Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Vấn đề nào dẫn đến thông tin mất cân xứng giải thích

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (255.88 KB, 20 trang )

Bài tập nhóm : 1. Vấn đề nào dẫn đến thông tin mất cân xứng? giải thích
a. Đảo nợ
b. Mua cổ phiếu quỹ
c. Phát triển doanh nghiệp Nhà Nước

Đảo nợ
1. Định nghĩa:

Đảo nợ được nhắc đến trong thực tiễn với một vài tên gọi khác nhau như “đáo hạn” trong
các dịch vụ tài chính, dịch vụ đáo hạn (tín dụng đen) hay như “cơ cấu tài chính”....và gần
đây từ 2009 đến 2010, người ta nhắc nhiều đến đảo nợ khi thực hiện chính sách hỗ trợ lãi
suất trong gói kích cầu của Chính Phủ với một quan điểm “nghiêm cấm đảo nợ” để tránh
thất thoát nguồn tiền hỗ trợ của Chính phủ.
Dưới góc độ pháp lý, đảo nợ được nhắc đến trong nhiều văn bản liên quan đến chính sách
về cho vay của nhà nước. Nhưng có thể tham khảo khái niệm sau: “Đảo nợ: Là việc tổ
chức, cá nhân (trừ tổ chức tín dụng) vay tại TCTD này để trả nợ cho tổ chức tín dụng
đó và/hoặc trả nợ cho tổ chức tín dụng khác” đồng thời diễn giải các trường hợp sau
đây được coi là vi phạm:
- Dùng toàn bộ, một phần khoản vay để trả nợ cho một phần hoặc toàn bộ khoản vay
khác hoặc nhiều khoản vay khác nhau tại một hoặc nhiều tổ thức tín dụng khác nhau;
- Bên vay thông qua tổ chức, cá nhân khác để chuyển nguồn vốn vay thông qua các cách
thức khác nhau để trả khoản nợ của chính Bên vay tại TCTD khác mà không có bất kỳ sự
bù trừ nghĩa vụ nào một cách phù hợp;
Ví dụ: Doanh nghiệp A vay của doanh nghiệp D để trả nợ ngân hàng C, sau đó A vay của
ngân hàng E để thanh toán nợ cho D (bằng các cách khác nhau, như hợp đồng mua bán
khống);
- Ngân hàng C cho vay để doanh nghiệp A thực hiện hợp đồng với D nhưng doanh nghiệp
D dùng tiền trả nợ Ngân hàng C từ nguồn thu đó nhưng khi cho vay, ngân hàng C xác
định phương án cho vay A không khả thi nhưng mục đích chính là giảm nợ xấu tại chính



mình nên biết trước việc cho vay để trả nợ (Trường hợp này bình thường có thể bị nhầm
lẫn với nhóm hành vi vi phạm quy định về cho vay khác mà không phải đảo nợ);
- Ngân hàng C mua nợ của doanh nghiệp A tại ngân hàng B, sau khi mua nợ thì ngân
hàng C phân loại nợ vào nhóm thấp hơn (do hệ thống xếp hạng và phân nhóm khác nhau)
và cơ cấu lại nợ theo hướng từ quá hạn thành trong hạn (không phụ thuộc vào cách thức
cơ cấu lại).
2. Phân tích rủi ro

Rủi ro từ đảo nợ là hiện hữu và nó làm méo mó số liệu và chất lượng tín dụng ngân hàng.
Như Thống đốc Nguyễn Văn Giàu có nói, “Luật pháp nghiêm cấm triệt để hành vi đảo
nợ trong bất luận trường hợp nào. Bởi vì, một nền kinh tế chấp nhận cho vay đảo nợ, tức
là chấp nhận cách làm ăn không mang lại hiệu quả, đồng thời gây thất thoát tài sản,
chưa kể gây rối ren trong công tác quản lý”.Vì sao đảo nợ là rủi ro như thế, ta sẽ cùng
nhau tìm hiểu như sau:
Nhìn bề ngoài đảo nợ tạo cho người ta cái ảo giác về các khoản nợ được hoàn trả tốt, tỷ lệ
nợ xấu hay nợ quá hạn giảm xuống nhưng thực chất thì không phải vậy. Bởi vì người đi
vay đã dùng số tiền có được để trả nợ nên sẽ không còn vốn và cơ sở để trả khoản nợ
mới. Như vậy khoản nợ cũ ban đầu thực ra chẳng bao giờ đáo hạn trong khi ngân hàng
vẫn phải có trách nhiệm hoàn trả tiền cho người gửi.
Nếu doanh nghiệp vay khoản vốn mới với số tiền lớn hơn khoản nợ cũ để không chỉ dùng
cho việc đảo nợ mà còn dùng vào đầu tư thì đòi hỏi tỷ suất sinh lợi của vốn đầu tư phải
rất cao mới có cơ sở trả được nợ. Đây là điều khó có thể đạt được trong điều kiện khủng
hoảng kinh tế hiện nay. Trước tình hình đó, các doanh nghiệp buộc phải cung cấp thông
tin có lợi hơn cho mình, làm cho hình ảnh doanh nghiệp tốt hơn, trở thành người đi vay
với khả năng hoàn trả nợ cao đối với người cho vay. Trong khi NH-người cho vay không
nắm được thông tin hoàn hảo của người đi vay dẫn đến NH sẽ có quyết định sai lầm hay
nói cách khác là lựa chọn nghịch. Đó chính là thông tin bất cân xứng giữa người đi
vay và NH-người cho vay.
Bên cạnh đó, các khoản nợ xấu sẽ “ăn theo” các khoản nợ trong diện được đảo nợ để
hưởng “lộc trời cho”. Việc “đảo nợ” có nguy cơ bị lợi dụng. Các ngân hàng cũng có động

cơ để tăng cường cho vay đảo nợ vì nếu không cho vay thì các khoản nợ xấu vẫn “nằm
im” trên bảng tổng kết tài sản, còn nếu cho vay thì không những sẽ “làm sạch” được các
khoản nợ xấu mà còn có thêm thu nhập từ các khoản tiền lãi hỗ trợ của Chính phủ. Lúc
này, thông tin bất cân xứng diễn ra giữa NH và nhà đầu tư hoặc Chính phủ - những


người không được cung cấp thông tin một cách toàn diện về tình hình các khoản nợ
xấu của NH
Tuy nhiên, phải hiểu việc cho vay mới trả nợ cũ, hay nói cách khác là đảo nợ này, cũng
là một dạng cơ cấu lại khoản vay một cách toàn diện: từ điều chỉnh khoản vay (như lãi
nhập gốc); điều chỉnh kỳ hạn trả nợ (gốc/lãi); lập lịch trả nợ mới; điều kiện tài sản bảo
đảm mới; chỉ khác thông lệ một điều là mục đích vay là cho vay để trả nợ cho chính tổ
chức tín dụng.
Chỉ phân biệt được ở chỗ cho vay trả nợ cũ đúng quy định và cho vay trả nợ cũ nhằm che
giấu nợ xấu ở chỗ, khi phân tích điều kiện kinh doanh của khách hàng là phải có dòng
tiền, khách hàng vẫn hoạt động, làm ăn, lao động trả nợ chứ không ngừng hoạt động (bao
gồm cả hoạt động thu nợ của chính doanh nghiệp) và do đó ở các kỳ trả nợ sau đó khách
hàng có tiền trả đúng hạn ít nhất là kỳ đầu tiên. Cũng còn nhiều căn cứ khác để phân biệt
nhưng dấu hiệu bao trùm là như vậy.
Đối với nội bộ tổ chức tín dụng, việc cho vay mới phải hiểu là trình, thẩm định lại, phê
duyệt lại và cấp tín dụng cho khách hàng như một khoản vay mới, đồng thời xác định
mục đích vay là để cơ cấu lại khoản vay cũ.
Nguồn : thời báo kinh tế Việt Nam

1b

Cổ phiếu quỹ

a. Định nghĩa:
Theo quy định của pháp luật chứng khoán Việt Nam cũng như thông lệ quốc tế, cổ phiếu

quỹ là cổ phiếu đã được công ty cổ phần đại chúng phát hành và được chính công ty phát
hành đó mua lại bằng nguồn vốn hợp pháp.
Như vậy, cổ phiếu quỹ hình thành khi công ty đại chúng thực hiện mua lại từ khối
lượng cổ phiếu đang lưu hành trên thị trường; và cổ phiếu quỹ không có nghĩa là những
cổ phiếu phát hành không thành công.


Cổ phiếu quỹ có một số đặc điểm khác với cổ phiếu phổ thông như sau: Không
được trả cổ tức; không có quyền biểu quyết và quyền mua cổ phiếu mới; Tổng số cổ
phiếu quỹ không được phép vượt quá tỷ lệ vốn hóa mà luật pháp quy định.
Do thực hiện mua cổ phiếu quỹ từ nguồn vốn hợp pháp nên việc công ty mua cổ
phiếu đang lưu hành sẽ làm giảm nguồn vốn chủ sở hữu hay giá trị sổ sách của công ty
một lượng bằng giá trị cổ phiếu công ty đã mua vào. Khi công ty bán ra số cổ phiếu quỹ
đó, giá trị sổ sách của công ty sẽ tăng lên một lượng bằng giá trị cổ phiếu công ty bán ra.
Chênh lệch giữa hai khoản đó được ghi vào thặng dư vốn cổ phần của công ty.
Thực tế cho thấy công ty đại chúng thường mua lại cổ phiếu mình đã phát hành
trong các trường hợp sau:
Thứ nhất: Vì cổ phiếu quỹ thuộc quyền sở hữu chung của công ty và được loại trừ không
chia cổ tức cho nên công ty có thể mua cổ phiếu quỹ để làm lợi cho các cổ đông hiện
hữu, hay nói cách khác khi lãnh đạo công ty đang chịu sức ép phải có tỷ lệ sinh lời trên
cổ phiếu từ các cổ đông.
Thứ hai: khi công ty có một lượng tiền nhàn rỗi (thường là từ nguồn lợi nhuận để lại)
chưa có dự án đầu tư và cùng lúc hoạt động kinh doanh đang có chiều hướng tốt, lợi
nhuận bình quân cao hơn các ngành khác mà mình dự định đầu tư. Doanh nghiệp mua lại
cổ phiếu làm cổ phiếu quỹ thể hiện sự tin tưởng vào triển vọng phát triển tương lai của
mình cũng như ngành nghề. Mặt khác, ban lãnh đạo doanh nghiệp cũng cho rằng cổ
phiếu của họ đang bị thị trường đánh giá thấp hơn giá trị thực và việc mua lại cổ phiếu
của họ là một khoản đầu tư sinh lời hơn là mua cổ phiếu của doanh nghiệp khác hoặc
thậm chí là mở rộng sản xuất.
Thứ ba: Khi công ty thấy cổ phiếu của mình trên thị trường giao dịch bị sụt giảm về số

lượng và giá cổ phiếu. Công ty tăng mua cổ phiếu của chính mình làm tăng lượng cầu về
cổ phiếu để đẩy giá lên hoặc đặt mua làm nhiều lần để làm giảm sự giảm giá trên thị
trường. Đây cũng là biện pháp các công ty thường làm trên thế giới, các công ty thường
dùng biện pháp này để tạo “sóng” chứng khoán cho chính mình. Do vậy một số các nước
trong đó có cả Việt Nam sẽ đặùt ra một số quy chế về khối lượng mua, nguồn vốn mua, tỷ
lệ mua, không được mua của ai . . . để hạn chế mặt không tích cực của việc mua cổ phiếu
quỹ trên thị trường.
Thứ tư: Công ty mua cổ phiếu quỹ để thưởng cho nhân viên. Đây là biện pháp thường
được áp dụng để tạo sự gắn bó, khích lệ nhân viên. Thông thường việc dùng cổ phiếu quỹ
làm cổ phiếu thưởng phải có nguồn thanh toán từ quỹ khen thưởng phúc lợi.


Thứ năm: Mua lại cổ phiếu quỹ để thời gian sau điều chỉnh giảm vốn điều lệ công ty.
Trường hợp này rất ít xảy ra trên thực tế.
b. Ảnh hưởng của việc mua cổ phiếu quỹ:
Mua cổ phiếu quỹ có cả hai mặt lợi và hại.


Lợi ích:
 Đối với công ty mua cổ phiếu quỹ:
 Giá cổ phiếu thường có xu hướng tăng sau khi kế hoạch mua lại cổ phiếu
quỹ được đưa ra (ngoại trừ trường hợp các nhà đầu tư tin rằng thị giá cổ
phiếu đang quá cao so với giá trị thực hoặc tình hình thị trường quá xấu).
Mua cổ phiếu quỹ cũng sẽ giúp cô đặc hơn, giảm lượng cổ phiếu lưu hành,
từ đó làm tăng EPS tính toán của cổ phiếu. Điều này có thể giúp cho thị giá
cổ phiếu hấp dẫn hơn trong con mắt nhà đầu tư.
 Đồng thời, cũng với số cổ phiếu hiện tại nhưng các cổ đông hiện hữu của
công ty sẽ nắm tỷ lệ sở hữu cao hơn. Bằng cách gia tăng tỷ lệ cổ phiếu nắm
giữ (dù số lượng không thay đổi), mua lại cổ phiếu trong một số trường hợp
cũng là cách để gia tăng quyền kiểm soát của ban điều hành công ty.

 Bên cạnh đó mua cổ phiếu quỹ còn được coi là quyết định đầu tư tài chính
của các doanh nghiệp. Bởi, sau khi mua cổ phiếu quỹ, doanh nghiệp kinh
doanh tốt thì khả năng giá cổ phiếu tăng trưởng là cao. Khi đó doanh
nghiệp bán cổ phiếu quỹ, thu lời thì sẽ tăng thặng dư vốn cổ phần. Như vậy
cả trước mắt cũng như trong lâu dài, mua cổ phiếu quỹ đem lại lợi ích nhất
định cho các cổ đông của doanh nghiệp.
 Việc mua lại cổ phiếu quỹ sẽ giúp làm đẹp một số chỉ số tài chính, cụ thể là
EPS, ROE và ROA sẽ tăng lên kể cả khi doanh thu và lợi nhuận không đổi.
(EPS là lợi nhuận (thu nhập) trên mỗi cổ phiếu, ROA – tỷ số lợi nhuận ròng
tài sản giúp đo lường khả năng sinh lợi trên mỗi đồng tài sản của công ty,
ROE – tỷ số lợi nhuận ròng trên vốn chủ sở hữu giúp đo lường khả năng
sinh lợi trên mỗi đồng vốn của cổ đông thường), làm đẹp bản báo cáo tài
chính, tạo được nhiều niềm tin cho nhà đầu tư.
 Trong điều kiện bình thường, doanh nghiệp tuyên bố mua cổ phiếu quỹ
đồng nghĩa với phát đi thông điệp “thị giá đang ở dưới giá trị thực”. Điều
này có thể tăng uy tín cho doanh nghiệp, trấn an cổ đông và thu hút các nhà
đầu tư khác đễ giữ giá cổ phiếu. Ngoài ra, mua cổ phiếu quỹ chính là cách
hỗ trợ giá trực tiếp cho cổ phiếu.
 Đối với nhà đầu tư:
 Việc doanh nghiệp mua cổ phiếu quỹ với số lượng lớn là cách để họ cho
nhà đầu tư và đối thủ biết: “Chúng tôi đang có nguồn tiền mặt dồi dào, làm


ăn tốt, không lo về vốn”, đồng thời mua cổ phiếu quỹ là một biện pháp tăng
giá cố phiếu trên thị trường khi giá cổ phiếu đó đang sụt giảm, tạo sự yên
tâm cho nhà đầu tư, cứu được các nhà đầu tư đã mua các cổ phiếu đó.
• Tác hại:
 Đối với doanh nghiệp mua cổ phiếu quỹ:
 Với việc phải dành một lượng tiền lớn để mua lại cổ phiếu quỹ, công ty có
thể gặp rắc rối với dòng tiền, làm thiếu hụt nguồn vốn để mở rộng sản xuất

kinh doanh. Nếu doanh nghiệp đang thiếu tiền mà mua cổ phiếu quỹ quá
lớn có thể khiến dòng tiền bị suy kiệt, đặc biệt trong bối cảnh lãi suất cao và
nguồn tiền khan hiếm thì điều này càng rủi ro hơn.
Việc mua vào cổ phiếu quỹ chỉ có thể thực hiện được khi năng lực tài chính của doanh
nghiệp đủ mạnh, nguồn lợi từ năng lực lõi có dấu hiệu dư thừa thì việc giảm lượng cổ
phiếu lưu hành bằng việc mua cổ phiếu qũy mới thực sự phát huy tác dụng điều tiết thị
giá của cổ phíêu. Trong điều kiện thị trường bất cân xứng về thông tin như hiện nay việc
sở hữu cổ phiếu quỹ đồng thời mang lại mặt trái của nó. Đó là khi có nhu cầu cần vốn để
thực hiện các dự án doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn khi chào bán ra công chúng - thị giá
cổ phiếu của công ty sẽ bị giảm tương đối - gây tâm lý không tốt cho cổ đông, đồng thời
làm biến dạng báo cáo tài chính năm của công ty - Người ta dễ hiều là sự làm đẹp báo
cáo.
 Việc mua cổ phiếu quỹ cũng cho thấy doanh nghiệp không ưu tiên sử dụng

vốn để đầu tư mở rộng kinh doanh, hay đầu tư công nghệ nâng cao chất
lượng. Điều này có thể sẽ giảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp trong
tương lai. Ngoài ra, việc dùng tiền mua lại cổ phiếu của chính mình làm
giảm vốn chủ sở hữu, giảm giá trị doanh nghiệp trên sổ sách kế toán, giảm
lượng tiền mặt hiện có cho thấy công ty sẽ không có khả năng đầu tư nhanh
chóng, kịp thời khi có thời cơ và cơ hội cho các dự án mới. Xét về đầu tư
dài hạn sẽ ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của công ty.
Ví dụ: Trong tình hình kinh tế khó khăn như hiện nay, tiền mặt được coi là “vua” thì việc
bỏ ra số tiền lớn mua cổ phiếu không thể không khiến cổ đông đắn đo.
“Ngày 10/8, STB đã phát hành thêm khoảng 1.300 tỷ để tăng vốn điều lệ, mục đích là
phục vụ hoạt động kinh doanh . Nhưng đến giờ lại tuyên bố bỏ ra chừng đó để mua cổ
phiếu quỹ, điều này thật khó hiểu” – ông Nguyễn Việt Đức, Phó giám đốc nghiên cứu –
phân tích SHF nhận xét.
Với hoạt động của ngân hàng hiện nay thì hệ số an toàn vốn CAR rất đáng quan tâm. Khi
thực hiện mua cổ phiếu quỹ, ngân hàng sẽ phải mất một lượng tiền mặt khá lớn, giảm vốn
chủ sở hữu, tác động làm giảm hệ số CAR. Như vậy với việc tăng EPS cho cổ đông, thì

cổ đông cũng phải chấp nhận thực tế là hoạt động của ngân hàng thêm rủi ro. Thực tế


STB vẫn hoàn toàn có thể đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn tối thiếu CAR theo đúng quy định
của NHNN bằng cách thanh lý bớt tài sản có rủi ro, hoặc các khoản đầu tư để tăng lượng
tiền mặt.
Chưa kể việc trích lập dự phòng rủi ro tín dụng hiện nay các ngân hàng đa phần thực hiện
theo điều 6 của quyết định 493/2005/QĐ-NHNN, chỉ có số ít ngân hàng áp dụng theo
điều 7 của quyết định này. Ngân hàng nhà nước vẫn muốn các ngân hàng thương mại
thực hiện trích lập theo điều 7, trích lập dự phòng rủi ro dựa trên khả năng thanh toán nợ.
Như thế, mua cổ phiếu quỹ sẽ khiến ngân hàng mất đi khoản tiền đề phòng bù đắp cho nợ
xấu có thể tăng trong thời gian tới.
 Ngoài ra, trong trường hợp thị trường đang trong xu hướng giảm mạnh thì

việc mua cổ phiếu quỹ nếu số lượng không đủ lớn sẽ không thể kìm được
đà rớt giá của cổ phiếu. Điều này đồng nghĩa với việc mua cổ phiếu quỹ có
thể gây thiệt hại cho chính doanh nghiệp, tức gây thiệt hại cho cổ đông.
Thực tế cho thấy, nhiều cổ phiếu không bị tác động sau khi doanh nghiệp công bố thông
tin mua cổ phiếu quỹ. Đơn cử như PVR, ngày 19/05/2011 doanh nghiệp công bố thông
tin mua cổ phiếu quỹ nhưng những phiên sau đó giá PVR vẫn giảm theo xu hướng chung
của thị trường.
 Mua cổ phiếu quỹ có thể là dấu hiệu cho thấy ban lãnh đạo công ty muốn

làm hài lòng cổ đông, và sau đó có thể xuất hiện một “yêu sách” nào đó.
 Việc mua cổ phiếu quỹ cũng có thể phát đi thông điệp rằng ban lãnh đạo đã

hết sáng tạo trong đường hướng cải thiện kết quả kinh doanh, mà thay vào
đó chỉ còn cách này để kéo giá cổ phiếu, làm hài lòng cổ đông.
 Đối với nhà đầu tư:


 Tại thời điểm đăng ký mua, doanh nghiệp có thể có nguồn vốn nhàn rỗi,

nhưng nếu nguy cơ rủi ro về tài chính như không thu được các khoản nợ
đến hạn, rủi ro thanh khoản có thể xảy ra. Khi đó, mua cổ phiếu quỹ sẽ
làm suy yếu khả năng thanh toán và trả nợ của công ty. Mặt khác, các
quy định hiện nay mới chỉ yêu cầu doanh nghiệp chứng minh nguồn vốn
được sử dụng, mà chưa bắt buộc doanh nghiệp chứng minh có tiền nhàn
rỗi để mua cổ phiếu quỹ. Trong khi đó, nguồn vốn chỉ là quyết toán trên
sổ sách mà thôi. Như vậy, việc mua cổ phiếu quỹ của doanh nghiệp
dễ khiến các nhà đầu tư gặp rủi ro lựa chọn nghịch khi lựa chọn


đầu tư vào một công ty có vẻ ngoài “Chúng tôi đang có nguồn tiền
mặt dồi dào, làm ăn tốt, không lo về vốn”.
 Dù nhà đầu tư có kỳ vọng sau khi doanh nghiệp mua cổ phiếu quỹ sẽ làm
tăng giá cổ phiếu nhưng khi công ty dùng tiền mua cổ phiếu quỹ để làm giảm
đà giảm giá của cổ phiếu trong trường hợp thị trường đang trong xu hướng
giảm mạnh thì việc mua cổ phiếu quỹ nếu số lượng không đủ lớn sẽ không thể
kìm được đà rớt giá của cổ phiếu. Trong trường hợp này nếu quá tin vào khả
năng tài chính của công ty thì nhà đầu tư dễ gặp phải rủi ro lựa chọn nghịch.
Như vậy, việc mua cổ phiếu quỹ của các doanh nghiệp có thế gây rủi ro do thông tin
bất cân xứng, khi có các lựa chọn đầu tư, nhà đầu tư cần nghiên cứu kỹ về sự thận
trọng và triển vọng ngành nghề, sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng như nền
kinh tế và thị trường chứng khoán nói chung để có quyết định chính xác

1c.

Doanh nhiệp nhà nước

1 . Doanh nhiệp nhà nước là gì ?

Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc
có cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước, công ty cổ
phần, công ty trách nhiệm hữu hạn.
Trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng
và Nhà nước ta tiếp tục chủ trương củng cố và phát triển doanh nghiệp nhà nước ở một số
ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng. Nhưng có ý kiến cho rằng, doanh nghiệp
nhà nước không thích hợp với cơ chế thị trường, kém hiệu quả, trở thành gánh nặng cho
nền kinh tế quốc dân, nên tư nhân hóa càng sớm càng tốt. Vì lý do đó, ở đây cần làm rõ
sự tồn tại của doanh nghiệp nhà nước.
Một thực tế khách quan là, hiện nay doanh nghiệp nhà nước đang tồn tại ở hầu hết các
nước trên thế giới, không chỉ ở các nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa mà cả ở
những nước tư bản chủ nghĩa.
Sự tồn tại doanh nghiệp nhà nước ở nước ta cũng như ở các nước có chế độ chính trị và
trình độ phát triển khác nhau là do nhiều nguyên nhân trong đó những nguyên nhân chủ
yếu là:


1. Do nhu cầu quản lý vĩ mô của NN:

Yêu cầu này bắt nguồn từ sự phát triển lực lượng sản xuất với trình độ xã hội hóa ngày
càng cao. Điều này đòi hỏi phải có sự điều tiết vĩ mô từ một trung tâm quyền lực nhà
nước. Và để thực hiện sự điều tiết này, Nhà nước không chỉ sử dụng các công cụ pháp
luật, kế hoạch, chính sách kinh tế các lực lượng vật chất mà còn phải hình thành doanh
nghiệp nhà nước
1. Do phải khắc phục những khuyết tật của nền kinh tế thị trường.

Thời kinh tế thị trường mang trong nó những khuyết tật như tính tự phát, bất ổn
định, vận động theo lợi nhuận thuần túy
Nguyên nhân:
Nhiệm vụ kinh tế, chính trị: một số ngành ít lợi nhuận nên bắt buộc DNNN phải

duy trì hoạt động để giải quyết thất nghiệp, an ninh XH, tránh gây ra sự mất cân
đối, khủng hoảng, thất nghiệp, phân hóa giàu nghèo quá mức
Mục tiêu xã hội: góp phần giải quyết sự mất cân đối giữa các ngành, các vùng
kinh tế trong cả nước, giữa các tầng lớp dân cư, góp phần khắc phục khủng hoảng,
giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động
2. Do phải chống độc quyền

Làm giảm bớt quyền lực kinh tế bằng cách quốc hữu hóa của một số nhà tư bản
hoặc tập đoàn tư bản ở mọi quy mô và mức độ trong đời sống kinh tế quốc gia,
tránh dẫn đến sự cực quyền, thao túng nền kinh tế quốc gia.
iii.
Phân tích rủi ro Đạo Đức trong doanh nhiệp nhà nước
Như ta thấy, sự tồn tại của doanh nhiệp là quan trọng và nó đóng một vai trò không
nhỏ trong điều tiết nền kinh tế, tuy nhiên ở Việt Nam , thời gian gần đây nhiều doanh
nhiệp nhà nước Việt Nam lại thâm vào thua lỗ trầm trọng:
Những ví dụ về hoạt động thua lỗ của hệ thống DNNN
1.Vinashin: nợ 86 nghìn tỷ đồNg. Và những con tàu trị giá hàng trăm, hàng nghìn tỷ
đồng khác đóng dở dang mà không thể đưa vào hoạt động, nhiều nhà máy đóng tàu
lâm vào tình cảnh phá sản.


2.Tập đoàn Điện lực (EVN) kinh doanh điện lỗ âm 11.437 tỷ đồng và chênh lệch tỷ
giá âm 26.667 tỷ đồng. Thế nhưng do độc quyền trong việc cung cấp điện, nên dù để lỗ
cả nghìn tỷ đồng vì kinh doanh viễn thông, EVN lại đàng hoàng tăng giá điện để bù
lỗ. Hệ số nợ/vốn chủ sở hữu của EVN Telecom lên đến 5,1 lần (trong đó nợ phải trả là
7.760 tỉ đồng, vốn chủ sở hữu là 1.586 tỉ đồng).
3.Tập đoàn dầu khí quốc gia (PVN) là một ví dụ điển hình về việc doanh nghiệp nhà
nước càng phát triển, người dân càng phải dùng sản phẩm với giá cao. Từ bao nhiêu năm
nay, PVN chỉ có mỗi việc hút dầu thô lên bán và luôn tự hào về khoản đóng góp ngân
sách. Tuy nhiên, sản phẩm cuối cùng là xăng thì Việt Nam hoàn toàn phải nhập của nước

ngoài.
Vì sao lại xảy ra việc thua lỗ này ? Có lẽ 1 trong những nguyên nhân quan
trọng , đó chính là rủi ro đạo đức trong doanh nghiệp nhà nước là quá lớn.
Trái phiếu Chính phủ tập trung nhiều hay Doanh nghiệp Nhà nước( DNNN)... được
hưởng tín dụng nhiều dễ dẫn đến “rủi ro đạo đức”, tham nhũng, lãng phí. Bởi khi doanh
nghiệp được bảo lãnh ngầm, dễ dàng vay được tiền có thể dẫn đến làm liều, làm ẩu mà
không dựa trên tính toán cẩn thận và cả chính do năng lực quản trị không theo kịp mở
rộng đầu tư, kinh doanh.
Vấn đề lớn nhất của các DNNN là thiếu động lực phát triển do sử dụng đồng vốn
của nhà nước chứ không phải của bản thân. Đồng thời lại sinh thêm tầng quản lý cồng
kềnh. cơ quan này làm việc không hiệu quả, lại phát sinh thêm một bộ phận để làm công
việc giám sát. Khi các lãnh đạo DNNN làm ăn thua lỗ, thì hình phạt chỉ là khiển trách,
cảnh cáo như EVN mà không hề thể hiện tính răn đe, trừng phạt-> tình trạng lộng hành,
không sợ luật pháp hay dư luận hoặc không yêu cầu bồi thường hay ít nhất có lộ trình cụ
thể nào để trả nhà nước 257.000 tỉ đồng thất thoát trên. Các Chaebol của Hàn Quốc, nếu
hoạt động không hiệu quả, thì người điều hành bị sa thải ngay lập tức dựa trên các chỉ số
tài chính, ngắn và dài hạn. Còn ở Việt Nam, với tư tưởng nhiệm kỳ, có 5 năm, tôi sẽ cố
làm thật nhiều dự án mới, không phải vì mục tiêu lợi nhuận chung hay xây thương hiệu
công ty mà để thu lợi cá nhân qua tiền bạc hay quyền lực.


b. Ảnh hưởng của nhà nước đối với hệ thống ngân hàng
Sau khi tạo ra 50% số nợ trong tổng dư nợ tín dụng ngân hàng và 50% nợ xấu, các
DNNN dường như không phải chịu trách nhiệm về các món nợ của mình mà còn tiếp tục
được các ngân hàng mở rộng cửa cho vay vốn, thậm chí còn được vay nhiều hơn năm
ngoái.
Về mặt nguyên tắc, những doanh nghiệp nợ xấu thuộc diện theo dõi đặc biệt, với những
vết đen trong hồ sơ tín dụng. Trừ khi họ tất toán được các khoản nợ này mới có thể tính
đến chuyện tiếp tục vay vốn, xong hồ sơ tín dụng cũng sẽ bị mất điểm khiến những lần
thẩm định tiếp theo không hề dễ dàng. Tuy nhiên với chính sách tín dụng như hiện nay,

mặc dù làm ăn thua lỗ gây nợ xấu nhưng các DNNN vẫn tiếp tục được ngân hàng ưu ái
rót vốn. Trong khi đó, việc xử lý nợ xấu đối với các DNNN là cực kỳ khó khăn bởi nhiều
doanh nghiệp trong số này vay vốn theo dạng tín chấp, hoàn toàn không có tài sản thế
chấp. Hoặc có những trường hợp, các DNNN vay vốn để hoạt động với mục đích phi
thương mại, đến khi thua lỗ, các ngân hàng không thể áp dụng những biện pháp xử lý
thông thường như đối với các doanh nghiệp thương mại.
Như vậy nguồn vốn của hệ thống ngân hàng đã không tìm tới được những địa chỉ có khả
năng sinh lời thực sự mà vẫn được rót vào những cái thùng không đáy một cách vô vọng.
Nếu vẫn tiếp tục biệt đãi các DNNN như hiện nay, nền kinh tế Việt Nam sẽ phải đối mặt
với nhiều nguy cơ mang tính hệ thống và khả năng lún sâu vào khủng hoảng là điều khó
tránh khỏi.
Câu 2.

Giới thiệu về ngân hàng thương mại

1. Lịch sử hình thành ngân hàng thương mại


Thời kì sơ khai:
+ Từ 3500-1800 trước Công Nguyên, tiền đúc bằng kim loại đã xuất hiện trong lưu
thông. Nghề ngân hàng ra đời với những nghiệp vụ đơn giản như nhận bảo quản
tiền, đổi tiền đúc…
+Từ 1800 TCN-thế kỉ IV sau CN, hoạt động của ngân hàng đã tiến triển thêm một bước
mới: ngân hàng có thêm hoạt động cho vay


Thời kì từ thế kỉ V-XVII:
+ Đến cuối thế kỉ XVII, các nghiệp vụ của ngân hàng đã hoàn thiện, bao gồm: nhận
tiền gửi, cho vay, phát hành tiền giấy có thể chuyển đổi ra vàng, chiết khấu thương
phiếu, chuyển tiền, thanh toán bù trừ…

− Thời kì từ thế kỉ XVIII đến cuối thế kỉ XIX:
+ Nhà nước bắt đầu can thiệp vào hoạt động ngân hàng.
− Thời kì từ đầu thế kỉ XX đến nay:
+ Nhà nước nắm lấy các ngân hàng phát hành để điều tiết các hoạt động kinh tế vĩ mô.
+ Hệ thống ngân hàng được cấu thành bởi hai bộ phận: ngân hàng trung ương và ngân
hàng trung gian.
+ 2.Định nghĩa:
Ngân hàng thương mại (NHTM) là một tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân hoạt
động kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với hoạt động chính là huy động tiền gửi dưới
các hình thức khác nhau của khách hàng, trên cơ sở nguồn vốn huy động này và vốn
chủ sở hữu của ngân hàng để thực hiện các nghiệp vụ cho vay, đầu tư, chiết khấu
đồng thời thực hiện các nghiệp vụ thanh toán, môi giới, tư vấn và một số dịch vụ khác
cho các chủ thể trong nền kinh tế.


1.3 Chức năng của ngân hàng thương mại
1.3.1
Chức năng trung gian tín dụng:

Là chức năng quan trọng nhất.
Là cầu nối giữa người thừa vốn và người có nhu cầu về vốn(NHTM đóng
vai trò là người đi vay vừa là người cho vay và hưởng lợi nhuận theo lãi xuất cho
vay và đi vay)

.2

Chức năng trung gian thanh toán:


3


Cung cấp các dịch vụ về thanh toán như phát hành séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm
thu, thẻ rút tiền, thẻ thanh toán, thẻ tín dụng…. để thanh toán theo yêu cầu của
khách hàng như trích khoản tiền gửi để thanh toán các dịch vụ mà khách hàng
sử dụng

Chức năng tạo tiền.

Tạo tiền là một chức năng quan trọng, phản ánh rõ bản chất của ngân Ngân hàng
thương mại. Chức năng tạo tiền được thực thi trên cơ sở hai chức năng khác của Ngân
hàng thương mại là chức năng tín dụng và chức năng thanh toán. Thông qua chức năng


trung gian tín dụng, ngân hàng sử dụng số vốn huy động được để cho vay, số tiền cho
vay ra lại được khách hàng sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ trong khi số
dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng vẫn được coi là một bộ phận của
tiền giao dịch, được họ sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ… Với chức năng
này, hệ thống Ngân hàng thương mại đã làm tăng tổng phương tiện thanh toán trong
nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả của xã hội. Ngân hàng thương mại là
một tổ chức tín dụng mà hoạt động chủ yếu của nó là kinh doanh tiền tệ.
Ví dụ: Giả sử ngân hàng A có khoản tiền gửi mới là 1.000.000đ, dự trữ bắt buộc là 10%
thì số tiền nó có thể cho vay là 900.000. Khoản tiền cho vay đó được đưa đến người vay,
người vay tiền không bao giờ vay tiền về mà cất trong nhà vì như thế họ phải chịu lãi một
cách vô ích, họ dùng tiền đó chi trả các khoản. Và số tiền đó đến tay người được chi trả,
người chi trả đem số tiền đó gửi vào ngân hàng B, ngân hàng B lúc này sẽ có một lượng
tiền gửi mới là 900.000. Dự trữ bắt buộc là 10%, số tiền có thể cho vay là 810.000. Số tiền
này được cho người cần vay vay, người cho vay chi trả các khỏan đến người được chi trả,
người được chi trả đem số tiền được trả gửi vào ngân hàng C. Lúc này ngân hàng C sẽ có
số tiền gửi mới là 810.000. Và cứ như thế tiếp tục… cho đến khi lượng tiền gửi mới bằng
0. Người ta tính được rằng lượng tiền gửi mới trong tòan hệ thống ngân hàng là

10.000.000, lượng tiền dự trữ bắt buộc là 1.000.000 và tiền cho vay là 9.000.000. Và do
cách thức này mà tiền đã được tạo ra trong hệ thống ngân hàng 2 cấp.

Tên các ngân hàng

Tiền gửi mới

Thanh toán cho Dự trữ bắt
vay mới
buộc

A

1.000.000

900.000

100.000

B

900.000

810.000

90.000

C

810.000


729.000

81.000









Tiền toàn hệ thống ngân hàng

10.000.000

9.000.000

1.000.000

Hoạt động chính của ngân hàng thương mại


-

-

-


-

-

-

-

Cho vay tiêu dùng. Trong lịch sử, hầu hết các ngân hàng không tích cực cho vay đối
với cá nhân và hộ gia đình bởi vì họ tin rằng các khoản cho vay tiêu dùng nói chung
có quy mô rất nhỏ với rủi ro vỡ nợ tương đối cao và do đó làm cho chúng trở nên có
mức sinh lời thấp. sự cạnh tranh khốc liệt trong việc giành giật tiền gửi và cho vay
đã buộc các ngân hàng phải hướng tới người tiêu dùng như là một khách hàng trung
thành tiềm năng. người tiêu dùng vẫn tiếp tục là nguồn vốn chủ yếu của ngân hàng
và tạo ra một trong số những nguồn thu quan trọng nhất.
Tư vấn tài chính: Các ngân hàng từ lâu đã được khách hàng yêu cầu thực hiện hoạt
động tư vấn tài chính, đặc biệt là về tiết kiệm và đầu tư. Ngân hàng ngày nay cung
cấp nhiều dịch vụ tư vấn tài chính đa dạng, từ chuẩn bị về thuế và kế hoạch tài chính
cho các cá nhân đến tư nhân về các cơ hội thị trường trong nước và ngoài nước cho
các khách hàng kinh doanh của họ.
Quản lý tiền mặt. .
Trong khi các ngân hàng có khuynh hướng chuyên môn hóa vào dịch vụ quản lý
tiền mặt cho các tổ chức, Một ví dụ là tài khoản quản lý tiền mặt của Merrill Lynch,
cho phép khách hàng của nó mua và bán chứng khoán, di chuyển vốn trong nhiều
quĩ tương hỗ, viết séc, và sử dụng thẻ tín dụng cho khoản vay tức thời.
Cho vay tài trợ dự án. Các ngân hàng ngày càng trở nên năng động trong việc tài
trợ cho chi phí xây dựng nhà máy mới đặc biệt là trong các ngành công nghệ cao.
Do rủi ro trong loại hình tín dùng này nói chung là cao nên chúng thường được thực
hiện qua một công ty đầu tư, là thành viên của công sở hữu ngân hàng, cùng với sự
tham gia của các nhà thầu, là thành viên của công ty sở hữu ngân hàng, cùng với sự

tham gia của các nhà đầu tư khác để chia sẻ rủi ro. Những ví dụ nổi bật về loại hình
công ty đầu tư này là Bankers Trust Venture Capital anh Citicorp Venture,Inc
Bán các dịch vụ bảo hiểm. Từ nhiều năm nay, các ngân hàng đã bán bảo hiểm tín
dụng cho khách hàng, điều đó bảo đảm việc hòan trả trong trường hợp khách hàng
vay vốn bị chết hay bị tàn phế. Hiện nay, ngân hàng thường bảo hiểm cho khách
hàng thông qua các liên doanh hoặc các thỏa thuận đại lý kinh doanh độc quyền
theo đó một công ty bảo hiểm đồng ý đặt một văn phòng đại lý tại hành lang của
ngân hàng và ngân hàng sẽ nhận một phần thu nhập từ các dịch vụ ở đó. Một số
bang như Delawake và South Dakota đã cho phép ngân hàng
Cung cấp các kế hoạch hưu trí: Phòng ủy thác ngân hàng rất năng động trong việc
quản lý kế hoạch hưu trí mà hầu hết các doanh nghiệp lập cho người lao động, đầu
tư vốn và phát lương hưu cho những người đã nghỉ hưu hoặc tàn phế. Ngân hàng
cũng bán các kế hoạch tiền gửi hưu trí (được biết như IRAS và Keogle) cho các cá
nhân và giữ nguồn tiền gửi cho đến khi người sở hữu các kế hoạch này cần đến.
Cung cấp các dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán. Trên thị trường tài chính hiện
nay, nhiều ngân hàng đang phấn đấu để trở thành một “bách hóa tài chính” thực sự,


-

-

cung cấp đủ các dịch vụ tài chính cho phép khách hàng thỏa mãn mọi nhu cầu tại
một địa điểm. Đây là một trong những lý do chính khiến các ngân hàng bắt đầu bán
các dịch vụ môi giới chứng khoán, cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu,
trái phiếu và các chứng khoán khác mà không phải nhờ đến người kinh doanh chứng
khoán. Trong một vài trường hợp, các ngân hàng mua lại một công ty môi giới đang
hoạt động (ví dụ Bank of America mua Robertson Stephens Co.) hoặc thành lập các
liên doanh với một công ty môi giới.
Cung cấp dịch vụ quỹ tương hỗ và trợ cấp. Do ngân hàng cung cấp các tài khoản

tiền gửi truyền thống với lãi suất quá thấp, nhiều khách hàng đã hướng tới việc sử
dụng cái gọi là sản phẩm đầu tư (investment products) đặc biệt là các tài khoản của
quỹ tương hỗ và hợp đồng trợ cấp, những loại hình cung cấp triển vọng thu nhập
cao hơn tài khoản tiền gửi dài hạn cam kết thanh toán một khoản tiền mặt hàng năm
cho khách hàng bắt đầu từ một ngày nhất định trong tương lai ( chẳng hạn ngày nghỉ
hưu). Ngược lại, quỹ tương hỗ bao gồm các chương trình đầu tư được quản lý một
cách chuyên nghiệp nhằm vào việc mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng
khoán phù hợp với mục tiêu của quỹ (ví dụ: Tối đa hóa thu nhập hay đạt được sự
tăng giá trị vốn). Trong khi quá trình phát triển của các kế hoạch trợ cấp diễn ra khá
chậm do những vụ kiện tụng bởi các đối thủ cạnh tranh chống lại sự mở rộng của
ngân hàng sang lĩnh vực dịch vụ mới này thì việc cung cấp cổ phiếu trong quỹ vốn
ngân hàng quản lý chiếm 15% tổng giá trị tài sản của quỹ tương hỗ trong những
năm 90. Một vài ngân hàng đã tổ chức những chi nhánh đặc biệt để thực hiện
nhiệm vụ này (ví dụ: Citicorp’s Investment Services) hoặc liên doanh với các nhà
kinh doanh và môi giới chứng khoán. Gần đây, hoạt động cung cấp nghiệp vụ quỹ
tương hỗ của ngân hàng đã có nhiều giảm sút do mức thu nhập không còn cao như
trước, do những qui định nghiêm ngắt hơn và đồng thời do sự thay đổi trong quan
điểm đầu tư của công chúng.
Cung cấp dịch vụ ngân hàng đầu tư và ngân hàng bán buôn.. Những dịch vụ này
bao gồm xác định mục tiêu hợp nhất, tài trợ mua lại Công ty, mua bán chứng khoán
cho khách hàng (ví dụ: bảo lãnh phát hành chứng khoán), cung cấp công cụ
Marketing chiến lược, các dịch vụ hạn chế rủi ro để bảo vệ khách hàng. Các ngân
hàng cũng dấn sâu vào thị trường bảo đảm, hỗ trợ các khoản nợ do chính phủ và
công ty phát hành để những khách hàng này có thể vay vốn
Ở Mỹ, các dịch vụ ngân hàng đầu tư (như bảo lãnh phát hành chứng khoán) liên
quan tới việc mua bán cổ phiếu mới và nợ do ngân hàng thương mại thực hiện thay
mặt cho các công ty đã bị cấm sau khi Quốc hội thông qua các Đạo luật GlassSteagall năm 1933. Tuy nhiên, trước áp lực lớn từ các công ty ngân hàng trong nước
hàng đầu, và do thành công của các đối thủ cạnh tranh nước ngoài, vào những năm
80 Cục lữu trữ liên bang đã bắt đầu nới lỏng các quy định đối với việc ngân hàng



kinh doanh chứng khoán do khách hàng của chúng phát hành. Thông qua nghiệp vụ
bảo lãnh phát hành, ngân hàng đã tạo cho các công ty một kênh huy động vốn mới
bên cạnh hình thức cho vay vốn truyền thống. Nhiều công ty đã đánh giá rất cao
nghiệp vụ này của ngân hàng, hơn cả hình thức cho vay truyền thống bởi vì nó cung
cấp cho họ một nguồn vốn dài hạn với chi phí thấp hơn. Cho tới cuối những năm 90,
Cục dự trữ Liên bang Mỹ đã cấp cho hơn 40 ngân hàng đặc quyền cung cấp dịch vụ
bảo lãnh phát hành chứng khoán. Trên thực tế, điều này cho phép nhân viên tín dụng
ngân hàng cộng tác chặt chẽ với giới kinh doanh chứng khoán trong quá trình tìm
nguồn tài trợ cho khách hàng. Năm 1996, Cục quản lý tiền tệ Mỹ ra quy định mới
cho phép các ngân hàng có giấy phép hoạt động trên toàn quốc có thể cung cấp dịch
vụ bảo lãnh phát hành nếu như dịch vụ này được thực hiện thông qua các công ty
con, với điều kiện ngân hàng không được đầu tư quá 10% vốn cổ phần vòa một
công ty. Một sự nới lỏng hơn nữa trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán và như
vậy, ngân hàng có thể cung cấp toàn bộ dịch vụ tài trợ và tư vấn quản lý đối với hoạt
động kinh doanh chứng khoán. Một ví vụ gần đây là sự kiện ngân hàng NationBank
mua Mortgetary Security Inc., Bank America mua công ty Robertson Stephens và
ngân hàng Banker Trust ofNew York mua công ty Alex Brow.
Ví dụ:
Agribank (Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam)
Agribank từ khi thành lập (26/3/1988) đến nay luôn khẳng định vai trò là Ngân
hàng thương mại lớn nhất, giữ vai trò chủ đạo, trụ cột đối với nền kinh tế đất nước, đặc
biệt đối với nông nghiệp, nông dân, nông thôn; thực hiện sứ mệnh quan trọng dẫn dắt
thị trường; đi đầu trong việc nghiêm túc chấp hành và thực thi các chính sách của Đảng,
Nhà nước, sự chỉ đạo của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về chính sách
tiền tệ, đầu tư vốn cho nền kinh tế.
Agribank là ngân hàng lớn nhất, dẫn đầu trong hệ thống ngân hàng Việt Nam về
vốn, tài sản, nguồn nhân lực, màng lưới hoạt động, số lượng khách hàng. Đến
31/12/2009, Agribank có tổng tài sản 470.000 tỷ đồng; vốn tự có 22.176 tỷ đồng; tổng
nguồn vốn 434.331 tỷ đồng; tổng dư nợ 354.112 tỷ đồng; đội ngũ cán bộ nhân viên

35.135 người; 2.300 chi nhánh và phòng giao dịch; quan hệ đại lý với 1.034 ngân hàng
tại 95 quốc gia và vùng lãnh thổ; được trên 13 triệu khách hàng tin tưởng lựa chọn…
Agribank cũng là ngân hàng hàng đầu tại Việt Nam tiếp nhận và triển khai các dự án
nước ngoài, đặc biệt là các dự án của Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển
châu Á (ADB), Cơ quan phát triển Pháp (AFD), Ngân hàng Đầu tư châu Âu (EIB)…
Agribank hiện là Chủ tịch Hiệp hội Tín dụng Nông nghiệp Nông thôn châu Á- Thái Bình


Dương (APRACA). Trong những năm gần đây, Agribank còn được biết đến với hình ảnh
của một ngân hàng hàng đầu cung cấp các sản phẩm dịch vụ tiện ích, hiện đại.
Bước vào giai đoạn mới hội nhập sâu hơn, toàn diện hơn, nhưng đồng thời cũng
phải đối mặt nhiều hơn với cạnh tranh, thách thức sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO) ngày 07/11/2006, cam kết mở cửa hoàn toàn thị trường tài
chính - ngân hàng vào năm 2011, Agribank xác định kiên trì mục tiêu và định hướng phát
triển theo hướng Tập đoàn tài chính - ngân hàng mạnh, hiện đại có uy tín trong nước,
vươn tầm ảnh hưởng ra thị trường tài chính khu vực và thế giới.
Năm 2010 và những năm tiếp theo, Agribank xác định mục tiêu chung là tiếp tục
giữ vững, phát huy vai trò ngân hàng thương mại hàng đầu, trụ cột trong đầu tư vốn cho
nền kinh tế đất nước, chủ đạo, chủ lực trên thị trường tài chính, tiền tệ ở nông thôn,
kiên trì bám trụ mục tiêu hoạt động cho “tam nông”. Tập trung toàn hệ thống và bằng
mọi giải pháp để huy động tối đa nguồn vốn trong và ngoài nước. Duy trì tăng trưởng tín
dụng ở mức hợp lý. Ưu tiên đầu tư cho “tam nông”, trước tiên là các hộ gia đình sản
xuất nông, lâm, ngư, diêm nghiệp, các doanh nghiệp nhỏ và vừa nhằm đáp ứng được
yêu cầu chuyển dịch cơ cấu đầu tư cho sản xuất nông nghiệp, nông thôn, tăng tỷ lệ dư
nợ cho lĩnh vực này đạt 70%/tổng dư nợ. Để tiếp tục giữ vững vị trí là ngân hàng hàng
đầu cung cấp sản phẩm dịch vụ tiện ích, hiện đại có chất lượng cao đáp ứng nhu cầu của
đông đảo khách hàng, đồng thời tăng nguồn thu ngoài tín dụng, Agribank không ngừng
tập trung đổi mới, phát triển mạnh công nghệ ngân hàng theo hướng hiện đại hóa. Năm
2010, Agribank phấn đấu đạt được các mục tiêu tăng trưởng cụ thể, đó là: so với năm
2009, nguồn vốn tăng từ 22%-25%; tỷ lệ cho vay nông nghiệp, nông thôn đạt 70%/tổng

dư nợ; nợ xấu dưới 5%; tỷ lệ thu ngoài tín dụng tăng 20%; lợi nhuận tăng 10%; hệ số an
toàn vốn (CAR) theo chuẩn quốc tế.

Rủi ro đạo đức của ngân hàng thương mại
1. Thông tin bất cân xứng


Rủi ro đạo đức nảy sinh khi bên có ưu thế thông tin hiểu được tình thế thông tin phi đối
xứng giữa các bên giao dịch và tự nhiên hình thành động cơ hành động theo hướng làm
lợi cho bản thân bất kể hành động đó có thể làm hại cho bên kém ưu thế thông tin. Hậu
quả của rủi ro đạo đức do hai chủ thể này gây nên lại do người gửi tiền vào ngân hàng
và chính ngân hàng đó gánh chịu.
Khi nhắc tới rủi ro đạo đức trong nghành ngân hàng, tín dụng là bộ phận hay được nhắc
tới nhất. Điều này có thể chứng minh khi những thông tin khởi tố các cán bộ quản lý,
cán bộ tín dụng các ngân hàng liên tục trên các mặt báo vì những hành vi sai phạm của
mình. Các hành vi phổ biến như thiếu trách nhiệm trong thẩm định, cấu kết với khách
hàng, ăn chia hoa hồng trên số tiền vay được, liên kết với nhau để vay mượn lòng vòng,
thậm chí là vay ké của khách hàng…
Ví dụ :Theo báo Vnexpress.net, năm 2011 có tới 48/63 tỉnh, thành đã xảy ra các vụ án
liên quan đến tín dụng, bao gồm cả tín dụng đen và hoạt động ngân hàng với sai phạm
lên đến hàng chục ngàn tỉ đồng. Sang năm 2012, nhiều vụ vi phạm liên quan đến rủi ro
đạo đức trong lĩnh vực ngân hàng tiếp tục bị phát hiện. Tháng 4/2012, Trưởng Bộ phận
Quan hệ khách hàng thuộc ngân hàng TMCP An Bình Chi nhánh Cần Thơ bị truy tố về tội
“lừa đảo chiếm đoạt tài sản” với số tiền là 8 tỷ đồng. Đây chính là dấu hiệu cấu kết, liên
minh là có, rủi ro đạo đức của khách hàng và của nhân viên là đi liền với nhau.
Tuy nhiên, các rủi ro đạo đức không chỉ xảy ra với cán bộ tín dụng mà có thể ở các bộ
phận nghiệp vụ khác của ngân hàng, thậm chí là giao dịch viên, thủ quỹ. Các hình thức
quen thuộc vẫn là lập khống, tất toán khống sổ tích kiệm của khách, cạo sửa sổ tiết
kiệm, cầm cố khống các giấy tờ giả.
Chính vì thế, một chuyên gia ngân hàng nhấn mạnh: “Ngân hàng là ngành nghề kinh

doanh gắn chặt với tiền, rất nhiều tiền nên bị các vấn đề đạo đức bủa vây là hiển nhiên.
Vì thế trong ngành ngân hàng càng phải tang cương chống, giảm rủi ro về đạo đức


Mấu chốt là vấn đề con người
Ngân hàng là lĩnh vực đòi hỏi sự minh bạch và chuyên nghiệp cao. Nguồn nhân lực yếu
kém không chỉ tạo ra những hạn chế trong quản trị ngân hàng, ảnh hưởng đến hiệu quả
kinh doanh, mà còn tiềm ẩn rủi ro đạo đức rất lớn. Hơn bao giờ hết, ngành Ngân hàng
phải giáo dục đạo đức nghề nghiệp và coi đó như một nhiệm vụ hàng đầu trong quá
trình tái cơ cấu.
Rủi ro đạo đức là điều không thể tránh khỏi. Nhưng, vấn đề là phải làm sao để quản trị
tốt, giảm thiểu những rủi ro này. Đây cũng là một câu hỏi lớn dành cho các ngân hàng
trong quá trình tái cấu trúc sắp tới, cũng nhưng quá trình vận hành ngân hàng sau tái
cấu trúc sau này.

2. Cạnh tranh không lành mạnh

Các hành vi cạnh tranh bất hợp pháp bao gồm:
Khuyến mại bất hợp pháp;
Thông tin sai sự thật làm tổn hại lợi ích của TCTD khác và của khách hàng;
Đầu cơ lũng đoạn thị trường tiền tệ, vàng, ngoại tệ;
Các hành vi cạnh tranh bất hợp pháp khác
Ví dụ như tình trạng các tổ chức tín dụng cạnh tranh nhằm mục đích tăng thị phần huy
động vốn của mình. Để thực hiện được điều này, các ngân hàng đua nhau nâng mức lãi
suất huy động tiền gửi trong dân cư mà không tính đến hiệu quả kinh tế mà sâu xa là
gây mất an toàn hệ thống. Vì vậy nếu việc đưa ra lãi suất huy động cao dựa trên cơ sở
sự tính toán hiệu quả kinh tế và có lợi nhuận thì đây là cạnh tranh lành mạnh.
Ngoài ra, còn một loạt các hình thức cạnh tranh không lành mạnh giữa các ngân hàng
như: việc thu hút tiền gửi với mức lãi suất tiền gửi cao hơn tại một số ngân hàng khiến
cho tiền gửi chuyển lòng vòng từ ngân hàng này sang ngân hàng khác; quảng cáo đưa ra

không đúng hoặc gây hiểu lầm về nguồn lực tài chính, đưa ra những báo cáo kiểm toán
gây hiểu lầm để hỗ trợ những quảng cáo, với quan điểm là để thu hút người gửi tiền từ
những ngân hàng khác; Cung cấp các thông tin về vấn đề và khó khăn của các ngân hàng


khác, gièm pha đối thủ cạnh tranh và cung cấp thông tin sai trái để gây nhầm lẫn cho
khách hàng;
Hay hình thức áp dụng các khoản vay lãi suất thấp hơn cho khách hàng của một lĩnh vực
cụ thể so với lãi suất cho người vay các khu vực khác; hoặc hành vi cung cấp thông tin dễ
gây hiểu lầm có hại cho các tổ chức tín dụng khác như sử dụng tên gọi, logo, chỉ dẫn địa
lý để gây nhầm lẫn với các tổ chức tín dụng nước ngoài, khiến khách hàng tưởng dịch vụ
đó do tổ chức tín dụng nổi tiếng cung cấp,…cũng bị xem là một biểu hiện cạnh tranh
không lành mạnh.
Việc cung cấp tiền thưởng và thù lao cho nhân viên dựa trên mức huy động vốn; giảm giá
tùy tiện mà không có lý do hợp lý hoặc cung cấp dịch vụ dưới chi phí; cho một khách
hàng vay để họ có thể sử dụng khoản vay đó như là một khoản tiền gửi tối thiểu để mở
một tài khoản; nới lỏng các điều kiện bắt buộc đối với khách hàng khi xem xét các đề
xuất vay vốn… cũng được xem là một biểu hiện của cạnh tranh không lành mạnh giữa
các ngân hàng



×