Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Thực trạng xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (265.07 KB, 32 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Lời Mở đầu
Từ giữa năm 1975, sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu n-
ớc, cả nớc độc lập thống nhất dới sự lãnh đạo của Đảng, bớc vào thời kỳ quá
độ tiến lên chủ nghĩa xã hội.Bớc chuyển biến cách mạng lịch sử này đã và
đang diễn ra cho đến nay đợc hai thập kỷ song đã gặp không ít những thuận
lợi, khó khăn chồng chất không lờng trớc đợc xảy ra cả trong nớc cũng nh
trên thế giới, ảnh hởng rất lớn đến tiến trình đi lên của cách mạng nớc ta.
Trong thời kỳ 1975-1985 là thời kỳ sử dụng mô hình kinh tế cũ mà đặc
trng là: Cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, các thành phần kinh tế phi XHCN
(t bản, cá thể) sớm bị xoá bỏ ở mức cao và mở rộng trong phạm vi cả nớc.
Những nhợc điểm và khuyết điểm của mô hình đó đã trở thành sức cản lớn
đối với sự phát triển KT XH, dẫn đến khủng hoảng kinh tế xã hội gay gắt.
Chính những khó khăn, thách thức trong giai đoạn này đã tạo điều kiện
để t duy mới từng bớc hình thành và phát triển tiệm tiến từng mặt, từng phần,
ban đầu là những thể nghiệm đáng chú ý: Qua nghị quyết trung ơng IV (khoá
6) với chính sách làm cho sản xuất bung ra, nghị quyết đại hội V với việc xác
định thứ tự trong phát triển kinh tế khẳng định nông nghiệp là mặt trận hàng
đầu, nghị quyết trung ơng VIII về giá lơng tiền, nghị quyết Bộ chính trị khoá
V về các quan điểm kinh tế. Và đến đại hội VI ( năm 1986) đã có một bớc
chuyển biến, đặc biệt trong đờng lối phát triển kinh tế: bớc đầu tạo ra một cơ
cấu kinh tế hợp lý nhằm phát triển xã hội.
Song trong thời kỳ quá độ từ một nớc phong kiến lên một nớc XHCN
không kinh qua chế độ t bản chủ nghĩa, cái cũ cha mất đi, cái mới cha mạnh
lên, cha có đủ sức chống lại sự chống phá của các thế lực thù địch, chính vì
vậy trong giai đoạn này còn tồn tại những mâu thuẫn giữa các thành phần
kinh tế, những vấn đề bất cập cần phải đợc giải quyết.
Cũng chính vì lý do này mà trong bài tiểu luận này em xin đợc đề cập
đến sự hình thành tất yếu của nền kinh tế thị trờng (hay nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần) trong chế độ hiện nay, những mâu thuẫn và những phơng
hớng giải quyết.


Phạm Thị Ngọc Anh Kiểm toán 43A Trang
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Kết cấu của bài tiểu luận này gồm có bốn phần:
Lời mở đầu.
Phần I: Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập Tính
tất yếu phải xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần.
Phần II: Thực trạng xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần ở Việt Nam - Những mâu thuẫn nảy sinh và biện pháp giải quyết.
Kết luận
Để hoàn thành bài viết này em đã đợc sự hớng dẫn tận tình của thầy
Nguyễn Hữu Bật, em xin chân thành cảm ơn thầy.
Hà Nội, ngày 25 tháng 11 năm 2004.
Sinh viên
Phạm Thị Ngọc Anh
Phạm Thị Ngọc Anh Kiểm toán 43A Trang
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Phần I:
Quy luật thống nhất và đấu tranh của các
mặt đối lập Tính tất yếu phải xây dựng nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở Việt
Nam
Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập là một trong ba quy luật
cơ bản của phép biện chứng duy vật, và là hạt nhân của phép biện chứng duy vật.
Nội dung của quy luật chỉ ra nguồn gốc, động lực của mọi sự vận động, phát
triển trong thế giới khách quan.
I. Nội dung quy luật mâu thuẫn:
1.1. Mâu thuẫn là hiện tợng khách quan phổ biến:
Sự vật hiện tợng của thế giới khách quan đều đợc tạo thành từ nhiều yếu tố,
nhiều bộ phận, nhiều quá trình khác nhau. Theo nguyên lý về mối liên hệ phổ
biến thì mọi sự vật, hiện tợng trong thế giới khách quan tồn tại trong mối liên hệ

phổ biến, đợc thể hiện: Sự vật hiện tợng là tiền đề, điều kiện tồn tại và phát triển
của nhau, nơng tựa, phụ thuộc ràng buộc lẫn nhau, thờng xuyên thâm nhập,
chuyển hoá lẫn nhau làm cho ranh giới giữa các lớp sự vật không bao giờ là tuyệt
đối, giữa chúng bao giờ cũng có một lớp trung gian chuyển tiếp, và mối liên hệ
giữa các sự vật diễn ra không chỉ giữa các sự vật với nhau mà còn diễn ra trong
bản thân từng sự vật. Sự vật có rất nhiều mối liên hệ, nhng vị trí, vai trò của từng
mối liên hệ không giống nhau. Trong tổng số những mối liên hệ mà sự vật có,
những mối liên hệ bên trong, bản chất bao giờ cũng cũng có ý nghĩa quyết định
đến sự tồn tại và phát triển của sự vật, còn những mối liên hệ bên ngoài không
bản chất bao giờ cũng chỉ có những ảnh hởng nhất định.
Theo nguyên lý này, các yếu tố, bộ phận của quá trình tạo nên sự vật, hiện t-
ợng của thế giới khách quan thờng xuyên liên hệ, tác động lẫn nhau tạo thành
những xu hớng, phát triển trái ngợc nhau và gọi là các mặt đối lập. Các mặt đối
lập hợp thành mâu thuẫn của sự vật. Do đó mâu thuẫn là sự liên hệ tác động lẫn
nhau giữa các mặt đối lập trong bản thân sự vật hay giữa các sự vật với nhau. Vì
Phạm Thị Ngọc Anh Kiểm toán 43A Trang
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
vậy bất kỳ ở đâu, lúc nào, sự vật cũng đều có những mâu thuẫn, và khi một mâu
thuẫn nào đó đợc giải quyết thì sự vật lại xuất hiện một mâu thuẫn mới. Do vậy
mâu thuẫn là hiện tợng khách quan phổ biến của sự vật.
1.2. Sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập:
Các mặt đối lập là những mặt có xu hớng phát triển trái ngợc nhau nhng
chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau, chúng vừa thống nhất với nhau, lại vừa đấu
tranh, tiêu diệt lẫn nhau. Trong đó thống nhất chỉ là tạm thời, tơng đối, còn đấu
tranh là vĩnh viễn tuyệt đối.
1.2.1. Sự thống nhất giữa các mặt đối lập:
Hai mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn biện chứng, tồn tại trong sự thống nhất
với nhau. Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự nơng tựa, ràng buộc, phụ thuộc
lẫn nhau, tồn tại không tách rời nhau, là tiền đề điều kiện tồn tại của nhau, chúng
thờng xuyên xâm nhập chuyển hóa lẫn cho nhau và sự tồn tại của mặt này có sự

tồn tại của mặt kia làm tiền đề. Song sự thống nhất của các mặt đối lập chỉ là
hiện tợng tơng đối tạm thời, có khởi đầu, có kết thúc, diễn ra trong một giới hạn
nhất định, nhng sự thống nhất giữa các mặt đối lập là môi trờng, là điều kiện, là
địa bàn cho sự đấu tranh giữa chúng và đấu tranh giữa các mặt đối lập ngay
trong thể thống nhất của chúng, tức là trong chính bản thân sự vật.
1.2.2. Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập :
Đó là sự bài trừ, gạt bỏ, phủ định lẫn nhau giữa chúng. Hai mặt đối lập nhau
cùng tồn tại trong một thể thống nhất là sự vật, chúng thờng xuyên gạt bỏ phủ
định nhau, vì thế sự đấu tranh giữa các mặt đối lập không tách rời sự thống nhất
giữa chúng. Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập diễn ra thờng xuyên liên tục, từ khi
thể thống nhất đợc thiết lập cho đến khi nó bị phá vỡ để thiết lập một thể thống
nhất mới, nhng sự đấu tranh giữa các mặt đối lập phải diễn ra qua nhiều giai đoạn
với nhiều hình thức khác nhau và sẽ dẫn đến sự chuyển hoá cuối cùng giữa các
mặt đối lập. Kết quả hai mặt đối lập đều có sự thay đổi, đều cùng phát triển lên
một tính chất, trình độ mới. Khi đó mâu thuẫn đợc giải quyết, sự vật phát triển,
trong sự vật mới lại xuất hiện mâu thuẫn mới, quá trình vận động của mâu thuẫn
lại dẫn đến sự chuyển hoá cuối cùng, mâu thuẫn đợc giải quyết và sự vật lại phát
Phạm Thị Ngọc Anh Kiểm toán 43A Trang
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
triển lên một trình độ mới hơn. Quá trình đó lặp đi lặp lại thờng xuyên, vì thế đấu
tranh giữa các mặt đối lập là vĩnh viễn tuyệt đối.
Sự chuyển hoá cuối cùng giữa các mặt đối lập là sự kiện quan trọng nhất
trong quá trình vận động, giải quyết mâu thuẫn, khi sự chuyển hoá cuối cùng
đựơc thực hiện, mâu thuẫn đựoc giải quyết, sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời,
còn nếu sự vận động của sự vật không dẫn đến sự chuyển hoá cuối cùng thì mâu
thuẫn cha đợc giải quyết, sự vật vẫn là chính nó.
1.2.3. Mâu thuẫn là nguồn gốc của sự vận động phát triển:
Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là hai xu hớng tác động khác
nhau của các mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn. Nh vậy mâu thuẫn biện chứng đã
bao hàm cả sự thống nhất lẫn đấu tranh của các mặt đối lập. Sự thống nhất và

đấu tranh của các mặt đối lập không tách rời nhau, trong quá trình vận động phát
triển của sự vật. Sự thống nhất gắn liền với với sự đứng im, với ổn định tạm thời
của sự vật. Sự đấu tranh gắn liền với tính tuyệt đối của sự vận động và phát triển.
Điều đó có nghĩa là sự thống nhất của các mặt đối lập là tơng đối, tạm thời, sự
đấu tranh của các mặt đối lập là tuyệt đối. V.I.Lenin viết: Sự thống nhất () của
các mặt đối lập là có điều kiện, tạm thời, thoáng qua, tơng đối, sự đấu tranh của
các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối, cũng nh sự phát triển vận động là
tuyệt đối.
Trong sự vận động qua lại của các mặt đối lập thì đấu tranh của các mặt đối
lập quy định một cách tất yếu sự thay đổi của các mặt đang tác động làm cho
mâu thuẫn phát triển. Lúc đầu mới xuất hiện, mâu thuẫn đó chỉ là sự khác nhau
căn bản, nhng theo khuynh hớng trái ngợc nhau. Sự khác nhau đó càng ngày càng
phát triển và đi đến đối lập. Khi hai mặt đối lập xung đột gay gắt đã đủ điều kiện,
chúng sẽ chuyển hoá lẫn nhau, mâu thuẫn đợc giải quyết. Nhờ đó mà thể thống
nhất cũ đợc thay thế bằng thể thống nhất mới, sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời,
thay thế. V.I.Lê-nin viết:Sự phát triển là một cuộc đấu tranh giữa các mặt đối
lập. Tuy nhiên không có thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập thì cũng
không có đấu tranh giữa chúng. Thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là
không thể tách rời nhau trong mâu thuẫn biện chứng. Sự vận độngvà phát triển
bao giờ cũng là sự thống nhất giữa tính ổn định và tính thay đổi. Sự thống nhất và
đấu tranh của các mặt đối lập trong quy định tính ổn định và sự thay đổi của sự
Phạm Thị Ngọc Anh Kiểm toán 43A Trang
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
vật. Do đó mâu thuẫn chính là nguồn gốc của sự vận động phát triển của sự vận
động phát triển.
1.3. ý nghĩa phơng pháp luận của quy luật:
Việc nghiên cứu quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập có ý
nghĩa quan trọng trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Để nhận thức đúng bản chất sự vật và tìm ra phơng hớng và giải pháp đúng
cho hoạt động thực tiễn phải đi sâu nghiên cứu phát hiện ra mâu thuẫn của sự vật.

Muốn phát hiện ra mâu thuẫn phải tìm ra trong thể thống nhất những mặt đối lập
và tìm ra những mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau giữa các mặt đối lập đó.
V.I.Lê-nin viết: Sự phân đôi của cái thống nhất và sự nhận thức của các bộ phận
của nó, đó là thực chất của phép biện chứng.
Khi phân tích mâu thuẫn phải xem xét trong quá trình phát sinh, phát triển
của từng mâu thuẫn, xem xét vai trò, vị trí và mối quan hệ lẫn nhau của các mâu
thuẫn; phải xem xét quá trình phát sinh phát triển và vị trí của từng mặt đối lập,
mối quan hệ tác động qua lại giữa chúng, điều kiện chuyển hóa lẫn nhau giữa
chúng. Chỉ có nh thế chúng ta mới có thể hiểu đúng mâu thuẫn của sự vật, hiểu
đúng xu hớng vận động phát triển và điều kiện giải quyết mâu thuẫn.
Để thúc đẩy sự vật phát triển phải tìm moi cách để giải quyết mâu thuẫn,
không đợc điều hoà mâu thuẫn. Việc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn phải phù
hợp với trình độ phát triển của mâu thuẫn, phải tìm ra phơng thức, phơng tiện và
lực lợng để giải quyết mâu thuẫn. Mâu thuẫn chỉ có thể giải quyết khi điều kiện
đã chín muồi. Một mặt phải chống thái độ chủ quan để làm cho các điều kiện giải
quyết mâu thuẫn đi đến chín muồi. Mâu thuẫn khác nhau phải có phơng pháp giải
quyết khác nhau. Phải tìm ra các hình thức giải quyết mâu thuẫn một cách linh
hoạt, vừa phù hợp với điều kiện cụ thể.
Phạm Thị Ngọc Anh Kiểm toán 43A Trang
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
II. Tính tất yếu phải xây dựng nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần:
2.1. Sở hữu t liệu sản xuất trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam
2.1.1. Sở hữu TLSX và vai trò của nó
Trong quá trình sản xuất, con ngời phải quan hệ với tự nhiên, chiếm hữu những
vật liệu có sẵn trong tự nhiên biến đổi những vật liệu đó thành những sản phẩm phù
hợp với nhu cầu của con ngời. Chiếm hữu là quan hệ giữa ngời với tự nhiên, là hành vi
tồn tại cùng với sự phát triển của con ngời, là phạm trù vĩnh viễn.
Trong xã hội có giai cấp, các cá nhân không có quyền nh nhau đối với của
cải vật chất do con ngời tạo ra, đối với những gì thuộc về tự nhiên mà con ngời

chiếm hữu. Quan hệ giữa con ngời với con ngời trong việc chiếm hữu của cải đó
là quan hệ sở hữu. Trong quan hệ giữa của cải vật chất, thì quan hệ sở hữu về
TLSX giữ vai trò quyết định.
Trong lịch sử, mỗi PTSX có một loại hình sở hữu t liệu sản xuất đặc trng,
chẳng hạn sở hữu phong kiến, sở hữu TBCN. Nhng điều đó không có nghĩa là
mỗi PTSX chỉ có một hình thức sở hữu TLSX, mà có thể có nhiều loại hình sở
hữu TLSX khác nhau cùng tồn tại.
Trong lịch sử phát triển của nền sản xuất XH chung quy lại có hai loại hình
sở hữu cơ bản về TLSX là sở hữu công cộng và sở hữu t nhân. Bên cạnh hai loại
hình đó là hình thức sở hữu hỗn hợp. Một loại hình sở hữu TLSX có thể bao gồm
một số hình thức sở hữu. Chẳng hạn, loại hình sở hữu công cộng về TLSX gồm có
hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể.
Sự xã hội hoá của các hình thức sở hữu TLSX do tính chất và trình độ phát
triển của các LLSX quy định. LLSX không ngừng vận động, biến đổi làm cho
QHSX cũng không ngừng vận động biến đổi. Trong lịch sử phát triển của sản
xuất XH, sở hữu t nhân về TLSX, từ chỗ phù hợp, thúc đẩy sự phát triển của
LLSX dần dần trở thành lạc hậu lỗi thời, cản trở sự phát triển của LLSX. Sự thay
thế sở hữu t nhân bằng sở hữu công cộng về TLSX, mở đờng cho sự phát triển
hơn nữa của LLSX là tất yếu khách quan.
Thời kỳ quá độ lên CNXH là thời kỳ chuyển biến từ sở hữu t nhân thành sở
hữu công cộng về TLSX. Nhng sự chuyển biến đó mang lại tính khách quan tuỳ
Phạm Thị Ngọc Anh Kiểm toán 43A Trang
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
thuộc vào trình độ phát triển của LLSX. Do đó sự nóng vội chủ quan, duy ý chí
trong việc xoá bỏ sở hữu t nhân, xác lập sở hữu công cộng về TLSX đều trái với
yêu cầu của quy định QHSX phải phù hợp tính chất và trình độ phát triển của
LLSX và phải trả giá.
Đặc điểm to lớn nhất của thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam là điểm
xuất phát rất thấp, sản xuất nhỏ là phổ biến, bỏ qua chế độ TBCN. Điều đó có
nghĩa là trình độ của LLSX nớc ta còn rất thấp kém do vậy sở hữu t nhân về

TLSX vẫn còn phù hợp với trình độ của LLSX. Bởi vậy trong giai đoạn đầu của
thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam, sở hữu t nhân về TLSX chẳng những
không cần phải xoá bỏ mà còn cần đợc tạo điều kiện để phát triển.
Sở hữu công cộng về TLSX vừa là phơng tiện, vừa là mục tiêu cần thực hiện
của công cuộc xây dựng CNXH. Do đó xây dựng sở hữu công cộng về TLSX còn
là công cụ quan trọng định hớng nền kinh tế lên CNXH. Tuy nhiên việc xây dựng
sở hữu công cộng về TLSX phải trải qua một thời kỳ lâu dài, từ thấp đến cao và
luôn phải đặt trong mối liên hệ với trình độ phát triển của LLSX. Sở hữu công
cộng về TLSX phải thể hiện u thế, sức sống của mình so với sở hữu t nhân bằng
năng suất, chất lợng, hiệu quả. Bởi vậy, xây dựng sở hữu công cộng về TLSX
không đơn giản là thiết lập chế độ công hữu về TLSX dới hai hình thức toàn dân
và tập thể mà điều quan trọng và khó khăn hơn cả là phải làm cho sở hữu công
cộng về TLSX có năng suất, chất lợng, và hiệu quả cao hơn so với sở hữu t nhân.
2.1.2.Các hình thức sở hữu TLSX trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam, LLSX cha phát triển cao và có
nhiều trình độ khác nhau. Do đó, trong nền kinh tế tồn tại nhiều loại hình sở hữu
TLSX: sở hữu t nhân, sở hữu công cộng về TLSX và sở hữu hỗn hợp. Trong mỗi
loại hình sở hữu TLSX tồn tại những hình thức sở hữu khác nhau và vì thế trong
nền kinh tế có nhiều hình thức sở hữu: sở hữu tập thể, sở hữu nhà nớc, sở hữu cá
thể, sở hữu t bản t nhân, sở hữu hỗn hợp giữa nhà nớc và t nhân.
Các hình thức sở hữu TLSX không tồn tại biệt lập mà đan xen và tác động
lẫn nhau. Sở hữu nhà nớc đợc xác lập trớc hết đối với các công trình thuộc kết cấu
hạ tầng, các nguồn tài nguyên, các tài sản quốc gia, Sở hữu nhà nớc còn đợc
thiết lập trong các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế nh: ngân hàng, bảo hiểm, bu
điện, đờng sắt, hàng không, sản xuất điện, khai thác mỏĐồng thời, do hoàn
Phạm Thị Ngọc Anh Kiểm toán 43A Trang
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
cảnh lịch sử, sở hữu nhà nớc còn đợc thiết lập ở các doanh nghiệp cung ứng hàng
hoá, dịch vụ thông thờng. Với sự thiết lập sở hữu nhà nớc, nhà nớc trở thành chủ
thể kinh tế thực sự, thiết lập quan hệ kinh tế và tác động đến các chủ thể kinh tế

khác.
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, sở hữu t bản t nhân không còn là hình thức
sở hữu thống trị, nhng vẫn còn là hình thức sở hữu thống trị, nhng vẫn tồn tại đan
xen với sở hữu nhà nớc, kể cả trong các thành phần kinh tế then chốt nh ngân
hàng, bảo hiểm,Trong các khu vực kinh tế mà trình độ của LLSX thấp kém hơn
thì tồn tại dới hình thức sở hữu cá thể, sở hữu tập thể.
Các hình thức sở hữu là cơ sở để thực hiện lợi ích của các chủ thể kinh tế và
tác động với nhau trên tất cả các phơng diện và tổ chức quản lý, phân phối thu
nhập, năng suất, chất lợng, hiệu quảLợi ích của các chủ thể còn đòi hỏi các
hình thức sở hữu liên kết với nhau và từ đó hình thức sở hữu hỗn hợp xuất hiện.
2.2. Nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở
Việt Nam
2.2.1. Phạm trù thành phần kinh tế
Thành phần kinh tế (TPKT) là một loại hình tổ chức hoạt động kinh tế với
một QHSX xác định, có mối liên hệ chặt chẽ với LLSX nhất định đã ra đời, nhng
cha phát triển tới độ bao trùm và thống trị tuyệt đối trong nền kinh tế hoặc đang
bị thủ tiêu dần, không còn đủ t cách là một PTSX hoàn chỉnh.
Nghĩa là, TPKT phản ánh mối quan hệ chặt chẽ giữa QHSX và LLSX, đặc
trng cho một kiểu tổ chức hoạt động kinh tế hớng tới việc thực hiện một PTSX
nhất định hoặc là đang nảy sinh, hoặc là đang bị thủ tiêu dần.
Mặc dù khái niệm PTSX và khái niệm TPKT đều bao trùm sự thống nhất biện
chứng giữa QHSX và LLSX, nhng hai khái niệm này không đồng nhất. Chỉ khi nào
mối quan hệ của một loại hình QHSX nhất định gắn với một LLSX tơng ứng đạt trình
độ hoàn chỉnh chín muồi, giữ địa vị thống trị và quyết định xu hớng vận động phát
triển của nền kinh tế thì nó mới trở thành PTSX. Còn khi mối liên hệ giữa QHSX và
LLSX chỉ dừng lại ở mức độ cha phát triển chín muồi, cha trở thành thống trị và chỉ
mới có ảnh hởng nhất định đến xu hớng vận động của nền kinh tế, thì khi đó mới chỉ
là hoạt động với t cách là một TPKT.
Phạm Thị Ngọc Anh Kiểm toán 43A Trang
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Nền kinh tế quá độ của thời kỳ quá độ lên CNXH tồn tại đan xen của nhiều
kết cấu kinh tế xã hội: Kết cấu KT-XH cũ đang suy thoái dần và kết cấu KT-XH
mới đã phát sinh, đang phát triển dần từng bớc. V.I. Lê-nin viết: Danh từ quá độ
nghĩa là gì ? Vận dụng vào kinh tế, có phải nó có nghĩa là trong chế độ hiện nay
có những thành phần, những bộ phận, những mảnh của CNTB và CNXH không?
Bất cứ ai cũng thừa nhận là có(
1
). Điều đó có nghĩa là trong nền kinh tế quá độ
của thời kỳ quá độ lên CNXH không có PTSX nào tồn tại cả, mà nó chỉ có nền
kinh tế với cơ cấu nhiều thành phần. Sự cùng tồn tại của các thành phần kinh tế
trong phạm vi một nền KT-XH thì gọi nó là tính nhiều thành phần của nền kinh
tế. Tính chất nhiều TPKT là nét đặc trng có tính quy luật của nền kinh tế quá độ
vì thời kỳ quá độ là thời kỳ giáp ranh, chuyển tiếp từ sự thống trị của PTSX cũ
sang sự thống rị của PTSX mới, cao hơn. Cũng vì vậy mà trong nền kinh tế quá
độ cuả các TPKT đều không nguyên dạng, ít nhiều có những tính chất mới. Kinh
tế nhà nớc, kinh tế hợp tác cha thể hiện đầy đủ tính chất XHCN; còn kinh tế t
nhân, kinh tế cá thể không còn giữ nguyên bản chất riêng của mình giống nh nó
trong XH cũ vì chúng phải chịu sự quản lý của nhà nớc XHCN.
Trong quá trình tồn tại, phát triển các thành phần kinh tế vận động phát
triển theo hai hớng: hoặc là đang phát triển tới độ hoàn chỉnh để đi đến khẳng
định mình với t cách là một PTSX nhất định, độc lập, đại diện cho một thời đại,
hoặc là đang bị suy yếu dẫn đến mức không còn t cách là một PTSX hoàn chỉnh
nữa, mà chỉ còn là hình thức kinh tế, lệ thuộc hữu cơ vào TPKT đã phát triển nh
một PTSX nhất định đang thống trị.
Nh vậy các TPKT chỉ tồn tại trong nền kinh tế quá độ, mà ở đó cha xuất
hiện một PTSX nào tồn tại và thống trị cả. Quá trình vận động, đấu tranh giữa các
TPKT trong nền kinh tế quá độ sẽ chỉ có một TPKT phát triển tới độ hoàn chỉnh.
Chín muồi vơn lên giữ địa vị thống trị, quyết định xu hớng vận động của nền kinh
tế, đủ sức biến đổi những TPKT khác lệ thuộc suy yếu dần thành những hình thức
kinh tế độc đáo của việc thực hiện PTSX đã hình thành và thống trị.

Khi nền kinh tế quá độ với cơ cấu nhiều thành phần đã chuyển hoá thành
nền kinh tế mà trong đó một TPKT đã trở thành PTSX thống trị các TPKT khác
yếu dần thành những hình thức kinh tế lệ thuộc, thì lúc đó tính chất quá độ của
1
V.I. Lênin toàn tập, tập 43, Nxb Tiến bộ, M.1978, Tr 248
Phạm Thị Ngọc Anh Kiểm toán 43A Trang 10
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
nền kinh tế kết thúc trở thành nền kinh tế đã trởng thành hoàn chỉnh của một chế
độ XH mới, của hình thái KT-XH mới; khi đó xét về phơng diện kinh tế thì thời
kỳ quá độ sẽ kết thúc. Trong mỗi chế độ XH, trong mỗi hình thái kinh tế XH đều
chỉ có một PTSX thống trị và nhiều hình thức kinh tế phụ thuộc.
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, nền kinh tế còn tồn tại nhiều thành phần,
trong đó TPKT nhà nớc giữ vai trò chủ đạo và cùng với sự lớn mạnh của kinh tế
tập thể làm nền tảng cho sự phát triển của nền KTQD theo định hớng XHCN. Các
TPKT t nhân, cá thể đợc sử dụng và cải tạo theo CNXH.
Thời kỳ quá độ là một thời kỳ lịch sử đặc biệt, trong đó nền kinh tế là nền
kinh tế qúa độ nhiều thành phần. V.I.Lênin chỉ ra rằng, ở các nớc đi lên CNXH,
phổ biến có ba thành phần kinh tế cơ bản: Kinh tế XHCN, kinh tế TBCN và kinh
tế sản xuất hàng hoá nhỏ.
2.2.2. Thực tiễn nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam:
Vận dụng t tởng của Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, Đảng ta
khẳng định nớc ta hiện có các TPKT sau: Kinh tế nhà nớc, kinh tế tập thể, kinh
tế cá thể, kinh tế TBTN, kinh tế TB NN và kinh tế có vốn đầu t của nớc ngoài. Sự
tồn tại của nhiều TPKT trong nền kinh tế quá độ là một tất yếu khách quan,tính
rất yếu đó đợc quy định bởi các điểm sau:
Do LLSX xã hội phát triển không đồng đều giữa các cùng, các ngành và
trong nội bộ từng vùng Tơng ứng với mỗi trình độ của LLSX có một loại hình
QHSX, do đó có một TPKT tồn tại. Có bao nhiêu trình độ phát triển LLSX thì có
bấy nhiêu loại hình QHSX, do đó có bấy nhiêu TPKT. Sự xuất hiện, phát triển và
tiêu vong của các TPKT phụ thuộc vào trình độ phát triển của LLSX.

Ngời ta không thể xoá bỏ hoặc u tiên TPKT này hay TPKT khác một cách
chủ quan. Việc biến đổi QHSX đợc quyết định bởi tính chất và trình độ phát triển của
LLSX. Không thể bỏ qua loại hình QHSX nào tức là không thể bỏ qua TPKT nào khi
nó còn phù hợp và LLSX tơng đồng với nó vòn tồn tại và cần thiết cho sự phát triển
của nền kinh tế. Vịêc chuyển từ những QHSX, TPKT cũ lỗi thời sang những QHSX,
TPKT chỉ diễn ra khi những điều kiện tồn tại vật chất của chúng đã chín muồi. C.Mác
viết: Một chế độ XH không bao giờ mất đi trớc khi tất cả những LLSX mà chếe độ
XH đó tạo địa bàn cho phát triển cha đợc phát triển và những QHSX mới cao hơn
Phạm Thị Ngọc Anh Kiểm toán 43A Trang 11
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
không bao giờ xuất hiện trớc khi nhũng điều kiện vật chất của những quan hệ đó cha
chín muồi trong lòng bản thân XH cũ(
2
).
Do tính chất qúa độ của nền kinh tế trong thời kỳ quá độ.
Nền kinh tế quá độ trong thời kỳ quá độ lên CNXH tồn tại đan xen của
nhiều kết cấu KT-XH: kế cấu KT-XH cũ đang suy yếu dần và kết cấu KT-XH
mới đã phát sinh, đang phát triển dần từng bớc. Nghĩa là trong nền kinh tế quá độ
lên CNXH không có PTSX nào tồn tại cả mà chỉ có nền kinh tế với cơ cấu nhiều
thành phần.
Tính chất quá độ của nền kinh tế quy định tính nhiều thành phần kinh tế,
bởi vì:
Thứ nhất: Khi giai cấp công nhân và nhân dân lao động giành đợc
chính quyền và bớc vào con đờng xây dựng CNXH thì một đòi hỏi khách quan là
phải từng bớc xây dựng cơ sở KT-XH của chế độ mới, hình thành những thành
phần kinh tế đóng vai trò nền tảnag cho nền kinh tế mới là kinh tế nhà nớc, kinh
tế tập thể, mặc dù chúng cha đủ sức thống trị nền kinh tế.
Đồng thời mặc dù tính chất quá độ từ một nớc thuộc địa nửa phong kiến đi
lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN, nớc ta tất yếu còn có kinh tế TB nhà nớc, kinh tế
TB t nhân, kinh tế cá thể tiểu chủ của nông dân, thợ thủ công, ngời làm thơng

nghiệp, dịch vụ Những TPKT này vẫn đang tồn tại và phát huy tác dụng bên
cạnh những TPKT mới.
Thứ hai: Quá trình xã hội hoá nền kinh tế không chỉ thể hiện ở ở sự
phát triển của phân công lao động, sự liên kết hợp tác, đan xen giữa các TPKT
nhiều tầng năng động mà còn phản ánh sự dịch chuyển không ngừng, thay đổi
cấu trúc không ngừng và chuyển hoá lẫn nhau giữa các TPKT để duy trì XH hóa
thực tế.
Sự cùng tồn tại của nhiều TPKT là một tất yếu kinh tế. Bởi lẽ nền kinh tế
nhiều thành phần tạo ra một động lực rất quan trọng về nhiều mặt:
Giải quyết đợc mọi sức sản xuất tiềm tàng và mọi tiềm năng của đất
nớc để phát triển nền KTQD, tập hợp mọi nguồn lực rộng rãi trong toàn xã hội về
lao động, trí tuệ cho công cuộc phát triển một cách nhanh nhất, có hiệu quả nhất.
2
() Góp phần phê phán chính trị kinh tế học- Nxb Sự thật, H. 1971, Tr.8.
Phạm Thị Ngọc Anh Kiểm toán 43A Trang 12

×