1
MỞ ĐẦU
1.
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Nhân lực là yếu tố then chốt đối với sự phát triển bền vững của đất
nước, vì vậy việc đầu tư để đào tạo một nguồn nhân lực có chất lượng luôn
được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Yêu cầu này đòi hỏi giáo dục
và đào tạo phải đổi mới và nâng cao chất lượng nhằm đáp ứng nhu cầu ngày
càng phát triển của Đất nước. Việt Nam trong giai đoạn công nghiệp hóa –
hiện đại hóa, để có nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu lao động có kỹ thuật cần
thiết phải có chiến lược đào tạo nghề. Việc xây dựng chiến lược đào tạo nghề
không chỉ đơn thuần là việc định hướng cho sự phát triển của một lĩnh vực mà
còn là yếu tố cấu thành góp phần thực hiện chiến lược phát triển giáo dục đã
đề ra.
Ở Việt Nam, đào tạo nghề có lịch sử phát triển trên 35 năm và đã góp
phần rất lớn vào sự phát triển nguồn nhân lực của đất nước. Giáo dục nghề
nghiệp là một phân hệ của hệ thống giáo dục, có vị trí tiếp thu thành quả giáo
dục của phổ thông và tạo nguồn lao động trực tiếp cho xã hội. Luật giáo dục
năm 2005 đã chỉ rõ mục tiêu của giáo dục nghề nghiệp là: “Đào tạo người
lao động có kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp ở các trình độ khác nhau, có đạo
đức, có lương tâm nghề nghiệp, ý thức kỷ luật, tác phong công nghiệp, có sức
khỏe nhằm tạo điều kiện cho người lao động có khả năng tìm việc làm đáp
ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội củng cố quốc phòng an ninh”.
Quyết định số 07/2006/QĐ-BLĐTBXH ngày 02/6/2006 của Bộ trưởng
Bộ Lao động thương binh và xã hội về “Quy hoạch mạng lưới trường cao
đẳng nghề, trung cấp nghề, trung tâm dạy nghề đến năm 2010 và định hướng
đến năm 2020” là một pháp lý giúp cho hệ thống nghề phát triển. Bởi vậy cho
đến nay cả nước có khoảng 135 trường cao đẳng nghề (trong đó có hơn 50
trường chất lượng cao, 5 trường tiếp cận với trình độ tiên tiến trong khu vực);
2
khoảng 320 trường trung cấp nghề và 830 trung tâm dạy nghề. Mỗi tỉnh
(thành phố) có ít nhất một trường trung cấp nghề hoặc trường cao đẳng nghề;
mỗi quận, huyện, thị xã có ít nhất một trung tâm dậy nghề hoặc cụm huyện có
trường trung cấp nghề nhằm tạo điều kiện thuận lời cho người lao động học
nghề nhất là ở các vùng sâu, vùng xa, hải đảo, vùng dân tộc thiểu số và vùng
nông thôn...
Đứng trước những yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao về nguồn nhân lực,
vấn đề đào tạo công nhân lành nghề đáp ứng nhu cầu của xã hội đang trở
thành vấn đề quan trọng và cấp bách của các cơ sở đào tạo nghề cũng là nhằm
thực hiện mục tiêu phát triển giáo dục nghề trong chiến lược phát triển giai
đoạn 2010-2020 là: “Đặc biệt quan tâm nâng cao chất lượng dạy nghề gắn
với nâng cao ý thức kỷ luật lao động và tác phong lao động hiện đại. Gắn
đào tạo với nhu cầu sử dụng với việc làm trong quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, cơ cấu lao động, con người và nguồn nhân lực là nhân tố quyết định
sự phát triển của đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, cần tạo sự chuyển
biến cơ bản toàn diện về giáo dục, trong đó ưu tiên nâng cao chất lượng đào
tạo nhân lực”.
Tuy nhiên cho đến nay, việc đào tạo nghề ở nước ta hiện nay vẫn còn
một số bộc lộ những hạn chế như số nghề dạy còn ít, đơn điệu; chất lượng đào
tạo còn thấp; sự phối hợp giữa địa phương với doanh nghiệp, cơ sở đào tạo
trong việc tổ chức làm việc cho người lao động sau học nghề chưa có hiệu
quả dẫn đến chất lượng lao động hiện nay chưa đáp ứng được đòi hỏi của
doanh nghiệp. Sinh viên mới tốt nghiệp vào công tác ở xí nghiệp, công ty
thường gặp khó khăn khi tiếp cận với các thiết bị khoa học kỹ thuật ngày càng
hiện đại. Một trong những nhược điểm lớn nhất của họ hiện nay là thiết khả
năng tư duy, sáng tạo và tính chủ động trong công việc. Trong khi đó, khoảng
cách giữa cung - cầu nhân lực ngày càng lớn, khiến cuộc đua giữa các doanh
3
nghiệp để tranh giành nguồn nhân lực chất lượng cao và tìm người lao động
theo đúng chuyên ngành còn nhiều bất cập.
Xác định được nhu cầu của xã hội nói chung cũng như trên địa bàn tỉnh
Bắc Ninh nói riêng, từ khi được thành lập, trường Cao đẳng Công nghệ Bắc
Hà, tỉnh Bắc Ninh đã có một số giải pháp trong công tác quản lý hoạt động
đào tạo nghề cũng như quản lý dạy học thực hành nghề. Tuy nhiên việc tổ
chức quản lý các hoạt động dạy học chưa thực sự có tính lý luận cao, chưa
mang tính hệ thống cụ thể. Điều đó đặt ra cho nhà trường phải xem xét một
cách tổng thể về việc tổ chức, quản lý đào tạo nghề, đặc biệt là thực hành
nghề cho học sinh. Vấn đề ở đây là quản lý dạy học nghề chưa thực sự phù
hợp với yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong khi đó hiện
nay, Bắc Ninh đã vươn lên là tỉnh khá trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ,
tạo lập được những nền tảng kinh tế - xã hội để cơ bản trở thành tỉnh công
nghiệp vào năm 2015.
Gần 17 năm trôi qua, tăng trưởng bình quân đạt trên 14%, năm 2012 GDP
tính theo giá cố định tăng gấp 4, 5 lần; thu ngân sách ước đạt 6.500 tỷ đồng, gấp
28,5 lần; thu nhập bình quân đầu người đạt khoảng 2.500USD, gấp 11,2 lần; giá
trị sản xuất công nghiệp (giá cố định 1994) ước 28.000 tỷ đồng, gấp 42,4 lần;
kim ngạch xuất khẩu đạt 1.85 tỷ USD, gấp 69,5 lần so với năm 1997.
Dự kiến đến năm 2020, quy mô dân số toàn tỉnh 1,183 triệu người, năm
2030 là 1,443 triệu người. Giai đoạn 2011 - 2030 kinh tế giữ mức tăng trưởng
nhanh, ổn định, bình quân hàng năm khoảng 8 - 10%; thu nhập bình quân đạt
6.500 USD/người/năm (năm 2020) và lên từ 10.000 - 14.000 USD/người/năm
(năm 2030).
Cơ cấu kinh tế tiếp tục đẩy mạnh phát triển theo hướng công nghiệp,
dịch vụ và nông nghiệp, từng bước chuyển dịch theo hướng dịch vụ, công
nghiệp và nông nghiệp sau năm 2030. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực với
4
tỷ trọng công nghiệp trong GDP tăng rất nhanh, ước năm 2015, tỷ trọng cơ
cấu ngành công nghiệp - xây dựng, nông nghiệp, dịch vụ tương ứng là:
44.8%- 33.8%-21.4%.
Toàn tỉnh đã quy hoạch 15 khu công nghiệp, trong đó 10 khu đi vào
hoạt động và hàng chục khu công nghiệp nhỏ, cụm công nghiệp; đến nay,
tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký ước khoảng 3 tỷ USD và vốn đầu tư
trong nước đăng ký đạt gần 30 nghìn tỷ đồng. Xây dựng các khu công nghiệp
đô thị thân thiện với môi trường, thu hút được nhiều tập đoàn đa quốc gia,
nhiều sản phẩm mới, công nghệ hiện đại, hình thành khu công nghiệp hỗ trợ
đầu tiên ở Việt Nam; kết cấu hạ tầng đô thị và nông thôn được tăng cường
theo hướng hiện đại, đời sống nhân dân được nâng cao; nhiều chỉ tiêu về kinh
tế, văn hóa - xã hội đều nằm trong nhóm 10 tỉnh, thành phố dẫn đầu cả nước.
Nhằm đáp ứng được yêu cầu của thực tế đó, đòi hỏi tỉnh Bắc Ninh phải
có một nguồn nhân lực đảm bảo về các yếu tố như đạo đức, pháp luật, trí tuệ,
kỹ năng,... nghề nghiệp thì mới đáp ứng được tốc độ phát triển trên địa bàn
tỉnh. Xuất phát lý luận và thực tế nói chung cũng như trên địa bàn tỉnh Bắc
ninh nói riêng, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài nghiên cứu: “Các biện pháp
quản lý đào tạo nghề ở Trường Cao đẳng Công nghệ Bắc Hà đáp ứng yêu
cầu thị trường lao động trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh” làm luận văn Thạc sĩ
quản lý giáo dục.
2.
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Đề xuất một số biện pháp quản lý đào tạo theo định hướng “Đào tạo
đáp ứng nhu cầu thị trường lao động trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh” của trường
Cao đẳng Công nghệ Bắc Hà, tỉnh Bắc Ninh nhằm góp phần nâng cao chất
lượng đào tạo của nhà trường.
5
3.
KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
3.1.
Khách thể nghiên cứu:
Hoạt động quản lý đào tạo nghề của trường Cao đẳng Công nghệ Bắc
Hà, tỉnh Bắc Ninh.
3.2.
Đối tượng nghiên cứu:
Các biện pháp quản lý đào tạo nghề ở trường Cao đẳng Công nghệ Bắc
Hà đáp ứng nhu cầu thị trường lao động trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Nếu những biện pháp quản lý đào tạo nghề bảo đảm tính đồng bộ với
nội dung, quá trình quản lý đào tạo của nhà trường và có tính thực tiễn thì
hiệu quả đào tạo nghề của nhà trường sẽ có chất lượng cao và đáp ứng tốt nhu
cầu của thị trường lao động trong tỉnh Bắc Ninh hiện nay.
5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
5.1.
Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về quản lý hoạt động dạy
nghề đáp ứng nhu cầu thị trường lao động của các trường dạy nghề.
5.2.
Đánh giá thực trạng đào tạo và quản lý đào tạo nghề (hệ trung
cấp) ở Trường Cao đẳng Công nghệ Bắc Hà đáp ứng yêu cầu thị trường lao
động trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh hiện nay.
5.3.
Đề xuất các biện pháp quản lý đào tạo nghề đáp ứng thị trường
lao động trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh ở Trường Cao đẳng Công nghệ Bắc Hà.
6. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
6.1.
Đánh giá thực trạng công tác quản lý đào tạo nghề còn hạn chế
tại Trường Cao đẳng Công nghệ Bắc Hà.
6.2.
Khảo sát thực tế nhu cầu lao động và những yêu cầu đối với lao
động một số cơ sở sản xuất công nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh.
6
6.3.
Các biện pháp quản lý đào tạo nghề được áp dụng cho Ban giám
hiệu và các cán bộ quản lý đào tạo nghề ở Trường Cao đẳng Công nghệ Bắc
Hà thực hiện để đáp ứng thị trường lao động trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
7.1.
Các phương pháp nghiên cứu lý luận
- Nghiên cứu đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước về công
tác đào tạo nghề.
- Nghiên cứu lý luận về công tác đào tạo nghề và công tác quản lý
đào tạo nghề.
- Nghiên cứu các tài liệu liên quan đến quản lý đào tạo nghề nhằm
phân tích, tổng hợp và khái quát hóa khung lý thuyết của đề tài luận văn.
7.2.
Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Quan sát sư phạm:
+ Dự giờ lên lớp của một số lớp thực hành nghề.
+ Tìm hiểu những điều kiện dạy học nghề ở trường;
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm quản lý hoạt động dạy nghề
qua các báo cáo thực hiện nhiệm vụ dạy nghề của trường, của ngành giáo
dục đào tạo;
- Tọa đàm: Tổ chức hội thảo khoa học về “Đổi mới công tác quản lý
và giảng dạy trong đào tạo nghề nhằm đáp ứng thị trường lao động trên địa
bàn tỉnh Bắc Ninh”;
- Điều tra bằng phiếu hỏi: Thăm dò ý kiến của cán bộ quản lý, giáo
viên, học sinh và cán bộ quản lý của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh
Bắc Ninh.
7.3.
Các phương pháp nghiên cứu khác
- Phương pháp sử dụng thống kê toán học: Thu thập xử lý các thông
tin số liệu điều tra và nghiên cứu các hồ sơ thống kê.
7
- Phương pháp chuyên gia: Lấy ý kiến của các nhà quản lý, của giáo
viên có nhiều kinh nghiệm, ý kiến của học sinh nhằm thẩm định các biện pháp
quản lý đã đề xuất.
8. CẤU TRÚC LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, tài liệu tham khảo, phụ lục,
luận văn được kết cấu thành 3 chương cụ thể như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý đào tạo nghề theo nhu cầu thị
trường lao động của các trường đào tạo nghề.
Chương 2: Thực trạng công tác quản lý trong đào tạo nghề ở Trường
Cao đẳng Công nghệ Bắc Hà.
Chương 3: Các biện pháp quản lý đào tạo nghề đáp ứng nhu cầu thị
trường lao động ở Trường Cao đẳng Công nghệ Bắc Hà.
8
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ ĐÀO TẠO NGHỀ THEO NHU CẦU
THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG CỦA CÁC TRƯỜNG ĐÀO TẠO NGHỀ
1.1.TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐẾ NGHIÊN CỨU
1.1.1. Ở nước ngoài
Tùy thuộc vào điều kiện, trình độ phát triển kinh tế xã hội , khoa học
công nghệ và văn minh của mỗi quốc gia mà việc hình thành các hệ thống
Giáo dục – Đào tạo, hệ thống dịch vụ việc làm và hệ thống sử dụng quản lý
lao động xã hội ở mỗi nước khác nhau.
Vào giữa thế kỷ XIX (1984) do sự phát triển của công nghiệp, ở Pháp
xuất hiện nhiều cuốn sách viết về sự phát triển đa dạng của nghề nghiệp.
Người ta đã ý thức được rằng hệ thống nghề trong xã hội rất đa dạng và phức
tạp. Sự chuyên môn hóa được chú trọng. Do vậy, nội dung các cuốn sách
khẳng định tính cấp thiết phải hướng nghiệp trang bị cho thế hệ trẻ đi vào lao
động sản xuất, có nghề nghệp phù hợp với năng lực của mình và phù hợp với
yêu cầu của xã hội.
Đào tạo công nhân ở Hoa Kỳ được tiến hành trong các trường THPT
phân ban, các trường dạy nghề trung học, các cơ sở đào tạo sau trung học.
Học sinh tốt nghiệp được cấp bằng chứng nhận và chứng chỉ công nhân lành
nghề và có quyền được đi học tiếp theo. Thời gian đào tạo từ 2 đến 7 năm tùy
từng nghề.
Ở Đài Loan, học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở học tại trường trung
cấp nghề ra trường được công nhận là công nhân lành nghề. Học sinh tốt
nghiệp trung cấp nghề và công nhân lành nghề được học tiếp ở bậc Cao đẳng,
tốt nghiệp được cấp bằng kỹ thuật viên, công nhân kỹ thuật bậc cao được học
tiếp lên Đại học.
9
Nhằm đáp ứng nhu cầu nhân lực cho thị trường thương mại tự do
ASEAN năm 2003, APEC năm 2020, hệ thống đào tại Inđônêxia từ năm 1993
đã được nghiên cứu và phát triển mạnh. Trong đó kết hợp đào tạo nghề giữa
nhà trường và doanh nghiệp được quan tâm đặc biệt.
Nhìn chung trên thế giới, các nước đều bố trí hệ thống giáo dục kỹ
thuật và dạy nghề bên cạnh hệ phổ thông và đại học, các nghiên cứu về đào
tạo theo nhu cầu xã hội đặc biệt quan tâm đến vấn đề quản lý chất lượng giáo
dục của các cơ sở đào tạo, coi đó như yếu tố hàng đầu để thỏa mãn nhu cầu
các khách hàng của giáo dục.
1.1.2. Ở trong nước
Giáo dục và đào tạo luôn được Đảng và Nhà nước ta coi “Quốc sách
hàng đầu”. Từ sau Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VI (năm 1986),
thực hiện theo cơ chế thị trường theo định hướng XHCN với nhiều thành
phần kinh tế có sự điều tiết của nhà nước, ĐTN ở nước ta đã bước vào giai
đoạn phát triển mới, vươn lên đáp ứng nhu cầu chuyển đổi của kinh tế theo cơ
chế thị trường định hướng XHCN, hiện đại hóa, chuẩn hóa, hội nhập khu vực
và quốc tế.
Nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội, Đảng và Nhà nước ta
ngày càng quan tâm tạo điều kiện để cho nhà trường hợp tác với doanh nghiệp
trong đào tạo nhằm phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao, nhất là trong
những năm gần đây đã ban hành cơ chế chính sách thông thoáng giúp cho sự
hợp tác này được thuận lợi, điều này được cụ thể hóa trong Luật giáo dục năm
2005, Luật dạy nghề năm 2006 và Điều lệ trường CĐ nghề năm 2007, Điều lệ
trường Trung cấp nghề năm 2007, Điều lệ trường Trung cấp chuyên nghiệp
năm 2008, quy chế mẫu của trung tâm dạy nghề năm 2007,...
Lịch sử Việt Nam có từ lâu đời và luôn gắn với đào tạo con người trong
đó có ĐTN. Tuy nhiên do sự phát triển chung của đất nước qua các thời kỳ
10
lịch sử, thực trạng ĐTN nói chung và ĐTN trong mối quan hệ hợp tác giữa
nhà trường với DN nói riêng còn những hạn chế cơ bản và cũng còn ít các
công trình nghiên cứu về vấn đề này.
Trong những năm gần đây, do cơ chế và chính sách thông thoáng của
nước ta, đồng thời do nhu cầu lao động của thị trường hiện nay nên đã xuất
hiện một số công trình nghiên cứu có ý nghĩa tác động không nhỏ đến các cơ
sở ĐTN. Năm 1993, tác giả Phạm Khắc Vũ với luận văn tốt nghiệp “Cơ sở lý
luận và thực tiễn phương thức tổ chức đào tạo nghề kết hợp tại trường và cơ
sở sản xuất”. Năm 2004, trường Trung học kỹ thuật xây dựng Hà Nội có đề
tài nghiên cứu khoa học cấp thành phố: “Các giải pháp gắn đào tạo với sử
dụng lao động của hệ thống dạy nghề Hà Nội trong lĩnh vực xây dựng” có nêu
ra các giải pháp thiết lập quan hệ giữa nhà trường và doanh nghiệp. Năm
2007, Nguyễn Anh Tuấn có luận văn tốt nghiệp “ Hoàn thiện và đổi mới các
biện pháp quản lý đào tạo nghề của trường Trung học công nghiệp quốc
phòng trong giai đoạn hiện nay (từ năm 2007 đến năm 2015)” đi sâu nghiên
cứu về các biện pháp quản lý đào tạo nghề theo quan điểm hệ thống: Quản lý
mục tiêu, quản lý nội dung, quản lý phương pháp đào tạo nghề, quản lý kết
quả và chất lượng đào tạo nghề.
Trên đây là sự khái lược về tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước
có liên quan đến vấn đề chất lượng đào tạo nghề đặc biệt là chất lượng đào
tạo nghề nhằm đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động để nâng cao chất
lượng đào tạo nghề. Tuy nhiên, vấn đề chất lượng đào tạo nghề ở trình độ
trung cấp, đặc biết trong xu thế hội nhập hiện nay vẫn còn nhiều bất cập, ít
được quan tâm nghiên cứu. Vì vậy tôi chọn vấn đề: “Các biện pháp quản lý
đào tạo nghề ở Trường Cao đẳng Công nghệ Bắc Hà đáp ứng yêu cầu thị
trường lao động trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh” nghiên cứu làm luận văn
Thạc sĩ quản lý giáo dục cũng là nhằm mục đích ngày càng nâng cao chất
11
lượng ĐTN của nhà trường theo đúng nhu cầu của thị trường lao động, góp
phần thành công vào công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
1.2.MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN
1.2.1. Quản lý và quản lý giáo dục
Quản lý là một hoạt động đặc biệt, là yếu tố không thể thiếu được trong
đời sống xã hội. Nó gắn liền với quá trình phát triển, đặc biệt trong xã hội
hiện này thì quản lý có vai trò cực kỳ lớn, nó giúp cho mọi hoạt động có trật
tự, kỷ luật và có hiệu quả.
Theo C.Mác, quản lý là chức năng được sinh ra từ tính chất xã hội hóa
lao động. Nó có tầm quan trọng đặc biệt vì mọi sự phát triển của xã hội đều
thông qua hoạt động của con người và thông qua quản lý.
Như vậy hoạt động quản lý là tất yếu tồn tại ở mọi loại hình thức
tổ chức, mọi xã hội. Khái niệm quản lý đã được tiếp cận ở nhiều góc độ
khác nhau.
Theo F.W.Taylor: Quản lý là biết được chính xã điều bạn muốn người
khác làm và sau đó hiểu được rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt
nhất và rẻ nhất.
Ở Việt Nam quản lý cũng hiểu theo nhiều khái niệm khác nhau.
Theo từ điển Tiếng Việt: Quản lý là tổ chức và điều hành các hoạt động
theo những yêu cầu nhất định.
Giáo sư Mai Hữu Khuê cho rằng: Quản lý là tác động có mục đích tới
tập thể những người lao động nhằm đạt được những kết quả nhất định và mục
đích đã định trước.
Theo Hà Thế Ngữ và Đặng Vũ Hoạt: Quản lý là một quá trình định
hướng quá trình có mục tiêu, quản lý có hệ thống là quá trình tác động đến hệ
12
thống nhằm đạt được những mục tiêu nhất định. Những mục tiêu này đặc
trưng cho trạng thái mới của hệ thống mà người quản lý mong muốn.
Theo tác giả Nguyễn Văn Bình: Quản lý là một nghệ thuật đạt được
những mục tiêu đã đề ra thông qua việc điều khiển, phối hợp, hướng dẫn, chỉ
huy hoạt động của những người khác.
Nhìn chung, khái niệm quản lý đều phản ánh một dạng lao động trí tuệ
của con người có chức năng bảo đảm và khuyến khích những nỗ lực của
những người khác để thực hiện thành công công việc nhất định. Quản lý là
công tác phối hợp có hiệu quả hoạt động của những người cộng sự khác cùng
chung một tổ chức... Quan niệm hiện đại về quản lý thừa nhận đó là toàn bộ
các hoạt động huy động, tổ chức, thực thi các nguồn lực vật chất và tinh thần,
sử dụng chúng nhằm tác động và gây ảnh hưởng tích cực đến những người
khác để đạt được những mục tiêu của tổ chức hay cộng đồng.
Hình 1.1. Sơ đồ của khái niệm quản lý
Chủ thể
quản lý
Đối tượng
quản lý
Mục tiêu
quản lý
Khách thể quản lý
Từ những điểm chung của các quan niệm trên có thể hiểu:
Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý
lên đối tượng quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các tiềm năng, các cơ
hội của hệ thống để đạt được mục tiêu đề ra trong điều kiện biến động của
môi trường. Với khái niệm trên quản lý phải bao gồm các yếu tố (các điều
kiện) sau:
13
- Phải có một mục tiêu và một quỹ đạo đã đặt ra cho cả đối tượng và
chủ thể. Mục tiêu này là căn cứ để tạo ra các tác động.
- Chủ thể phải thực hành việc tác động.
- Quản lý bao giờ cũng có chủ thể quản lý và đối tượng bị quản lý.
- Quản lý bao giờ cũng liên quan đến việc trao đổi thông tin và đều có
mối liên hệ ngược.
- Quản lý bao giờ cũng có khả năng thích nghi.
Hoạt động và các quan hệ quản lý chính là đối tượng của khoa học
quản lý. Quản lý ra đời chính là để tạo ra một hiệu quả hoạt động cao hơn hẳn
so với việc làm của từng cá nhân riêng rẽ, của một nhóm người khi họ tiến
hành các công việc có mục tiêu chung gần gũi với nhau. Nói một cách khác,
thực chất của quản lý là quản lý con người trong tổ chức, thông qua đó sử
dụng có hiệu quả nhất mọi tiềm năng và cơ hội của tổ chức. Ngày nay công
tác quản lý được coi là một trong năm nhân tố phát triển kinh tế xã hội là: vốn
– nguồn lực lao động – khoa học kỹ thuật công nghệ - tài nguyên và quản lý.
Trong đó quản lý có vai trò quyết định sự thành bại của công việc.
Về khái niệm quản lý giáo dục cũng có nhiều cách hiểu. Do giáo dục là
một lĩnh vực hoạt động xã hội nên quản lý giáo dục được xem là quản lý xã
hội. Quản lý giáo dục luôn bám sát việc thực hiện nhiệm vụ chính trị - xã hội,
phát triển kinh tế trong từng thời kỳ, giai đoạn lịch sử của mỗi quốc gia.
Có thể hiểu khái niệm quản lý giáo dục là quản lý những tác động có hệ
thống, khoa học, có ý thức và có mục đích của chủ thể quản lý lên đối tượng
quản lý là quá trình dạy học và giáo dục diễn ra ở các cơ sở giáo dục như các
trường học, trung tâm khoa học kỹ thuật, hướng nghiệp dạy nghề hay một tập
hợp các cơ sở phân bố trên địa bàn dân cư. Đa số các nguồn và tác giả tuy
diễn đạt khác nhau song căn bản đều hiểu khái niệm quản lý giáo dục tương
tự như trên.
14
Từ việc phân tích các khái niệm trên và quan điểm tiếp cận khác nhau
về quản lý, chúng ta hiểu rằng: Quản lý là hoạt động có ý thức có chủ thể
quản lý nhằm điều khiển tác động lên đối tượng, khách thể quản lý để đạt
được mục tiêu của quản lý.
Như vậy, quản lý trở thành nhân tố của sự phát triển xã hội. Quản lý trở
thành một hoạt động phổ biến, diễn ra trong mọi lĩnh vực, ở mọi cấp độ và
liên quan đến con người mà quản lý trong giáo dục và đào tạo là một nhiệm
vụ quan trọng. Quản lý có tác dụng thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của
xã hội tùy theo trình độ quản lý cao hay thấp.
1.2.2. Quản lý nhà trường và quản lý dạy học
Nhiều người giải thích quản lý nhà trường (quản lý trường học) là quản
lý giáo dục ở cấp vi mô, tức là thực hiện toàn bộ những nhiệm vụ quản lý giáo
dục tại cơ sở giáo dục, trong phạm vi cơ sở giáo dục.
Theo Trần Kiểm, quản lý trường học là hệ thống những tác động tự
giáo (có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp quy luật) của chủ
thể quản lý đến tập thể giáo viên, công nhân viên, tập thể học sinh, cha mẹ
học sinh, và các lực lượng xã hội trong và ngoài nhà trường nhằm thực hiện
có chất lượng và hiệu quả mục tiêu giáo dục của nhà trường (2006).
Trong luận văn này chúng tôi tán thành cách hiểu trên nhưng không
phân biệt các cấp vĩ mô và vi mô, bởi vì trong quản lý nhà trường thì các chủ
thể quản lý vẫn là mọi cấp quản lý từ cao xuống thấp, chẳng hạn Chính phủ
cũng là chủ thể quản lý nhà trường chú không riêng Hiệu trưởng mới là chủ
thể quản lý. Chúng tôi sử dụng quan niệm của Đặng Thành Hưng (Giáo trình
giáo dục so sánh – 1998) coi quản lý nhà trường là quản lý giáo dục ở cấp cơ
sở, phản ảnh đầy đủ mục tiêu, chức năng, nội dung và phương tiện quản lý
giáo dục trong phạm vi trường học.
15
Trong quản lý nhà trường có những đối tượng quản lý cụ thể tạo nên
những lĩnh vực quản lý tương đối khác nhau, cụ thể như sau: Quản lý hành
chính và tài chính; Quản lý hoạt động chuyên môn; Quản lý nhân sự; Quản lý
cơ sở hạ tầng kỹ thuật; Quản lý các quan hệ giáo dục trong nhà trường, giữa
nhà trường với gia đình, cộng đồng địa phương.
Với quản lý dạy học là một mảng trong quản lý nhà trường và là
mảng quan trọng nhất. Quản lý các lĩnh vực khác chẳng qua là để quản lý
dạy học có hiệu quả cao. Quản lý dạy học chính là quản lý các nguồn lực và
hoạt động của nhà trường nhằm thực hiện chương trình đào tạo. Nội dung chủ
yếu của quản lý dạy học là:
- Quản lý mục tiêu dạy học;
- Quản lý kế hoạch hoạt động dạy học;
- Quản lý nội dung, kế hoạch, chương trình giảng dạy;
- Quản lý phương pháp dạy và học;
- Quản lý hoạt động dạy học của giáo viên;
- Quản lý hoạt động học tập của học sinh.
1.2.3. Nghề, đào tạo nghề và Quản lý đào tạo nghề
∗ Nghề:
Nghề là một loại hình hoạt động mang tính chất riêng, đặc thù của con
người, nó được hình thành và phát triển của xã hội loài người. Đó là một dạng
lao động vừa mang tính xã hội, vừa mang tính cá nhân, trong đó con người
với tư cách là chủ thể hoạt động đòi hỏi thỏa mãn những yêu cầu nhất định
của xã hội, của cá nhân.
Khái niệm nghề của Nga được định nghĩa là một loại hoạt động lao
động đòi hỏi có đào tạo nhất định và thường là nguồn gốc của sự sống.
Khái niệm nghề của Pháp được định nghĩa là một loại hoạt động có thói
quen và kỹ năng, kỹ xảo của một người để từ đó tìm được phương tiện sống.
16
Ở Đức, nghề được định nghĩa là hoạt động cần thiết cho xã hội ở một
lĩnh vực lao động nhất định, đòi hỏi phải được đào tạo ở một trình độ nào đó.
Từ điển Tiếng Việt (năm 1998) đưa ra định nghĩa “Nghề là công việc
chuyên môn làm, theo sự phân công của xã hội”.
Như vậy, qua các khái niệm trên, chúng ta đều hiểu rằng: Nghề là một
dạng lao động đòi hỏi con người phải trải qua một quá trình đào tạo chuyên
biệt để có những kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo chuyên môn nhất định. Nhờ quá
trình hoạt động nghề nghiệp, con người có thể tạo ra sản phẩm để thỏa mãn
những nhu cầu của cá nhân và xã hội.
∗ Đào tạo nghề:
ĐTN thực chất là nhằm phát triển nguồn nhân lực. Hiện nay các cơ sở
giáo dục nghề nghiệp đào tạo ra hai loại hình cơ bản công nhân kỹ thuật và
nhân viên nghiệp vụ. Sản phẩm đào tạo là nhân cách hay nói cách khác là
phẩm chất và năng lực của người lao động ở một tiêu chuẩn quy định của
nghề đào tạo.
Như vậy, ĐTN là quá trình truyền thụ và lĩnh hội một hệ thống tri thức,
kỹ năng, thái độ nghề nghiệp nhất định đã được khái quát hóa trong nghề đào
tạo; là quá trình rèn luyện các kỹ năng, kỹ xảo, thái độ và năng lực nghề
nghiệp ở người học để hình thành nhân cách nghề nghiệp. Quá trình này được
thực hiện chủ yếu thông qua việc giảng dạy theo chuẩn mực của các ngành
đào tạo.
Quá trình dạy học trong giáo dục và đào tạo nói chung và trong ĐTN
nói riêng thường được phân chia ra một cách tương đối thành hai quá trình
bộ phận là dạy học lý thuyết và dạy học thực hành. Dấu hiệu quan trọng của
quá trình dạy học đặc biệt là dạy thực hành trong giáo dục chuyên nghiệp là
dạy học không phải chủ yếu là truyền đạt, cung cấp thông tin mà phải chủ
yếu là hình thành kỹ năng, rèn luyện kỹ xảo, phát triển khả năng tìm tòi,
17
phát hiện, quản lý và xử lý thông tin thành sản phẩm có ý nghĩa đáp ứng
nhu cầu nghề nghiệp.
∗ Quản lý đào tạo nghề
Quản lý đào tạo nghề chính là quản lý dạy học trong khi thực hiện các
nhiệm vụ và hoạt động học tập lý thuyết và thực hành của người học nhằm
vào mục tiêu là hình thành kỹ năng, rèn luyện kỹ xảo, phát triển khả năng
thực hành và ứng dụng tương ứng với môn học, ngành học hoặc chuyên môn
nghề nghiệp.
Nội dung quản lý đào tạo nghề cũng bao gồm những mặt sau: Quản lý
mục tiêu dạy học; Quản lý kế hoạch hoạt động dạy học; Quản lý nội dung, kế
hoạch, chương trình phương pháp dạy học lý thuyết; Quản lý nội dung,
phương pháp dạy học thực hành; Quản lý hoạt động dạy học của giáo viên;
Quản lý hoạt động học tập thực hành của học sinh.
1.3.CÁC YẾU TỐ CỦA QUÁ TRÌNH ĐÀO TẠO NGHỀ
1.3.1. Mục tiêu của đào tạo nghề
Văn kiện Đại hội XI của Đảng xác định: “Phát triển giáo dục là quốc
sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng
chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong
đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ
quản lý là khâu then chốt. Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo,
coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành,
khả năng lập nghiệp. Đổi mới cơ chế tài chính giáo dục. Thực hiện kiểm định
chất lượng giáo dục, đào tạo ở tất cả các bậc học. Xây dựng môi trường giáo
dục lành mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường với gia đình và xã hội” . Mục
tiêu của chiến lược phát triển giáo dục 2010-2015 cho giáo dục nghề nghiệp
là:
18
Đẩy mạnh đào tạo nghề theo nhu cầu phát triển của xã hội; có cơ chế và
chính sách thiết lập mối liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp với cơ sở đào
tạo. Xây dựng và thực hiện các chương trình, đề án đào tạo nhân lực cho các
ngành, lĩnh vực mũi nhọn; đồng thời chú trọng đào tạo nghề cho nông dân,
nhất là đối với những người thuộc diện thu hồi đất; nâng cao tỷ lệ lao động
qua đào tạo. Quan tâm hơn tới phát triển giáo dục, đào tạo ở vùng sâu, vùng
xa, vùng khó khăn. Bảo đảm công bằng xã hội trong giáo dục; thực hiện tốt
chính sách ưu đãi, hỗ trợ người có công, đồng bào dân tộc thiểu số, học sinh
giỏi, học sinh nghèo vượt khó, học sinh khuyết tật, giáo viên công tác ở vùng
sâu, vùng xa, vùng có nhiều khó khăn.
Hình thành hệ thống đào tạo kỹ thuật thực hành đáp ứng nhu cầu phát
triển kinh tế - xã hội, trong đó chú trọng phát triển đào tạo nghề ngắn hạn và
đào tạo công nhân kỹ thuật, kỹ thuật viên, nhân viên nghiệp vụ có trình độ
cao dựa trên nên học vấn trung học phổ thông hoặc trung học chuyên nghiệp.
Luật giáo dục năm 2005, điều 33 quy định về mục tiêu của giáo dục
nghề nghiệp như sau: “Mục tiêu của giáo dục nghề nghiệp là đào tạo người
lao động có kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp ở các trình độ khác nhau, có đạo
đức, lương tâm nghề nghiệp, ý thức kỷ luật tác phong công nghiệp, có sức
khỏe nhằm tạo điều kiện cho người lao động có khả năng tìm được việc làm,
tự tạo việc làm hoặc tiếp tục học tập nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp
vụ, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, củng cố quốc phòng an ninh”.
Trong giai đoạn 2011-2020, công tác dạy nghề ở nước ta phải thực hiện
được hai nhiệm vụ chiến lược cơ bản, đó là: đào tạo đội ngũ công nhân kỹ
thuật trực tiếp trong sản xuất, kinh doanh có trình độ cao, đủ về số lượng, hợp
lý về cơ cấu ngành nghề; có đủ điều kiện và khả năng đáp ứng yêu cầu phát
triển của các ngành, vùng kinh tế, đặc biệt là các ngành kinh tế mũi nhọn,
vùng kinh tế trọng điểm, đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước và hội nhập
19
quốc tế. Trong thời gian tới, việc mở rộng quy mô đào tạo nghề cho người lao
động, phục vụ có hiệu quả việc chuyển dịch cơ cấu lao động nông nghiệp,
nông thôn, tạo nhiều việc làm có thu nhập cao, cải thiện đời sống cho người
lao động; giảm nghèo vững chắc, đảm bảo an sinh xã hội; đẩy nhanh chuyển
dịch cơ cấu kinh tế và lao động nông nghiệp, nông thôn.
Trước những yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH, Bộ Lao động, Thương
binh và Xã hội đang xây dựng Chiến lược Công tác dạy nghề giai đoạn 20112020, và đặt ra mục tiêu tổng quát phát triển dạy nghề Việt Nam đến năm
2020 là tạo sự đột phá về chất lượng dạy nghề theo hướng tiếp cận trình độ
khu vực và thế giới, nhằm đào tạo nhân lực kỹ thuật trực tiếp trong sản xuất,
kinh doanh; có đạo đức, lương tâm nghề nghiệp, tác phong công nghiệp đáp
ứng nhu cầu của thị trường lao động trong nước và xuất khẩu lao động.
Điều này có nghĩa là, giáo dục nghề nghiệp trong đó có đào tạo nghề
phải lấy mục tiêu đào tạo người lao động có kiến thức, kỹ năng, thái độ, ý
thức nghề nghiệp đáp ứng nhu cầu lao động xã hội là chính, đồng thời với khả
năng phát triển toàn diện của chính họ trong nghề nghiệp và trong xã hội, phù
hợp với chiến lược phát triển nguồn lực, phát triển con người của đất nước ta
trong thời ký công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
1.3.2. Nội dung đào tạo nghề
Nội dung đào tạo nghề bao gồm các kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo nghề
nghiệp đòi hỏi người học phải nắm vững. Trên cơ sở đó hình thành thế giới
quan và phẩm chất đạo đức nghề nghiệp để người học bước vào cuộc sống và
lao động. Để thực hiện được mục đích giáo dục nghề nghiệp nói riêng và thực
hiện cấc nhiệm vụ dạy học nói chung, trong thực hành nghề cũng phải bảo
đảm các yêu cầu như:
- Nội dung dạy học phải phù hợp với mục tiêu đào tạo. Mục tiêu đào
tạo nghề là đào tạo nguồn nhân lực lao động có kỹ thuật, nội dung dạy học
20
phải đảm bảo tính toàn diện, tính hệ thống, liên tục giữa các môn học, tỷ lệ
giữa lý thuyết và thực hành; kỹ năng, kỹ xảo cần có của ngành đào tạo.
- Nội dung dạy học phải đảm bảo tính cân đối và toàn diện giữa các
mặt: Thể hiện ở chỗ bên cạnh việc cung cấp kiến thức kỹ năng, kỹ xảo cần coi
trọng việc giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức.
- Nội dung đào tạo phải gắn liền với thực tế sản xuất.
- Nội dung dạy học phải đảm bảo tính khoa học, cơ bản, hiện đại phù
hợp với trình độ người học.
1.3.3. Phương pháp đào tạo nghề
Điều 26 khoản 1 Luật dạy nghề quy định về phương pháp dạy nghề:
“Phương pháp dạy nghề trình độ cao đẳng phải kết hợp rèn luyện năng
lực thực hành nghề với trang bị kiến thức chuyên môn và phát huy tính tích
cực, tự giác, năng động, khả năng tổ chức làm việc theo nhóm”.
Về đổi mới phương pháp đào tạo, Nghị quyết Trung ương 4 ghi: Đổi
mới phương pháp dạy học ở tất cả các cấp học. Kết hợp tốt học với hành, học
tập với lao động sản xuất, thực nghiệm và nghiên cứu khoa học, gắn nhà
trường với xã hội, áp dụng những phương pháp giáo dục hiện đại để bồi
dưởng học sinh năng lực giải quyết vấn đề.
Phương pháp dạy học gồm 4 nhóm: Nhóm phương pháp dạy học dùng
lời, nhóm phương pháp dạy học trực quan, nhóm phương pháp thực hành và
nhóm phương pháp kiểm tra đánh giá kết quả của học sinh. Như vậy, mỗi
phương pháo có một phạm vi nhất định, có quy định trình tự kế tiếp của các
bước riêng rẽ cua tư duy và hành động. Toàn bộ các phương pháp dạy học
không những có ý nghĩa đối với công tác giáo dưỡng, mà còn phải góp phần
vào việc giáo đạo đức, ý thức nghề nghiệp cho học sinh học nghề.
Như vậy, phương pháp dạy học là tổng hợp các cách thức hoạt động
của thày và trò nhằm thực hiện tối ưu mục đích, nhiệm vụ dạy học. Trong
21
thực tiễn giảng dạy mỗi phương pháp đều có những ưu nhược điểm riêng cho
nên để có lựa chọn và vận dụng phối hợp tốt nhất các phương pháp dạy học,
cần căn cứ vào mục đích yêu cầu, nội dung và đặc trưng từng môn học; căn
cứ vào đặc điểm nhận thức, đặc điểm lứa tuổi người học, điều kiện cơ sở vật
chất,... Trên cơ sở đó giáo viên tổ chức điều khiển hoạt động dạy, học sinh tự
tổ chức điều khiển hoạt động học để thực hiện tốt mục tiêu dạy học.
1.3.4. Hoạt động dạy học và hoạt động học tập
Quá trình dạy học là quá trình phối hợp thống nhất hoạt động điều khiển,
tổ chức hướng dẫn của giáo viên với hoạt động lĩnh hội, tự giác, tích cực, sáng
tạo của học sinh nhằm làm cho học sinh đạt tới mục tiêu dạy học. Quá trình dạy
học bao hàm trong đó hoạt động dạy và hoạt động học, được thực hiện đồng
thời cùng với một nội dung và hướng tới cùng với một mục đích.
1.3.4.1. Hoạt động dạy học
Trong dạy thực hành, người giáo viên dạy nghề phải đạt trình độ chuẩn
về chuyên môn nghiệp vụ theo quy định tại Điều 11 Nghị định số
02/2001/NĐ-CP ngày 09/01/2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Bộ
luật lao động và Luật giáo dục về dạy nghề.
Trong dạy học các điều kiện đảm bảo chất lượng và hiệu quả trong
dạy học các môn học thực hành chuyên môn nghề là: Phẩm chất và năng lực
của giáo viên kỹ thuật, mục tiêu và nội dung môn học; phương pháp dạy
học, trình độ nhận thức của học sinh, điều kiện cơ sở vật chất và đánh giá
kiểm tra,...
1.3.4.2. Hoạt động học tập
Là quá trình hoạt động của học sinh trong đó học sinh dựa vào nội dung
dạy học, vào sự chỉ đạo của giáo viên để lĩnh hội tri thức. Hoạt động học là
một nhận thức độc đáo, thông qua hoạt động mà người học chủ yếu thay đổi
chính bản thân mình và ngày càng có năng lực hơn trong hoạt động tích cực
22
nhận thức và cải biến hiện thực khách quan. Hoạt động dạy và học luôn gắn
bó mật thiết với nhau, thống nhất biện chứng với nhau, dạy tốt dẫn đến học
tốt, học tốt đòihỏi phải dạy tốt.
1.3.5. Kiểm tra đánh giá kết quả học tập
Kiểm tra và đánh giá kết quả thành tích học tập của học sinh là khâu
không thể thiếu trong quá trình dạy học. Kiểm tra đánh giá có quan hệ hữu cơ
với quá trình dạy học. Đánh giá là động lực thúc đẩy tích cực hoạt động dạy
học và là công cụ đo trình độ người học. Qua kiểm tra đánh giá giúp cho các
nhà quản lý điều chỉnh, cải tiến nội dung chương trình, kế hoạch dạy học
đồng thời giúp cho giáo viên luôn đổi mới nội dung, phương pháp dạy học.
Những yêu cầu cơ bản của việc đánh giá kết quả học tập của học
sinh gồm:
- Đảm bảo việc đánh giá là đánh giá kết quả đạt được mục tiêu giáo
dục. Đây là yêu cầu cơ bản nhất và quan trọng nhất của việc đánh giá kết quả
học tập của học sinh và đó chính là độ giá trị của đánh giá. Không đạt yêu cầu
này thì coi như cả quá trình đánh giá là không đạt.
- Đảm bảo tính khách quan. Yêu cầu đảm bảo tính khách quan của
đánh giá kết quả học tập của học sinh vừa đòi hỏi kết quả đánh giá phải phản
ánh đúng kết quả lĩnh hội kiến thức và kỹ năng của học sinh vừa đòi hỏi kết
quả đánh giá không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của những người đánh
giá.
- Đảm bảo tính công khai. Đảm bảo tính công khai trong đánh giá kết
quả học tập của học sinh từ khâu chuẩn bị tiến hành đến khâu công bố kết quả
không những có ý nghĩa giáo dục mà còn có ý nghĩa xã hội, thể hiện tính dân
chủ cũng như góp phần hạn chế tiêu cực trong giáo dục.
Ba yêu cầu cơ bản trên có thể dùng làm thước đo giá trị của việc đánh
giá kết quả học tập của học sinh.
23
Ngoài ra, cần phải bảo đảm ý nghĩa của việc kiểm tra, đánh giá kết quả
như sau:
- Đối với giáo viên ĐTN: Xác định được thành tích và thái độ của
từng học sinh học nghề và của toàn bộ lớp học, qua đó phân tích nguyên
nhân của những kết quả thu được từ đó tìm ra biện pháp để cải tiến công
tác sư phạm.
- Đối với học sinh học nghề: Họ tự xác định được sự hiểu biết và
nâng cao của chính mình so với yêu cầu đặt ra trong chương trình giáo dục.
- Đối với người quản lý giáo dục: Rút ra được những trọng tâm của
công tác giáo dục và giáo dưỡng ở cơ sở đào tạo của mình từ đó có những
biện pháp trong công tác tổ chức, quản lý và chỉ đạo mọi hoạt động đào tạo
của trường.
1.4. ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ CỦA DẠY HỌC NGHỀ
1.4.1. Đặc điểm của dạy học nghề
1.4.1.1. Sự khác nhau giữa dạy lý thuyết và dạy thực hành nghề
Dạy lý thuyết nghề và dạy thực hành nghề trong ĐTN có cùng một mục
đích, nhưng lại có những nhiệm vụ khác nhau:
+ Trong dạy thực hành nghề xuất hiện mối liên hệ tức thời giữa lý
thuyết với thực tiễn sản xuất, trong khi đó nói chung thì trong dạy lý thuyết
nghề không có sự sản xuất.
+ Trong dạy thực hành thì đơn vị thời gian là ngày, học ở nơi đào tạo
nghề như: Xưởng thực hành, hoặc phân xưởng sản xuất ngoài xí nghiệp hoặc
ở phòng học thực nghiệm. Nhưng trong dạy lý thuyết nghề, thời gian là tiết
học ở lớp hoặc ở phòng học.
+ Trong dạy thực hành nghề, số lượng học sinh nghề rất khác nhau
(thường có từ 15 đến 25 học sinh cho mỗi ca). Trong dạy lý thuyết nghề thì số
24
lượng học sinh lớn hơn (thường từ 30 đến 50 học sinh) và không thay đổi
trong toàn bộ thời gian.
+ Trong dạy thực hành nghề trên cơ sở của lao động thực tế trong sản
xuất mà tự tổ chức nơi làm việc, vị trí đứng máy, các quy định về an toàn, về
bảo hộ lao động phức tạp hơn trong dạy lý thuyết nghề.
+ Trong dạy thực hành nghề, học sinh học nghề tiếp xúc với giai cấp
công nhân, được giáo dục và đào tạo thông qua các tập thể lao động. Điều đó
trong dạy lý thuyết nghề chỉ là ngoại lệ.
+ Lao động sư phạm của giáo viên và lao động học tập của học sinh
trong dạy học thực hành nghề không đơn thuần là lao động trí óc, mà có tính
chất thể chất rõ rệt, đòi hỏi nỗ lực thể chất lớn hơn khi dạy học lý thuyết.
1.4.1.2. Tính chất xã hội của lao động học tập trong ĐTN
Quá trình dạy học trong ĐTN có liên hệ chặt chẽ với quá trình lao động
xã hội. Đây là một vấn đề cơ bản trong đào tạo nghề nghiệp người giáo viên
dạy phải nghiên cứu một cách nghiêm túc, bởi vì chính thông qua lao động
thực tiễn đã rút ra để rồi xây dựng mục đích và nhiệm vụ của dạy học thực
hành nghề.
+ Trong đào tạo nghề, tính chất của sự lĩnh hội nhận thức của học sinh
đã từng bước chuyển biến từ hoạt động có tính chất học tập thuần túy sang
tính chất học tập lao động rồi đến tính chất lao động – học tập và cuối cùng
trong giai đoạn thực tập ở vị trí người công nhân, hoạt động của học sinh hầu
như hoàn toàn mang tính chất lao động. Trong đào tạo nghề nguyên lý giáo
dục: “Học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường
gắn liền với xã hội” thể hiện rõ nét, đồng thời cũng có điều kiện khách quan
thuận lợi để thực hiện một cách triệt để.
+ Trong dạy học nghề lao động học tập có tính chất phân hóa cao do sự
đa dạng phong phú cảu các yêu cầu đặc trưng của hàng trăm nghề đào tạo
khác nhau của các loại hình và con đường đào tạo khác nhau.
25
1.4.2. Vai trò của dạy học nghề
Bất kỳ hoạt động nghề nghiệp nào, muốn đạt kết quả tốt bao giờ cũng
phải bảo đảm 2 mặt chủ yếu:
1/ Tính chính xác, nhanh gọn của các thao tác, động tác chính là kỹ xảo.
2/ Cách tổ chức hoạt động sản xuất – việc điều hành thành thạo kỹ năng
và phát triển tư duy. Vai trò cốt lõi của dạy học thực hành nghề hình thành kỹ
năng, rèn luyện kỹ xảo nghề và phát triển khả năng hành dụng trên cơ sở
những liên hệ hữu cơ giữa tri thức, kỹ năng và kỹ xảo.
1.4.2.1. Kỹ năng và kỹ xảo
Kỹ năng và kỹ xảo là hai thuật ngữ thường được đung để chỉ sự thực
hiện các hành động, hoạt động trong đời sống hoặc trong lao động nghề
nghiệp. Hai thuật ngữ này có quan hệ chặt chẽ với nhau và phát triển trên nền
kiến thức thu nhận được.
Theo từ điển Tiếng Việt (2002), kỹ năng là khả năng vận dụng những
tri thức thu nhận được trong một lĩnh vực nào đó vào thực tế. Từ góc độ tâm
lý học về dạy thực hành, kỹ năng được hiểu là: “Khả năng của con người thực
hiện công việc một cách có hiệu quả trong một thời gian thích hợp, trong các
điều kiện nhất định và dựa vào các tri thức, kỹ xảo đã có”.
Trong tâm lý học dạy thực hành, người ta coi: “Kỹ xảo là hoạt động
hay thành phần của hoạt động đã được tự động hóa nhờ quá trình luyện tập”.
Trong đào tạo nghề kỹ xảo thường bao gồm 3 loại kỹ xảo: Kỹ xảo vận
động; kỹ xảo cảm giác và kỹ xảo trí tuệ. Các loại kỹ xảo này có quan hệ mật
thiết với nhau, khó có thể tách rời trong hoạt động nghề nghiệp. Ví dụ như
việc đánh búa của người thợ rèn bao gồm cả 3 loại kỹ xảo.
1.4.2.2. Mối quan hệ giũa tri thức, kỹ năng và kỹ xảo
Tri thức là thành tố tạo thành kỹ năng, có hiểu biết công việc mới có
thể thực hiện được công việc, mặt khác tri thức cũng là cơ sở để hình thành
và hoàn thiện kỹ xảo. Kỹ năng, kỹ xảo có tác dụng ngược trở lại đến tri thức,