Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Tăng trưởng kinh tế và sự phân hóa giàu nghèo ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.62 KB, 13 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
Khoa Lí Luận-Chính Trị

…………o0o………..

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ SỰ PHÂN HÓA
GIÀU NGHÈO Ở VIỆT NAM
Sinh viên thực hiện:Nguyễn Thị Anh Thơ
Lớp: A19 – CLC TCNH
Giáo viên hướng dẫn: Ths.Đặng Hương Giang

Hà Nội, 2012

1


MỤC LỤC
3.Vietminhcuong.com –Nguyễn Thị Hương
Thùy - Giải pháp thu hẹp khoảng cách giàu
nghèo giữa thành thị và nông thôn.................12

A.MỞ ĐẦU:
Đất nước ta, từ một nước thuộc địa nửa phong kiến, đang trong thời kì quá
độ lên chủ nghĩa xã hội. Đất nước trải qua nhiều năm chiến tranh, phải hứng
chịu những hậu quả nặng nề do những cuộc chiến vô nghĩa để lại. Trước tình
hình đó, Đảng Cộng sản Việt Nam ta đã lãnh đạo đất nước trải qua hơn 25 năm
2


thực hiện đường lối đổi mới (từ Đại hội VI đến hết nhiệm kỳ Đại hội X) và 20


năm (1991-2010) thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, và đến nay đã đạt được những thành tựu đáng kể. Một
trong những thành tựu quan trọng và to lớn nhất phải kể đến là thành tựu về mặt
kinh tế. Đất nước ta đã vượt qua khủng hoảng kinh tế - xã hội, nền kinh tế tăng
trưởng nhanh, bền vững, cơ sở vật chất - kỹ thuật được tăng cường,….theo đó,
đời sống của các tầng lớp nhân dân cũng không ngừng được cải thiện.
Tuy nhiên sự tăng trưởng kinh tế cũng đồng thời tạo ra sự chênh lệch về thu
nhập, mức sống trong nhân dân ngày càng rõ nét hơn, trong đó phân hóa giàu
nghèo đang là một trong những vấn đề xã hội bức xúc hiện nay. Đây là một vấn
đề vô cùng phức tạp, rất khó để giải quyết triệt để. Nhưng trong một xã hội hiện
đại, phát triển, dân chủ, công bằng và văn minh mà nước ta – đất nước đi theo
con đường xã hội chủ nghĩa, cũng như mọi quốc gia khác gia khác trên thế giới
luôn hướng tới, đã đến lúc chúng ta cần nghiêm khắc nhìn nhận và nhanh chóng
tìm ra phương cách đối phó với sự phân hóa giàu nghèo đang diễn ra bức bách,
xét theo những hậu quả xã hội nghiêm trọng mà nó đem lại.
Trên cơ sở phân tích lý luận và thực tiễn,mục đích đề tài làm rõ thực trạng và
xu hướng phân hoá giàu nghèo trong quá trình chuyển đổi, xây dựng và phát
triển nền kinh tế nước ta, từ đó đề xuất ra những giải pháp, phương hướng giải
quyết phân hoá giàu nghèo nhằm đảm bảo xây dựng đất nước công bằng, dân
chủ, văn minh.
Bên cạnh đó, tôi cũng hi vọng sẽ góp một phần công sức nhỏ bé của mình
trong việc thay đổi nhận thức của người đọc nhằm tạo ra những thay đổi tích
cực trong hành động của mọi người trước vấn đề được nghiên cứu.

3


B. NỘI DUNG:
I.Cơ sở lí luận:
1.Các khái niệm:

a.Tăng trưởng kinh tế:
-Tăng trưởng kinh tế (economic growth) là một khái niệmmang tính định lượng,
được biểu hiện bằng một trong hai cách: Sự gia tăng thực tế của tổng sản phẩm
quốc dân GNP(Gross National Product); tổng sản phẩm quốc nội GDP
(Grossdomestic product) hay sản phẩm quốc dân ròng NNP (Net National
Product) trong một thời kỳ nhất định.;hay là Sự gia tăng thực tế theo đầu người
của GNP; GDP hay NNP trong một thời kỳ nhất định.
-Phát triển kinh tế là quá trình lớn lên, tăng tiến mọi mặt của nền kinh tế. Phát
triển kinh tế mang nội hàm rộng hơn tăng trưởng kinh tế.Nó bao gồm tăng
trưởng kinh tế cùng với những thay đổi về chấtcủa nền kinh tế (như phúc lợi xã
hội, tuổi thọ, v.v.) và những thayđổi về cơ cấu kinh tế (giảm tỷ trọng của
khu vực sơ khai, tăng tỷtrọng của khu vực chế tạo và dịch vụ). Phát triển
kinh tế là một quát r ì n h ho à n t h i ệ n về m ọ i m ặ t c ủa n ền k i n h t ế b a o
gồ m k i n h t ế, x ã hội, môi trường, thể chế trong một thời gian nhất
định nhằm đảm bảo rằng GDP cao hơn đồng nghĩa với mức độ hạnh phúc
hơn.
b.Phân hóa giàu nghèo:
Trong quá trình chuyển đổi từ một nền kinh tế kém phát triển dang nền kinh
tế thị trường, xu hướng biến động của cơ cấu xã hội nước ta hiện nay, ngày
cảng trở nên rõ nét. Từ thực trạng đó, đã có một số luận điểm về quan niệm sự
phân hóa giàu nghèo:
-Phân hóa giàu nghèo gắn liền với bất bình đẳng xã hội và phân công lao động
-Phân hóa giàu nghèo là sự phân cục về kinh tế
4


-Phân hóa giàu nghèo là kết quả tất yếu của quá trình tăng trưởng và phát triển
kinh tế và đến lượt mình sự phân hóa đó lại trở thành nguyên nhân kìm hãm sự
phát triển và tăng trưởng kinh tế.
-Phân hóa giàu nghèo là một hiện tượng xã hội phản ánh quá trình phân chia xã

hội thành các nhóm xã hội có điều kiện kinh tế khác biệt nhau. Phân hóa giàu
nghèo là phân tầng xã hội về mặt kinh tế, thể hiện trong xã hội có nhóm giàu
tầng đỉnh, nhóm nghèo tầng đáy. Giữa nhóm giàu và nhóm nghèo là khoảng
cách về thu nhập và mức sống. Vậy phân hóa giàu nghèo là một hiện tượng xã
hội phản ánh quá trình phân chia xã hội thành các nhóm xã hội có điều kiện
kinh tế và chất lượng sống khác biệt nhau; là sự phân tầng xã hội chủ yếu về
mặt kinh tế, thể hiện sự chênh lệch giữa các nhóm này ề tài sản, thu nhập, mức
sống.
2. Mối quan hệ giữa tăng trưởng và phát triển kinh tế với sự phân hóa giàu
nghèo:
Nhiều năm trước đây, khi nước ta còn ở trong cơ chế nền kinh tế tập trung
bao câp, những đặc trưng của nền kinh tế này không phải là điều kiện cho hiện
tượng phân tầng trong xã hội, đặc biệt là phân tầng dựa trên yếu tố tài sản đó là
đặc thù của chủ nghĩa bình quân với tâm lý sợ nổi trội, tưởng chừng như chúng
ta đã đạt được trạng thái công bằng khi mà trong xã hội ít tồn tại hiện tượng
người này giàu hơn người kia.. tuy nhiên đây chỉ là trạng thái công bằng mang
tính

chất

hình

thức



thôi.

Sau đó, công cuộc đổi mới, trước hết là nền kinh tế định hướng theo sự phát
triển của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường

, đã thực sự mang lại những nhân tố mới, phá vỡ những trở lực từ những hạn
chế của nền kinh tế cũ mang lại, phát huy được những nguồn lực của đất nước
cho sự phát triển kinh tế xã hội, theo đó nền kinh tế dần đi vào ổn định, duy trì

5


tốc độ tăng trưởng kinh tế, đẩy lùi lạm phát phi mã vào những năm cuối của
thập kỷ 80, đời sống của người dân không ngừng được cải thiện…thế nhưng
trong điều kiện quá độ từ kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường,
hiện tượng phân tầng thường có những biểu hiện bột phát, đôi khi “thái quá” do
vô số các kẽ hở, khuyết tật trong lĩnh vực quản lý kinh tế và quản lý xã hội do
còn những vùng tối cho những sự thao túng pháp luật, đồng thời cũng là do bản
chất năng động và quy luật cạnh tranh, đào thải khắc nghiệt của nền kinh tế thị
trường.
Vậy tại sao kinh tế thị trường với khả năng mạnh mẽ của nó trong thực hiện
mục tiêu tăng trưởng lại ngày càng gây nên tình trạng phân hoá giàu nghèo? Có
những nhân tố tất yếu, đồng thời cũng có những nhân tố thể hiện sự bất bình
đẳng trong xã hội, nếu như làm rõ được những nguyên nhân của sự phân hoá
giầu nghèo cuối cùng sẽ là cơ sở cho việc hoạch định chính sách, giải quyết tốt
mối quan hệ giữa kinh tế và xã hội. Nền kinh tế thị trường đề cao khả năng của
chủ thể kinh tế và thực tế không phải ai cũng có khả năng như nhau trong tiếp
cận với những cơ hội mà thị trường đem lại, trong khía cạnh này năng lực cá
nhân của mỗi chủ thể và những điều kiện bất bình đẳng trong xã hội là hai
nguyên nhân quyết định đến sự thành công về kinh tế và vươn lên so với những
người khác để trở thành thành viên của nhóm giàu có trong xã hội. Ở đây chúng
ta không bàn tới những yếu tố thuộc về năng lực cá nhân như là sự năng động
trong quá trình chuyển đổi cách làm ăn mà quan trọng là tìm ra những nhân tố
thuộc về sự bất bình đẳng trong tiếp cận với những cơ hội của thị trường chẳng
hạn những bất bình đăng trong tiếp cận với giáo dục, đào tạo có thể dẫn tới sự

bất bình đẳng trong cơ hội tìm kiếm việc làm dẫn đến tình trạng thất nghiệp cuả
một nhóm xã hội nào đó và đẩy họ xuống tình trạng đói nghèo và cơ hội dành
cho họ ngày càng ít đi, sự phân hoá theo đó ngày càng trở nên sâu sắc hơn. Bên
cạnh đó, bước đầu làm quen với nền kinh tế thị trường, đã khiến cho sự quản lý

6


kinh tế, quản lý xã hội của nhà nước ta còn nhiều những hạn chế, đó cũng là cơ
hội cho một số bộ phận vươn lên một cách bất chính và tạo ra khoảng cách với
những nhóm xã hội khác.

II. Thực trạng:
1.Tăng trưởng kinh tế:
Một trong những thành quả nổi bật của nền kinh tế Việt Nam trong thời kỳ
đổi mới chính là tốc độ tăng trưởng kinh tế cao khá ổn định. Thời kỳ từ năm
1986 tới nay là thời kỳ đổi mới, tốc độc tăng trưởng bình quân 1986 1990 là
4,5%, thời kỳ 1991-1995 là 8,2%, thời kỳ 1996-2000 là 7% và từ 2001-2007 là
7,6%. Tốc độ tăng trưởng kinh tế ngang bằng Hàn Quốc và chỉ đứng sau
Trung Quốc.
Bên cạnh những thành tựu về tăng trưởng kinh tế, cơ cấu kinh tế của nước ta
trong những năm qua, đã có những chuyển dịch tích cực. Xem xét cơ cấu kinh
tế theo ba ngành (nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ) thì thấy rằng tỉ trọng
nông nghiệp trong GDP đã giảm và tỉ trọng công nghiệp đã tăng lên tương ứng,
nếu như năm 1995 tỷ trọng nông nghiệp là 27,18% thì năm 2006 xuống còn
20,36% trong khi đó công nghiệp đã tăng từ 28,76% lên 41,56%. Cơ cấu kinh tế
nhiều thành phần cũng có những chuyển biến tích cực, tỷ trọng của khu vực nhà
nước có xu hướng giảm, tỷ trọng của khu vực ngoài nhà nước ngày càng tăng.
Tuy nhiên, do sự phát triển của khoa học công nghệ còn hạn chế nên tăng
trưởng kinh tế ở nước ta vẫn chủ yếu dựa vào tăng trưởng theo chiều rộng, dựa

vào khai thác tài nguyên do đó sự tăng trưởng này chưa thực sự vững chắc.
2. Khoảng cách giàu nghèo ngày càng mở rộng:
Mặc dù tăng trưởng kinh tế của nước ta khá ấn tượng về con số song nhiều ý
kiến tại hội thảo cho rằng sự tăng trưởng ấy còn có một số hạn chế, đặc biệt là
7


"sự lan tỏa của tăng trưởng kinh tế đến các đối tượng chịu ảnh hưởng không
mạnh và khuynh hướng ảnh hưởng tiêu cực có phần gia tăng". Trong báo cáo
của mình, GS-TS Nguyễn Văn Nam (ĐH KTQD) đã viết rằng "Điều đáng nói
là, thực tế tác động của tăng trưởng kinh tế tới giảm nghèo đang có xu hướng
giảm và bất bình đẳng lại tăng lên tương ứng". Ông đưa ra một số con số chứng
minh cho nhận định của mình: Năm 1990, sự cách biệt của 20% số hộ giàu nhất
và 20% số hộ nghèo nhất chỉ là 4,1 lần. Con số này năm 1995 là 7,0; năm 1999
là 7,6; năm 2002 là 8,1; năm 2004 là 8,34 ; năm 2006 là 8,37. Điều này cho
thấy tình trạng tụt hậu của người nghèo trong mối tương quan với người giàu.
Phân tích tình hình biến đổi về thu nhập của các nhóm dân cư cho thấy, người
giàu hưởng lợi từ tăng trưởng kinh tế nhiều hơn, mức độ cải thiện thu nhập của
người nghèo chậm hơn nhiều so với mức sống chung và đặc biệt so với nhóm
có mức sống cao. Nhiều báo cáo tại hội thảo đưa ra nhận xét: Khoảng cách giàu
- nghèo lớn và phân hóa giàu nghèo ngày càng dãn ra. Nếu trong năm 1993, chi
tiêu bình quân đầu người của những hộ gia đình giàu nhất cao gấp 5 lần so với
hộ gia đình nghèo nhất thì năm 2004, tỷ lệ này là 7,27 lần. Tỷ trọng thu nhập
của 40% dân số có thu nhập thấp nhất có xu hướng ngày càng thấp đi trong tổng
thu nhập dân cư : năm 1995 là 21,1%; năm 1999 là 17,98%, năm 2006 là
17,47%.
Một vấn đề khiến các nhà khoa học lo ngại qua việc nghiên cứu tăng trưởng
kinh tế và giảm nghèo ở nước ta là tính bền vững của xóa đói giảm nghèo. Đến
hết năm 2008, nước ta còn khoảng 1 triệu hộ cận nghèo với khoảng 4,3 triệu
người, còn 62 huyện có trên 50% số hộ nghèo. Nếu tính theo tiêu chuẩn nghèo

quốc tế là 2 USD/ngày/người thì tỷ lệ hộ nghèo ở Việt Nam còn khoảng 35%
đến 40%. Còn theo tiêu chuẩn "nội" thì tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ 37,4% năm
1998 xuống còn 19,5% năm 2004. Số lượng là vậy nhưng chất lượng chưa vững
chắc. Theo TS Lê Quốc Hội (ĐH KTQD), thu nhập của một bộ phận lớn dân cư

8


vẫn nằm giáp ranh mức nghèo. Do vậy, khi có những dao động về thu nhập
hoặc gặp thiên tai, rủi ro, biến động giá cả, họ lại rơi xuống ngưỡng nghèo.
Cùng với xu hướng xóa đói giảm nghèo đã chậm lại thì tỷ lệ tái nghèo ngày
càng tăng, ở mức 7% đến 10%.
3. Những tác động tiêu cực của sự phân hóa giàu nghèo:
Phân hóa giàu nghèo-người giàu thì càng giàu mà người nghèo thì ngày càng
nghèo đói hơn:
Sự cách biệt giữa người giàu và người nghèo ngày càng rộng. Những người
giàu ngày càng có cơ hội phát triển do có những điều kiện về vốn và kĩ thuật…
còn người nghèo phải làm thuê và bị bóc lột. Họ rất ít có cơ hội tiếp cận và
được đảm bảo những điều kiện sống cơ bản. Một mặt vì họ quá nghèo không đủ
tài chính để trang bị vốn, tri thức..mặt khác trong cơ chế thị trường hoạt động
dịch vụ cơ bản có xu hướng phục vụ người giàu là chính…
Phân hóa giàu nghèo gây tình trạng thiếu hụt phát triển văn hóa. Một bộ
phận những thanh niên sinh ra trong những gia đình khá giả, có quyền lực
thường có tư tưởng ‘’con ông cháu cha’’, coi thường đạo đức xã hội…Con nhà
nghèo thì lại không có điều kiện học hành đến nơi đến chốn, thiếu thốn về mặt
giáo dục, đào tạo…
Phân hóa giàu nghèo khắc sâu thêm hố sâu ngăn cách giữa nhóm giàu với
nhóm nghèo, từ đó dẫn tới mối liên kết giữa các nhóm xã hội ngày càng lỏng
lẻo. Đây là một yếu tố gây ảnh hưởng đến mục tiêu xây dựng khối đại đoàn kết
dân tộc - yếu tố cơ bản trong việc đảm bảo vấn đề an ninh chính trị.

Phân hóa giàu nghèo cũng dẫn đến thất nghiệp, từ đó, đặc biệt sẽ gây ra tình
trạng rối loạn an ninh trật tự, các tệ nạn xa hội do một bộ phận người nghèo
không công ăn việc làm, như người ta nói “nhàn cư vi bất thiện”.
4. Để hạn chế phân hóa giàu nghèo:
9


Những giải pháp kinh tế - xã hội cần phải bảo đảm: Một mặt thúc đẩy
tăng truởng kinh tế, tạo cơ sở vật chất thực hiện các chính sách hội nói chung,
mặt khác giải quyết hài hoà lợi ích giữa các giai tầng, tầng lớp trong xã hội...
sao cho xây dựng đất nước vững mạnh theo con đường lối XHCN đã chọn. Vậy
những giải pháp đó là:
-Phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng CNH, HĐH nhằm đảm
bảo sự tăng trưởng ổn định của nền kinh tế quốc dân và là cơ sở quyết định nhất
để giải quyết sự PHGN nói chung, xoá đói giảm nghèo nói riêng.
+ Phát triển và chuyển dịch có cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn
theo hướng CNH, HĐH.
+ Lựa chọn công nghệ hợp lý đối với nông nghiệp – nông thôn.
+ Điều chỉnh các chính sách ruộng đất.
+ Tăng cường đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn bằng mọi nguồn vốn.
+ Giải quyết "đầu ra" cho nông sản hang hoá để đẩy mạnh sản xuất hang
hoá nói chung, sản xuất hang hoá nông phẩm nói riêng.
- Nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý kinh tế - xã hội của Nhà Nước
trước xu hướng PHGN ở nước ta hiện nay.
+ Tạo môi trường kinh tế - xã hội và khuôn khổ pháp lý ổn định, an toàn
cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện giúp đỡ các thành phần
kinh tế.
+ Phát huy tích cực của KTTT bằng cách duy trì và phát triển quan hệ thị
trường, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh, tạo động lực cuốn hút mọi người
vào phát triển kinh tế xã hội.

+ Điều tiết lợi ích giữa các thành phần kinh tế, thực hiện công bằng xã
hội.
+ Tiến hành cải cách ruộng đất, tạo điều kiện cho người nghèo được vay
lãi theo lãi suất ưu đãi, đánh thuế luỹ tiến vào người có thu nhập cao, nhằm hạn
chế sự phân biệt giàu nghèo và thực hiện xoá đói giảm nghèo.
+ Chính sách lao động việc làm:
Vấn đề việc làm luôn là vấn đề bức xúc trong mọi thời đại. Hiện nay
nước ta có khoảng hơn 8 triệu người cần phải giải quyết việc làm nhất là trong
tình trạng giá thị trường ngày càng có nhiều biến động và tăng cao như hiện
10


nay. Theo Bộ Lao Động – Thương Binh và Xã hội các giải pháp để giải quyết
việc làm trong thời gian tới:
·
Phát triển kinh tế.
·
Đẩy mạnh xuất khẩu lao động.
·
Thực hiện các hoạt động hỗ trợ việc làm như:
·
Chương trình trợ giá vốn và công nghệ. Phát triển các trung
tâm dịch vụ giới thiệu việc làm, tổ chức điều tra, thu nhập thông tin về thị
trường lao động.
·
Giải quyết lao động dôi dư.
Bên cạnh đó cũng cần có những giải pháp về mặt van hóa, chính trị.

C.KẾT LUẬN:
Qua những phân tích trên, chúng ta đã tìm hiểu về khái niệm, mối quan hệ

giữa tăng trưởng kinh tế và sự phân hóa giàu nghèo, cùng với những tác động
và giải pháp cho vấn đề này.
Phân hóa giàu nghèo đang diễn ra mỗi ngày một sâu sắc hơn trong xã hội, nó
diễn ra đồng thời với sự đi lên của nền kinh tế. Vấn đề này đòi hỏi các biện
pháp can thiệp lâu dài, quan trọng hơn nữa là sự chung tay góp sức của người
dân trong việc thu hẹp ranh giới giàu nghèo. Đặc biệt, xây dựng một nền kinh tế
vững mạnh, phát triển nhanh chóng là quan trọng, nhưng song song với nó, nhà
nước ta cần chú trọng các chính sách phát triển kinh tế sao cho đảm bảo tính
dân chủ, công bằng xã hội, tạo điều kiện cho người nghèo, những người ở tầng
lớp dưới của xã hội có cơ hội vươn mình hướng tới một cuộc sống tốt đẹp hơn.
11


Hơn nữa, công bằng xã hội vừa là mục tiêu, vừa là động lực quan trọng của sự
phát triển. Bởi dân có giàu thì nước mới mạnh, xã hội công bằng thì sẽ ổn định,
xã hội có ổn định thì nền kinh tế mới phát triển mạnh mẽ và nhanh chóng được.
Nhà nước ta, trên thực tế đã có những nỗ lực lớn trong việc giải quyết vấn đề
nan giải này.
Công cuộc thực hiện công bằng xã hội ở Việt Nam tuy đã trải những chặng
đường dài, nhưng còn tồn tại không ít bất công. Việt Nam đang phấn đấu xây
dựng chủ nghĩa xã hội – đó là con đường duy nhất đúng để đảm bảo công bằng
xã hội theo nội dung mà nhân dân mong mỏi: mọi người đều có công ăn việc
làm; mọi người đều sống no đủ và hạnh phúc; dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh.Như trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam: “Tăng trưởng kinh tế gắn liền với
đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển” và được
phát triển tại Đại hội lần thứ X của Đảng: “Thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển, tăng trưởng kinh tế đi
đôi với phát triển văn hóa, ý tế, giáo dục…giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì
mục tiêu phát triển con người’’.


TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1.Giáo trình “Kinh tế chính trị Mác – Leenin’’- NXB Chính trị quốc giaTr5055
2. Harold R. Kerbo. Social Stratification and Inequality. New York: McGrawHill- Inc. 1991. Tr 87-158;
3.Vietminhcuong.com –Nguyễn Thị Hương Thùy - Giải pháp thu hẹp khoảng
cách giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn
12


4.Baoanhdatmui.com – Lê Tây Sơn- Phân hóa giàu nghèo trên thế giới
5.Tuoitre.vn - Chêch lệch giàu nghèo ở Việt Nam đang nới rộng
6. Vietnamese.cri.cn Chênh lệch giàu nghèo trong xã hội hiện nay

13



×