Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PL về THẨM QUYỀN xét xử VAHC của tòa án

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.43 KB, 16 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU………………………………………………………………….. 1
NỘI DUNG……………………………………………………………….. 2
Lý thuyết chung………………………………………………………
1. Thẩm quyền xét xử hành chính…………………………….............
a. Khái niệm……………………………………………………………
b. Đặc điểm…………………………………………………………….
2. Cở sở để xác định thẩm quyền
xét xử hành chính của TAND……………………………………………...
a. Cơ sở lý luận………………………………………………………..
b. Cơ sở thực tiễn………………………………………………………
3. Đối tượng xét xử hành chính của TAND…………………………..
4. Thẩm quyền xét xử hành chính của
TAND theo lãnh thổ………………………………………………………
I.

Thực trang thực hiện PL về thẩm quyền xét xử
vụ án hành chính của TAND ở nước ta hiện nay ……………………..
1. Pháp luật về thẩm quyền giải quyết
vụ án hành chính của Tòa Án…………………………………………….

2
2
2
2
3
3
3
4
6



II.

6
6

2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về

thẩm quyền xét xử vụ án hành chính……………………………………..

8

a. Lúng túng trong xác định thẩm quyền……………………………..

8

b. Thẩm quyền theo loại việc………………………………………….

8

c. Thẩm quyền theo cấp xét xử và lãnh thổ…………………………..

10

III. Một số kiến nghị về thẩm quyền

xét xử các vụ án hành chính………………………………………………. 12
KẾT LUẬN………………………………………………………………... 13
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................


1

14


MỞ ĐẦU
Ở Việt Nam, xuất phát từ điều kiện chính trị, xã hội và nền tảng pháp luật,
nhà nước trao quyền xét xử hành chính cho Tòa án nhân dân. Việt Nam không
thành lập Tòa hành chính như một hệ thống độc lập, cũng không tổ chức Tòa
hành chính thống nhất từ Trung ương đến địa phương mà thành lập Tòa hành
chính chuyên trách thuộc TAND cấp Tỉnh, Tòa hành chính thuộc TAND Cấp
cao và Tòa hành chính thuộc TAND Tối cao.
Bằng hoạt động xét xử nói chung, Tòa án đã góp phần tích cực bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của người dân, tăng cường pháp chế XHCN và xây dựng nhà
nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Tuy nhiên, thực tế hiện nay cho thấy, so với
các lĩnh vực như hình sự, dân sự thì trong lĩnh vực hành chính, số lượng vụ việc
đã được giải quyết tại TAND còn hạn chế, vai trò của Tòa án trong lĩnh vực này
còn chưa cao và chưa đáp ứng yêu cầu hiện tại của xã hội.
Vì vậy, để hiểu rõ hơn về thẩm quyền của Tòa án nhân dân trong việc giải
quyết các vụ án hành chính cũng như thực trạng thực hiện pháp luật về thẩm
quyền giải quyết vụ án hành chính của TAND ở Việt Nam hiện nay, cùng với đề
tài nghiên cứu: “Thực trạng thực hiện pháp luật về thẩm quyền xét xử vụ án
hành chính của TAND ở nước ta hiện nay”, sau đây nhóm em xin đi sâu phân
tích và làm rõ các chế định pháp lý về thẩm quyền xét xử vụ án hành chính của
Tòa án, từ đó nêu lên những vướng mắc, bất cập trong thẩm quyền xét xử và giải
pháp khắc phục.

2



NỘI DUNG
I.
Lý thuyết chung:
1. Thẩm quyền xét xử hành chính của Tòa án:

a. Khái niệm:
Thẩm quyền xét xử hành chính của Tòa an là khả năng của tòa án theo
quy định của pháp luật Tố tụng hành chính, thực hiện việc xem xét, đánh giá và
ra phán quyết về yêu cầu khởi kiện đối với các quyết định hành chính, hành vi
hành chính, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, cơ
quan nhà nước.
b. Đặc điểm:
Thẩm quyền xét xử hành chính là một nội dung quan trọng trong tổ chức
và hoạt động tài phán hành chính, liên quan đến quản lý hành chính nhà nước,
đến tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước. Căn cứ vào khai niệm ta có thể rút ra
đặc điểm như sau:
- Quyền xét xử hành chính thuộc về quyền tư pháp, được xác lập trên cơ sở phân
biệt với quyền lập pháp và quyền hành pháp. Nếu hoạt động kiểm tra giám sát
nội bộ của hệ thống hành chính trong quá trình quản lý hành chính thể hiện ở
quyền đánh giá và phán quyết cả về tính hợp pháp và tính hợp lý của quyết định
hành chính, hành vi hành chính thì thẩm quyền của tòa án khi giải quyết tranh
chấp hành chính chỉ giới hạn về việc xem xét đánh giá về tính hợp pháp của các
đối tượng đó mà thôi.
- Thẩm quyền xét xử án hành chính được thực hiển bởi tòa án nhân dân theo
trình tự thủ tục tố tụng hành chính.
- Thẩm quyền xét xử vụ án hành chính chỉ được thực hiện khi có yêu cầu của
người khởi kiện cá nhân hay cơ quan tổ chức theo quy định pháp luật Đ5 Luật
Tố tụng hành chính quy định:” Ca nhân cơ quan , tổ chức có quyền khởi kiện vụ
3



án hành chính để yêu cầu tòa án bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của mình theo
quy định của luật này”. Với quy định này thì vụ án hành chính chi có thể phát
sinh khi có tranh chấp giữa chủ thể và đối tượng quản lý hành chính nhà nước.
Nhà nước trao quyền cho đối tượng quản lý hành chính được khởi kiện vụ án
hành chính khi có sự xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Nguyên
nhân của sự xâm hại này là xuất phát từ việc các cơ quan nhà nước và những
người có thẩm quyền trong các cơ quan này ban hành các quyết định hành chính
hoặc thwucj hiện các hành vi hành chính không tuân thủ theo quy định của pháp
luật gây ảnh hưởng quyền và lợi ích hợp pháp những đối tượng chịu sự tác động
của quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính hay quyết định kỷ luật buộc
thôi việc.
2. Cơ sở để xác định thẩm quyền xét xử hành chính của TAND:

Việc xác định thẩm quyền xét xử vụ án hành chính của Tòa án không chỉ
dựa trên những mong muốn hoặc nhận thức chủ quan của các nhà lập pháp, mà
phải dựa trên những cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn nhất định:
a. Cơ sở lý luận
+ Xuất phát từ quan điểm lý luận của chủ nghĩa Mác Lê nin về Nhà nước
và pháp luật, về nguyên tắc tổ chức và phân công quyền lực nhà nước: “... là
thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Theo đó, Tòa án là loại cơ
quan có chức năng xét xử, được trao quyền giải quyết các tranh chấp pháp lý.
+ Xuất phát từ yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
đòi hỏi phải trao quyền xét xử các tranh chấp pháp lý (trong đó có tranh chấp
hành chính ) cho Tòa án nhân dân để đảm bảo nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà
nước. Theo đó, mỗi loại cơ quan có chức năng riêng và chuyên biệt, đảm bảo
việc kiểm soát chặt chẽ việc thực thi quyền lực, tránh lạm quyền. Mọi biểu hiện
của quyền lực Nhà nước đều cần được kiểm soát và nếu có vi phạm đều phải bị
xử lý, hoạt động hành chính cũng không ngoại lệ và phải bị kiểm soát bởi cơ

4


quan khác và phải bị xét xử. Vì vậy thiết lập Tòa hành chính để xét xử các cơ
quan Nhà nước trong lĩnh vực hành chính có biểu hiện trái pháp luật là cần thiết.
Đảm bảo tính thượng tôn của pháp luật trong Nhà nước pháp quyền, mọi cơ
quan, tổ chức, cá nhân phải đặt mình dưới pháp luật, mọi vi phạm pháp luật đều
phải bị xử lý.
+ Dựa trên tư tưởng chỉ đạo trong văn kiện của Đảng và quy định trong
Hiến pháp về vị trí, vai trò, chức năng của Tòa án: Điều 102 Hiến pháp 2013.
+ Luật tố tụng hành chính 2010 quy định quyền xét xử vụ án hành chính
cho Tòa án nhân dân.
b. Cơ sở thực tiễn
- Để thực hiện chức năng quản lý hành chính, các chủ thể quản lý hành
chính ban hành các quyết định hành chính hoặc thực hiện các hành vi hành
chính nhất định. Và trên thực tế, các quyết định hành chính hoặc hành vi hành
chính đó không phải lúc nào cũng đúng pháp luật. Về nguyên tắc, QĐHC,
HVHC nào trái pháp luật thì sẽ không có hiệu lực. Tuy nhiên, nếu các chủ thể
quản lý không nhận thức rõ ràng về tính trái pháp luật của quyết định, hành vi
đó thì sẽ không có cơ sở nào để trao quyền xét xử vụ án hành chính cho Tòa án
nhân dân. Vì vây, sẽ có 2 trường hợp để trao quyền xét xử vụ án hành chính cho
Tòa án nhân dân :
+ Khi chủ thể quản lý biết được hoặc cho rằng QĐHC, HVHC là trái pháp
luật, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của mình thì họ phản ứng, mong
muốn bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
+ Khi cá nhân, tổ chức phát hiện ra QĐHC, HVHC là trái pháp luật, thì họ
có quyền phản ứng hoặc không phản ứng ( vì được lợi hoặc không muốn phản
ứng vì ngại phiền hà, thiếu điều kiện để theo việc kiện tụng…). Bởi vì, theo
nguyên tắc quyền quyết định và quyền tự định đoạt của đương sự, đây là việc
liên quan đến quyền lợi cá nhân, tổ chức nên họ có thể tự mình quyết định có

5


kiện hay không. Tòa án chỉ có thể giải quyết khi có yêu cầu giải quyết tranh
chấp, tức là có phản ứng của cá nhân, tổ chức đối với QĐHC, HVHC của công
quyền.
- Thực tiễn cho thấy khả năng tự khắc phục của các cơ quan quản lý
thường rất thấp so với yêu cầu khiếu nại. Chính vì thế, Nhà nước phải trao
quyền xét xử hành chính cho Tòa án để công dân có nhiều sự lựa chọn phương
thức bảo vệ quyền lợi của mình trước sự tác động có khả năng gây phương hại
từ các QĐHC, HVHC của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
- Đó cũng là cách để củng cố niềm tin của quần chúng vào cơ chế bảo
đảm sự tuân thủ pháp luật của nhà nước, thể hiện quyết tâm xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN của Đảng và nhà nước ta.
3. Đối tượng xét xử hành chính của Tòa án:

Điều 28 Luật Tố tụng hành chính quy định những khiếu kiện thuộc thẩm quyền
giải quyết của Tòa án theo hướng loại trừ; cụ thể là Tòa án có thẩm quyền giải
quyết các khiếu kiện sau đây:
a. Khiếu kiện quyết định hành chính, trừ các quyết định hành chính, hành vi
hành chính, hành vi hành chính thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong các lĩnh
vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao theo danh mục do Chính phủ quy định và
các quyết định hành chính, hành vi hành chính mang tính nội bộ của cơ quan, tổ
chức.
b. Khiếu kiện về danh sách cử tri bầu cử ĐBQH, danh sách cử tri bầu cử đại
biểu HĐND.
c. Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc công chức giữ chức vụ từ Tổng
Cục trưởng và tương đương trở xuống.
d. Khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh
tranh.

4. Thẩm quyền xét xử hành chính của Tòa án nhân dân theo lãnh thổ
6


Thẩm quyền theo lãnh thổ là giới hạn phạm vi xét xử hành chính của Tòa án căn
cứ vào cấp hành chính của Tòa án.
Luật Tố tụng hành chính 2010 quy định cụ thể thẩm quyền xét xử hành chính
theo lãnh thổ của Tòa án tại Điều 29 và Điều 30. Theo đó, nếu vụ việc thuộc
thẩm quyền của TAND cấp tỉnh, trường hợp người khởi kiện không có nơi cư
trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên lãnh thổ Việt Nam thì thẩm quyền giải quyết
thuộc Tòa án nơi cơ quan, người có thẩm quyền ra quyết định hành chính, có
hành vi hành chính.
Đối với khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan đại
diện ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài hoặc của người có thẩm quyền trong
cơ quan đó mà người khởi kiện có nơi cư trú trên cùng phạm vi địa giới hành
chính với Tòa án. Trường hợp người khởi kiện không có nơi cư trú tại Việt Nam
thì tòa án có thẩm quyền là TAND Hà Nội hoặc TAND TP. Hồ Chí Minh.
Luật Tố tụng hành chính có sự phân biệt rõ ràng trong trường hợp khiếu kiện đối
với quyết định kỷ luật buộc thôi việc của công chức do người đứng đầu cơ quan,
tổ chức từ cấp huyện trở xuống ban hành thì kiện tại Tòa án trên cùng địa giới
hành chính với cơ quan, tổ chức của người có thẩm quyền ra quyết định. Đối với
quyết định kỷ luật buộc thôi việc của người đứng đầu cơ quan, tổ chức cấp tỉnh,
bộ, ngành trung ương thì kiện tại Tòa án nơi người đó làm việc.
II.

Thực trạng thực hiện PL về thẩm quyền giải quyết vụ án hành

chính của TAND ở nước ta hiện nay
3. Pháp luật về thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính của Tòa Án.
Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân hiểu theo nghĩa chung là khả năng của

tòa án được Nhà nước trao cho quyền giải quyết vụ án hành chính, còn theo
nghĩa cụ thể là quyền và nghĩa vụ của Tòa án nhân dân trong vụ việc thụ lý và
giải quyết các vụ án hành chính

7


Luật Tố tụng hành chính năm 2010 có quy định về những khiếu kiện thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án. Cụ thể tại Điều 28 của luật có nhắc đến đối tượng
thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa như sau:
- Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính, trừ các quyết định hành
chính, hành vi hành chính thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong các lĩnh vực
quốc phòng, an ninh, ngoại giao theo danh mục do Chính phủ quy định và các
quyết định hành chính, hành vi hành chính mang tính nội bộ của cơ quan, tổ
chức.
- Khiếu kiện về danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu
cử đại biểu Hội đồng nhân dân.
- Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc công chức giữ chức vụ từ Tổng
Cục trưởng và tương đương trở xuống.
- Khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh
tranh.
Quy định trên đã loại trừ đối tượng khởi kiện vụ án hành chính là các quyết định
hành chính, hành vi hành chính thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong các lĩnh
vực quốc phòng an ninh, ngoại giao theo danh mục do Chính phủ quy định và
trong các lĩnh vực quốc phòng an ninh, ngoại giao theo danh mục do Chính phủ
quy định do tính bí mật của hoạt động quốc phòng, an ninh mà nếu như xét xử
có thể dẫn đến lộ bí mật nhà nước. Các quyết định hành chính, hành vi hành
chính trong nội bộ cơ quan, tổ chức chẳng hạn như các quyết định, hành vi hành
chính liên quan đến quan hệ nội bộ như phân công trách nhiệm giữa thủ trưởng
và nhân viên, phân công công tác…

Luật tố tụng hành chính năm 2010 đã khắc phục được phần nào những thiếu sót
của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1996. Cùng với việc
quy định các khiếu kiện theo hướng loại trừ thì luật cũng đã giải thích những
8


thuật ngữ cơ bản như “quyết định hành chính”, “hành vi hành chính”,… qua đó
tạo cơ sở cho các Tòa hành chính thụ lý đúng thẩm quyền, tạo điều kiện cho cá
nhân, cơ quan tổ chức trong việc khởi kiện vụ án hành chính của mình, đảm bảo
sự công bằng và đáp ứng của hội nhập quốc tế.
4. Thực tiễn áp dụng pháp luật về thẩm quyền xét xử vụ án hành chính

Từ khi thành lập đến nay hoạt động xét xử hành chính của Tòa án nhân dân đã
từng bước đẩy mạnh và đạt được kết quả nhất định. Tuy nhiên vẫn không tránh
một số lúng túng trong hoạt động này.
d. Lúng túng trong xác định thẩm quyền:

Nhiều tòa đã thụ lý, giải quyết các vụ án không thuộc thẩm quyền do ngay từ
đầu chưa xác định rõ loại việc mà đương sự khởi kiện. Chẳng hạn trong vụ
tranh chấp đất đai giữa bà T và ông Th, UBND thị xã M (tỉnh B) ban hành quyết
định giải quyết tranh chấp với nội dung buộc ông Th. Phải bồi hoàn cho bà T giá
trị đất. Năm 2008 sau khi khiếu nại yêu cầu của UBND hủy quyết định bị bác,
bà T khởi kiện ra tòa. TAND thị xã M thụ lý và xác định đây là một vụ án hành
chính vì bà T kiện quyết định bồi thường thiệt hại thuộc lĩnh vực quản lý đất đai
theo quy định tại khoản 17 Điều 11 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành
chính (cũ). Tòa hành chínhTAND Tối cao nhận xét việc TAND thị xã M thụ lý
là sai về thẩm quyền vì quyết định hành chiinhs nói trên là giải quyết tranh chấp
đất đai chứ không liên quan gì đến việc bồi thường thiệt hại vì theo pháp lệnh
giải quyết tranh chấp đất đai chứ không liên quan gì đến việc bồi thường thiệt
hại. Bởi lẽ mục 7 Nghị quyết số 04/2006 của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối

cao quy định: Quyết định, hành vi hành chính về quản lý đất đai trong việc giải
quyết tranh chấp thì mọi trường hợp không phải là đối tượng của khởi kiện hành
chính. Mặt khác giải quyết tranh chấp đất và bồi thường giữa các cá nhân với
nhau hoàn toàn khác với việc bồi thường hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất.
e. Thẩm quyền theo loại việc
9


Khi xem xét thẩm quyền của Tòa án theo loại việc, cần chú ý vấn đề “ các quyết
định hành chính, hành vi hành chính mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức”
không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án là những loại quyết định, hành vi
nào? Vấn đề này khi áp dụng lại phát sinh khó khăn từ thực tế.
Bà Nguyễn Thị Huyền M, xã Quảng Thọ, Quảng Trạch, Quảng Bình vừa có đơn
gửi các cơ quan chức năng phản ánh việc đã trúng tuyển công chức nhưng
UBND huyện Quảng Trạch không ra quyết định bố trí tuyển dụng.
Nội dung như sau: Tháng 12 năm 2010 UBND huyện Quảng Trạch ra thông báo
tuyển dụng một số chức danh tại các phòng ban thuộc UBND huyện. Thấy bản
thân có đủ điều kiện dự tuyển, bà M đã nộp đăng ký xét tuyển. Đến ngày
2/3/2011 Hội đồng xét tuyển đã tiến hành họp và đưa ra kết quả có 7 người
trúng tuyển vào chức danh cần tuyển trong đó có bà M. Đến nay 6 trường hợp
trong số 7 người nói trên đều có quyết định tuyển dụng công chức của Chủ tịch
UBND huyện và được bố trí về các phòng, ban, đơn vị sự kiệp thuộc UBND
huyện. Riêng bà vẫn chưa nhận được quyết định tuyển dụng và bố trí công việc.
Trong trường hợp này, bà M khởi kiện vụ án hành chính tạo Tòa án, thi vụ việc
có thẩm quyền giải quyết của Tòa không? Để xác định thẩm quyền của Tòa án
trong tình huống này vẫn có hai quan điểm khác nhau. Quan điểm thứ nhất đây
là một hành vi hành chính dưới dạng không hành động của Chủ tịch Ủy ban
nhân dân huyện Quảng Trạch về việc không ban hành quyết định công nhận kết
quả tuyển dụng công chức và bố trí việc làm cho bà M. Hành vi hành chính này
thỏa mãn toàn bộ các dấu hiệu của một hành vi hành chính theo quy định của

Luật Tố tụng hành chính 2010. Và quan trọng hơn nữa nó xâm phạm trực tiếp
đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà M. Do đó, khiếu kiện này thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28. Quan điểm thứ
hai cho rằng: nếu bà M khiếu kiện thì Tòa án không được thụ lý để giải quyết vì
rằng việc nhận người vào làm việc tại cơ quan, tổ chức và bố trí việc làm cho
10


các thành viên cơ quan, tổ chức là thuộc nội bộ của cơ quan, tổ chức đó. Điều
này thuộc phạm vi loại trừ theo Khoản 1 điều 28 Luật Tố tụng hành chính.
Đối với tình huống này người viết đồng tình với quan điểm thứ nhất hợp lý hơn.
Vì quan điểm này hướng đến bảo vệ quyền và lợi ích người dân hơn.
Vấn đề tiếp theo, tại khoản 3 Điều 28 Luật Tố tụng hành chính quy định loại
việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án là “khiếu kiện quyết định buộc thôi
việc công chức giữ chức vụ từ Tổng cục trưởng và tương đương trở xuống”.
Trong số các loại hình thức kỉ luật mà Luật Cán bộ, công chức quy định thì hình
thức kỷ luật buộc thôi việc là chế tài nặng nề nhất, ảnh hưởng nghiêm trọng đến
đời sống, sự nghiệp của người bị kỷ luật, do đó cần được quyền khởi kiện đến
Tòa án nếu cho rằng việc đó là trái pháp luật.
Theo quy định của Luật Cán bộ, công chức, việc buộc một người thôi việc
không chỉ duy nhất bằng hình thức kỷ luật do có hành vi vi phạm kỷ luật mà còn
có nhiều căn cứ khác nữa. Chẳng hạn như tại khoản 3 Điều 58 Luật Cán bộ,
Công chức thì “Công cức 02 năm liên tiếp không hoàn thành nhiệm vụ thì cơ
quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền giải quyết buộc thôi việc” hoặc tại khoản 1
Điều 59 Luật Cán bộ, công chức còn quy định: công chức thôi việc “do sắp xếp
tổ chức” và trên thực tế còn xảy ra nhiều hình thức buộc thôi việc khác nữa.
Ví dụ: Trường hợp của bà Nguyễn Thị H là giáo viên bị UBND thành phố C ban
hành quyết định cho thôi việc trong khi bà H không có nguyện vọng xin thôi
việc, không đồng ý với quyết định này bà H đã khởi kiện vụ án hành chính
nhưng Tòa án không thụ lý vì cho rằng đây là quyết định cho thôi việc chứ

không phải là quyết định kỷ luật buộc thôi việc.
Vấn đề cuối cùng, luật cán bộ công chức hiện này chỉ điều chỉnh đối tượng cán
bộ công chức còn đối tượng viên chức sẽ được điều chỉnh bởi luật viên chức.
Theo quy định như hiện nay thì viên chức bị buộc thôi việc trái pháp luật sẽ khởi
11


kiện theo thủ tục nào vì Bộ luật Lao động không điều chỉnh đối tượng viên chức
này.
f. Thẩm quyền theo cấp xét xử và lãnh thổ

Việc đương sự có thể kiện ở đâu, tòa cấp nào sẽ thụ lý vấn đề người khởi kiện
có nhiều băn khoăn. Điều 12 Pháp lệnh quy định thẩm quyền theo cấp tòa án
(huyện, tỉnh, tối cao) tương đối cụ thể. Và tưởng chừng quy định cụ thể như vậy
thì đã có thể áp dụng dễ dàng. Nhưng vấn đề lại là cách hiểu về thuật ngữ không
thống nhất. Tại điểm a khoản 1 quy định của tòa án cấp huyện đối với “những
khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà nước từ
cấp huyện trở xuống trên cùng lãnh thổ của cán bộ công chức cơ quan nhà nước
đó”.
Với điểm a, điểm b khoản 2 quy định thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp tỉnh
đối với:
“a) Những khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của Bộ, cơ
quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ…. mà người khởi kiện có nơi cư trú,
nơi làm việc hoặc trụ sở trên cùng lãnh thổ;
b) Những khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính… mà người
khởi kiện có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên cùng lãnh thổ”
Các quy định trên đều có sử dụng thuật ngữ “trên cùng lãnh thổ”. Có ý kiến cho
rằng “cùng lãnh thổ” tức là tòa án thụ lý đơn kiện đóng trụ sở cùng địa bàn với
nơi cư trú của những người khởi kiện, nếu hiểu như vậy thì sẽ có vấn đề là tại
thời điểm nhận quyết định hành chính, người khởi kiện cư trú tỉnh A, sau đó một

thời gian họ chuyển đến nơi cư trú ở tỉnh B. Vậy nếu muốn kiện quyết định hành
chính đó (vẫn trong thời hiệu khởi kiện) thì có thể kiện tại tòa án tỉnh B hay phải
trở về kiện tòa tỉnh A? Và nếu nhiều người kiện một quyết định hành chính
nhưng lại ở các nơi khác nhau thì sao?
12


Có quan điểm cho rằng “cùng lãnh thổ” được hiểu là tòa án và cơ quan ban hành
quyết định hoặc thực hiện hành vi hành chi đóng trụ sở trên cùng một lãnh thổ.
Nghĩa là cơ quan ban hành quyết định hành chính đóng ở địa bàn (tỉnh, huyện)
nào thì tòa án bên đó thụ lý đơn kiện không cần biết người bị áp dụng quyết định
hành chính cư trú có cùng lãnh thổ hay không? Hiểu theo cách đó thì hệ quả sẽ
là: trong trường hợp cơ quan ban hành quyết định đóng tại địa phương này
nhưng ban hành quyết định áp dụng cho đối tượng ở địa phương khác (ví dụ
quyết định hành chính của Bộ, cơ quan ngang Bộ - các cơ quan này đóng trụ sở
tại Hà Nội, nhưng áp dụng đối tượng cư trú hoặc đóng trụ sở tại nơi mà cơ quan
ban hành quyết định đó đóng trụ sở tại thành phố Hồ Chí Minh) thì người khởi
kiện chỉ có thể kiện tại tòa nơi mà cơ quan ban hành quyết định đó đóng trụ sở
(trường hợp ví dụ trên thì chỉ được kiện tại tòa án thành phố Hà Nội). Khi
khoảng cách địa lý quá xa thì rõ ràng là bất lợi cho người khởi kiện, nhất là đối
với các vụ việc mà trong đó phần lớn (tất cả) đối tượng áp dụng quyết định lại
một địa bàn khác với nơi cơ quan ban hành quyết định đóng trụ sở. Trong khi đó
việc di ly án đâu phải lúc nào cũng dễ dàng và đảm bảo xét xử khách quan, từ đó
các Tòa sẽ gặp lúng túng khi phải tự mình trả lời câu hỏi Vụ việc có thuộc thẩm
quyền của tòa hay không?
III.

Một số kiến nghị về thẩm quyền xét xử các vụ án hành chính

Từ thực trạng thực hiện pháp luật về thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính

của các Tòa án nhân dân ở nước ta hiện nay, nhóm xin đưa ra một số kiến nghị
như sau:
Thứ nhất, các thuật ngữ cần được xây dựng công phu, khoa học, tạo cách hiểu
và sử dụng thống nhất, trong đó các thuật ngữ như “quyết định hành chính”,
“hành vi hành chính”, hoặc “hành vi có tính chất nội bộ” của cơ quan hành
chính cần được giải thích, những thuật ngữ này đã được giải thích trong luật rồi
nhưng vẫn rất cần đến sự hướng dẫn giải thích cụ thể hơn của cơ quan có thẩm
13


quyền đặc biệt là Tòa án nhân dân tối cao với tư cách là cơ quan hướng dẫn các
tòa án áp dụng pháp luật.
Thứ hai, Luật tố tụng hành chính hiện nay vẫn còn sử dụng nhiều cụm từ dễ gây
hiểu nhầm cho người thực hiện bởi sự không rõ ràng, đa nghĩa như “trên cùng
lãnh thổ” “trừ trường hợp có lý do chính đáng”…
Thứ ba, bên cạnh chất lượng, hiệu quả giải quyết khiếu nại hành chính, một mặt
phải đổi mới, hoàn thiện cơ chế giải quyết khiếu nại hành chính, mặt khác phải
củng cố, kiện toàn tổ chức và hoạt động của Tòa hành chính, thẩm quyền của
Tòa hành chính trong lĩnh vực đất đai cần được quy định rõ hơn. Đồng thời đổi
mới thủ tục giải quyết các khiếu kiện hành chính theo hướng đơn giản, nhanh
gọn, công khai, minh bạch, khách quan, dân chủ, tọa thuận lợi cho người dân,
cơ quan tổ chức, thực hiện quyền khởi kiện của mình.

KẾT LUẬN
Thông qua việc thay đổi mô hình tổ chức Tòa án nhân dân ở Việt Nam
hiện nay, thẩm quyền xét xử của Tòa án đối với các loại khiếu kiện quyết định
hành chính, hành vi hành chính được mở rộng và nâng cao, góp phần bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, đấy mạnh công cuộc xây dựng và phát
triển nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, bên cạnh những tích
cực đã đạt được thì trên thực tê, vấn đề trên vẫn còn nhiều vướng mắc, bất cập,

số lượng cũng như chất lượng giải quyết vụ án hành chính của Tòa án nhân dân
vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của thực tế.
Vì vậy, để khắc phục những bất cập, hạn chế về thẩm quyền của Tòa án
đòi hỏi phải có nhiều giải pháp đồng bộ như: hoàn thiện hơn nữa những quy
định về thẩm quyền của TAND trong giải quyết vụ án hành chính, mô hình tổ
chức, thẩm quyền, trách nhiệm, trình tự, thủ tục xét xử; điều kiện khởi kiện,
14


quyền và nghĩa vụ của người khiếu kiện, các hoạt động hỗ trợ tư pháp như sự
tham gia của luật sư, tư vấn pháp lý, trợ giúp pháp lý,… Thực hiện được những
vấn đề trên sẽ góp phần bảo vệ tốt hơn quyền, lợi ích của người dân, bảo đảm
công bằng, trật tự xã hội, hướng đến mục tiêu xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, xây dựng nhà
nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân.

15


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hiến pháp 2013
2. Luật tố tụng hành chính 2010
3. Nghị định số 02/2011/NQ – HĐTP ngày 29/07/2011 hướng dẫn thi hành

một số quy định của Luật Tố tụng hành chính 2010
4. Pháp lệnh số 29/2006/PL – UBTVQH11 sửa đổi, bổ sung một số điều của
Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính
5. Giáo trình Luật Tố tụng hành chính, Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội,
2015
6. Giáo trình Luật Tố tụng hành chính, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb.

Công an nhân dân, 2015
7. Một số trang web tham khảo:
/> /> /> />
16



×