Tải bản đầy đủ (.doc) (116 trang)

Hợp tác văn hóa, giáo dục và y tế giữa các tỉnh Xiêng Khoảng, Bôlykhămxay của Lào với Nghệ An của Việt Nam từ năm 1976 đến năm 2012

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.44 MB, 116 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGÔ THỊ THU HIỀN

HỢP TÁC VĂN HÓA GIÁO DỤC VÀ Y TẾ GIỮA CÁC
TĨNH XIÊNG KHOẢNG, BÔLYKHĂMXAY CỦA LÀO
VỚI NGHỆ AN CỦA VIỆT NAM TỪ NĂM
1976 ĐẾN NĂM 2012

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ

NGHỆ AN - 2013


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGÔ THỊ THU HIỀN

HỢP TÁC VĂN HÓA GIÁO DỤC VÀ Y TẾ GIỮA CÁC
TĨNH XIÊNG KHOẢNG, BÔLYKHĂMXAY CỦA LÀO
VỚI NGHỆ AN CỦA VIỆT NAM TỪ NĂM
1976 ĐẾN NĂM 2012
Chuyên ngành: Lịch sử thế giới
Mã số: 60.22.50

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ

Người hướng dẫn khoa học:


TS. BÙI VĂN HÀO

NGHỆ AN - 2013


LỜI CẢM ƠN
Xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc TS. Bùi Văn Hào, người
đã trực tiếp hướng dẫn khoa học tác giả trong quá trình thực hiện luận văn.
Xin tỏ lòng biết ơn các thầy, cô giáo trong khoa Lịch sử, khoa Đào tạo
Sau đại học và cán bộ Trung tâm Thông tin - Thư viện Nguyễn Thúc Hào,
trường Đại học Vinh đã nhiệt tình giảng dạy, giúp đỡ tác giả trong quá trình
học tập.
Xin chân thành cảm ơn cán bộ Phòng Chính trị, Phòng Lưu trữ UBND
tỉnh Nghệ An và Sở Ngoại vụ, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Sở Giáo dục
và Đào tạo tỉnh Nghệ An đã tạo điều kiện giúp đỡ tác giả trong quá trình khai
thác tư liệu.
Xin gửi tới người thân và bạn bè lòng biết ơn sâu sắc vì đã hết lòng
động viên, chia sẽ cho tác giả trong suốt quá trình học tập.
Nghệ An, tháng 10 năm 2013
Tác giả

Ngô Thị Thu Hiền


MỤC LỤC
Trang
...............................................................................................................................7
...............................................................................................................................7
MỞĐẦU.................................................................................................................8
1. Lý do chọn đề tài.........................................................................................8

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.........................................................................10
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu..........................................................16
5. Phương pháp nghiên cứu...........................................................................17
6. Đóng góp của luận văn..............................................................................17
7. Cấu trúc của luận văn................................................................................17
Chương 1 CƠSỞHỢP TÁC VĂN HÓA, GIÁO DỤC VÀ Y TẾ GIỮA CÁC TỈNH
XIÊNG KHOẢNG, BÔLYKHĂMXAY CỦA LÀO VỚI NGHỆAN CỦA VIỆT
NAM...................................................................................................................18
1.1. Cơ sở địa - chính trị, kinh tế và văn hoá...............................................18
1.1.1. Cơ sở địa - chính trị, kinh tế...........................................................18
1.1.2. Cơ sở văn hoá..................................................................................23
1.2. Truyền thống lịch sử...............................................................................28
1.2.1. Quan hệ giữa hai khu vực trước năm 1945....................................28
1.2.2. Quan hệ giữa hai khu vực từ năm 1945 đến năm 1975.................31
Tiểu kết chương 1...........................................................................................39
Chương 2 HỢP TÁC VĂN HÓA, GIÁO DỤC VÀ Y TẾGIỮA CÁC TỈNH XIÊNG
KHOẢNG, BÔLYKHĂMXAY CỦA LÀO VỚI NGHỆAN CỦA VIỆT NAM TỪ
NĂM 1976 ĐẾN NĂM 2012................................................................................41
2.1. Quan hệ hợp tác văn hóa, giáo dục và y tế giữa các tỉnh Xiêng
Khoảng, Bôlykhămxay với Nghệ Tĩnh từ năm 1976 đến năm 1990...........41
2.1.1. Bối cảnh và đặc điểm tình hình.....................................................41
2.1.2. Hợp tác trong lĩnh vực văn hóa.......................................................44
2.1.3. Hợp tác trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo.....................................47
2.1.4. Hợp tác trong lĩnh vực y tế và công tác xã hội nhân đạo..............53
2.2. Hợp tác văn hóa, giáo dục, y tế giữa các tỉnh Xiêng Khoảng,
Bôlykhămxay với Nghệ An từ năm 1991 đến năm 2012.............................58
2.2.1. Những nhân tố mới tác động đến quan hệ hợp tác văn hóa, giáo
dục, y tế giữa hai khu vực..........................................................................58
2.2.2. Hợp tác trong lĩnh vực văn hoá......................................................61
2.2.3. Hợp tác trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo.....................................64

2.2.4. Hợp tác trong lĩnh vực y tế và công tác xã hội nhân đạo..............67
Tiểu kết chương 2...........................................................................................72
Chương 3 NHẬN XÉT VỀHỢP TÁC VĂN HÓA, GIÁO DỤC VÀ Y TẾGIỮA CÁC
TỈNH XIÊNG KHOẢNG, BÔLYKHĂMXAY CỦA LÀO VỚI NGHỆAN CỦA
VIỆT NAM TỪNĂM 1976 ĐẾN NĂM 2012.......................................................73
3.1. Những thành tựu, hạn chế......................................................................73
3.1.1. Những thành tựu nổi bật..................................................................73
3.1.2. Một số tồn tại và hạn chế................................................................78
3.2. Phương thức và đặc điểm của quan hệ giữa hai khu vực từ năm 1976
đến năm 2012.................................................................................................81
3.2.1. Phương thức.....................................................................................81
3.2.2. Đặc điểm..........................................................................................83
3.3. Những khó khăn, triển vọng và bài học kinh nghiệm...........................88


5
3.3.1. Những khó khăn, thách thức và triển vọng....................................88
3.3.2. Một số bài học kinh nghiệm...........................................................92
KẾT LUẬN..........................................................................................................95
TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................100
PHỤ LỤC..........................................................................................................113
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BCHTƯ

:

Ban chấp hành Trung ương

CHDCND


:

Cộng hòa dân chủ nhân dân

CHXHCN

:

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

CNXH

:

Chủ nghĩa xã hội

ĐVBQ

:

Đơn vị bảo quản

KHXH

:

Khoa học Xã hội

UBCQ


:

Ủy ban chính quyền

UBND

:

Ủy ban nhân dân

UBKHXH

:

Ủy ban Khoa học Xã hội

UBKHXHQG :

Ủy ban Khoa học xã hội Quốc gia

VIETTEL

:

Tập đoàn Viễn thông quân đội

VNPT

:


Tập đoàn Bưu chính viễn thông Việt Nam


DANH MỤC PHỤ LỤC
I. BẢN ĐỒ VÀ TRANH ẢNH MINH HỌA
1. Bản đồ hành chính các tỉnh Xiêng Khoảng, Bôlykhămxay của Lào và tỉnh
Nghệ An của Việt Nam
2. Chủ tịch UBND tỉnh Nghệ An Phan Đình Trạc và Bí thư kiêm Tỉnh trưởng
tỉnh Bôlykhămxay Khampane Phivavong cùng Đoàn đại biểu tỉnh Nghệ
An chụp ảnh lưu niệm.
3. Lãnh đạo tỉnh Nghệ An và tỉnh Xiêng Khoảng chứng kiến lễ ký Biên bản
hữu nghị hợp tác (tháng 6/2006).
4. Nhân dân huyện Kỳ Sơn - Nghệ An đón đoàn xe chở hài cốt liệt sỹ hy
sinh tại Xiêng Khoảng về đất Mẹ.
5. Lễ trao Huân chương của Nhà nước Lào tặng các cựu quân tình nguyện
và chuyên gia Nghệ An giúp cách mạng Lào 1945 - 1975.
6. Sinh viên Lào đang học tập tại trường Đại học Vinh - Nghệ An.
II. MỘT SỐ TƯ LIỆU LIÊN QUAN ĐẾN NỘI DUNG CỦA LUẬN
ÁN
1. Biên bản ghi nhớ kết quả làm việc giữa Đoàn đại biểu Sở Du lịch tỉnh
Xiêng Khoảng - CHDCND Lào và Đoàn đại biểu Sở Văn hóa, Thể thao
và Du lịch tỉnh Nghệ An - CHXHCN Việt Nam, ngày 13/7/2011.
2. Nghị quyết của Ban thường vụ Tỉnh ủy về phát triển du lịch Nghệ An giai
đoạn 2011 - 2020 .
3. Đề án Tổ chức giao lưu văn hóa, thể thao và du lịch vùng biên giới Việt Lào năm 2012 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.



8
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Trải qua quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước, mối quan hệ giữa Lào
và Việt Nam ngày càng gắn bó, cho đến nay, nó đã trở thành di sản quí báu
của hai dân tộc, biểu tượng mẫu mực về quan hệ giữa hai nước láng giềng.
Cùng với sự phát triển của quan hệ giữa Lào với Việt Nam qua các
thời kỳ lịch sử, các tỉnh Xiêng Khoảng, Bôlykhămxay và Nghệ An không
ngừng đẩy mạnh quan hệ hợp tác về mọi mặt. Từ quan hệ “láng giềng thân
thiện” trong buổi đầu lịch sử, “tình đoàn kết đặc biệt, liên minh chiến đấu”
trong các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, “quan hệ
hữu nghị và hợp tác” trong những năm đầu của sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc, hai bên không ngừng tăng cường “quan hệ hữu nghị đặc biệt,
hợp tác toàn diện” trên tất cả các lĩnh vực, từ chính trị, quốc phòng - an
ninh, kinh tế cho đến văn hóa, giáo dục và y tế trong thời kỳ hai nước xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Các tỉnh Xiêng Khoảng, Bôlykhămxay của Lào và Nghệ An của Việt
Nam gần gũi nhau về địa lý, có nhiều điểm tương đồng về tự nhiên, văn hoá xã hội. Trong các cuộc đấu tranh chống ngoại xâm cũng như trong sự nghiệp
xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, quan hệ giữa hai bên luôn giữ vị trí quan trọng và
có tác động to lớn đến tình hình của Việt Nam, Lào cũng như quan hệ giữa hai
nước. Từ khi Việt Nam và Lào hòa bình, độc lập và thống nhất, song song với
việc tăng cường quan hệ trong lĩnh vực chính trị, quốc phòng - an ninh, kinh tế,
các tỉnh Xiêng Khoảng, Bôlykhămxay và Nghệ An đã chú trọng đẩy mạnh hợp
tác văn hóa, giáo dục và y tế. Những thành tựu hợp tác giữa hai bên trong lĩnh
vực này đã góp phần quan trọng nâng cao đời sống tinh thần và sức khỏe của
người dân và góp phần thúc đẩy quan hệ đặc biệt giữa hai nước phát triển.


9
Hiện nay, trong bối cảnh tình hình thế giới cũng như hai nước có nhiều
biến đổi; quá trình toàn cầu hoá diễn ra ngày càng sâu sắc; Lào - Việt Nam đã
và đang giành được những thắng lợi quan trọng trong sự nghiệp đổi mới; quan

hệ hợp tác giữa hai nước không ngừng được củng cố và tăng cường về mọi
mặt, hợp tác văn hóa, giáo dục và y tế giữa các tỉnh Xiêng Khoảng,
Bôlykhămxay với Nghệ An đang có nhiều cơ hội và thuận lợi. Tuy nhiên, quan
hệ giữa hai bên cũng đang phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức. Vì
vậy, đi sâu nghiên cứu cơ sở, thực trạng cũng như những thành tựu và hạn chế
trong quan hệ hợp tác văn hóa, giáo dục và y tế giữa các tỉnh Xiêng Khoảng,
Bôlykhămxay của Lào với Nghệ An của Việt Nam trong thời kỳ hai nước xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, để trên cơ sở đó rút ra những bài học kinh nghiệm
nhằm góp phần tăng cường quan hệ giữa hai bên trong các giai đoạn tiếp theo,
là yêu cầu cần thiết cả về phương diện lý luận lẫn thực tiễn.
1.1. Ý nghĩa khoa học
Nghiên cứu quan hệ hợp tác trong lĩnh vực văn hóa, giáo dục và y tế giữa
các tỉnh Xiêng Khoảng, Bôlykhămxay của Lào với Nghệ An của Việt Nam từ
năm 1976 đến năm 2012 không chỉ góp phần làm sáng tỏ những nội dung quan
trọng trong quan hệ hợp tác giữa hai bên, mà còn bổ sung thêm những tư liệu
mới về quan hệ hợp tác giữa hai nước trong giai đoạn cách mạng mới.
1.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đi sâu tìm hiểu quan hệ hợp tác trong lĩnh vực văn hóa, giáo dục và y
tế giữa các tỉnh Xiêng Khoảng, Bôlykhămxay của Lào với tỉnh Nghệ An của
Việt Nam từ năm 1976 đến năm 2012 góp phần “giúp các tầng lớp nhân dân,
nhất là thế hệ trẻ, nhận thức sâu sắc về mối quan hệ đoàn kết đặc biệt và sự
hợp tác toàn diện giữa hai nước”, qua đó, khẳng định sự cần thiết và ý nghĩa
to lớn của việc củng cố, tăng cường quan hệ hợp tác về mọi mặt giữa hai bên
trong giai đoạn hiện nay cũng như các giai đoạn tiếp theo.


10
Lãnh đạo các tỉnh Xiêng Khoảng, Bôlykhămxay của Lào và Nghệ An
của Việt Nam có thể tham khảo tư liệu và các kết luận của đề tài để hoạch
định chiến lược hợp tác văn hóa, giáo dục và y tế giữa các tỉnh trong các giai

đoạn tiếp theo.
Các nhà nghiên cứu, giáo viên và học sinh, sinh viên có thể khai thác tư
liệu trong đề tài để nghiên cứu, giảng dạy và học tập lịch sử địa phương.
Xuất phát từ ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn nêu trên, chúng tôi
chọn vấn đề “Hợp tác văn hóa, giáo dục và y tế giữa các tỉnh Xiêng
Khoảng, Bôlykhămxay của Lào với Nghệ An của Việt Nam từ năm 1976
đến năm 2012” làm đề tài luận văn.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Quan hệ hợp tác văn hóa, giáo dục và y tế giữa các tỉnh Xiêng Khoảng,
Bôlykhămxay của Lào với Nghệ An của Việt Nam trong những năm từ 1976
đến 2012, đã được đề cập đến trong một số công trình nghiên cứu và bài viết
về quan hệ giữa hai nước cũng như hai khu vực.
2.1. Các công trình nghiên cứu, bài viết về quan hệ giữa hai nước đề
cập đến hợp tác văn hóa, giáo dục và y tế của các tỉnh Xiêng Khoảng,
Bôlykhămxay của Lào với Nghệ An của Việt Nam
Quan hệ Lào - Việt, Việt - Lào là vấn đề được các nhà lãnh đạo, các
tướng lĩnh tiền bối cũng như hiện nay của Lào và Việt Nam hết sức quan tâm.
Trong các tác phẩm: “25 năm chiến đấu và thắng lợi của Đảng Nhân
dân Cách mạng Lào”, Chủ tịch Cayxỏn Phômvihản đã đề cập nhiều vấn đề
liên quan đến quan hệ Lào - Việt trong cách mạng dân tộc dân chủ và trong
những năm đầu của công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, qua đó khẳng định
từ quan hệ chính trị, an ninh - quốc phòng, kinh tế, văn hóa Lào - Việt là một
trong những yếu tố quan trọng để cách mạng hai nước đi từ thắng lợi này đến
thắng lợi khác.


11
Từ thực tiễn cách mạng của hai nước qua các thời kỳ lịch sử, Chủ tịch
Khămtày Xiphănđon đã có bài: “Tình đoàn kết đặc biệt, sự hợp tác toàn diện
và liên minh chiến đấu Lào - Việt Nam trong thời kỳ cách mạng mới” [57].

Bài viết chỉ ra rằng, tình đoàn kết đặc biệt, sự hợp tác toàn diện Lào - Việt
Nam là tài sản quí báu của hai dân tộc và là nhân tố quan trọng làm nên
những thắng lợi của hai nước trong sự nghiệp giải phóng dân tộc cũng như
trong công cuộc xây dựng, bảo vệ đất nước.
Bài viết “Mãi mãi trân trọng mối quan hệ chí cốt có ý nghĩa chiến lược
Việt - Lào” [62; tr3 - 5] của Tổng Bí thư Đỗ Mười đã phân tích ý nghĩa, tầm
quan trọng của quan hệ đặc biệt Việt - Lào trong sự nghiệp giải phóng dân tộc
cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhất là trong thời kỳ
hai nước đang tiến hành sự nghiệp đổi mới.
Các bài viết đăng trong Đặc san Việt Nam - Thế giới (Số đặc biệt kỷ
niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao và 35 năm quan hệ hữu nghị, hợp
tác toàn diện giữa hai nước Việt nam - Lào): “Tăng cường hợp tác toàn diện,
đưa quan hệ Việt - Lào lên tầm cao mới” của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh
Hùng; “Nâng cao chất lượng trong mỗi chương trình hợp tác” của Phó Thủ
tướng Nguyễn Thiện Nhân; “Hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật
ngày càng đạt kết quả cao” của Phó thủ tướng Lào Somsavad Lengsavad;
“Việt Nam: Địa chỉ đào tạo tin cậy của Lào” của Bộ trưởng Bộ Giáo dục Lào
Somkot Mangnomek, sau khi điểm lại những thành tựu cơ bản của quan hệ
hợp tác toàn diện giữa hai nước, đã nêu lên phương hướng và một số biện
pháp nhằm nâng cao hiệu quả hợp tác văn hóa, giáo dục và y tế giữa Lào với
Việt Nam cũng như các địa phương của hai nước.
Quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện Lào - Việt Nam từ năm 1976 đến
nay đã được trình bày và phân tích khá toàn diện trong các công trình nghiên
cứu: “Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào (1930 - 2007)”[1] của Ban chỉ


12
đạo nghiên cứu biên soạn lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào (1930 2007) và Ban chỉ đạo nghiên cứu biên tập lịch sử quan hệ đặc biệt Lào - Việt
Nam (1930 - 2007); “Quan hệ đặc biệt, hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào
trong giai đoạn 1954 - 2000” của Lê Đình Chỉnh [34]; “Quan hệ Việt Nam Lào từ 1975 đến 2005” của Nguyễn Thị Phương Nam [63] và một số bài viết

khác. Trong khi phân tích quan hệ hợp tác toàn diện giữa hai nước, các tác giả
đã ít nhiều đề cập đến quan hệ hợp tác về văn hóa, giáo dục và y tế giữa các
tỉnh Xiêng Khoảng, Bôlykhămxay của Lào với Nghệ An của Việt Nam.
Bên cạnh các công trình và bài viết đã được công bố trong các sách,
báo, tạp chí, nhiều cuộc hội thảo khoa học về quan hệ Lào - Viêt, Việt - Lào
đã được tổ chức.
Các hội thảo khoa học: “Quan hệ Việt - Lào, Lào - Việt” do trường Đại
học Tổng Hợp Hà Nội chủ trì năm 1991 và năm 1993 [69]; “Tình đoàn kết
đặc biệt Việt - Lào” do Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam tổ chức năm 1995
[121]; Hội thảo khoa học Quốc gia “40 năm quan hệ Việt Nam - Lào: Nhìn
lại và Triển vọng” do Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia
phối hợp với UBND tỉnh Nghệ An tổ chức tại Thành phố Vinh, tháng 8 2002 [88] và Hội thảo Quốc tế “Tình đoàn kết đặc biệt, liên minh chiến đấu
và sự hợp tác toàn diện giữa Việt Nam và Lào” do UBKHXH Việt Nam và
UBKHXHQG Lào tổ chức tại Thủ đô Viêng Chăn, tháng 6 - 2007 [119]
không những góp phần làm nổi rõ những thành tựu cũng như hạn chế trong
quan hệ hợp tác toàn diện giữa hai nước từ năm 1976 đến nay, mà còn đi sâu
phân tích tác động của tình hình thế giới và khu vực Đông Nam Á đối với
quan hệ giữa hai nước cũng như giữa các địa phương của hai nước. Nhiều bài
viết đã đưa ra các giải pháp nhằm củng cố và tăng cường quan hệ hai bên
trong các giai đoạn tiếp theo.
Tại Hội thảo khoa học “40 năm quan hệ Việt Nam - Lào: Nhìn lại và
Triển vọng”, các báo cáo của Phạm Nguyên Long, Khămkeung Kanhavong,


13
Vũ Công Quí… đã đề cập đến quan hệ hợp tác toàn diện giữa hai nước; các
báo cáo của Ananay Vilaihang, Trương Duy Hòa, Phạm Đức Dương, Trương
Sĩ Hùng, Nguyễn Lệ Thi… đã đi sâu tìm hiểu quan hệ văn hóa, giáo dục - đào
tạo và các lĩnh vực khác giữa hai nước cũng như các địa phương của hai nước.
Các báo cáo của Trần Đức Cường, Hiêm Phôm Mạ Chăn, Trương Duy

Hòa - Nguyễn Hào Hùng, Bua Ban Vo Lạ Khủn, Ly Tu Bua Pao, On Kẹo
Phôm Mạ Kon… trong phần II của Hội thảo Quốc tế “Tình đoàn kết đặc biệt,
liên minh chiến đấu và sự hợp tác toàn diện giữa Việt Nam và Lào” [119] đã
đi sâu phân tích quan hệ hợp tác văn hóa, giáo dục giữa hai nước và một số
địa phương của hai nước.
2.2. Các bài viết, công trình nghiên cứu đề cập trực tiếp đến hợp tác
văn hóa, giáo dục và y tế giữa các tỉnh Xiêng Khoảng, Bôlykhămxay của
Lào với Nghệ An của Việt Nam
Đề cập trực tiếp đến quan hệ hợp tác văn hóa, giáo dục và y tế giữa các
tỉnh Xiêng Khoảng, Bôlykhămxay của Lào với Nghệ An của Việt Nam có
một số công trình nghiên cứu và một số bài viết đăng trên các báo, tạp chí và
kỷ yếu của các cuộc hội thảo khoa học Lào - Việt, Việt - Lào.
Về mối quan hệ giữa hai khu vực trong thời kỳ cổ trung đại, có các bài
viết: “Những di tích ở Nghệ An - Hà Tĩnh liên quan đến quan hệ Việt Nam Lào” của Nguyễn Quế Phương [88]; “Mối quan hệ Việt Nam - Lào ở vùng
biên giới Việt - Lào qua nghề dệt thổ cẩm truyền thống của người Thái ở phía
Tây Nghệ An” của Nguyễn Lệ Thi [88]... Thông qua tìm hiểu các di tích lịch
sử, ngành nghề truyền thống, phong tục tập quán sinh hoạt còn được lưu giữ
trong nhân dân, các tác giả khẳng định sự tiếp thu và chịu ảnh hưởng lẫn nhau
giữa cư dân của hai khu vực diễn ra từ rất sớm và liên tục.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954), quan
hệ giữa hai khu vực được đề cập trong: “Mối quan hệ giữa Thanh - Nghệ Tĩnh với Lào trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 -


14
1954)” của Ngô Đăng Tri [85]. Mặc dù chủ yếu đi sâu tìm hiểu sự phối hợp
chiến đấu, song tác giả đã bước đầu đề cập đến quan hệ kinh tế, văn hoá, giáo
dục giữa hai khu vực.
Quan hệ song phương giữa các tỉnh Xiêng Khoảng, Bôlykhămxay của
Lào với Nghệ An của Việt Nam trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
được đề cập đến trong một số bài viết của các vị lãnh đạo các tỉnh thuộc hai

khu vực.
Trên cơ sở phân tích những thành tựu nổi bật của quan hệ hợp tác giữa
tỉnh Nghệ An với một số tỉnh của Lào trong hai cuộc kháng chiến chống ngoại
xâm và trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, Phan Đình Trạc trong bài
viết “Nghệ An kề vai sát cánh với các địa phương Lào” [123; tr142 - 144] đã
khẳng định: “Cùng với nhân dân cả nước, nhân dân Nghệ An tự hào đã và đang
góp phần đáng kể vào mối quan hệ hữu nghị đặc biệt, tình đoàn kết chiến đấu
và sự hợp tác toàn diện giữa nhân dân hai nước Việt Nam - Lào”.
Thông qua phân tích đặc điểm tình hình và những thành tựu, hạn chế của
quan hệ hợp tác giữa tỉnh Bôlykhămxay với Nghệ An trong thời kỳ đổi mới, tác
giả Khampane Phivavông trong bài viết: “Có nhiều tiềm năng để hợp tác” [123;
tr146 - 147] đã kết luận: “Tuy quan hệ giữa Bôlykhămxay và Nghệ An thời gian
qua đã đạt được những kết quả khả quan, song hai bên cần quan tâm hơn nữa về
phương pháp, hình thức và cơ chế hợp tác. Đặc biệt, hợp tác kinh tế, văn hóa và
giáo dục còn hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng của hai bên”.
Bài viết của Nguyễn Văn Hành: “Quan hệ giữa tỉnh Nghệ An của Việt
Nam với một số tỉnh của Lào là bằng chứng sinh động nhằm phát triển tình
đoàn kết và sự hợp tác toàn diện giữa hai nước” [119; tr436 - 448] đã điểm
lại những thành tựu quan trọng trong quan hệ hợp tác giữa Nghệ An với một
số tỉnh của Lào trong thời kỳ đổi mới, đồng thời đi sâu phân tích những điều
kiện chủ quan và khách quan để hai bên tiếp tục đẩy mạnh quan hệ hợp tác
trong các giai đoạn tiếp theo.


15
Đề cập trực tiếp đến quan hệ song phương giữa các tỉnh Xiêng Khoảng,
Bôlykhămxay của Lào với Nghệ An của Việt Nam là các công trình và bài
viết của tác giả Bùi Văn Hào. Trong luận án Tiến sĩ: “Quan hệ giữa các tỉnh
Hủa phăn, Xiêng Khoảng, Bôlykhămxay, Khăm Muộn với Nghệ An, Hà Tĩnh
của Việt Nam từ năm 1976 đến năm 2007” [46], cũng như trong Đề tài cấp

Bộ “Quan hệ hợp tác giữa Nghệ An với một số tỉnh của Lào từ năm 1986 đến
năm 2009” [48] và một số bài viết đăng trên Nghiên cứu Đông Nam Á, tác
giả đã đề cập khá nhiều đến thành tựu và hạn chế trong quan hệ văn hóa, giáo
dục và y tế giữa Nghệ An với các tỉnh của Lào.
Nhìn chung, các tác giả đều cho rằng tuy trong quá trình thực hiện hợp
tác còn có một số hạn chế, nhưng quan hệ song phương giữa các tỉnh thuộc
hai khu vực đã đạt được nhiều thành tựu có ý nghĩa, vừa tạo điều kiện để phát
triển văn hoá, giáo dục, y tế của hai bên, vừa góp phần vào việc củng cố và
tăng cường quan hệ hai nước. Hầu hết các tác giả đều khẳng định quan hệ hợp
tác văn hóa, giáo dục và y tế giữa hai bên là nhu cầu khách quan và phù hợp
với qui luật phát triển của thời đại.
Ngoài ra, đề cập đến quan hệ song phương giữa các tỉnh thuộc hai khu
vực còn có các công trình: “Lịch sử Đảng bộ Nghệ An” của Ban nghiên cứu
lịch sử Đảng tỉnh Nghệ An [58]; “Biên niên sự kiện Hợp tác và Hữu nghị
Nghệ An - Xiêng Khoảng” của Trần Kim Đôn [43], …
Như vậy, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn
diện, có hệ thống cơ sở, thực trạng, những thành tựu, hạn chế và bài học kinh
nghiệm mối quan hệ hợp tác văn hóa, giáo dục và y tế giữa các tỉnh Xiêng
Khoảng, Bôlykhămxay của Lào với Nghệ An của Việt Nam trong những năm
từ 1976 đến 2012. Để góp phần làm rõ những nội dung trên, chúng tôi chọn
vấn đề "Hợp tác văn hóa, giáo dục và y tế giữa các tỉnh Xiêng Khoảng,
Bôlykhămxay của Lào với Nghệ An của Việt Nam từ năm từ 1976 đến năm
2012" làm đề tài luận văn.


16
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quan hệ hợp tác trong lĩnh vực
văn hóa, giáo dục và y tế giữa các tỉnh Xiêng Khoảng, Bôlykhămxay của Lào

với Nghệ An của Việt Nam từ năm 1976 đến năm 2012.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu quan hệ giữa hai khu vực từ
năm 1976 đến năm 2012. (Tức là kể từ khi Lào và Việt Nam ký Hiệp ước
Hữu nghị và Hợp tác toàn diện Lào - Việt Nam đến Kỷ niệm 50 năm ngày hai
nước thiết lập quan hệ ngoại giao và 35 năm ngày ký Hiệp ước Hữu nghị và
Hợp tác toàn diện).
- Không gian: Luận văn tập trung nghiên cứu quan hệ giữa 2 tỉnh của
Lào là Xiêng Khoảng, Bôlykhămxay (đây là hai tỉnh vừa tiếp giáp, vừa có
quan hệ khăng khít với Nghệ An) với 1 tỉnh của Việt Nam là Nghệ An.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn tập trung phân tích cơ sở hợp tác văn hóa, giáo dục và y tế
giữa các tỉnh Xiêng Khoảng, Bôlykhămxay của Lào với Nghệ An của Việt
Nam, đồng thời làm nổi bật những nội dung quan trọng nhất, những khía cạnh
sâu sắc nhất của quá trình hợp tác giữa hai bên trong lĩnh vực này từ năm
1976 đến năm 2012, từ đó rút ra một số bài học kinh nghiệm nhằm góp phần
tăng cường quan hệ giữa hai khu vực cũng như hai nước trong các giai đoạn
tiếp theo.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích cơ sở hợp tác văn hóa, giáo dục và y tế giữa các tỉnh Xiêng
Khoảng, Bôlykhămxay của Lào với Nghệ An của Việt Nam
- Hệ thống hoá thực trạng quan hệ hợp tác văn hóa, giáo dục và y tế
giữa hai khu vực từ năm 1976 đến năm 2012.


17
- Đánh giá những thành tựu, hạn chế và rút ra những bài học kinh
nghiệm nhằm tăng cường hợp tác văn hóa, giáo dục và y tế giữa các tỉnh
Xiêng Khoảng, Bôlykhămxay của Lào với Nghệ An của Việt Nam trong các

giai đoạn tiếp theo.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp logic,
kết hợp với một số phương pháp khác như: thống kê, so sánh, phân tích, tổng
hợp, điền dã … để giải quyết các vấn đề liên quan đến nội dung đề tài.
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn bước đầu hệ thống hoá quan hệ hợp tác trong lĩnh vực văn
hóa, giáo dục và y tế giữa các tỉnh Xiêng Khoảng, Bôlykhămxay với tỉnh
Nghệ An từ năm 1976 đến năm 2012.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn góp thêm tư liệu về mối quan hệ đặc
biệt Lào - Việt Nam trong thời kỳ hai nước thực hiện đường lối đổi mới.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấp thêm những cơ
sở thực tiễn và có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong việc hoạch định
đường lối chiến lược hợp tác giữa hai khu vực trong các giai đoạn tiếp theo.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung
của luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở hợp tác văn hóa, giáo dục và y tế giữa các tỉnh Xiêng
Khoảng, Bôlykhămxay của Lào với Nghệ An của Việt Nam
Chương 2: Hợp tác văn hóa, giáo dục và y tế giữa các tỉnh Xiêng
Khoảng, Bôlykhămxay của Lào với Nghệ An của Việt Nam từ năm 1976 đến
năm 2012.
Chương 3: Nhận xét về hợp tác văn hóa, giáo dục và y tế giữa các tỉnh
Xiêng Khoảng, Bôlykhămxay của Lào với Nghệ An của Việt Nam


18
Chương 1
CƠ SỞ HỢP TÁC VĂN HÓA, GIÁO DỤC VÀ Y TẾ
GIỮA CÁC TỈNH XIÊNG KHOẢNG, BÔLYKHĂMXAY CỦA LÀO

VỚI NGHỆ AN CỦA VIỆT NAM
1.1. Cơ sở địa - chính trị, kinh tế và văn hoá
1.1.1. Cơ sở địa - chính trị, kinh tế
Các tỉnh Xiêng Khoảng, Bôlykhămxay của Lào có vị trí địa lý liền kề
với Nghệ An của Việt Nam. Giữa hai khu vực có chung 419 km đường biên
giới (chiếm gần 1/5 chiều dài đường biên giới Lào - Việt Nam).
Tỉnh Xiêng Khoảng thuộc khu vực Đông - Bắc Lào, phía Tây giáp tỉnh
Luông Phrabăng, phía Tây - Nam giáp Viêng Chăn, phía Nam giáp tỉnh
Bôlykhămxay, phía Đông giáp Nghệ An của Việt Nam (có chung 136 km
đường biên giới với Nghệ An). Tỉnh Xiêng Khoảng có 9 huyện thị: Noọng
Hét (Nonghed), Mường Khăm (Kham), Mường Pẹc (Pek), Phu Cút
(Phookood), Mường Khun (Khoune), Mường Moọc (Morkmay), Phạ Xay
(Phaxay), Tha Nôm (Thanoom) và thị xã Phôn Xa Vẳn (Phongsavand). Tổng
diện tích đất tự nhiên của tỉnh Xiêng Khoảng là 16.050,5 km 2, trong đó đồi
núi chiếm 90%, chỉ có khoảng 12.000 ha ruộng nước. So với mặt nước biển,
độ cao bình quân của tỉnh Xiêng Khoảng từ 1.500 m đến 1.800m (cao nhất là
đỉnh núi Phu Bia với 2.820 m).
Tiếp giáp phía Nam tỉnh Xiêng Khoảng là Bôlykhămxay. Tỉnh
Bôlykhămxay được thành lập năm 1983 (trên cơ sở nhập một phần của tỉnh
Viêng Chăn với một phần của tỉnh Khăm Muộn). Tỉnh Bôlykhămxay thuộc
khu vực Bắc - Trung Lào, phía Nam giáp Khăm Muộn, phía Tây - Bắc giáp
Viêng Chăn, phía Tây - Nam giáp tỉnh Nakhonphanôm của Thái Lan và phía
Đông giáp Nghệ An, Hà Tĩnh của Việt Nam. Tỉnh Bôlykhămxay có 6 huyện


19
thị: Bô Ly Khăm (Bolikhanh); Khăm Cớt (Khamkheuth); Pạc Xế (Paksane);
Pạc Ka Dinh (Pakkading); Tham Ma Sat (Thapabath) và Viêng Thoong
(Viengthong). Trong tổng số 14.863 km 2 đất tự nhiên của tỉnh Bôlykhămxay,
núi và trung du chiếm hơn 2/3 diện tích. Địa hình tỉnh Bôlykhămxay nghiêng

dần theo hướng từ Đông sang Tây, từ dãy Phu Luông (giáp Nghệ An và Hà
Tĩnh của Việt Nam) thấp dần xuống lưu vực sông Mê Công, từ độ cao từ
3000m giảm dần xuống 700m. Bôlykhămxay là một trong những tỉnh của Lào
có đồng bằng tương đối rộng lớn, khá thuận lợi cho việc phát triển kinh tế
nông nghiệp.
Nghệ An thuộc khu vực Bắc Trung bộ của Việt Nam, là láng giềng gần
gũi với các tỉnh Hủa Phăn, Xiêng Khoảng, Bôlykhămxay của Lào.
Tỉnh Nghệ An nằm ở toạ độ từ 18 0 50’ 00’’ đến 190 25’ 00” vĩ độ Bắc và
từ 1020 52’ 53’’ đến 1050 45’ 50’’ kinh độ Đông, phía Bắc giáp Thanh Hoá, phía
Nam giáp Hà Tĩnh, phía Đông giáp biển Đông và phía Tây giáp 3 tỉnh của
Lào là Hủa Phăn, Xiêng Khoảng và Bôlykhămxay. Tỉnh Nghệ An có 20
huyện thị: Kỳ Sơn, Tương Dương, Con Cuông, Quế Phong, Quì Châu, Quì
Hợp, Nghĩa Đàn, Tân Kỳ, Anh Sơn, Đô Lương, Thanh Chương, Nghi Lộc,
Diễn Châu, Yên Thành, Quỳnh Lưu, Nam Đàn, Hưng Nguyên, thị xã Cửa Lò,
thị xã Thái Hoà, thị xã Hoàng Mai và thành phố Vinh. Nghệ An là một trong
những tỉnh có địa hình đa dạng, bị chia cắt bởi nhiều núi, đồi, sông, suối,
nghiêng từ Tây - Bắc xuống Đông - Nam. Trong tổng số 16.487 km 2 đất tự
nhiên, núi và trung du chiếm 83% diện tích của tỉnh.
Nếu như ví phía Bắc của dãy Trường Sơn là một nóc nhà, thì mái phía
Tây là địa phận các tỉnh Xiêng Khoảng, Bôlykhămxay của Lào, còn mái phía
Đông là địa phận Nghệ An của Việt Nam. Không chỉ gần gũi về địa lý, hai
khu vực trên còn có một số điểm tương đồng về tự nhiên. Phần lớn diện tích
đất tự nhiên của hai khu vực là núi và trung du. Núi và trung du chiếm khoảng


20
90% diện tích các tỉnh Xiêng Khoảng, Bôlykhămxay và hơn 80% diện tích
đất tự nhiên của Nghệ An. Hai khu vực đều nằm trong vành đai khí hậu nhiệt
đới, có nhiệt độ trung bình và độ ẩm tương đối cao. Nhiệt độ trung bình hàng
năm của hai khu vực từ 24 oC đến 36oC, độ ẩm khoảng 83% đến 85%. Lượng

mưa trung bình hàng năm khá lớn, của các tỉnh Xiêng Khoảng, Bôlykhămxay
là 1.450mm, của Nghệ An là từ 1.800 đến 2.400mm. Với khí hậu nóng lắm, mưa
nhiều kết hợp với địa hình đồi núi có độ dốc cao, hai khu vực có điều kiện
thuận lợi để phát triển kinh tế nông, lâm nghiệp, nhưng đồng thời phải thường
xuyên đối mặt với thiên tai như hạn hán, bão, lụt và lũ quét… Các tỉnh Xiêng
Khoảng, Bôlykhămxay của Lào và miền Tây Nghệ An đều nằm trong dãy đất
badan hoá, rất thuận lợi để phát triển các loại cây công nghiệp dài ngày như
cà phê, cao su, chè, đồng thời có nhiều khu sinh thái để phát triển du lịch.
Sự gần gũi về địa lý kết hợp với những điểm tương đồng về địa hình,
khí hậu, đất đai giữa hai khu vực là tiền đề để nhân dân các tỉnh Xiêng
Khoảng, Bôlykhămxay của Lào và Nghệ An của Việt Nam sớm xác lập mối
quan hệ “láng giềng thân thiện” trong lao động sản xuất cũng như trong sinh
hoạt tinh thần.
Các tỉnh Xiêng Khoảng, Bôlykhămxay của Lào và Nghệ An của Việt
Nam là những khu vực có nhiều tiềm năng để phát triển văn hóa và du lịch.
Cánh đồng Chum (tỉnh Xiêng Khoảng) vừa là một di tích lịch sử - văn hoá có
giái trị, vừa là khu vực có vị trí chiến lược trong các cuộc đấu tranh bảo vệ
nền độc lập của nhân dân Lào. Cánh đồng Chum được ví như “nóc nhà của
Lào”. Người Lào cho rằng ai làm chủ Cánh đồng Chum thì coi như người ấy
đã cưỡi lên bành voi và làm chủ được nước Lào [43; tr87].
Tỉnh Nghệ An được ví như “điểm giữa của chiếc đòn gánh”, gánh hai
đầu đất nước Việt Nam. Đây là khu vực đất rộng, người đông. Từ Nghệ An có
thể thông thương, đi lại với các tỉnh thành khác của Việt Nam và các nước


21
trên thế giới bằng đường bộ (Quốc lộ 1A và đường Hồ Chí Minh), đường sắt
(đường sắt Bắc - Nam), đường hàng không (Cảng hàng không Vinh), đường
thuỷ (cảng biển Cửa Lò). Với các nước trong khu vực Đông Nam Á lục địa,
nhất là với Lào, từ Nghệ An có thể theo Quốc lộ 7A sang tỉnh Xiêng Khoảng

qua cửa khẩu Quốc tế Nậm Cắn (huyện Noọng Hét) - Nậm Cắn (huyện Kỳ
Sơn), Quốc lộ 8A sang tỉnh Bôlykhămxay qua cửa khẩu Quốc tế Nậm Phao
(huyện Khăm Cớt) - Cầu Treo (huyện Hương Sơn), hoặc các tuyến đường 46,
48 qua các cửa khẩu Quốc gia: Nậm On (huyện Khăm Cớt) - Thanh Thuỷ
(Thanh Chương); Ta Đo (huyện Noọng Hét) - Ta Đo (huyện Kỳ Sơn); Sốp
Pèn (huyện Sầm Tớ) - Thông Thụ (huyện Quế Phong)… và hàng chục con
đường mòn do nhân dân dọc hai bên biên giới tự mở. Mạng lưới giao thông
nối liền hai bên đã khắc phục hạn chế do địa hình tạo ra, góp phần tạo điều
kiện cho sự giao lưu kinh tế cũng như văn hóa và du lịch giữa hai khu vực.
Không chỉ có vị trí địa lý, các tỉnh Xiêng Khoảng, Bôlykhămxay của
Lào và Nghệ An của Việt Nam còn là những khu vực có nhiều tiềm năng, thế
mạnh để phát triển kinh tế, văn hóa và du lịch.
Mặc dù núi và trung du chiếm khoảng 90% diện tích đất tự nhiên,
không thuận lợi trong việc phát triển kinh tế nông nghiệp, nhưng các tỉnh
Xiêng Khoảng, Bôlykhămxay của Lào lại có nguồn tài nguyên, khoáng sản rất
phong phú và tiềm năng lớn về thuỷ năng, du lịch. Các tỉnh này có những
cánh rừng bạt ngàn với nhiều loại gỗ quí như đinh hương, pơ mu, sa mu, lim,
…có thể khai thác hàng triệu m3 gỗ/năm để phục vụ sản xuất, đời sống và
xuất khẩu; có nhiều loại động vật quí hiếm như voi, hổ, sao la… và nhiều loại
dược liệu quí hiếm để chế biến đông dược.
Không chỉ giàu tài nguyên rừng, khu vực này còn có nguồn tài nguyên
khoáng sản rất phong phú. Các mỏ vàng, thiếc, chì… ở Cánh đồng Chum
(tỉnh Xiêng Khoảng), sắt, bô xít, thạch cao, kaly… ở các huyện Tham Ma sát,


22
Khăm Cớt (tỉnh Bôlykhămxay), Hỉn Bun, Bua La Pha (tỉnh Khăm Muộn) là
những tiềm năng to lớn để các tỉnh của Lào phát triển ngành công nghiệp khai
khoáng. Ngoài ra, khu vực này với hệ thống núi đá vôi đã để lại nhiều hang
động có giá trị du lịch.

Hệ thống sông, suối ngắn và dốc của các tỉnh các tỉnh Xiêng Khoảng,
Bôlykhămxay thường gây ra những trận lũ quét nguy hiểm, nhưng mặt khác
lại tạo cho khu vực này tiềm năng lớn để xây dựng các công trình thuỷ điện
và phát triển du lịch. Thượng nguồn sông Cả (tỉnh Xiêng Khoảng) hay các
con sông Nậm Ngạt, Nậm Ngừm, Nậm Mộ... đều có các thác nước với độ dốc
cao, có thể xây dựng các công trình thuỷ điện vừa và nhỏ để sản xuất điện
năng phục vụ sản xuất, đời sống và xuất khẩu.
Ngoài ra, còn phải kể tới tiềm năng khác để phát triển du lịch tại các
tỉnh Xiêng Khoảng, Bôlykhămxay. Suối nước nóng Bò Nhảy (suối lớn) và Bò
Nọi (suối bé) ở Mường Moọc, di tích Thẩm Piu (huyện Mường Khăm), các
ngôi chùa, tháp cổ ở huyện Mường Khun và nhất là Cánh đồng Chum của tỉnh
Xiêng Khoảng là những điểm du lịch có giá trị. Cánh đồng Chum (Thoong
Hay Hín) không chỉ là khu di tích lịch sử - văn hoá nổi tiếng mà còn trở thành
huyền thoại của đất nước Lào. Nơi đây hàng năm đã thu hút hàng vạn lượt du
khách trong và ngoài nước [88, tr.265].
Cũng như các tỉnh Xiêng Khoảng, Bôlykhămxay của Lào, Nghệ An của
Việt Nam không chỉ có tiềm năng để phát triển kinh tế, mà còn có nhiều điều
kiện để phát triển văn hóa, giáo dục và y tế.
Tuy không có khoảng không gian rộng lớn như đồng bằng Bắc bộ hay
Nam bộ, nhưng vùng duyên hải Nghệ An cũng có điều kiện thuận lợi để canh
tác các loại cây lương thực như lúa, ngô, khoai và nhiều loại cây công nghiệp
ngắn ngày như lạc, đậu, vừng. Còn khu vực miền Tây có điều kiện để phát
triển các loại cây công nghiệp dài ngày như cà phê, cao su, chè.


23
Với hơn 80 km bờ biển, Nghệ An có thế mạnh để phát triển ngành vận
tải biển, đánh bắt, nuôi trồng thuỷ sản, phát triển nghề muối và đặc biệt là du
lịch với các bãi biển như Hòn Câu, Diễn Thành, Bãi Lữ và Cửa Lò.
Theo số liệu điều tra dân số năm 2009, tỉnh Nghệ An có 3,2 triệu

người, trong đó có 1,8 triệu người đang trong tuổi lao động. Nghệ An nằm
trong số những tỉnh của Việt Nam có nguồn nhân lực dồi dào và số cán bộ có
trình độ kỹ thuật đông đảo.
Những tiềm năng sẵn có của các tỉnh Xiêng Khoảng, Bôlykhămxay
cũng như những thế mạnh của Nghệ An là điều kiện thuận lợi để hai bên đẩy
mạnh hợp tác không chỉ trong lĩnh kinh tế, mà cả văn hóa, giáo dục và y tế.
1.1.2. Cơ sở văn hoá
Mối quan hệ giữa các tỉnh Xiêng Khoảng, Bôlykhămxay của Lào với
Nghệ An của Việt Nam không chỉ bắt nguồn từ sự gần gũi về địa lý, những
nét tương đồng về điều kiện tự nhiên, mà còn xuất phát từ những điểm tương
đồng về văn hóa - xã hội
Trên địa bàn các tỉnh Xiêng Khoảng, Bôlykhămxay của Lào và Nghệ An
của Việt Nam có nhiều tộc người chung sống. Tuy khác nhau về nguồn gốc và
lịch sử cư trú, nhưng thông qua lao động sản xuất, trao đổi sản phẩm và giao
lưu văn hóa, giữa các tộc người dần dần có mối quan hệ gần gũi, thân thiết.
Các tỉnh Xiêng Khoảng, Bôlykhămxay của Lào là địa bàn cư trú của
người Lào Lùm (cư dân nói tiếng Thái, chủ yếu sống ở vùng đồng bằng và
ven sông suối), Lào Thơng (cư dân bản địa, chủ yếu sống ở vùng trung du) và
Lào Xủng (cư dân nói tiếng H’Mông - Dao, chủ yếu sống trên vùng núi cao).
Ngoài ra, ở đây còn có một số kiều bào, chủ yếu là Việt kiều và Hoa kiều
(chiếm khoảng 0,5% dân số). Theo số liệu điều tra năm 2010, tỉnh Xiêng
Khoảng có 228.882 người (trong đó người Lào Lùm chiếm 57%, người Lào
Xủng chiếm 34%, người Lào Thơng chiếm 8,5%); tỉnh Bôlykhămxay có


24
214.900 người (trong đó có 78% người Lào Lùm, 13,5% người Lào Xủng và
8% người Lào Thơng). Quá trình định cư của các tộc người tại khu vực này
diễn ra không đồng nhất. Người Lào Thơng là cư dân bản địa, chủ nhân của
văn hoá Cánh đồng Chum. Người Lào Lùm có mặt muộn hơn, từ khoảng thế

kỷ VIII đến thế kỷ XIII, XIV. Người Lào Xủng có mặt vào khoảng cuối thế
kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, muộn hơn rất nhiều so với người Lào Thơng và
người Lào Lùm. Còn Việt kiều và Hoa kiều có mặt ở khu vực này với nhiều
lý do và bằng nhiều con đường khác nhau.
Ở Nghệ An, người Việt (Kinh) chiếm đa số với hơn 90% dân số. Cùng
chung sống với người Việt có các tộc người Thái, Thổ, Mường, Ơ Đu, Tày,
Khơ Mú, H’Mông …. Người Việt chủ yếu định cư vùng đồng bằng ven biển,
còn các tộc người thiểu số định cư ở vùng núi và trung du (thuộc miền Tây
Nghệ An). Cũng giống như tại các tỉnh Xiêng Khoảng, Bôlykhămxay của
Lào, quá trình định cư của các tộc người ở Nghệ An của Việt Nam diễn ra
không đồng nhất. Trong khi người Việt, chủ nhân của nền văn minh Văn
Lang - Âu Lạc, có mặt ở đây từ rất sớm, thì các tộc người khác lại có mặt
muộn hơn nhiều. Mặc dù vậy, thông qua lao động sản xuất, sinh hoạt tinh
thần và nhất là thông qua các cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung, các tộc
người ở khu vực này đã sớm đoàn kết gắn bó với nhau.
Trong số các tộc người cùng chung sống tại các tỉnh Xiêng Khoảng,
Bôlykhămxay của Lào và Nghệ An của Việt Nam có một số tộc người là đồng
tộc như người Thái, người H’Mông. Có thể là “do nhu cầu đi tìm những vùng
đất mới để định cư; sự trốn chạy ách áp bức nặng nề; tập quán sống du canh
du cư; sự tranh chấp giữa các tập đoàn thống trị”, cũng có thể là “do giặc giã”
[69; tr179], nên từ vùng Tây - Nam Trung Quốc người Thái đã di cư thành
từng đợt xuống khu vực Đông Nam Á lục địa. Hiện nay, trong số gần 600
nghìn dân tại các tỉnh Xiêng Khoảng, Bôlykhămxay của Lào có khoảng hơn


25
400 nghìn người Thái (Lào Thay hay Lào Lùm), chiếm hơn 2/3 dân số của cả
khu vực. Trong tổng số hơn 1,5 triệu người Thái sống trên đất Việt Nam, có
khoảng 300 nghìn người định cư tại miền Tây Nghệ An [69; tr224]. Yếu tố
đồng tộc cùng với việc bảo lưu những giá trị văn hoá truyền thống của người

Thái là sợi dây vô hình kết nối người Lào Thay ở các tỉnh Xiêng Khoảng,
Bôlykhămxay với người Thái ở tỉnh Nghệ An. Cũng giống như người Thái,
yếu tố dòng họ chi phối cuộc sống và sinh hoạt của người H ’Mông rất sâu sắc.
Dù ở bên này hay biên kia biên giới, họ vẫn duy trì quan hệ chặt chẽ với nhau.
Người H’Mông ở Nghệ An vẫn coi Noọng Hét (tỉnh Xiêng Khoảng) là quê
hương bản quán của mình.
Trong hoạt động kinh tế, hầu hết các tộc người của hai khu vực đều lấy
nông nghiệp làm ngành kinh tế chính. Dựa vào đặc điểm địa hình của khu
vực, người Lào ở các tỉnh Xiêng Khoảng, Bôlykhămxay và người Việt, người
Thái ở Nghệ An chủ yếu canh tác lúa nước. Từ rất sớm, người Lào và người
Việt đều đã biết sản xuất nông nghiệp bằng cày, bừa, cấy, hái và đã biết xây
dựng hệ thống thuỷ lợi để phục vụ tưới tiêu, như đắp đập (phai) để giữ nước
hoặc làm mương để dẫn nước vào đồng ruộng. Các tộc người thiểu số chủ yếu
canh tác trên nương rẫy. Họ duy trì khá lâu dài lối sống du canh du cư với
phương thức hoả canh là chính. Cùng với hoạt động sản xuất nông nghiệp,
các tộc người ở hai khu vực đã sớm phát triển một số nghề thủ công như đan
lát, mộc, rèn, quay tơ, dệt vải…. Họ sớm biết khai thác các nguồn lâm sản
như gỗ, song, mây, tre để làm nhà cửa, sản xuất dụng cụ lao động và đồ dùng
sinh hoạt gia đình, săn bắn các loài thú để làm thực phẩm, khai thác các loại
dược liệu để chữa bệnh, trồng bông, trồng dâu nuôi tằm để quay tơ, dệt vải…
Về văn hoá vật chất, kiến trúc nhà cửa và trang phục (nhất là của nữ
giới) của một số tộc người ở hai khu vực có nhiều nét tương đồng. Nhà sàn là
một trong những đặc trưng của văn hoá kiến trúc khu vực Đông Nam Á. Đây


×