động,
và tạo ra nguồn lực cần thiết để mang lại khả năng tiếp cận các dịch vụ
chăm sóc y tế và giáo dục một cách đại trà và bền vững.
Do đó, tái cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng cho thời kỳ
5 năm 2011-2015 và thời kỳ 10 năm 2011-2020 đạt được các mục tiêu cụ
thể sau đây:
Một là, từng bước và liên tục nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực
xã hội, nâng cao năng suất lao động, năng suất các yếu tố tổng hợp và năng
lực cạnh tranh của nền kinh tế để năng suất lao động, năng suất các yếu tố
tổng hợp và hiệu quả sử dụng nguồn lực sẽ dần trở thành các động chủ yếu
của tăng trưởng kinh tế với tốc độ hợp lý cho thời kỳ 2013-2015 và tốc độ
cao hơn cho giai đoạn tiếp theo.
Hai là, duy trì ổn định kinh tế vĩ mô một cách vững chắc với lạm phát
thấp và các nền tảng vĩ mô vững mạnh.
Ba là, thiết lập phát triển cân đối hợp lý giữa các địa phương, vùng
miền trên cơ sở phát huy lợi thế của từng địa phương, từng vùng, sự kết hợp,
phối hợp và bổ sung giữa các địa phương trong vùng và sự hỗ trợ có chọn lọc
và hiệu quả của Trung ương.

Bốn là, Nhà nước cần giảm vai trò là nhà đầu tư và người kinh doanh
trực tiếp. Cụ thể, cần đẩy mạnh chương trình cải cách doanh nghiệp nhà
nước, đặc biệt cần đẩy nhanh việc bán 100% các doanh nghiệp nhà nước
không thuộc các lĩnh vực chiến lược và giảm dần tỷ trọng đầu tư công trong
nền kinh tế.
Năm là, từng bước và liên tục cải thiện, nâng cấp trình độ phát triển
các ngành kinh tế nói riêng và nền kinh tế nói chung; qua đó, các ngành sử
dụng công nghệ cao, có giá trị gia tăng cao từng bước thay thế các ngành
công nghệ thấp, thâm dụng lao động và giá trị gia tăng thấp để trở thành
những ngành kinh tế chủ lực của nền kinh tế.
Sáu là, tiếp tục tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP, và
đến năm 2020 hai ngành này chiếm ít nhất 85% GDP; sản xuất nông nghiệp

6


chuyển đổi theo hướng hiện đại, tổ chức sản xuất theo kiểu công nghiệp, có
năng suất cao, chất lượng cao.
Cuối cùng là, góp phần xây dựng và cũng cố vị thế quốc gia trong quan
hệ quốc tế, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ; giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã
hội.Tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại.
2. Các nguyên tắc chủ yếu
Tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyên đổi mô hình tăng trưởng là nhiệm vụ
lớn, khó khăn và phức tạp, đòi hỏi phải được triển khai đồng bộ ở tất cả các
ngành, các cấp, các lĩnh vực trên phạm vi cả nước và ở từng địa phương, đơn
vị cơ sở trong thời gian dài nhiều năm. Do đó, trong chỉ đạo và thực hiện tái
cơ cấu kinh tế, cần tuân thủ các nguyên tắc sau đây.
Một là, thực hiện tăng trưởng hợp lý, bền vững và ưu tiên chất lượng

tăng trưởng. Không ngừng nâng cao thu nhập và mức sống vật chất, tinh
thần của người dân là mục tiêu cao nhất trong các chính sách của Đảng và
Nhà nước.Tăng trưởng hợp lý và liên tục là công cụ quan trọng hàng đầu để
đạt được mục tiêu nói trên. Vì vậy, quan điểm chỉ đạo đầu tiên là tăng
trưởng kinh tế cao hợp lý là quan trọng, nhưng không phấn đấu đạt mục tiêu
tăng trưởng bằng mọi giá và ngắn hạn, mà là tăng trưởng kinh tế phải kèm
với các tiêu chí sau đây:
- Lạm phát giảm dần xuống dưới 2 con số vào năm 2012, tiếp tục
giảm trong các năm tiếp theo đến mức khoảng dưới 5% hàng năm.
- Tăng trưởng trong cân đối, nghĩa là tăng trưởng đi kèm với các cân
đối vĩ mô vững chắc.
- Tăng trưởng mang lại lợi ích cho tất cả tầng lớp dân cư, mà cụ thể
là tăng trưởng phải đi liền với giảm bất bình đẳng về thu nhập, xóa đói,
giảm nghèo bền vững, nhất là giảm nghèo cho đồng bào các dân tộc thiểu số
và các nhóm dân cư dễ bị tổn thương khác.
- Tăng trưởng phải chủ yếu nhờ tăng hiệu quả, tăng năng suất lao
động, tăng giá trị gia do kiến thức và kỹ năng của người lao động tạo ra.
- Cuối cùng là tăng trưởng thân thiện với môi trường, sử dụng tiết
kiệm và hiệu quả các nguồn năng lượng.
Trong quản lý và điều hành nền kinh tế, luôn nỗ lực để đạt được kết
quả toàn diện. Tuy vậy, trong trường hợp phải lựa chon, thì ưu tiên chất
lượng tăng trưởng, mà trước hết là tăng trưởng với lạm phát thấp, cân đối vĩ
7


mô vững chắc, tăng trưởng đi kèm với tiếp tục xóa đói giảm nghèo, bảo đảm
an sinh xã hội và thân thiện với môi trường.
Hai là, thực hiện đồng bộ và thống nhất hệ thống các giải pháp kiềm
chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, tái cơ cấu kinh tế và bảo đảm an sinh
xã hội. Trong điều kiện hiện nay, chúng ta không chỉ thực hiện tái cơ cấu

kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, mà còn phải kiềm lạm phát, ổn
định kinh tế vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội. Tất cả các nội dung nói trên
phải được thực hiện đồng thời, gắn với nhau và bổ sung cho nhau. Do đó,
các giải pháp về chống lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, về tái cơ cấu kinh tế
và bảo đảm an sinh xã hội phải lồng ghép và thống nhất với nhau, bổ sung
và phối hợp với nhau cả trước mắt cũng như trung và dài hạn.
Ba là, tiếp tục đổi mới, mở cửa, tích cực và chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế. Tái cơ cấu kinh tế sẽ thành công, đạt được mục tiêu như dự kiến,
nếu thu hút sự hưởng ứng và tham gia tích cực của người dân và các thành
phần kinh tế, nhất là tư nhân trong nước và nước ngoài, qua đó, huy động
được tối đa và sử dụng ngày càng hiệu quả hơn các nguồn lực xã hội. Vì
vậy, cần phải tiếp tục đổi mới tư duy, phân định rõ vai trò của nhà nước và
thị trường; tiếp tục đổi mới mở rộng quy mô và hiệu quả hoạt động của các
loại thị trường, đảm bảo ngày càng đầy đủ hơn quyền tự do và cơ hội kinh
doanh của người dân và doanh nghiệp, các nhân tố sản xuất dịch chuyển và
phân bố chủ yếu theo tín hiệu của thị trường. Cùng với việc nâng cao năng
lực và hiệu lực quản trị quốc gia, Nhà nước chuyển mạnh sang vai trò kiến
tạo và hỗ trợ phát triển thông qua cơ chế, chính sách và các đòn bẩy kinh tế,
hạn chế dần đầu tư kinh doanh; can thiệp hành chính vào thị trường, nếu có,
phải có thời hạn và chỉ trong trường hợp thực sự cần thiết.
Bốn là, tiến hành tuần tự, từng bước vững chắc và có hệ thống dựa
trên khai thác các lợi thế cạnh tranh hiện có, vừa có thể tăng tốc nhảy vọt trên
một số ngành và lĩnh vực nhất định. Tái cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình
tăng trưởng là một quá trình phức tạp, lâu dài với nhiều khó khăn và thách
thức; phải tiền hành đồng thời và đồng bộ trên nhiều lĩnh vực của nền kinh
tế và ở tất cả các ngành, các cấp trên cả nước, có đột phá, nếu xét thấy cần
thiết. Vì vậy, các giải pháp tái cơ cấu kinh tế phải được sắp xếp hệ thống và
tuần tự theo thời gian, theo tính chất của từng vấn đề và mối liên kết giữa
các vấn đề cần giải quyết. Theo đó, việc triển khai thực hiện phải tuần tự,
từng bước, vững chắc có thứ tự ưu tiên và đột phá; vừa triển khai, vừa đánh

giá và rút các kinh nghiệm để điều chỉnh, nếu xét thấy cần thiết.

8


III. ĐỊNH HƯỚNG GIẢI PHÁP TÁI CƠ CẦU KINH TẾ GẮN
VỚI ĐỔI MỚI MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG
1. Kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô
Kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô vẫn tiếp tục là nhiệm vụ
ưu tiên cả trước mắt và trong suốt kế hoạch 5 năm 2011-2015; bởi vì, đây
chính là tiền đề cho quá trình tái cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng
trưởng. Định hướng giải pháp chủ yếu trước mắt là tiếp tục thực hiện nhất
quán và đầy đủ nội dung, tinh thần kết luận số 02/KL-TW của Bộ Chính trị
và Nghị quyết số 11 của Chính phủ về kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ
mô, bảo đảm an sinh xã hội. Đồng thời với tái cấu trúc hệ thống ngân hàng
thương mại và các tổ chức tài chính, trong đó, cần lưu ý thêm một số điểm
sau đây:
Một là, tiếp tục thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, kiểm soát mức
tăng tổng tín dụng và tổng phương tiện thanh toán với quy mô và hình thức
thích hợp. Thực hiện điều hành cung ứng tiền tệ và tín dụng một cách chủ
động và linh hoạt tuỳ theo diễn biến của thị trường; đồng thời, có chính sách
hợp lý ưu tiên phân bố tín dụng cho sản xuất nông nghiệp và các ngành liên
quan phục vụ sản xuất nông nghiệp, cho sản xuất hàng xuất khẩu, các doanh
nghiệp vừa và nhỏ và các lĩnh vực ưu tiên phát triển khác.
Hai là, thực hiện các công cụ của chính sách tiền tệ một cách chủ
động và linh hoạt theo diễn biến cụ thể của thị trường; điều chỉnh mặt bằng
lãi suất huy động và cho vay giảm theo kỳ vọng của thị trường về lạm phát
với lãi suất hợp lý đảm bảo hài hòa lợi ích của người tiết kiệm, người đầu
tư và các tổ chức tín dụng, đồng thời, góp phần tích cực vào kiềm chế lạm
phát, ổn định giá trị đồng tiền;

Ba là, giảm dần mức độ đô hoá hoá của nền kinh tế và sự phụ thuộc
vào đồng đô la mỹ trong thanh toán quốc tế; thực hiện chính sách tỷ giá ổn
định linh hoạt và chủ động theo hướng ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định
kinh tế vĩ mô, giảm nhập siêu và bảo đảm an toàn cán cân thành toán quốc
tế.
Bốn là, tăng cường và nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đối với thị
trường vàng theo hướng: (i) thừa nhận và bảo đảm quyền sở hữu vàng của
cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật, (ii) thừa nhận và bảo đảm
vàng như một phương tiện cất trữ; (iii) hạn chế, tiến tới cấm sử dụng vàng
làm phương tiện trao đổi và thanh toán trên lãnh thổ Việt Nam, hạn chế có
hiệu quả quy mô và mức độ “vàng hoá” nền kinh tế, (iv) kết nối thị trường
vàng trong nước với thị trường quốc tế đảm bảo giá vàng ở trong nước hài

9


hoà hợp lý với giá vàng thế giới và mức lợi tức của các tài sản khác, (v) huy
động tốt hơn số dự trữ vằng trong dân cư phục vụ cho đầu tư phát triển.
Năm là, thực hiện thắt chặt tài khoá để kiểm soát tổng cầu, giảm áp lực
gia tăng lạm phát; đồng thời thực hiện nghiêm kỷ luật tài khoá (dự toán
ngân sách, mức thâm hụt ngân sách, quy mô, tốc độ gia tăng và mức trần nợ
công), tăng cường quản lý chi và nâng cao hiệu quả sử dụng các khoản chi
ngân sách.
Sáu là, phối hợp chặt chẽ và hiệu quả chính sách tiền tệ và chính sách
tài khóa; chính sách tài khóa phải bổ sung và hỗ trợ nhiều hơn cho chính
sách tiền tệ trong chống lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô.
Về trung và dài hạn, vẫn tiếp tục kiên trì và nhất quán kiềm chế lạm
phát, từng bước giảm tỷ lệ lạm phát để mức lạm phát trung bình hàng năm
thời kỳ 2011-2015 khoảng dưới 7%/năm, và dưới 5% /năm cho thời kỳ
2016-2020; tăng cường tính bền vững của các cân đối vĩ mô; xem xét giảm

mức thu ngân sách, khoan sức dân, hỗ trợ doanh nghiệp và nâng cao tính
cạnh tranh của môi trường kinh doanh; giảm thu để giảm chi ngân sách,
giảm bội chi ngân sách xuống dưới 4,5% GDP cho thời kỳ 2011-2015 và
dưới 3% GDP cho thời kỳ 2016-2020, đảm bảo an toàn nợ quốc gia cả về số
lượng và chất lượng; giảm thâm hụt tài khoản vãng lai xuống khoảng 4%
GDP năm 2015 và tiến tới thặng dư tài khoản vãng lai vào năm 2020; tăng
dự trữ ngoại tệ quốc gia,.v.v..
Lạm phát chỉ được kiềm chế và giảm xuống mức thấp, giá trị đồng
nội tệ được cũng cố và gia tăng, các cân đối vĩ mô sẽ ổn định chắc chắn, khi
các biện pháp tái cơ cấu kinh tế được triển khai thực hiện có kết qủa.
2. Tái cơ cấu đầu tư với trọng tâm là tái cơ cấu đầu tư công
2.1. Các giải pháp tái cơ cấu, nâng cao hiệu quả đầu tư công
- Thực hiện đầy đủ và nhất quán nội dung Chỉ thị số 1792/CT-TTg
ngày 15 tháng 10 năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường quản lý
vốn đầu tư từ ngân sách và vốn trái phiếu chính phủ, trong đó, đặc biệt nhấn
mạnh đến các biện pháp quản lý liên quan đến phê duyệt dự án và bố trí vốn
đẩu tư, đảm bảo vốn đầu tư phải được bố trí tập trung để hoàn thành dự án
trong thời gian sớm nhất, qua đó, giảm thất thoát lãng phí và nâng cao hiệu
quả đầu tư.
- Đối với vốn trái phiếu chính phủ, trong giai đoạn 2012-2015 không
bổ sung thêm dự án mới, đồng thời, tiếp tục rà soát, lựa chọn và sắp xếp lại
dự án đã có trong danh mục sử dụng trái phiếu chính phủ trong giai đoạn
2011-2015 và kế hoạch năm 2012; tập trung vốn cho các dự án đã hoàn thành
10


và đã bàn giao đưa vào sử dụng, các dự án dự kiến hoàn thành trong năm
2012-2013. Còn lại các dự án không bố trí được vốn, thì chuyển sang thực
hiện đầu tư theo hình thức khác, hoặc huy động vốn đầu tư hợp pháp từ các
nguồn khác để thực hiện hoặc tạm thời đình hoãn, chuyển sang giai đoạn sau

năm 2015.
- Đưa toàn bộ vốn đầu tư nhà nước, gồm cả vốn trái phiếu chính phủ và
vốn đầu tư nhà nước ngoài ngân sách khác vào khuôn khổ chi tiêu trung hạn,
đảm bảo cân đối ngân sách nhà nước phản ánh đầy đủ và chính xác các
khoản thu chi, tăng cường kỷ luật, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong
quản lý chi ngân sách, kiểm soát chặt chẽ nợ công và giữ vững an ninh tài
chính quốc gia.
- Cải cách chính sách tài khóa. Để thay đổi chính sách tài khóa, cần
bắt đầu với kỷ luật tài khóa. Kỷ luật tài khóa ở Việt Nam đã bị buông lỏng
trong một thời gian dài. Kết quả là tỷ lệ đầu tư đã trở nên rất lớn, nợ công
tăng nhanh, thâm hụt ngân sách luôn ở trong tình trạng báo động, trong khi
hiệu quả của chi tiêu lại thấp. Để tăng cường kỷ luật tài khóa, cần ưu tiên
thực hiện những chính sách sau:
+ Gộp các khoản chi trong và ngoài ngân sách trong một ngân
sách hợp nhất để tăng tính minh bạch và trách nhiệm giải trình cho chính
sách tài khóa.
+ Xác định lộ trình nhằm đưa thâm hụt ngân sách về mức bền
vững (dưới 3%). Trong dài hạn phải tiến tới cân bằng ngân sách, trừ những
trường hợp phải ứng phó với khủng hoảng hay thiên tai.
+ Giảm thâm hụt ngân sách không phải bằng việc tăng thu (hay
tận thu) như hiện nay mà là giảm chi trên cơ sở tăng hiệu quả chi tiêu. Tỷ lệ
huy động ngân sách của Việt Nam hiện nay là quá cao so với các nước đang
phát triển (có tỷ lệ huy động ngân sách khoảng 15% - 20% GDP). Số liệu
quyết toán cho thấy tỷ lệ chi ngân sách năm 2009 lên tới 43% GDP. Ngay
cả khi trừ đi các khoản chi chuyển nguồn thì tỷ lệ chi như thế thực sự có
tính “hủy diệt” đối với sức sống của doanh nghiệp và nguồn thu trong tương
lai.
+ Tỷ lệ chênh lệch giữa vốn đầu tư thực tế từ ngân sách và vốn
đầu tư dự kiến theo kế hoạch không được cao hơn tỷ lệ lạm phát. Nếu áp
dụng nguyên tắc này cho năm 2010 với lạm phát 11,75%, vốn đầu tư từ

ngân sách dự kiến là 125.500 tỉ đồng, thì vốn đầu tư thực tế không được
vượt quá 142.500 tỉ đồng. Trên thực tế, vốn đầu tư ngân sách thực hiện của
năm 2010 ước chừng 180.000 tỉ đồng, tức là cao hơn mức dự kiến tới 45%.
Nếu thực hiện theo quy tắc đề xuất ở đây thì có thể tiết giảm ngân sách gần
11


40.000 tỉ đồng, tương đương 2% GDP, nhờ đó đưa mức bội chi ngân sách
về 3,6%, thay vì 5,6% theo ước toán.
+ Kiên định với chính sách tài khóa nghịch chu kỳ, tức là Chính
phủ chỉ tăng đầu tư khi tổng cầu có dấu hiệu suy giảm do khu vực doanh
nghiệp và hộ gia đình không đầu tư và chi tiêu như kỳ vọng.
- Ban hành nghị định về quản lý đầu tư trung hạn; đồng thời, nghiên
cứu, xây dựng kế hoạch quản lý đầu tư trung hạn 2013-2015 để định hướng
phân bố, quản lý và sử dụng vốn đầu tư công, thay cho kiểu phân bố, quản lý
vốn đầu tư hàng năm như hiện nay.
- Thực hiện công khai hóa, minh bạch hóa thông tin về đầu tư; đồng
thời, tăng cường thẩm quyền và năng lực của hệ thống giám sát đối với đầu tư
công, khuyến khích và tạo điều kiện cho hoạt động giám sát của cộng đồng
đối với các dự án đầu tư công nói riêng và hoạt động đầu tư công nói chung;
xác lập cụ thể quyền và trách nhiệm của cộng đồng trong vai trò giám sát đối
với đầu tư công.
2.2. Huy động tối đa và không ngừng nâng cao hiệu quả đầu tư tư
nhân trong và ngoài nước
Trọng tâm chính sách là cải cách mở rộng quy mô và hiệu quả hoạt
động của các loại thị trường, nhất là thị trường các yếu tố sản xuất; có bước
đột phá về nâng cao tính minh bạch, bình đẳng, giảm phí tổn và rủi ro của
môi trường kinh doanh, đổi mới chế độ khuyến khích, ưu đãi đầu tư và áp
dụng các hình thức thu hút đầu tư đa dạng để huy động tối đa và sử dụng có
hiệu quả vốn đầu tư thực hiện các nhiệm vụ chiến lược của giai đoạn phát

triển 2011-2020.
2.3. Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước và chất lượng các dự án
đầu tư nước ngoài
- Xây dựng tiêu chí cụ thể đánh giá, thẩm định và lựa chọn nhà đầu tư
và dự án đầu tư nước ngoài nhằm đạt được các mục tiêu: (i) Thúc đẩy chuyển
giao công nghệ, đổi mới và nâng cao năng lực công nghệ; (ii) Giảm thâm hụt
và tiến tới cân bằng cán cân thương mại; (iii) Sử dụng hợp lý, hiệu quả tài
nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường; (iv) tăng tỷ trọng giá trị gia tăng
nội địa.
- Đổi mới hệ thống quản lý, vận động và xúc tiến đầu tư nước ngoài;
đồng thời, tăng cường năng lực và hiệu lực giám sát thực hiện đầu tư sau
đăng ký. Tách chức năng nghiên cứu, hoạch định chính sách, pháp luật về
đầu tư nước ngoài và chức năng vận động, xúc tiến, giám sát và hỗ trợ các
nhà đầu tư; thành lập Cơ quan xúc tiến đầu tư Việt Nam (Vietnam Invest).

12


- Phân công, phân cấp hợp lý giữa trung ương và địa phương; các tỉnh
thành phố trực thuộc trung ương được chủ động vận động thu hút và chấp
thuận đầu tư nhưng không ảnh hưởng bất lợi đến các cân đối lớn và lợi ích
chung của nền kinh tế và của vùng kinh tế có liên quan.
- Củng cố công tác giám sát, theo dõi và quản lý FDI sau cấp phép
bằng các giải pháp:
+ Tăng cường năng lực, xây dựng hệ thống thông tin quốc gia,
thống nhất toàn quốc về đầu tư nước ngoài.
+ Duy trì mối liên hệ thường xuyên với các nhà đầu tư để kịp thời
nắm bắt các vướng mắc, khó khăn gặp phải trong quá trình đầu tư. Cơ quan
xúc tiến đầu tư phải là đầu mối một cửa, chủ trì phối hợp với các cơ quan
chức năng liên quan khác nhằm đưa ra các gói giải pháp tháo gỡ hoặc hỗ trợ

tổng thể, kịp thời cho nhà đầu tư.
+ Giám sát thường xuyên và kịp thời phát hiện các dự án FDI
sử dụng sai mục dích, kém hiệu quả các ưu đãi đầu tư (đặc biệt là đất đai và
hạ tầng); kịp thời thu hồi và chuyển giao các nguồn lực đó cho những dự án
hiệu quả hơn; định kỳ đánh giá kết quả thu hút và hiệu quả kinh tế-xã hội
của đầu tư nước ngoài.
3. Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, phát triển mạnh và nâng
cao chất lượng doanh nghiệp dân doanh
3.1. Đổi mới sâu sắc, toàn diện cơ cấu và cơ chế quản lý DNNN,
nâng cao hiệu quả hoạt động của các DNNN, trước hết là các tập đoàn và
tổng công ty nhà nước
Mục tiêu cuối cùng của tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước là phân bố
lại và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của khu vực doanh nghiệp nước;
nâng cao hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh của từng doanh nghiệp
nói riêng và toàn bộ doanh nghiệp nhà nước nói chung, đảm bảo DNNN nói
chung và các tập đoàn, tổng công ty nhà nước nói riêng thực hiện tốt hơn vai
trò của họ trong nền kinh tế.
Để đạt được mục tiêu nói trên, cần thực hiện giải pháp tái cơ cấu đồng
thời trên ba lĩnh vực. Một là, thay đổi tư duy và cách thức quản lý nhà nước
đối với doanh nghiệp nhà nước, giảm dần tiến tới xóa bỏ bao cấp, lợi thế về
quyền và cơ hội kinh doanh dành riêng cho doanh nghiệp nhà nước, buộc các
doanh nghiệp nhà nước phải cạnh tranh thực sự và kinh doanh bình đẳng theo
cơ chế thị trường như đối với các doanh nghiệp khác. Hai là, sắp xếp, tổ chức
cơ cấu lại và cổ phần hóa, đa dạng hóa sở hữu các doanh nghiệp nhà nước.

13


Ba là, đổi mới, phát triển và áp dụng khung quản trị hiện đại theo thông lệ
quốc tế.

3.1.1. Sắp xếp, tổ chức lại, đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá và đa
dạng hoá sở hữu khu vực DNNN bằng các giải pháp sau đây:
- Tiếp tục phân loại các DNNN, xác định cụ thể danh mục doanh
nghiệp nhà nước tiếp tục nắm giữ 100% và doanh nghiệp cổ phần hoá,
doanh nghiệp sẽ giải thể hặc cho phá sản theo Quyết định số 14/2011/QĐTTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành tiêu chí, phân loại doanh nghiệp
nhà nước6.
- Hoàn thành kế hoạch cổ phần hoá và kế hoạch thoái vốn (chuyển
nhượng cổ phần cho các nhà đầu tư, doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế
khác) ở các doanh nghiệp đã cổ phần hoá ở các ngành, lĩnh vực nhà nước
không cần tiếp tục nắm giữ cổ phần hoặc cổ phần chi phối, trước hết là lĩnh
vực dịch vụ, nhà hàng, khách sạn, du lịch,.v.v... Nhà nước chỉ tiếp tục nắm
giữ cổ phần chi phối trong trường hợp thực sự cần thiết.
3.1.2. Thực hiện sắp xếp và cơ cấu lại doanh nghiệp, tập đoàn, tổng
công ty nhà nước nắm giữ 100% vốn hoặc cổ phần chi phối bằng các giải
pháp sau đây:
- Thực hiện sắp xếp, tổ chức lại doanh nghiệp nhà nước theo ngành,
lĩnh vực kinh doanh không phân biệt cấp, cơ quan quản lý và chuyển các
doanh nghiệp không đủ điều kiện hạch toán kinh doanh thành đơn vị sự
nghiệp. Giải pháp này chủ yếu tập trung thực hiện đối với các doanh nghiệp
trong các ngành xuất bản, xổ số, cấp thoát nước, môi trường đô thị, thuỷ lợi,
thuỷ nông, nông lâm trường, sửa chữa và quản lý đường bộ, quản lý đường
sắt,.v.v…
- Cơ cấu lại ngành nghề kinh doanh và tổ chức quản lý đối với từng
doanh nghiệp cụ thể bằng các giải pháp sau đây:

6

. Dự kiến:

- Tiếp tục nắm giữ 100% sở hữu nhà nước đối với 692 doanh nghiệp, gồm 284 doanh

nghiệp công ích, an ninh, quốc phòng và 408 doanh nghiệp kinh doanh. Phân theo cấp sở hữu, thì
692 doanh nghiệp nói trên bao gồm 395 doanh nghiệp do địa phương quản lý, 171 doanh nghiệp
thuộc các bộ và số còn lại là doanh nghiệp thành viên của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước.
- Thực hiện cổ phấn hoá 573 doanh nghiệp, trong đó có cả một số công ty mẹ tập đoàn
và tổng công ty, 187 công ty con của tập đoàn và tổng công ty, 89 doanh nghiệp độc lập thuộc bộ
và 239 doanh nghiệp độc lập do địa phương quản lý.
- Tiến hành giải thể hoặc phá sản 44 doanh nghiệp.

14


+ Xác định cụ thể sứ mệnh, xây dựng, bổ sung sửa đổi chiến lược
phát triển, xác định cụ thể mục tiêu chiến lược và các chỉ tiêu đo lường kết
quả thực hiện mục tiêu chiến lược đối với từng tập đoàn, tổng công ty; trên
cơ sở đó, xác định phạm vi ngành nghệ kinh doanh chính và các ngành nghề
hỗ trợ liên quan. Tập trung đầu tư, đổi mới công nghệ, đổi mới tổ chức quản
lý để phát triển các ngành nghề kinh doanh chính đảm bảo các tập đoàn,
tổng công ty trở thành doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả và có năng lực
cạnh tranh hàng đầu trong các ngành, lĩnh vực có liên quan.
+ Đối với các ngành kinh doanh không liên quan, nhất là ngân
hàng, tài chính, chứng khoán, bất động sản, bảo hiểm, thì các tập đoàn, tổng
công ty phải hoàn thành thoái vốn trước năm 2015.
- Cùng với việc thoái vốn khỏi các ngành nghề kinh doanh không liên
quan nói trên, các tập đoàn, tổng công ty phải cơ cấu lại hoạt động kinh
doanh, phân bố lại các nguồn lực và đổi mới, nâng cao hiệu lực quản trị nội
bộ và hiệu quả quản lý.
- Thiết lập và duy trì hoạt động hiệu quả hệ thống thông tin quản lý,
gồm thông tin về mục tiêu, kế hoạch và kết quả hoạt động tài chính, thông
tin về mục tiêu, kế hoạch và kế quả hoạt động kinh doanh, thông tin về kết
quả kiểm soát nội bộ (thường xuyên và định kỳ), kết quả kiểm toán, thông

tin về danh mục đầu tư, chất lượng danh mục các khoản đầu tư và tiến độ
thực hiện các dự án đầu tư, thông tin về từng cán bộ quản lý chủ chốt của
tập đoàn, tổng công ty và các lợi ích của họ có liên quan đến tập đoàn, tổng
công ty; thông tin về sự kiện quan trọng liên quan đến tập đoàn/tổng công
ty nói chung, các đơn vị thành viên nói riêng, về các rủi ro và biến động bất
thường liên quan,.v.v...
3.1.3. Xây dựng và áp dụng khung quản trị hiện đại theo thông lệ
quốc tế bằng các giải pháp sau đây:
- Đổi mới một cách cơ bản cơ chế, nâng cao hiệu lực thực hiện quyền
chủ sở hữu nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước, bao gồm:
+ Tách chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước với chức năng
quản lý nhà nước và chức năng giám sát độc quyền trong kinh doanh của
các cơ quan hành chính nhà nước;
+ Hoàn thiện cơ chế phân cấp thực hiện quyền và nghĩa vụ của đại
diện chủ sở hữu nhà nước theo nguyên tắc có cơ quan đầu mối chuyên trách
thực hiện đầy đủ tất cả các quyền sở hữu nhà nước; chịu trách nhiệm giám
sát, tổng hợp, theo dõi và đánh giá tình hình và kết quả hoạt động sản xuất
kinh doanh, cơ cấu và hiệu quả sử dụng tài sản, thực trạng bảo toàn và phát

15


triển vốn ở từng doanh nghiệp nói riêng và khu vực doanh nghiệp nhà nước
nói chung.
+ Tăng cường năng lực và công cụ quản lý cho cơ quan chuyên
trách thực hiện quyền chủ sở hữu nhà nước tại các doanh nghiệp.
+ Xây dựng cơ chế giám sát, kiểm tra và đánh giá hiệu lực và hiệu
quả hoạt động của các cơ quan, cá nhân đại diện thực hiện quyền chủ sở hữu
nhà nước tại doanh nghiệp.
- Nghiên cứu, soạn thảo và hoàn thiện các quy chế quản trị nội bộ tập

đoàn/tổng công ty theo các chuẩn mực và thông lệ quốc tế, bao gồm: Quy
chế người uỷ quyền thực hiện quyền chủ sở hữu nhà nước, Quy chế hoạt
động của HĐTV hoặc HĐQT và Ban kiểm soát, Quy chế làm việc của Ban
giám đốc; các quy trình quản lý như quy trình mua sắm và quản lý TSCĐ,
quy trình mua bán hàng hoá, dịch vụ, quy trình tuyển dụng và bổ nhiệm cán
bộ,v.v…
- Đổi mới cơ chế tuyển chọn và bổ nhiệm cán bộ quản lý chủ chốt của
tập đoàn, tổng công ty; sắp xếp, bố trí lại cán bộ, nhất là các cán bộ quản lý
chủ chốt; chủ động quy hoạch, đào tạo, đãi ngộ và bố trí hợp lý cán bộ quản
lý đảm bảo thực hiện được mục tiêu chiến lược và phát triển ổn định lâu dài
của tạp đoàn, tổng công ty.
3.1.4. Hoàn thiện môi trường kinh doanh thúc đẩy doanh nghiệp nhà
nước tuân thủ đầy đủ các nguyên tắc và kỷ luật của thị trường, cạnh tranh
bình đẳng với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác.
3.2. Thực hiện các chương trình quốc gia về phát triển doanh
nghiệp gắn với quá trình tái cơ cấu doanh nghiệp
Thực tế cho thấy từ năm 2000 đến nay khu vực kinh tế tư nhân trong
nước đã tăng trưởng vượt bậc về số lượng; sau 10 năm phát triển, một số
doanh nghiệp đã thành tập đoàn kinh tế, thuộc vào nhóm các doanh nghiệp
lớn nhất của cả nước. Tuy vậy, đại đa số doanh nghiệp vẫn có quy mô vừa và
nhỏ, phạm vị hoạt động chủ yếu ở địa phương; năng lực tiếp nhận chuyển
giao và đổi mới công nghệ, năng lực quản lý, v.v. còn thấp; sự kết nối và hợp
tác giữa các doanh nghiệp cũng còn hết sức yếu kém. Nói chung, năng lực
nội tại của các doanh nghiệp chưa đủ mạnh để có thể mở rộng quy mô một
cách vững chắc để trở thành doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh trên phạm
vi quốc gia và quốc tế. Vì vậy, để góp phần nâng cao chất lượng và năng lực
cạnh tranh của các doanh nghiệp, Chính phủ cần thực hiện một số chương
trình và các giải pháp hỗ trợ phát triển doanh nghiệp về các lĩnh vực như hỗ
trợ năng lực công nghệ, đào tạo, quản trị công ty, chất lượng sản phẩm, bảo
lãnh đầu tư, hỗ trợ xuất khẩu v.v.

16


4. Tái cơ cấu ngành kinh tế
Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011-2020 đã xác định là phải thay
đổi cơ cấu sản xuất và dịch vụ cả về ngành kinh tế kỹ thuật, vùng và giá trị
gia tăng. Trọng tâm của đổi mới và chuyển đổi cơ cấu công nghiệp và dịch vụ
là phân bố lại cơ cấu sản xuất phù hợp với từng vùng, ưu tiên phát triển các
sản phẩm có lợi thế cạnh tranh, sản phảm có khả năng tham gia mạng sản
xuất và chuỗi giá trị toàn cầu thuộc các ngành công nghệ cao, công nghiệp cơ
khí, thông tin và truyền thống, các sản phẩm nông nghiệp, thuỷ sản có lợi thế
cạnh tranh. v.v... tăng hàm lượng khoa học và công nghệ, tăng tỷ trọng nội
địa trong sản phẩm. Để làm được những điều này, cần thực hiện các giải pháp
sau đây:
Thứ nhất, các ngành đang tăng trưởng nhanh nhờ nhu cầu trong nước
gia tăng có thể sử dụng lợi thế này làm bàn đạp để thúc đẩy hoạt động kinh
doanh vượt ra ngoài phạm vi thị trường nội địa, mở rộng xuất khẩu. Có rất
nhiều ngành phát triển tốt nhờ nhu cầu trong nước, từ thiết bị điện bao gồm
dây, cáp điện và ắc quy (các doanh nghiệp trong nước phát triển rất mạnh ở
những ngành này), cho đến các ngành hàng sản phẩm chăm sóc sắc đẹp và
vệ sinh như xà phòng và mỹ phẩm. Tuy nhiên, để tạo thuận lợi cho việc
chuyển dịch từ chỗ chủ yếu đáp ứng nhu cầu trong nước sang đồng thời
phục vụ xuất khẩu, không thể thiếu vai trò của Chính phủ, đặc biệt ở các
phân khúc mà các doanh nghiệp Việt Nam còn hoạt động rải rác, manh mún
khiến quy mô không đủ đáp ứng yêu cầu xuất khẩu.
Thứ hai, cần xem xét xây dựng một chiến lược dài hạn hơn nhằm hỗ
trợ việc chuyển dịch từng bước sang các hoạt động có giá trị gia tăng cao
hơn trong chuỗi giá trị kinh doanh toàn cầu. Việt Nam hấp dẫn các công ty
đa quốc gia bởi vị trí cửa ngõ vào thị trường ASEAN đầy hứa hẹn với tầng
lớp trung lưu ngày càng đông đảo, đồng thời cũng là phương án dự phòng

cho nhà đầu tư khi cần tránh những rủi ro có thể phát sinh ở Trung Quốc.
Để tăng hàm lượng khoa học, tăng tỷ lệ giá trị nội địa và nâng cao
năng lực cạnh tranh, phải phối hợp thực hiện đồng bộ tất cả các giải pháp có
liên quan. Cụ thể là, lấy mạng sản xuất và chuỗi giá trị sản xuất cụ thể làm
đối tượng chính sách, và tất cả các chính sách có liên quan, bao gồm khuyến
khích và xúc tiến đầu tư, xúc tiến và hỗ trợ xuất khẩu, tiêu thụ sản phẩm,
nghiên cứu, phát triển và chuyển giao công nghệ, phát triển hạ tầng, nhất là
hạ tầng chuyên biệt, thu thập, tập hợp và cung cấp thông tin thị trường, giáo
dục và đào tạo kỹ năng lao động và chất lượng nhân lực, các tiêu chuẩn và
quy chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn chất lượng, các tiêu chuẩn môi trường, thẩm
định, đánh giá và xác nhận tiêu chuẩn, quy chuẩn, v.v. phải phối hợp, tạo

17


thành gói giải pháp toàn diện, nhất quán nhằm xoay quanh và khuyến khích
phát triển mạng sản xuất và chuỗi giá trị. Đồng thời, kết hợp, phối hợp và
lồng ghép chính sách phát triển ngành với chính sách phát triển vùng; hình
thành mối liên kết giữa các địa phương trong vùng thông qua các liên kết
ngành.
Nghiên cứu, triển khai thực hiện khuyến khích và hỗ trợ phát triển các
mạng sản xuất và chuỗi giá trị sản xuất đối với các ngành ưu tiên đầu tư phát
triển.
Nội dung của từng giải pháp hỗ trợ hay can thiệp của Nhà nước phải
được xác định tương ứng căn cứ vào các điểm yếu hay rào cản nội tại của
từng khâu trong mạng sản xuất và chuỗi giá trị; qua đó, khắc phục được các
điểm yếu hoặc rào cản cụ thể đó để nâng cao hiệu quả của từng khâu và của
toàn bộ chuỗi giá trị sản xuất, phân bố hợp lý lợi ích của các bên trong mạng
sản xuất và chuỗi giá trị, thúc đẩy phát triển bền vững toàn chuỗi giá trị sản
xuất, hoặc nâng cấp và tăng tỷ lệ nội địa của các chuỗi giá trị ở trên lãnh thổ

nước ta.
5. Khuyến khích phát triển và hình thành cơ cấu vùng kinh tế
hợp lý
Phát huy tiềm năng, lợi thế của từng vùng với tầm nhìn dài hạn, tăng
cường liên kết giữa các địa phương trong vùng theo quy hoạch, khắc phục
đầu tư trùng lặp, thiếu liên kết giữa các địa phương trong vùng; đồng thời
tăng cường liên kết, phối hợp giữa các vùng để cùng phát triển; tiếp tục đẩy
mạnh phát triển các vùng lãnh thổ trọng điểm tạo động lực cho nền kinh tế là
những chủ trương chiến lược về đổi mới và chuyển dịch cơ cấu vùng kinh tế
thời kỳ 2011-2020. Để đạt được các chủ trương chiến lược nói trên, cần triển
khai một số giải pháp cụ thể sau đây:
- Tập trung đầu tư hoàn thành kết cấu hạ tầng đồng bộ và chủ động xúc
tiến đầu tư, lựa chọn các nhà đầu tư và dự án đầu tư có chất lượng để phát
triển các khu công nghệ cao ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.
- Tập trung đầu tư phát triển các khu kinh tế trọng điểm, tạo tiền đề
cho sự bùng nổ và lan toả phát triển kinh tế vùng.
- Tiếp tục khuyến khích các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chủ
động, sáng tạo trong phát triển kinh tế địa phương trên cơ sở phát huy lợi thế
riêng có của địa phương, của vùng;
- Thiết lập cơ chế phối hợp phát triển kinh tế - xã hội giữa các địa
phương, nhằm bổ trợ lẫn nhau thông qua phát triển các mạng sản xuất và

18


chuỗi giá trị, thay vì cạnh tranh không lành mạnh hoặc sao chép và đầu tư
chồng chéo nhau bằng các giải pháp cụ thể sau đây:
+ Củng cố, tăng cường vai trò, thẩm quyền và tính chuyên trách
của Ban chỉ đạo phát triển vùng thành cơ quan phối hợp phát triển kinh tế
vùng.

+ Thực hiện phối hợp và hợp tác giữa các địa phương trong vùng
một cách có hiệu quả với các hình thức và nội dung thích hợp.
- Tiếp tục thực hiện các chương trình hỗ trợ phát triển trực tiếp từ ngân
sách cho các vùng dân tộc thiểu số, các vùng biên giới, hải đảo.
6. Tái cơ cấu các tổ chức tín dụng Việt Nam
6.1. Mục tiêu tái cơ cấu hệ thống các tổ chức tín dụng
Mục tiêu của tái cơ cấu hệ thống các tổ chức tín dụng là cũng cố, tiếp
tục phát triển và đến năm 2020 hình thành được một hệ thống các tổ chức
tín dụng đa năng theo phương hướng hiện đại, hoạt động an toàn và hiệu
quả vững chắc với cấu trúc đa dạng về quy mô, sở hữu, loại hình, dựa trên
nền tảng công nghệ hiện đại và quản trị tiên tiến phù hợp với thông lệ,
chuẩn mực quốc tế về hoạt động ngân hàng; có năng lực cạnh tranh cao hơn,
đáp ứng tốt hơn nhu cầu về dịch vụ tài chính-ngân hàng của nền kinh tế.
Trước mắt và trong trung hạn đến 2015, tập trung lành mạnh hóa tình
hình tài chính và cũng cố năng lực hoạt động của các tổ chức tín dụng; cải
thiện mức độ an toàn và hiệu quả hoạt động của các tổ chức tín dụng; nâng
cao trật tự, kỷ cương và nguyên tắc thị trường trong hoạt động ngân hàng.
6.2. Định hướng cơ bản tái cơ cấu hệ thống các tổ chức tín dụng
Tái cơ cấu hệ thống các tổ chức tín dụng sẽ được thực hiện theo các
định hướng cơ bản sau đây:
Một là, quát triệt và thực hiện đẩy đủ chủ trương, quan điểm của
Đảng về đổi mới và phát triển hệ thống các tổ chức tín dụng mà trọng tâm
của 5 năm tới là chấn chính và cơ cấu lại hệ thống các ngân hàng thương
mại. Thực hiện tái cơ cấu hệ thống các tổ chức tài chính phải đổng bộ và
nhất quán với tái cơ cầu đầu tư và tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước.
Hai là, cũng cố, phát triển hệ thống các tổ chức tín dụng đa dạng về
sở hữu, quy mô và loại hình phù hợp với đặc điểm và trình độ phát triển của
nền kinh tế Việt nam trong giai đoạn hiện nay. Nâng cao vai trò, vị trí chi
phối, dẫn dắt thị trường của các tổ chức tín dụng Việt Nam, bảo đảm các
ngân hàng thương mại nhà nước và các ngân hàng thương mại có cổ phần


19


chi phối của Nhà nước thực sự là lực lượng chủ lực, chủ đạo của hệ thống
các tổ chức tín dụng, có đủ năng lực cạnh tranh trong nước và quốc tế.
Ba là, khuyến khích hợp nhất, sáp nhập, mua lại ngân hàng theo
nguyên tắc tự nguyện; bảo đảm quyền lợi của người gửi tiền, các quyền và
nghĩa vụ của các bên có liên quan theo quy định của pháp luật. Trong giai
đoạn hiện nay, cần hết sức cẩn thận khi sử dụng giải pháp phá sản tổ chức
tín dụng theo quy định của Luật phá sản để đảm bảo giữ vững ổn định kinh
tế vĩ mô, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội.
Bốn là, thực hiện cơ cấu lại toàn diện về tài chính, hoạt động và quản
trị của các tổ chức tín dụng theo các hình thức, biện pháp và lộ trình thích
hợp. Hình thức và biện pháp cụ thể cơ cấu lại tổ chức tín dụng được áp phù
hợp với đặc điểm và điều kiện cụ thể của từng tổ chức tín dụng.
Năm là, không để xảy ra đổ vỡ và mất an toàn hoạt động ngân hàng;
giới hạn đến mức thấp nhất tổn thất, chi phí xử lý những vẫn đề của hệ
thống các tổ chức tín dụng.
6.3. Một số giải pháp chủ yếu
Đánh giá, phân loại tổ chức tín dụng, nên chia các tổ chức tín dụng
làm 3 nhóm: (i) Nhóm lành mạnh; (ii) Nhón thiếu thanh khoản tạm thời; và
(iii) Nhóm yếu kém (phải có tiêu chí rõ ràng).
- Với nhóm 1:
+ Tạo điều kiện để các tổ chức tín dụng này tự củng cố, đổi mới
hoạt động, quản trị và nâng cao NLCT.
+ Khuyến khích và tạo điều kiện để các tổ chức tín dụng loại này
nhận sáp nhập và mua lại các tổ chức tín dụng khác theo nguyên tắc tự
nguyện để tăng quy mô và NLCT.
- Với nhóm 2:

+ Hỗ trợ thiếu hụt thanh khoản tạm thời để các tổ chức này trở lại
hoạt động bình thường.
+ Tự thực hiện cơ cấu lại để hoạt động có hiệu quả.
+ Khuyến khích và tạo điều kiện để các tổ chức tín dụng nhóm này
tự sáp nhập, hợp nhất với nhau, hoặc sáp nhập với các tổ chức tín dụng
nhóm 1.
- Với nhóm 3:

20


+ Tạo điều kiện đảm bảo khả năng chi trả của các tổ chức tín dụng
này.
+ Thực hiện hợp nhất, sáp nhập, mua lại theo nguyên tắc tự
nguyện hoặc theo chỉ đạo của ngân hàng trung ương khi cần thiết.
+ Cơ cấu lại tài chính, hoạt động và quản trị của các tổ chức tín
dụng gồm xử lý nợ xấu, tăng quy mô và chất lượng vốn tự có, cơ cấu lại hệ
thống quản trị phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế về hoạt động
ngân hàng./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Xuân Bá, “Tái cơ cấu kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng
trưởng kinh tế: tính tất yếu khách quan, khó khăn, thuận lợi và triển vọng”,
Đề cương bài trình bày tại Bộ công An, ngày 29 tháng 2 năm 2012.
2. Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương, Đề án “Tái cơ cấu
kinh tế với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao hiệu quả,
năng suất và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế”, tháng 3 năm 2012.

21




×