Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Luật HPVN PHÂN TÍCH VỀ CHẾ ĐỊNH QUỐC TỊCH TRONG LUẬT HIẾN PHÁP VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (276.69 KB, 19 trang )

LUẬT HIẾN PHÁP VIỆT NAM – PHÂN TÍCH THEO CHỦ ĐỀ June 27, 2014
PHÂN TÍCH VỀ CHẾ ĐỊNH QUỐC TỊCH TRONG LUẬT HIẾN PHÁP VIỆT NAM

Đối với bất kỳ một quốc gia nào, chế độ chính trị, cũng có tấm quan trọng đặc biệt với sự phát
triển của xã hội. Hiến pháp Việt Nam cũng như hiến pháp một số nước, ghi nhận sự tác động
chi phối cơ bản của nó tới nội dung các chế định khác trong hiến pháp. Vấn đề quốc tịch Việt
Nam với tư cách một chế định quan trọng trong việc xác định tư cách công dân cũng
không thoát khỏi sự ảnh hưởng của chế độ chính trị nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
Những chính sách về quốc tịch phần nào đó thể hiện đường lối chính trị, pháp lý của pháp luật
nước ta trong giai đoạn đi lên xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình hình thành, vấn đề quốc tịch
Việt Nam luôn có sự kế thừa và phát triển. Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 là một minh
chứng cụ thể.

I. Định nghĩa về Quốc tịch
1. Khái niệm Quốc tịch là gì?
Quốc tịch là mối quan hệ pháp lý – chính trị có tính chất lâu dài, bền vững, ổn định cao về
mặt thời gian, không bị giới hạn về mặt không gian giữa một cá nhân cụ thể với một
chính quyền nhà nước nhất định.
 Khái niệm công dân quy định trong Hiến pháp được gắn liền với khai niệm quốc tịch:
Người là công dân của Nhà nước nào thì có quốc tịch của nước đó. “Điều 17 :
1. Công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người có quốc tịch Việt
Nam.”
Quốc tịch là trạng thái pháp lý xác định mối quan hệ lệ thuộc giữa một cá nhân với một
Nhà nước nhất định. Người có quốc tịch (là công dân) sẽ chịu sự tài phán tuyệt đối của
Nhà nước, đồng thời được hưởng đầy đủ mọi năng lực pháp lý với sự bảo hộ của Nhà
nước cả trong đất nước cũng như ở nước ngoài.
Trong trạng thái pháp lý trên, mối quan hệ giữa Nhà nước và cá nhân có quốc tịch (công
dân) được thể hiện như sau:
+ Thứ nhất, Nhà nước bằng pháp luật, quy định quyền và nghĩa vụ công dân.
+ Thứ hai, công dân phải có nghĩa vụ tuân theo pháp luật mà Nhà nước của mình đặc ra


dù họ ở trong hoặc ngoài nước.
+ Thứ ba, Nhà nước có quyền phán xét, xử lý tuyệt đối các hành vi của công dân của
mình đồng thời phải có trách nhiệm bảo hộ quyền và lợi ích của công dân cả ở trong và
ngoài nước.

1


LUẬT HIẾN PHÁP VIỆT NAM – PHÂN TÍCH THEO CHỦ ĐỀ June 27, 2014

Ở nước ta là quan hệ giữa công dân Việt Nam đối với Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Sự tồn tại của Nhà nước luôn luôn gắn liền với một quốc tịch thống
nhất. Để xác định công dân (quốc tịch) của mình, Nhà nước ban hành Luật quốc tịch.
Đây là một chế định luật cụ thể hóa quy định về quốc tịch (công dân) trong Hiến pháp,
điều chỉnh các mối quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình xác lập tính lệ thuộc giữa một
bên là các cá nhân sống trên lãnh thổ và bên kia là Nhà nước. Luật quốc tịch là tổng thể
các quy phạm quy định về sự có, mất, thay đổi quốc tịch, quốc tịch của người chưa thành
niên, thẩm quyền và thủ tục giải quyết các vấn đề về quốc tịch.
2. Cơ sở ra đời và tồn tại của Quốc tịch.
Quốc tịch có mối quan hệ khăng khít, không tách rời với nhà nước. Sự ra đời và tồn tại của
nhà nước quyết định sự ra đời và tồn tại của Quốc tịch và ngược lại sự ra đời và tồn tại của
Quốc tịch phản ánh sự ra đời và tồn tại của nhà nước. Chỉ khi thiết lập được chính quyền nhà
nước, giai cấp thống trị mới ban hành pháp luật về Quốc tịch nhằm điều chỉnh mối quan hệ
giữa nhà nước của mình với các cá nhân sống trên lãnh thổ của nhà nước. Đồng thời người ta
cũng chỉ có thể nói về một nhà nước khi quyền lực chính trị bao trùm lên một lãnh thổ nhất
định và những cá nhân trên lãnh thổ đó.
Như vậy, khi một chính quyền nhà nước thành lập sẽ hình thành mối quan hệ pháp lý
–chính trị một cách tự động và trực tiếp giữa chính quyền nhà nước và các cá nhân đang sống
trên lãnh thổ của chính quyền nhà nước đó. Chỉ có sự ra đời của nhà nước mới làm xuất hiện
Quốc tịch, không phải luật về Quốc tịch tạo ra Quốc tịch.

3. Quốc tịch với vấn đề quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.(thể hiện
mối tương quan giữa Luật hiến pháp và Luật quốc tịch)
Điều đầu tiên trong chương “quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”,
Hiến pháp 1992 (Điều 49) quy định vấn đề Quốc tịch: “Công dân nước Cộng hòa xã hội chủ ng
hĩa Việt Nam là người có Quốc tịch Việt Nam”. Cũng như quy định tại Chương II: Quyền con
người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân (Hiến pháp 2013), theo đó:
“Điều 17 :
1. Công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam.
2. Công dân Việt Nam không thể bị trục xuất, giao nộp cho nhà nước khác.
3. Công dân Việt Nam ở nước ngoài được Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo
hộ.
Điều 18 :
1. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài là bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt
Nam.

2


LUẬT HIẾN PHÁP VIỆT NAM – PHÂN TÍCH THEO CHỦ ĐỀ June 27, 2014

2. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khuyến khích và tạo điều kiện để người Việt
Nam định cư ở nước ngoài giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam, giữ quan hệ
gắn bó với gia đình và quê hương, góp phần xây dựng quê hương, đất nước.”
Với cácquy định trên, những nguyên tắc cơ bản về địa vị pháp lý của công dân trong chế độ nhà
nước ta đã được ghi nhận. Nó thể hiện các quyền tự do, bình đẳng, không bị áp bức của công dân
.Trong lịch sử phát triển nhà nước ta, các quyềnConngười,quyền và nghĩa vụ của công dân ngày
càng được mở rộng và đảm bảo chắc chắn đi đôi với sự tăng cường và mở rộng cơ sở chính trị,
kinh tế, xã hộicủa chế độ nhà nước ta. Mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân ngày được phát
triển bằng sự nỗ lực hoạt động của cả Nhà nước lẫn công dân vì sự nghiệp Cách mạng chung.
Mối quan hệ giữa Quốc tịch và quyền conngười,các quyền, nghĩa vụ của công dân cho thấy được

mối quan hệ giữa Hiến pháp và Luật Quốc tịch, Luật hiến pháp ghi nhận quyền có những địa vụ
pháp lý cơ bản của công dân (có quốc tịch) còn Luật quốc tịch cụ thể hóa sự ghi nhận này, đề ra
các nguyên tắc, thủ tục để công dân có được quốc tịch Việt Nam.
Trên cơ sở đó, công dân nước ta có điều kiện để phát triển cá nhân mình một cách toàn diện, trở
thành chủ thể thực sự của đất nước.
II.Sự hình thành và phát triển của pháp luật Quốc tịch Việt Nam.
Ngày 2/9/1945, chủ tịch nước Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa, Nhà nước công- nông đầu tiên tại khu vực Đông Nam Á. Sự kiện
này khẳng định: Việt Nam là quốc gia độc lập, có chủ quyền và bình đẳng, đồng thời
cũng đánh dấu sự bắt đầu của chế định “Quốc tịch Việt Nam”. Pháp luật Quốc tịch được hình
thành và phát triển gắn liền với tiến trình hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam được khái
quát hóa ở hai giai đoạn trước và sau năm 1975:
1.Giai đoạn trước năm 1975.
Trước nhiệm vụ cấp thiết phải xóa bỏ hệ thống pháp luật thực dân phong kiến và
nhanh chóng xây dựng hệ thống pháp luật mới để quản lý đất nước, các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền đã khẩn trương ban hành các văn bản pháp luật mới, trong đó có những văn bản về
luật Quốc tịch là các sắc lệnh để dựa vào đó xây dựng và giải quyết các vấn đề liên quan tới
Quốc tịch Việt Nam.
•Về Quốc tịch Việt Nam.
Quốc tịch thể hiện chủ quyền của quốc gia đối với dân cư đồng thời xác định ai, người nào
là công dân của quốc gia. Do vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký và ban hành sắc lệnh số 53/SL
ngày 20/10/1945 quy định về Quốc tịch Việt Nam. Sắc lệnh đảm bảo cho trẻ sơ sinh trên lãnh
thổ Việt Nam không bị rơi vào tình trạng không Quốc tịch.
Bên cạnh đó, Điều 1 và Điều 4 Sắc lệnh số 73/SL quy định những điều kiện và thủ tục liên
quan tới vấn đề gia nhập Quốc tịch Việt Nam.
3


LUẬT HIẾN PHÁP VIỆT NAM – PHÂN TÍCH THEO CHỦ ĐỀ June 27, 2014
•Về việc mất Quốc tịch Việt Nam.

Về thôi Quốc tịch, Điều 2 Sắc lệnh số 51/SL ngày 14/12/1959 quyết định phụ nữ Việt Nam
lấy chồng có Quốc tịch nước ngoài muốn theo Quốc tịch của chồng thì trong thời hạn 6 tháng
kể từ ngày ban hành sắc lệnh này phải xin bỏ Quốc tịch Việt Nam và phải được Chính phủ Việt
Nam cho phép.
Về việc tước Quốc tịch được xác định trong Điều 7 Sắc lệnh số 59/SL.
Các sắc lệnh về Quốc tịch đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc hình thành và phát triển
chế định Quốc tịch Việt Nam.
Tuy nhiên, trước năm 1975, do đặc điểm nước ta bị chia cắt làm hai miền và chế độ chính trị
khác nhau nên các văn bản pháp luật về Quốc tịch Việt Nam chỉ có hiệu lực hay nói cách khác
chỉ được áp dụng ở miền Bắc. Pháp luật Quốc tịch Việt Nam trước năm 1975 đã thể hiện rõ
chủ quyền của quốc gia đối với dân cư, quyết định của nhà nước về các vấn đề cơ bản liên quan
đến Quốc tịch như: nguyên tắc một Quốc tịch, bảo đảm quyền có Quốc tịch của cá nhân trên
lãnh thổ Việt Nam, bình đẳng giữa các công dân Việt Nam về quyền và nghĩa vụ công dân…
Từ đó tạo cơ sở pháp lý để giải quyết những vấn đề đặt ra trên thực tế.
2.Giai đoạn sau năm 1975.
Ta thấy được rằng vấn đề Quốc tịch được nhà nước ta đề cập dưới góc độ là Luật Quốc tịch.
Thể hiện như sau:
a) Luật Quốc tịch Việt Nam năm 1988.
Ngày 28/6/1988, Quốc hội khóa VIII kỳ họp thứ 3 đã thông qua Luật Quốc tịch Việt Nam
quy định một cách khá toàn diện các vấn đề Quốc tịch Việt Nam. Để cụ thể hóa, ngày
05/13/1990, Hội đồng bộ trưởng đã ban hành nghị định số 37/HĐBT. Luật Quốc tịch năm 1988 g
ồm lời nói đầu và 18 điều đề cập đến 4 nội dung cơ bản: nguyên tắc bình đẳng, nguyên tắc một
Quốc tịch, có Quốc tịch Việt Nam, mất Quốc tịch Việt Nam. Luật quốc tịch năm 1988 và Nghị
định số 37/HĐBT đã đáp ứng nhu cầu chính trị và pháp lý về Quốc tịch trong giai đoạn mới của
đất nước.
b) Luật Quốc tịch năm 1998.
Luật Quốc tịch năm 1998 ra đời để phù hợp với quy định của Hiến pháp 1992, tạo cơ chế
đồng bộ thực hiện một cách nhất quán, triệt để để nguyên tắc một Quốc tịch, quyết định tình
trạng không rõ về Quốc tịch Việt Nam do lịch sử để lại trong cộng đồng Việt Nam định cư ở
nước ngoài, khắc phục tính đơn giản chung chung của Luật Quốc tịch năm 1988. Luật Quốc

tịch năm 1998 gồm 7 chương với 42 điều.
Bên cạnh việc ban hành Luật Quốc tịch 1998, các cơ quan có thẩm quyền còn ban hành các
văn bản dưới luật: Nghị định của Chính phủ số 104/1998/NĐ-CP ngày 31/12/1998, Nghị định
của Chính phủ số 55/2000/NĐ-CP ngày 11/10/2000 sửa đổi một số điều của Nghị định
4


LUẬT HIẾN PHÁP VIỆT NAM – PHÂN TÍCH THEO CHỦ ĐỀ June 27, 2014
số
104/1998/NĐ-CP, Thông tư liên tịch của Bộ Tư Pháp số 09/1999/TT-BTP ngày 07/04/1999.
Sau 9 năm thực hiện, gyà 15/02/2008, Bộ Tư Pháp đã tổ chức hội nghị tổng kết thực hiện
Luật Quốc tịch Việt Nam năm 1998, đánh giá những mặt tích cực, chỉ ra những hạn chế cần
khắc phục như ghi nhận nguyên tắc một Quốc tịch còn cứng nhắc, điều kiện nhập lại Quốc tịch
Việt Nam chưa thực sự phù hợp với tình hình mới, thủ tục tiếp nhận và giải quyết các vấn đề về
Quốc tịch còn rườm rà, công tác quản lý nhà nước về Quốc tịch lỏng lẻo, chưa sát thực tiễn…
c) Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008.
Ngày 13/11/2008, kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật Quốc tịch Việt Nam
năm 2008 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2009 bao gồm 6 chương với với 44 điều. Luật
Quốc tịch Việt Nam năm 2008 còn bảo đảm sự phù hợp với quy định của Hiến pháp năm 1992,
sự đồng bộ với các văn bản pháp luật có liên quan cũng như tính khả thi các quy định có tính
nguyên tắc của Luật. Đảm bảo quyền có Quốc tịch của mỗi cá nhân, hạn chế tình trạng không
Quốc tịch ở nước ta, tăng cường và nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về Quốc tịch, tạo cơ
sở pháp lý chặt chẽ cho việc bảo hộ có hiệu quả quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của
công dân Việt Nam ở nước ngoài.
III. Nội dung của Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 – Sự kế thừa và
phát triển.
Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 có 6 chương gồm 44 điều:
Chương 1: Những quy định chung;
Chương 2: Có Quốc tịch Việt Nam;
Chương 3: Mất Quốc tịch Việt Nam;

Chương 4: Thay đổi Quốc tịch của người chưa thành niên và của con nuôi;
Chương 5: Trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước về Quốc tịch;
Chương 6: Điều khoản thi hành.
So với cấu trúc của Luật Quốc tịch năm 1998, Luật Quôc tịch năm 2008 cũng có 6 chương
tuy nhiên tăng thêm 2 điều và chương 5 có tên gọi khác Luật năm 1998 (Thẩm quyền và thủ tục
giải quyết các vấn đề về Quốc tịch). Chương 5 Luật Quốc tịch năm 2008 thay đổi tên nhằm
mục đích nhấn mạnh đến trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước trong những vấn đề về Quốc
tịch. Phân tích toàn bộ các chương và điều của Luật Quốc tịch năm 2008, chúng ta thấy Luật
này có các nội dung cơ bản sau đây:

1. Nguyên tắc m ột Qu ốc t ịch.
Nếu như điều 3 Luật Quốc tịch Việt Nam năm 1998 có tên gọi là nguyên tắc “một Quốc
tịch” và điều này quy định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam công nhận công
dân có một Quốc tịch là Quốc tịch Việt Nam” thì “nguyên tắc Quốc tịch” là tên gọi của điều 4
Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 là: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam công
5


LUẬT HIẾN PHÁP VIỆT NAM – PHÂN TÍCH THEO CHỦ ĐỀ June 27, 2014
nhận công dân Việt Nam có một Quốc tịch là Quốc tịch Việt Nam, trừ trường hợp Luật này có
quy định khác”. Như vậy, có thể thấy Luật Quốc tịch năm 1998 được xây dựng trên nguyên tắc
“một Quốc tịch triệt để” còn Luật Quốc tịch năm 2008 được xây dựng trên nguyên tắc “một
Quốc tịch mềm dẻo”.
Nguyên tắc “một Quốc tịch mềm dẻo” thể hiện ở chỗ một mặt luật xác định ở nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam mỗi cá nhân đều có quyền có Quốc tịch Việt Nam. Nhà nước
thừa nhận công dân Việt Nam có một Quốc tịch là Quốc tịch Việt Nam, nhưng nhà nước cũng
thừa nhận một số người có hai hoặc nhiều Quốc tịch.
Do công nhận thực trạng một số công dân có hai hoặc nhiều Quốc tịch nên Luật Quốc tịch
Việt Nam năm 2008 đã bổ sung thêm một số điều quy định về việc giải quyết vấn đề phát sinh
từ tính trạng công dân Việt Nam đồng thời có Quốc tịch nước ngoài. Theo quy định tại điều 12,

vấn đề phát sinh từ tình trạng công dân Việt Nam đồng thời có Quốc tịch nước ngoài được giải
quyết theo điều ước Quốc tế mà Việt Nam là thành viên, trường hợp chưa có điều ước Quốc tế
thì giải quyết theo tập quán và thong lệ quốc tế. Điều 12 cũng xác định nhiệm vụ của Chính
Phủ là ký kết hoặc đề xuất việc ký kết, quyết định gia nhập điều ước Quốc tế để giải quyết vấn
đề phát sinh từ thực trạng công dân Việt Nam đồng thời có Quốc tịch nước ngoài. Để giải quyết
các xung đột pháp luật trong lĩnh vực Quốc tịch, nhiều quốc gia đã ký kết một số điều ước quốc
tế đa phương về vấn đề Quốc tịch như: Công ước La Haye năm 1930 về một số vấn đề liên
quan tới xung đột Quốc tịch, công ước năm 1963 về việc giảm các trường hợp nhiều Quốc tịch
và về nghĩa vụ quân sự trong trường hợp nhiều Quốc tịch, công ước Châu Âu năm 1997 về
Quốc tịch. Trong trường hợp nhiều Quốc tịch, Công ước La Haye đã xác định nguyên tắc Quốc
tịch hữu hiệu. Điều 5 của công ước La Haye đã quy định: “Tại một nước thứ 3, một người có
nhiều Quốc tịch sẽ được coi như chỉ có một Quốc tịch. Nước thứ ba chỉ công nhận một trong số
những Quốc tịch mà người đó có hoặc công nhận Quốc tịch của nước mà người đó thường trú
và cư trú chủ yếu hoặc Quốc tịch của nước đó mà lúc đó trên thực tế người đó có mối quan hệ
gắn bó nhất”. Nguyên tắc Quốc tịch hữu hiệu được ghi nhận trong công ước La Haye
năm 1930 có ý nghĩa quan trọng trong việc lựa chọn luật áp dụng. Mặt khác, công ước
La Haye cũng xác lập nguyên tắc bảo hộ ngoại giao đối với người có hai hoặc nhiều Quốc tịch.
Theo điều 4 công ước này, một quốc gia không được bảo hộ ngoại giao cho công dân nhà nước
mình tại quốc gia khác mà người này cư trú.
Tuy nhiên, trong thực tiễn quan hệ quốc tế vẫn tồn tại tranh chấp giữa Việt Nam với các
nước trong việc thực hiện bảo hộ công dân cũng như vấn đề áp dụng pháp luật dân sự khi có
tranh chấp hoặc phápluật hành chính, hình sự khi công dân đó vi phạm pháp luật Việt Nam.
Trong nhiều trường hợp, các cơ quan nhà nước Việt Nam rất lúng túng khi giải quyết các giao
dịch dân sự, kinh tế… có sự tham gia của công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài mang hai
Quốc tịch. Bên cạnh đó, công tác quản lý và nắm danh sách người Việt Nam định cư ở nước
ngoài gặp nhiều khó khăn, chưa đầy đủ, chính xác. Vì vậy, ngoài việc hoàn thiện hệ thống văn
bản pháp luật về Quốc tịch, Việt Nam cũng nên nghiên cứu khả năng đàm phán, ký kết các điều
ước quốc tế song phương cũng như tham gia các điều ước đa phương nhằm phối hợp với các

6



LUẬT HIẾN PHÁP VIỆT NAM – PHÂN TÍCH THEO CHỦ ĐỀ June 27, 2014
quốc gia liên quan giải quyết vấn đề công dân Việt Nam đồng thời có Quốc tịch nước ngoài đặc
biệt là đối với bộ phận công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài.
2. Nhập quốc tịch Việt Nam.
Về điều kiện để người nước ngoài, người không Quốc tịch được nhập Quốc tịch Việt Nam,
Luật Quốc tịch Việt Nam 2008, vẫn giữ nguyên như năm 1998 ở một số điểm sau:
♣ Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của pháp luật Việt Nam (1)
♣ Tuân thủ hiến pháp và pháp luật Việt Nam, tôn trọng truyền thống, tập quán của dân
tộc Việt Nam (2)
♣ Biết tiếng việt để được hòa nhập vào cộng đồng Việt Nam (3)
♣ Đã thường trú ở Việt Nam từ 5 năm trở lên tính đến thời điểm xin nhập Quốc tịch Việt
Nam (4)
♣ Có khả năng đảm bảo cuộc sống tại Việt Nam (5)
Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 quy định và làm rõ nếu người không Quốc tịch hoặc
người nước ngoài thì sẽ được miễn điều kiện (3), (4), (5) với điều kiện “là vợ chồng, cha đẻ,
mẹ đẻ hoặc con đẻ của công dân Việt Nam” hoặc “là người có công lao đóng góp đặc biệt cho
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam” hoặc “việc gia nhập Quốc tịch của người đó
có lợi cho nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” thì được nhập Quốc tịch Việt Nam.
Bên cạnh đó, Khoản 5, Điều 19 Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 tiếp tục quy định
“Người xin nhập Quốc tịch Việt Nam không được nhập Quôc tịch Việt Nam nếu việc đó làm hại
đến lợi ích quốc gia Việt Nam”.
Thêm vào đó, Khoản 3, Điều 19, Luật Quốc tịch 2008 đã quy định “chỉ những đối tượng cụ
thể trong trường hợp đặc biệt nếu được Chủ tịch nước cho phép mới được giữ quốc tịch nước
ngoài khi gia nhập Quốc tịch Việt Nam”. Quy định này nhằm đảm bảo nguyên tắc một Quốc
tịch.
Nếu như Luật Quốc tịch Việt Nam năm 1998 chưa có quy định giải quyết cho cư dân không
Quốc tịch không có đầy đủ các giấy tờ về nhân thân nhưng đã cư trú ổn định tại Việt Nam thì
Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 đã giải quyết vấn đề này bằng quy định tại điều 22: “Người

không Quốc tịch mà không có đầy đủ giấy tờ về nhân thân nhưng đã cư trú ổn định trên lãnh
thổ Việt Nam từ 20 năm trở lên tính đến ngày Luật này có hiệu lực và tuân thủ Hiến pháp, pháp
luật Việt Nam thì được nhập Quốc tịch Việt Nam theo trình tự, thủ tục và hồ sơ do Chính phủ
quy định”. Quy định trên cũng nhằm hạn chế tình trạng người không có Quốc tịch đồng thời
đảm bảo các quyền dân sự, chính trị cơ bản của con người, trong đó có quyền Quốc tịch cá
nhân.
Về thủ tục giải quyết trong vấn đề gia nhập Quốc tịch thì Luật Quốc tịch năm 2008 đã luật
hóa quy định về hồ sơ xin nhập Quốc tịch, hạn chế phần nào việc phải chờ văn bản hướng dẫn
như trước đây. Bên cạnh đó luật còn quy định rõ những đối tượng, điều kiện và thủ tục được
miễn giấy chứng nhận trình độ Tiếng Việt, nếu yêu cầu phải có thì giấy chứng minh trình độ
7


LUẬT HIẾN PHÁP VIỆT NAM – PHÂN TÍCH THEO CHỦ ĐỀ June 27, 2014
Tiếng Việt với người xin nhập Quốc tịch không yêu cầu hiểu biết văn hóa lịch sử và pháp luật
theo quy định của Bộ Giáo Dục và đào tạo, Bộ Tư Pháp như quy định tại nghị định
104/1998/NĐ-CP. Trình tự thủ tục giải quyết hồ sơ nhập Quốc tịch, Luật Quốc tịch 2008 quy
định cụ thể hơn thời gian giải quyết ở từng công đoạn trong quy trình tạo điều kiện cho người
xin nhập Quốc tịch có cơ sở pháp lý yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết kịp
thời đúng pháp luật.
3. Trở lại Quốc tịch Việt Nam.
Nhằm khắc phục các vướng mắc trong các quy định của Luật Quốc tịch năm 1998 về trở lại
Quốc tịch, Luật Quốc tịch năm 2008 đã có những sửa đổi, bổ sung kịp thời, hợp lý trong việc
giải quyết các trường hợp xin trở lại Quốc tịch Việt Nam. Khác với các quy định đơn giản và dàn
trải trong Luật Quốc tịch 1998 (tập trung trong điều 21 và rải rác trong một số điều liên quan
đến trình tự, thủ tục giải quyết), Luật Quốc tịch 2008 đã dành hẳn một mục lớn (mục 3, bắt đầu
từ Điều 23 đến Điều 26) quy định cụ thể và rõ ràng hơn về các vấn đề liên quan đến trở lại Quốc
tịch.
Ngoài những trường hợp được trở lại Quốc tịch Việt Nam quy định tại điều 21 Luật Quốc
tịch 1998, phù hợp với sự mong mỏi và nhu cầu thực tế của cộng đồng người Việt Nam ở nước

ngoài, Điều 23 Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 đã ghi nhận thêm hai trường hợp có thể
được cho phép trở lại Quốc tịch Việt Nam, đó là “thực hiện đầu tư tại Việt Nam” hoặc “đã thôi
Quốc tịch Việt Nam để nhập Quốc tịch nước ngoài, nhưng không được nhập Quốc tịch nước
ngoài”. Luật Quốc tịch năm 2008 cho phép trở lại Quốc tịch Việt Nam đối với những người
thôi Quốc tịch Việt Nam để nhập Quốc tịch nước ngoài, nhưng không được nhập Quốc
tịch nước ngoài nhằm đảm bảo quyền có Quốc tịch của công dân đồng thời thể hiện tính nhân
đạo của pháp luật Việt Nam, nhằm tránh tình trạng không Quốc tịch. Chính vì vậy mà
khoản 1, Điều 2 Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 quy định “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ ng
hĩa Việt Nam, mỗi cá nhân đều có quyền có Quốc tịch”.
Hơn nữa, khoản 2 Điều 23 Luật Quốc tịch năm 2008 còn ghi nhận, đối với các trường hợp
xin trở lại Quốc tịch Việt Nam, nếu xét thấy sự trở lại Quốc tịch của người đó có thể
“làm phương hại đến lợi ích quốc gia Việt Nam” thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét và
từ chối giải quyết.
Bên cạnh đó, luật còn “luật hóa” các quy định về trình tự, thủ tục giải quyết hồ sơ xin trở lại
Quốc tịch thay vì được quy định trong nghị định của Chính Phủ. Điều này đã phần nào khắc
phục được tình trạng luật chờ nghị định, thong tư so với trước đây, đáp ứng yêu cầu quản lý
Nhà nước ở hiện tại cũng như định hướng phát triển chung của đất nước trong những năm sắp
tới. Theo quy định tại Điều 24 của Luật Quốc tịch năm 2008, người xin trở lại Quốc tịch Việt
Nam phải lập hồ sơ xin trở lại Quốc tịch, đồng thời theo quy định tại điều 25 thì thời gian giải
quyết xin trở lại Quốc tịch Việt Nam đã được rút ngắn chỉ còn một nửa (tổng thời gian giải
quyết chỉ còn 3 tháng).
Luật Quốc tịch Việt Nam 2008 còn quy định thời gian cụ thể cho từng khâu, từng giai đoạn
8


LUẬT HIẾN PHÁP VIỆT NAM – PHÂN TÍCH THEO CHỦ ĐỀ June 27, 2014
khác nhau như: Trong thời hạn 5 ngày, kể từ ngày nhận hồ sơ hợp lệ, Sở Tư pháp gửi văn bản
đề nghị Cơ quan Công an xác minh về nhân thân người xin trở lại Quốc tịch Việt Nam. Điều
này tạo ra sự phân công trách nhiệm rõ ràng cho các cơ quan chức năng trong giải quyết vấn đề
liên quan, tránh sự chồng chéo lẫn nhau. Đây có thể coi là bước đột phá trong việc giải quyết

hồ sơ về Quốc tịch, góp phần thực hiện công khai minh bạch các thủ tục hành chính theo tinh
thần chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.
4. Mất Quốc tịch Việt Nam.
Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 đã quy định những căn cứ xác định mất Quốc tịch Việt
Nam như sau:
♣Được thôi Quốc tịch Việt Nam.
♣Bị tước Quốc tịch Việt Nam.
♣Bị hủy bỏ quyết định cho nhập Quốc tịch Việt Nam.
♣Người Việt Nam định cư ở nước ngoài (chưa mất Quốc tịch Việt Nam) không tiến
hành thủ tục đăng ký Quốc hội Việt Nam theo quy định của pháp luật.
♣Trẻ sơ sinh bị bỏ rơi, trẻ em được tìm thấy trên lãnh thổ Việt Nam, nay tìm thấy cả
cha mẹ mà cha mẹ chỉ có Quốc tịch nước ngoài hoặc chỉ tìm thấy cha hoặc mẹ mà
người đó có Quốc tịch nước ngoài.
5. Pháp luật Quốc tịch về trẻ em.
Cũng như Luật Quốc tịch Việt Nam năm 1988 và năm 1998, Luật Quốc tịch Việt Nam năm
2008 đã kết hợp nhuần nhuyễn hai nguyên tắc huyết thống và lãnh thổ trong việc xác định quốc
tịch trẻ em, cụ thể là:
ϖ Theo nguyên tắc truyền thống, trẻ em sinh ra có Quốc tịch Việt Nam:
- Cha mẹ đều là công dân Việt Nam;
- Cha mẹ là công dân Việt Nam còn người kia không có Quốc tịch.
- Mẹ là công dân Việt Nam còn người kia không rõ là ai.
- Cha mẹ thỏa thuận bằng văn bản vào thời điểm khai sinh cho trẻ em khi cha hoặc mẹ là
công dân Việt Nam còn người kia là người nước ngoài. Nếu cha mẹ không thỏa thuận được
việc lựa chọn Quốc tịch thì trẻ em có Quốc tịch Việt Nam. Quy định này nhằm mục đích bảo
đảm cho trẻ em không bị rơi vào tình trạng không Quốc tịch.
ϖ Theo nguyên tắc nơi sinh, trẻ em có Quốc tịch Việt Nam trong những trường hợp:

9



LUẬT HIẾN PHÁP VIỆT NAM – PHÂN TÍCH THEO CHỦ ĐỀ June 27, 2014
- Cha mẹ không có Quốc tịch nhưng có nơi thường trú tại Việt Nam.
- Mẹ không có Quốc tịch nhưng có nơi thường trú tại Việt Nam còn cha không rõ là ai.
- Trẻ sơ sinh bị bỏ rơi, trẻ em được tìm thấy trên lãnh thổ Việt Nam mà hca mẹ không rõ là
ai.
ϖ Trong trường hợp cha mẹ thay đổi Quốc tịch do nhập Quốc tịch, trở lại hoặc th
ôi Quốc tịch Việt Nam, Luật Quốc tịch Việt Nam 2008 quy định:
- Quốc tịch của con chưa thành niên sinh sống cùng cha mẹ cũng thay đổi theo Quốc tịch
của cha mẹ.
- Quốc tịch của con chưa thành niên sinh sống cùng cha hoặc mẹ cũng thay đổi theo Quốc
tịch của cha hoặc mẹ nếu có sự thỏa thuận bằng văn bản của cha mẹ
- Trường hợp cha, mẹ được nhập, trở lại Quốc tịch Việt Nam thì con chưa thành niên sinh
sống cùng người đó có Quốc tịch Việt Nam nếu cha, mẹ không thỏa thuận bằng văn bản về
việc giữ Quốc tịch nước ngoài cho con.
ϖ Đối với vấn đề của con nuôi, Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 tiếp thu hoàn toàn nội dung
của Luật Quốc tịch Việt Nam năm 1998 mà không có bất cứ sự điều chỉnh nào.

Nhìn chung, vấn đề Quốc tịch có nói chung và Luật Quốc tịch nói riêng đã khẳng định vai
trò của nó trong việc khẳng định độc lập chủ quyền và dân cư của một quốc gia, quy định về
quyền và nghĩa vụ của mỗi cá nhân đối với một đất nước nhất định. Luật Quốc tich năm 2008
đã cơ bản đáp ứng được sự mong mỏi của người dân về vấn đề Quôc tịch, hưởng Quốc tịch,
mất Quốc tịch, trình tự và thủ tục giải quyết… Đảm bảo được độc lập chủ quyền quốc gia, hạn
chế phần nào thiếu sót mà Luật Quốc tịch năm 1988 và 1998 mắc phải. Nó hứa hẹ đem lại hiệu
quả cao trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến Quốc tịch, góp phần ổn định an ninh trật
tự, an toàn xã hôi, thúc đẩy kinh tế phát triển, đưa nước ta đi lên xã hội chủ nghĩa.

LƯU Ý: CÁC BẠN NÊN CẬP NHẬT LUẬT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG LUẬT
QUỐC TỊCH 2008 VÀO 2013 NHÉ!
Bài soạn này chỉ là tài liệu tham khảo nhằm định hướng cách trả lời câu hỏi cho các bạn.
Hãy sử dụng cách thành văn riêng của mình, Anh có lời khuyên là các bạn nên dựa vào bài viết

tham khảo này rồi viết lại 1 bản theo cách viết của mình. Vì khi làm bài thi, đây là tài liệu tham
khảo chung, nếu các bạn chép giống nhau, thì điểm sẽ không mong muốn.
Chúc các bạn thi tốt!

10


LUẬT HIẾN PHÁP VIỆT NAM – PHÂN TÍCH THEO CHỦ ĐỀ June 27, 2014

[PHÂN TÍCH VỀ QUYỀN CON NGƯỜI, QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CƠ
BẢN CỦA CÔNG DÂN QUA 4 BẢN HIẾN PHÁP] June 27, 2014

MỞ ĐẦU
Đưa ra khái niệm về quyền con người, công dân và quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân.
-

-

-

Khái niệm về quyền con người: Trong khoa học pháp lý, các quyền con người được
hiểu đó là những quyền mà pháp luật cần phải thừa nhận đối với tất cả các thể nhân. Đây
là quyền tối thiểu mà các cá nhân phải có, những quyền mà các nhà lập pháp không được
xâm hại. Nhằm mục đích bảo vệ những quyền tự nhiên này của con người, xã hội loài
người đã tạo ra cho mình một thiết chế có trách nhiệm đảm bảo những quyền này. Thiết
chế này gọi là Nhà nước. Từ đó, đây là đối tượng điều chỉnh quan trọng của Hiến pháp.
Mục đích của quy định này như là một bản cam kết của nhà nước phải thực hiện an toàn
và sự phát triển của con người.
Khái niệm công dân: Là bộ phận dân cư chủ yếu của một Nhà nước, bao gồm những
người được xác định lệ thuộc pháp lý đối với Nhà nước đó. Người là công dân của Nhà

nước sở tại thì được hưởng đầy đủ những quyền và lợi ích tương xứng và đồng thời phải
gánh vác những nghĩa vụ do Nhà nước quy định. Những cá nhân không phải là công dân
thì chỉ được hưởng một số quyền lợi và gánh vác những nghĩa vụ không đầy đủ so với
những người là công dân theo quy định của pháp luật nước sở tại và các hiệp ước được
ký kết hoặc phê chuẩn.
 Khái niệm này bắt nguồn từ quan hệ giữa Nhà nước và dân cư (của cá nhân) sống
trên lãnh thổ. Quan hệ này thể hiện trong các quyền và nghĩa vụ được quy định tạo
thành địa vị pháp lý của cá nhân. Do đó, việc xác định tính công dân (quốc tịch) của
một cá nhân là một yếu tố trong việc quy định địa vị pháp lý của cá nhân.
Khái niệm quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân:
Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, là những quyền, nghĩa vụ được nhà nước quy
định trong Hiến pháp. Những quyền và nghĩa vụ này được hiến pháp quy định cho tất cả
mọi công dân, hoặc chỏ cả một tầng lớp, một giai cấp, không quy định cho từng người
trong từng điều kiện hoàn cảnh cụ thể. Những quyền này thường được xuất phát từ quyền
con người: “được sống, được tự do, được mưu cầu hạnh phúc, không ai có thể xâm
phạm”. Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân là cơ sở chủ yếu xác định địa vị pháp lý
của công dân, là cơ sở cho mọi quyền và nghĩa vụ cụ thể của mỗi một công dân.

PHÂN TÍCH
-

Hiến pháp 1946:
+ Chưa có quy định cụ thể về quyền con người nhưng đã quy định bản chất quyền lực
nhà nước Việt Nam là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Điều 1 HP 1946 quy định:
11


LUẬT HIẾN PHÁP VIỆT NAM – PHÂN TÍCH THEO CHỦ ĐỀ June 27, 2014
“Nước Việt nam là một nước dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền bính trong nước là của
toàn dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo,giai cấp, tôn giáo”

+ Hp 1946 ra đời trong những năm đầu tiên của chính quyền nhân dân còn non trẻ, nhưng
vẫn dành sự quan tâm to lớn đặc biệt cho vấn đề quyền cơ bản của công dân (dành 18
điều), trình bày tập trung vào 1 chương với tên là “nghĩa vụ và quyền lợi công dân”Chương II (sau chương I là chính thể).
+ Nội dung quyền con người trong Bản hiến pháp đầu tiên được thể hiện bằng quyền
công dân Việt Nam, gồm:
 Quyền được bình đẳng: quy định ở điều 6; điều 7 và Điều 8,9.
 Quyền được tự do: quy định ở điều 10, điều 11.
 Quyền tự do dân chủ: tự do dân chủ trong chính trị, quy định ở điều 7, điều 18,
điều 20, điều 21.
 Quyền về kinh tế, văn hóa, xã hội: quy định đầy đủ và chi tiết. Đó là các quyền tư
hữu tài sản, quyền lợi của các giới cần lao trí thức (Điều 12) và của những lao
động chân tay (Điều 13) được bảo đảm
 Như vậy, HP 1946 lần đầu tiên trong lịch sử, địa vị pháp lý của công dân được xác lập
gắn liền với dân tộc dành được độc lập. Hiến pháp không những là văn bản quy định
việc tổ chức nhà nước mà còn là bản văn bảo đảm thực hiện nhân quyền, tựu trung là
quyền tự do dân chủ cho nhân dân Việt Nam.
(tham khảo thêm trong sách chuyên khảo)
-

-

-

Hiến pháp 1959:
+ Có số điều khoản dành cho quyền công dân lớn hơn Hiến pháp 1946: 21 điều.
+ nội hàm các quyền công dân được mở rộng hơn.
+ Hiến pháp 1959 của cơ chế tập trung quan lieu bao cấp không quy định công dân có
quyền tư hữu và quyền tài sản.
+ Có quy định thêm những nghĩa vụ mới cho công dân so với HP 1946 như “tuân theo kỷ
luật lao động, trật tự công cộng và những quy tắc sinh hoạt xã hội, nghĩa vụ tôn trọng và

bảo vệ tài sản công cộng, nghĩa vụ đóng thuế theo pháp luật”.
(tham khảo thêm trong sách chuyên khảo)
Hiến pháp 1980:
+ Có số điều khoản cho quyền công dân lớn hơn HP 1959: 29 điều.
+ Nội hàm các quyền công dân cũng được mở rộng hơn.
+ Hiến pháp 1959 của cơ chế tập trung quan lieu bao cấp không quy định công dân có
quyền tư hữu và quyền tài sản.
+ Một mặt ghi nhận lại những nghĩ vụ của công dân đã quy định trong Hiến pháp 1959,
mặc khác xác định thêm những nghĩa vụ mới của công dân như: “nghĩa vụ phải trung
thành với Tổ quốc; nghĩa vụ tham gia xây dựng quốc phòng toàn dân; giữ gìn bí mật Nhà
nước; nghĩa vụ tham gia lao động công ích theo quy định của pháp luật”
(tham khảo thêm trong sách chuyên khảo)
Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001):
+ số lượng điều khoản dành cho quyền công dân lớn hơn các bản Hiến pháp trước: 34
điều
12


LUẬT HIẾN PHÁP VIỆT NAM – PHÂN TÍCH THEO CHỦ ĐỀ June 27, 2014

-

+ Nội hàm các quyền công dân được mở rộng và cụ thể hơn. Như Quyền tư hữu tài sản
của công dân VN được bảo đảm thì ở Hiến pháp 1992 quyền này được quy định một cách
mở rộng thành những yếu tố cấu thành và các loại hình cụ thể của quyền tư hữu (quy định
tại điều 58).
+ bổ sung thêm các quyền của công dân như quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất,
phục hồi danh dự, khi bị bắt, bị giam giữ và xét xử trái pháp luật; quyền được khiếu nại,
tố cáo những hành vitrasi pháp luật của các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức
xã hội, đơn vị vũ trang hoặc bất cứ cá nhân nào.

+ Về nghĩa vụ cơ bản của công dân, HP 1992 thừa kế những quy định của các HP trước
đây đồng thời cũng bổ sung hoàn thiện thêm 1 bước. Đó là nghĩa vụ trung thành với Tổ
quốc (Điều 76); nghĩa vụ bảo vệ tổ quốc tỏng đó có việc thực hiện nghĩa vụ quân sự và
tham gia quốc phòng toàn dân (Điều 77)…
+ So với HP 1980, HP 1992 có thêm một điều mới dành cho người nước ngoài (Điều 81).
Điều này quy định người nước ngoài cư trú ở VN phải tuân theo HP và pháp luật VN.
Đồng thời với nghĩa vụ này họ có quyền được Nhà nước VN bảo hộ tính mạng, tài sản và
các quyền lợi chính đáng theo pháp luật Việt Nam.
(tham khảo thêm trong sách chuyên khảo)
Hiến pháp 2013 (sửa đổi, bổ sung HP 1992-được sửa đổi, bổ sung 2001):
+ Chương "Quyền và Nghĩa vụ cơ bản của công dân" từ Chương V trong Hiến pháp năm
1992 về Chương II trong Hiến pháp sửa đổi năm 2013 với tên gọi mới: “Quyền con
người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”
 Việc thay đổi vị trí nói trên không đơn thuần là một sự dịch chuyển cơ học, một sự
hoán vị về bố cục mà là một sự thay đổi về nhận thức. Với quan niệm đề cao chủ
quyền Nhân dân trong Hiến pháp, coi quyền lập hiến cao hơn quyền lập pháp, Nhân
dân là chủ thể tối cao của quyền lập hiến, thông qua quyền lập hiến của mình, Nhân
dân giao quyền cho lập pháp, hành pháp, tư pháp và các thiết chế độc lập khác, thì
quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân phải được xác định ở vị trí
trang trọng hàng đầu trong một bản Hiến pháp. Việc thay đổi này là sự kế thừa Hiến
pháp năm 1946 và Hiến pháp của nhiều nước trên thế giới, thể hiện quan điểm đề cao
nhân tố con người của Đảng và Nhà nước ta.
+ Hiến pháp năm 1992 thừa nhận thuật ngữ "quyền con người", không đồng nhất quyền
con người với quyền công dân, nhưng chưa phân biệt được quyền con người, quyền cơ
bản của công dân trong các quy định của Hiến pháp. Khắc phục thiếu sót đó Hiến pháp
sửa đổi năm 2013 đã có sự phân biệt sự khác nhau giữa “quyền con người” và “quyền
công dân”.
 Theo đó, quyền con người được quan niệm là quyền tự nhiên vốn có của con người từ
lúc sinh ra; còn quyền công dân, trước hết cũng là quyền con người, nhưng việc thực
hiện nó gắn với quốc tịch, tức là gắn với vị trí pháp lý của công dân trong quan hệ với

nhà nước, được nhà nước đảm bảo đối với công dân của nước mình. Chỉ có những
người có quốc tịch mới dược hưởng quyền công dân của quốc gia đó, ví dụ như
quyền bầu cử, ứng cử, quyền tham gia quản lý nhà nước. Để làm rõ sự khác biệt này,
13


LUẬT HIẾN PHÁP VIỆT NAM – PHÂN TÍCH THEO CHỦ ĐỀ June 27, 2014
tham khảo các công ước Quốc tế về quyền con người và Hiến pháp của các nước,
Hiến pháp sửa đổi đã sử dụng từ “mọi người” và từ “không ai” khi thể hiện quyền
con người và dùng từ “công dân” khi quy định về quyền công dân.
+ Trách nhiệm của Nhà nước và những đảm bảo của Nhà nước trong việc ghi nhận, tôn
trọng, thực hiện và bảo vệ quyền con người, quyền công dân được quy định đầy đủ trong
các điều luật. Ngoài nguyên tắc như: “Quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân
sự, kinh tế, văn hóa xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và
pháp luật”(Điều 14); ở hầu hết các điều đều quy định trách nhiệm và đảm bảo của Nhà
nước như Điều 17: “Nhà nước bảo hộ công dân Việt Nam ở nước ngoài”; Điều 28: “Nhà
nước tạo mọi điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai,
minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân”… và ở nhiều
điều khác.
+ lần đầu tiên giới hạn của các quyền được quy định thành nguyên tắc trong Hiến pháp.
Theo Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 và Công ước quốc tế về
các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966, có thể hạn chế một số quyền vì lý do bảo
vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng, sức khỏe, đạo đức của xã hội, tôn trọng quyền
hoặc uy tín của người khác, quyền và tự do của người khác… Hiến pháp sửa đổi năm
2013, theo tinh thần của các công ước quốc tế đã quy định thành nguyên tắc ở Điều 14,
khắc phục sự tùy tiện trong việc hạn chế quyền: “Quyền con người, quyền công dân chỉ
có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng,
an ninh quốc gia, trật tự án toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Theo
đó, từ nay không ai được tùy tiện cắt xén, hạn chế các quyền, ngoại trừ các trường hợp
cần thiết nói trên do Luật định.

+ một số quyền mới được bổ sung thể hiện bước tiến mới trong việc mở rộng và phát
triển quyền, phản ảnh kết quả của quá trình đổi mới gần 30 năm qua ở nước ta. Đó là các
quyền: “Quyền được sống trong môi trường trong lành” (Điều 43), “Quyền hưởng thụ và
tiếp cận các giá trị văn hóa, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa”
(Điều 41).
+ kỹ thuật lập hiến có nhiều đổi mới. Cách thể hiện có những điều riêng quy định về
nguyên tắc như Điều 14, Điều 15. Các điều quy định về quyền, tham khảo các điều ước
quốc tế mà Nhà nước ta là thành viên, nội dung các cách diễn đạt đảm bảo tương thích.
Ví dụ như Điều 31 quy định: “1. Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi
được chứng minh theo trình tự Luật định và có bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp
luật”. Về quy định này, trước đây chỉ có một điều kiện “không ai bị coi là có tội và phải
chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của tòa án đã có hiệu lực pháp luật” (Điều 72
Hiến pháp năm 1992). Như vậy, chỉ cần một điều kiện là có bản án của tòa án đã có hiệu
lực thì một người bị coi là có tội và chịu hình phạt. Viết như Hiến pháp sửa đổi năm
2013, một người bị kết tội phải có 2 điều kiện: Một là, phải tuân theo một trình tự luật
định và hai là, có bản án có hiệu lực pháp luật của tòa án. Viết như vậy mới phù hợp với
Công ước về quyền con người mà nước ta đã ký kết và thừa nhận.
(cần tham khảo thêm trên các bài viết phân tích ở internet)
14


LUẬT HIẾN PHÁP VIỆT NAM – PHÂN TÍCH THEO CHỦ ĐỀ June 27, 2014

KẾT LUẬN
Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân là một trong những chế định quan
trọng của Hiến pháp Việt Nam. Với sự ra đời của Hiến pháp 2013 (sửa đổi, bổ sung HP 1992-đã
được sửa đổi, bổ sung 2001), chế định quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân
Việt Nam đã tiến một bước dài trên con đường đi đến ngày càng hoàn thiện hơn, nhất là về
quyền con người; mối quan hệ trách nhiệm giữa công dân với Nhà nước và ngược lại Nhà nước
với công dân.


LƯU Ý:
Bài soạn này chỉ là tài liệu tham khảo nhằm định hướng cách trả lời câu hỏi cho các bạn.
Hãy sử dụng cách thành văn riêng của mình, Anh có lời khuyên là các bạn nên dựa vào bài viết
tham khảo này rồi viết lại 1 bản theo cách viết của mình. Vì khi làm bài thi, đây là tài liệu tham
khảo chung, nếu các bạn chép giống nhau, thì điểm sẽ không mong muốn.
Chúc các bạn thi tốt!

15


LUẬT HIẾN PHÁP VIỆT NAM – PHÂN TÍCH THEO CHỦ ĐỀ June 27, 2014
CHẾ ĐỘ KINH TẾ THEO QUY ĐỊNH CỦA HIẾN PHÁP VIỆT NAM QUA 4 BẢN HIẾN
PHÁP
MỞ ĐẦU
Một điểm rất khác của Hiến pháp Việt Nam với Hiến pháp của các nước khác là có một số
chương riêng quy định về chế độ kinh tế, văn hóa và xã hội.Trong những chế độ quan trọng tạo
nên hoạt động của xã hội, chế độ kinh tế chiếm 1 vị trí quan trọng. Sỡ dĩ chế độ kinh tế cũng như
các chế độ, văn hóa-xã hội khác phải được quy định trong Hiến pháp, vì xét cho cùng sự phát
triển chính trị đều có mục tiêu cho sự phát triển kinh tế-xã hội. Vì vậy, với tư cách là đạo luật cơ
bản của mỗi quốc gia, hiến pháp ít nhiều phải có quy định về chế độ phát triển kinh tế.
Vậy chế độ kinh tế là gì và do những yếu tố nào cấu tạo nên?
-

-

Chế độ kinh tế là một hệ thống các quan hệ kinh tế được pháp luật quy định thể hiện định
hướng phát triển kinh tế, tính chất và hình thức sở hữu đối với tư liệu sản xuất và tổ chức
quản lý nền kinh tế.
Chế độ kinh tế được hình bằng: chế độ sở hữu, mục đích, chính sách phát triển kinh tế và

chế độ quản lý kinh tế.

PHÂN TÍCH
Chế độ kinh tế của nước ta được xác định là chế độ kinh tế xã hội chủ nghĩa. Để hiểu rõ hơn quy
định về chế độ kinh tế, xin đi phân tích các quy định về chế độ kinh tế trong các bản Hiến pháp
VN, bao gồm Hiến pháp 1946,Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992 và Hiến pháp
2013 (sửa đổi, bổ sung HP 1992) .
-

-

Hiến pháp 1946 (giai đoạn 1945-1954): chế độ kinh tế nước ta còn tự nhiên, tự do với
nền kinh tế nhiều thầnh phần, đúng với mục tiêu cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới
(cách mạng dân chủ nhân dân) mặc dù không có quy định rõ rang về chế độ kinh tế. Hiến
pháp cũng quy định quyền tư hữu tài sản của công dân Việt Nam được bảo đảm (Điều 12)
Hiến pháp 1959 (giai đoạn 1954-1975): Bản hiến pháp này đã xác lập một chế độ kinh tế
theo chủ nghĩa xã hội, biến nền kinh tế lạc hậu thành 1 nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với
công nghiệp hiện đại và nông nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ thuật tiên tiến (Điều 9).
Thời kỳ này, Hiến pháp còn thừa nhận tồn tại 4 loại hình sở hữu cơ bản về tư liệu sản
xuất: Sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu của người lao động riêng lẽ và sở hữu của
nhà tư sản dân tộc. Song nhà nước chủ trương đẩy mạnh công cuộc cải tạo xã hội chủ
nghĩa, nhanh chóng xóa bỏ các hình thức sở hữu phi xã hội chủ nghĩa, tăng cường sự lãnh
đạo tập trung thống nhất của nhà nước đối với kinh tế. Sở dĩ có hiện tượng này vì Điều 9
Hiến pháp quy định rõ: “Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tiến dần từ chế độ dân chủ
nhân dân lên chủ nghĩa xã hội bằng cách phát triển và cải tạo nền kinh tế quốc dân theo
chủ nghĩa xã hội, biến nền kinh tế lạc hậu thành một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với
công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ thuật tiên tiến.
16



LUẬT HIẾN PHÁP VIỆT NAM – PHÂN TÍCH THEO CHỦ ĐỀ June 27, 2014

-

-

-

Mục đích cơ bản của chính sách kinh tế của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là không
ngừng phát triển sức sản xuất nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân
dân”
Hiến pháp 1980 (giai đoạn 1975-1985): Hiến pháp 1980 quy định một chế độ kinh tế
thuần túy xã hội chủ nghĩa với một nền kinh tế chủ yếu có hai thành phần: Kinh tế quốc
doanh và kinh tế tập thể, với hai hình thức sở hữu tương ứng; sở hữu toàn dân và sở hữu
tập thể. Thực hiện một chế độ quản lý kinh tế theo kế hoạch tập trung thống nhất kết hợp
quản lý theo ngành, theo địa phương và vùng lãnh thổ. (Điều 15, Điều 16)
Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001): Đây là một bản Hiến pháp của thời kỳ đổi mới,
mở ra một giai đoạn mới của Việt Nam. Ché độ kinh tế được quy định là kinh tế nhiều
thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều 15: “Nhà nước xây dựng nền kinh tế
độc lập, tự chủ trên cơ sở phát huy nội lực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; thực hiện
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành
phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu
toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là
nền tảng."
Nhận thức này rút ra từ bài học của những sai lầm, nóng vội, duy ý chí trong quá khứ.
Hiến pháp đã quy định những nội dung mới về chế độ kinh tế như chính sách kinh tế
(Điều 16), hình thức sở hữu (Điều 15), chế độ lao động sản xuất, phân phôi và tiêu dùng
và chế độ quản lý kinh tế. Cái quan trọng nhất của chế độ kinh tế là quy định sở hữu tư
nhân được tồn tại và được hiến pháp bảo đảm (Điều 21).

Hiến pháp 2013 (sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992): Trên cơ sở lồng ghép chương II và
III trong Hiến pháp năm 1992 với nhiều nội dung đổi mới sâu sắc và toàn diện, Chế độ
kinh tế trong Hiến pháp sửa đổi tạo nên môi trường pháp lý hết sức thông thoáng giúp
khơi nguồn nội lực, thu hút ngoại lực cho tất cả các thành phần kinh tế để phát triển sản
xuất, kinh doanh, vừa bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với an sinh xã
hội, phát triển văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và bảo vệ môi trường.
Trong Hiến pháp năm 1992, Chế độ kinh tế được hiến định bởi một chương riêng
(Chương II) với 15 điều (từ Ðiều 15 đến Ðiều 29).Trong Hiến pháp 2013 (sửa đổi). Chế
độ kinh tế được hiến định bởi 8 điều (từ Ðiều 50 đến Ðiều 57) trong Chương III: Kinh tế,
xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường.Hiến pháp (sửa đổi) có
nhiều đổi mới, thể hiện sự tiến bộ toàn diện vượt bậc về tư duy, ý chí và thể chế kinh tế.
Nhưng bước tiến về chất đó chỉ có thể thực hiện được trên nền tảng ưu việt của Hiến
pháp 1992 - bản hiến pháp tạo bước ngoặt lịch sử, bước đột phá từ cơ chế kế hoạch hóa
tập trung, quan liêu, bao cấp sang cơ chế mới, là sự khởi đầu xác định "xây dựng nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
theo định hướng XHCN", là sản phẩm đầy trí tuệ và bản lĩnh của một thế hệ lãnh đạo lão
thành, trung kiên, xuất chúng nhưng cũng hết sức cầu thị lắng nghe, tiếp thụ những ý kiến
xây dựng, phản biện và những tín hiệu từ thực tiễn trong nước và thế giới... Ðó là bản
hiến pháp thứ 4 của nước ta và là tiền đề cho bản Hiến pháp 2013 (sửa đổi) hiện hành.
17


LUẬT HIẾN PHÁP VIỆT NAM – PHÂN TÍCH THEO CHỦ ĐỀ June 27, 2014
Các điểm đổi mới quan trọng về chế độ kinh tế trong Hiến pháp 2013:
+ Ðiều 50 Hiến pháp (sửa đổi) khẳng định sự thống nhất ý chí của toàn dân về bản chất,
phương thức và mục đích xây dựng nền kinh tế nước ta: "Nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, phát huy nội lực, hội nhập, hợp tác
quốc tế, gắn kết chặt chẽ với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội,
bảo vệ môi trường, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước". Những hiến định
khái quát, có tính bền vững lâu dài đó đã bổ sung, phát triển, cô đọng và nâng cao những

quy định liên quan trong các Ðiều 15, 16 của Hiến pháp năm 1992.
+ Ðiều 51 Hiến pháp (sửa đổi) đã nâng cao và diễn đạt súc tích những nội dung liên quan
trong các Ðiều 16, 17, 18, 19 của Hiến pháp năm 1992, như: "1. Nền kinh tế Việt Nam là
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với nhiều hình thức sở hữu, nhiều
thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Các thành phần kinh tế đều là
bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. 2. Các chủ thể thuộc các thành
phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật...".
 Ngắn gọn mà hết sức rõ ràng, dễ hiểu, dễ nhớ, bởi vì những diễn giải không cần thiết
như liệt kê các thành phần kinh tế, các bộ phận hợp thành kinh tế nhà nước đã được
loại bỏ. Ðặc biệt là so với Ðiều 19 Hiến pháp năm 1992, những đổi mới căn bản đã
được khẳng định minh bạch, nhất quán lâu dài, đó là: các chủ thể thuộc các thành
phần kinh tế hoàn toàn bình đẳng, dù là quốc doanh hay dân doanh, không đồng nhất
kinh tế nhà nước với quốc doanh hay doanh nghiệp nhà nước.
+ Không có diễn giải riêng về cấu thành kinh tế nhà nước (giữ vai trò chủ đạo) nhưng nội
hàm của nó cũng đã khá rõ trong các Ðiều 53, 54, 55 (về đất đai, tài nguyên, nguồn lợi ở
vùng biển, vùng trời, tài sản công, ngân sách nhà nước, dự trữ quốc gia, quỹ tài chính nhà
nước... do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý). Ðó chính là sự khái quát
đúng mức và độ mở hợp lý của đạo luật cơ bản.
+ 8 điều về Chế độ kinh tế trong Hiến pháp (sửa đổi) không chỉ nêu rõ các quyền mà còn
hiến định trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân đối với tài sản, tài nguyên, các nguồn lực
vật chất trong nền kinh tế quốc dân. Cụ thể là: Ngân sách nhà nước, dự trữ quốc gia, quỹ
tài chính nhà nước và các nguồn tài chính công khác do Nhà nước thống nhất quản lý và
phải được sử dụng hiệu quả, công bằng, công khai, minh bạch, đúng pháp luật. Các
khoản thu, chi ngân sách nhà nước phải được dự toán và do luật định. Nhà nước bảo đảm
ổn định giá trị đồng tiền quốc gia.Các cơ quan, tổ chức, cá nhân phải thực hành tiết kiệm,
chống lãng phí, phòng, chống tham nhũng trong hoạt động kinh tế - xã hội và quản lý nhà
nước.
 Như vậy, những thay đổi mới về chế độ kinh tế trong Hiến pháp 2013 là nhân tố quan

trọng góp phần làm cho quan hệ sản xuất phát huy vai trò mở đường cho lực lượng

sản xuất phát triển nhanh và bền vững hơn trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công
cuộc đổi mới đất nước và chủ động hội nhập quốc tế.
18


LUẬT HIẾN PHÁP VIỆT NAM – PHÂN TÍCH THEO CHỦ ĐỀ June 27, 2014
KẾT LUẬN
Lĩnh vực kinh tế thường không được quy định trong Hiến pháp của các nước phát triển. Lý do
căn bản chính là Hiến pháp khi ra đời là một trong những thành tố khẳng định sự tự do của con
người thoát khỏi sự chuyên chế của nhà nước phong kiến, với chủ nghĩa tư bản tự do: Nhà nước
không can thiệp vào kinh tế. Mọi hoạt động kinh tế do thị trường điều tiết (bàn tay vô hình). Mặc
dù trong lĩnh vực kinh tế thị trường vận hành tốt hơn Nhà nước, nhưng cũng có những hoạt động
khác của kinh tế đòi hỏi phải có sự liên quan đến nhà nước. Không có những nền tảng lý thuyết
kinh tế nào ủng hộ chính sách tự do kinh doanh thuần túy. Không một nền kinh tế nào hoạt động
hiệu quả nếu như không có Nhà nước đóng một vai trò thích hợp.
Vì vậy, là một đạo luật cơ bản của một quốc gia, Hiến pháp cũng phải ít nhiều có quy định về
chế độ kinh tế. Qua 4 bản hiến pháp và 2 lần sửa đổi Hiến pháp 1992 (Hiến pháp 1992 được sửa
đổi,bổ sung vào 2001 và 2013), chế độ kinh tế của Việt Nam đã trải qua nhiều giai đoạn với
những nét đặc thù riêng gắn liền với quá trình phát triển, xây dựng và hoàn thiện đất nước, con
người Việt Nam, đóng một vai trò quan trọng trong công cuộc đổi mới đất nước.

19



×