Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

Thực hiện dự toán thu chi ngân sách nhà nước của việt nam những năm qua thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (229.67 KB, 21 trang )

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH
KHOA TÀI CHÍNH CÔNG

TIỂU LUẬN
MÔN TÀI CHÍNH CÔNG
Học viên: TrươngThị Thu Hà
Lớp

: TCNH 05E

ĐỀ TÀI:

Thực hiện dự toán thu chi ngân sách Nhà Nước của Việt
Nam những năm qua: Thực trạng và giải pháp
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN:
TS Nguyễn Ngọc Thao – Trưởng Khoa Tài chính công

Huế, tháng 3/2013

Trang 1


A. MỞ ĐẦU
Trong những năm qua, sự biến động của các nền kinh tế thế giới diễn
biến hết sức phức tạp, nhiều quốc gia lâm vào tình trạng suy giảm, suy thoái
kinh tế, thậm chí kề cận bờ vực phá sản. Các nền kinh tế lớn ở Châu Âu như
Ytalia, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và thậm tế nhất là Hy Lạp đều phải trông
chờ vào các gói cứu trợ của Cộng đồng Châu Âu. Tất thảy sự sa sút ở các mức
độ khác nhau của các nền kinh tế kể trên đều xuất phát từ một nguyên nhân là
thâm thủng ngân sách và “nợ công” không có khả năng chi trả. Chính vì vậy,
vấn đề thu chi ngân sách, nợ công và khủng hoảng nợ công như một hồi


chuông cảnh tỉnh tất cả các nền kinh tế, để làm sao tránh vấp phải vết xe đổ
như các nền kinh tế thuộc Cộng đồn chung Châu Âu.
Ở nước ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng, giám sát của Quốc hội, sự điều
hành quyết liệt, linh hoạt và kịp thời của Chính phủ, cộng với nỗ lực của cả hệ
thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và toàn dân, nền kinh tế cũng từng
bước phục hồi và lấy lại đà tăng trưởng khá nhanh, vững chắc. Năm 2010,
tăng trưởng Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của nước ta đạt 6,78%, cao hơn
kế hoạch đề ra (6,5%). Tính trong cả năm, tăng trưởng GDP quý sau cao hơn
quý trước (quý I tăng 5,84%, quý II tăng 6,44%, quý III tăng 7,18%, quý IV
tăng 7,34%). Tất cả các ngành, lĩnh vực đều đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn so
với cùng kỳ năm trước. Cụ thể, nông-lâm-thuỷ sản tăng 2,78%; công nghiệp
và xây dựng tăng 7,7%; dịch vụ tăng 7,52%; giá trị sản xuất công nghiệp tăng
14%; tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 24,5%; kim ngạch
xuất khẩu đạt 72,2 tỷ USD (tăng 26,4%); kim ngạch nhập khẩu đạt 84,8 tỷ
USD (tăng 21,2%); tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng 17,1% (chiếm 42%
GDP); tình hình chính trị - xã hội ổn định, an ninh và trật tự an toàn xã hội
được bảo đảm; an sinh xã hội và phúc lợi xã hội từng bước được nâng cao.
Tuy nhiên, kể từ năm 2011cho đến nay, tình hình trong nước và quốc tế
có nhiều thay đổi bất lợi, báo hiệu những khó khăn có thể ảnh hưởng tiêu cực
đến mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và đẩy lùi những thành quả đạt được
trong thời gian qua.
Trên bình diện quốc tế, bất ổn kinh tế - chính trị tại Trung Đông và Bắc
Phi; cuộc khủng hoảng nợ công dai dẳng ở Khu vực sử dụng đồng tiền chung
châu Âu (Euro); sự yếu kém của hệ thống ngân hàng, bấp bênh của thị trường
nhà ở, thị trường bất động sản và tỷ lệ thất nghiệp cao ở các nước phát triển…
là những nguyên nhân đẩy mặt bằng giá cả thế giới trong hai tháng đầu năm
tăng lên mức đáng ngại. Việt Nam cũng không ngoại lệ khi chính phủ đã phải
điều chỉnh tăng giá một số mặt hàng trọng yếu như xăng, dầu, điện, than; đồng

Trang 2



thời điều chỉnh tỷ giá với biên độ lên tới 9,3%. Những quyết định điều chỉnh
này đang tạo áp lực tăng giá lớn đối với hàng hoá tiêu dùng trong nước.
Trên bình diện trong nước, mặc dù hoạt động kinh tế xã hội trong hai
tháng đầu năm nhìn chung vẫn duy trì đà phát triển của năm 2010 với nhiều
chỉ tiêu kinh tế quan trọng đạt khá so với cùng kỳ năm trước (sản xuất công
nghiệp ước tăng 14,6%, kim ngạch xuất khẩu ước tăng 40,3%, tổng mức bán
lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước tăng 23,7%...), nhưng tình
hình cũng đã phát sinh nhiều khó khăn, thách thức. Thiên tai, thời tiết tác động
bất lợi đến hoạt động sản xuất và đời sống của người dân; dự trữ ngoại hối
thấp; khả năng thanh khoản của nền kinh tế chậm được cải thiện và chỉ số giá
tiêu dùng tăng cao (3,87%)…
Đối với khối DNNN, Việt Nam đang phát triển nền kinh tế thị trường
nhiều thành phần theo định hướng XHCN có sự điều tiết của Nhà Nước, trong
đó kinh tế Nhà Nước đóng vai trò chủ đạo. Tuy nhiên sự yếu kém trong xây
dựng mô hình và công tác quản lý đã khiến nhiều tập đoàn, tổng công ty lớn
của Nhà Nước (điển hình là Vinashine, vinaline) đang đứng trước bờ vực phá
sản khiến giới nghiên cứu kinh tế cũng như toàn xã hội đang đặt ra nhiều câu
hỏi liên quan đến tính hiệu quả của đồng vốn Nhà Nước trong thành phần kinh
tế này.
Trước tình hình đó, ngày 24/02/2011 Chính phủ đã ban hành Nghị quyết
số 11/NQ-CP về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn
định kinh tế vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội. Trước đó, Chính phủ cũng đã
ban hành Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 09/01/2011 về những giải pháp chủ
yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự
toán Ngân sách nhà nước năm 2011.
Trong số 7 giải pháp chính nêu lên trong Nghị quyết 11/NQ-CP, đáng
chú ý nhất là hai giải pháp đầu tiên, nêu rõ chính phủ sẽ thực hiện chính sách
tài khoá và tiền tệ theo hướng thắt chặt, cắt giảm đầu tư công, giảm bội chi

Ngân sách Nhà nước. Trong đó, rà soát cắt giảm đầu tư công đóng vai trò quan
trọng nhằm hạ nhiệt lạm phát vốn đã lên tới mức 11,75% trong năm 2010.
Vấn đề nợ công suy cho cùng cũng là vấn đề cân băng thu chi ngân sách
Nhà nước. Xuất phát từ tầm quan trọng của việc tăng thu ngân sách, lành
mạnh hóa cán cân ngân sách để tiến tới bội thu NSNN ngày càng nhiều, em
xin lựa chọn đề tài tiểu luận là “Thực hiện dự toán thu chi ngân sách
Nhà Nước của Việt Nam những năm qua: Thực trạng và giải pháp”.
Do đây là một đề tài khó, kiến thức của bản thân có hạn nên dù rất cố gắng,
em cũng không tránh khỏi thiếu sót. Em rất mong nhận được sự quan tâm chỉ
dạy của thầy hướng dẫn: Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Thao – Phó Khoa Tài chính
Công.

Trang 3


B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I: MỘT SỐ NỘI DUNG VỀ
QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
I. Khái niệm Ngân sách Nhà nước
Có nhiều quan niệm về Ngân sách Nhà nước (NSNN) xuất phát từ các
cách tiếp cận khác nhau. Luật NSNN Việt Nam năm 2002 định nghĩa: Ngân
sách Nhà nước là toàn bộ các khoản thu chi của Nhà nước đã được cơ quan
có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm nhằm thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.
NSNN là quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của Nhà nước. NSNN vừa là
nguồn lực để nuôi dưỡng bộ máy, vừa là công cụ hữu hiệu trong tay Nhà nước
để điều tiết nền kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội.
NSNN phản ánh mối quan hệ kinh tế giữa một bên là Nhà nước và một
bên là các chủ thể khác trong xã hội trong quá trình phân phối tổng sản phẩm
quốc dân dưới hình thức giá trị. Việc bố trí ngân sách thể hiện rất rõ những ưu

tiên chiến lược cũng như quan điểm, cách thức Nhà nước giải quyết một hay
nhiều vấn đề kinh tế - xã hội. Từ khái niệm trên, có thể hiểu:
- Dưới góc độ lý thuyết, NSNN thể hiện các quan hệ kinh tế giữa Nhà
nước và các chủ thể khác trong xã hội, là sự vận động của các nguồn tài chính
gắn với quá trình tạo lập, sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước phát sinh
khi Nhà nước tham gia vào quá trình phân phối các nguồn tài chính quốc gia.
- Dưới góc độ pháp lý, NSNN được luật hoá cả hình thức và nội dung.
Trình tự và biện pháp thu, chi NSNN là sự cụ thể hoá quyền lực của Nhà nước
trong lĩnh vực ngân sách.
- Dưới góc độ tác nghiệp chuyên môn, NSNN là toàn bộ các khoản thu,
chi của Nhà nước được dự toán và thực hiệnn trong một năm, theo một quy
trình bao gồm các khâu lập dự toán, chấp hành và quyết toán NSNN.
- Dưới góc độ quản lý vi mô, NSNN là một trong các công cụ mạnh để
Nhà nước thực hiện chức năng, nhiệm vụ và tác động vào nền kinh tế.
II. Vai trò của NSNN
Vai trò của NSNN trong nền kinh tế thị trường về mặt chi tiết có thể đề
cập đến nhiều nội dung và những biểu hiện đa dạng khác nhau, song có thể
khái quát trên các khía cạnh sau:
Trang 4


1. Vai trò của một ngân sách tiêu dùng: Nhằm đảm bảo duy trì sự tồn
tại và hoạt động của bộ máy Nhà nước
NSNN đảm bảo tài chính cho bộ máy của nhà nước bằng cách khai thác,
huy động các nguồn lực tài chính từ mọi lĩnh vực, mọi thành phần kinh tế,
dưới các hình thức bắt buộc, tự nguyện. Trong đó, quan trọng nhất vẫn là
nguồn thu từ thuế. Việc khai thác, tập trung các nguồn tài chính này phải được
tính toán sao cho đảm bảo được sự cân đối giữa nhu cầu của nhà nước với
doanh nghiệp và dân cư, giữa tiêu dùng và tiết kiệm.
Các nguồn tài chính sau khi tập trung sẽ được tiến hành phân phối để

đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước theo tỷ lệ hợp lý nhằm vừa đảm bảo
duy trì hoạt động và sức mạnh của bộ máy nhà nước, vừa đảm bảo thực hhiện
các chức năng kinh tế - xã hội của Nhà nước đối với các lĩnh vực khác nhau
của nền kinh tế.
Kiểm tra, giám sát việc phân phối và sử dụng các nguồn tài chính từ
NSNN nhằm đảm bảo cho việc phân phối và sử dụng đó được tiến hành hợp
lý, tiết kiệm và có hiệu quả, đáp ứng các nhu cầu của QLNN và phát triển kinh
tế - xã hội.
2. Vai trò của ngân sách phát triển: Là công cụ thúc đẩy tăng trưởng,
ổn định và điều chỉnh kinh tế vĩ mô của Nhà nước
Thông qua NSNN, Nhà nước định hướng đầu tư và điều chỉnh cơ cấu
của nền kinh tế theo cả cơ cấu vùng, ngành.
Thông qua chi NSNN, Nhà nước đầu tư cho kết cấu hạ tầng, tạo điều
kiện thuận lợi cho sản xuất – kinh doanh phát triển, thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế, nâng cao đời sống dân cư.
Bằng nguồn chi NSNN hàng năm, NN tạo lập các quỹ dự trữ về hàng
hoá và tài chính. Trong trường hợp thị trường biến động, giá cả tăng quá cao
hoặc xuống quá thấp, nhờ vào lực lượng dự trữ hàng hoá và tiền, Nhà nước có
thể điều hoà cung cầu đề bình ổn giá cả, bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng và
người sản xuất.
Nhà nước cũng có thể chống lạm phát bằng việc cắt giảm chi NSNN,
tăng thuế tiêu dùng, khống chế cầu, giảm thuế đầu tư để khuyến khích đầu tư
mở rộng sản xuất kinh doanh, tăng cường cung. Ngoài ra, Nhà nước cũng có
thể sử dụng các công cụ vay nợ như công trái, tín phiếu kho bạc…. để hút bớt
lượng tiền mặt trong lưu thông, giảm sức ép về giá cả và bù đắp thâm hụt ngân
sách.
3. NSNN đóng vai trò quan trọng thực hiện công bằng xã hội và giải
quyết các vấn đề xã hội
Trang 5



Nền kinh tế thị trường với sức mạnh thần kỳ của nó luôn chứa đựng
những khuyết tật tự thân không thể sửa chữa, đặc biệt về mặt xã hội như: tạo
ra bất bình đẳng về thu nhập, chênh lệch mức sống và các tệ nạn xã hội…
Trong bối cảnh đó, NSNN đóng vai trò quan trọng trong việc thực thi công
bằng và giải quyết các vấn đề xã hội nảy sinh. Vai trò đó được thể hiện thông
qua các hoạt động thu chi của NSNN, việc điều chỉnh thu nhập giữa các tầng
lớp dân cư, giảm bớt những điều bất hợp lý trong phân phối, đảm bảo công
bằng tương đối và góp phần giải quyết các vấn đề xã hội khác.
Trong thực hiện công bằng, Nhà nước cố gắng tác động theo hai hướng:
giảm bớt các thu nhập cao và nâng đỡ các thu nhập thấp để rút ngắn khoảng
cách chênh lệch thu nhập giữa các tầng lớp dân cư. Việc giảm bớt thu nhập
cao có thể được thực hiện dưới hình thức đánh thuế luỹ tiến vào thu nhập cao
(thuế thu nhập cá nhân), đánh thuế tiêu thụ đặc biệt vào những mặt hàng xa xỉ
chỉ phục vụ cho một nhóm nhỏ giàu có trong xã hội (thuế ô tô, rượu bia, thuốc
lá, xì gà, nước hoa…). Còn việc nâng đỡ các thu nhập thấp được thực hiện
dưới hình thức giảm thuế và/hoặc trợ giá cho những mặt hàng thiết yếu như
lương thực, điện, nước và trợ cấp xã hội cho những người có thu nhập thấp,
hoàn cảnh khó khăn.
Trong việc giải quyết các vấn đề xã hội, Nhà nước thông qua NSNN để
tài trợ cho các loại hình dịch vụ công như giáo dục, y tế, văn hoá, các chương
trình việc làm, chính sách dân số, xoá đói giảm nghèo, phòng chống tệ nạn xã
hội, đảm bảo an ninh quốc phòng….
III. Những nội dung thu, chi chủ yếu của NSNN
1. Thu NSNN
Là việc NN dùng quyền lực của mình tập trung một phần nguồn tài
chính quốc gia để hình thành quỹ NSNN. Như vậy, có thể thấy sự tồn tại, phát
triển của NN là điều kiện xuất hiện các khoản thu ngân sách và ngược lại, các
khoản thu ngân sách là tiền đề tài chính giúp NN thực hiện nghĩa vụ của mình.
Các khoản thu NSNN bao gồm:

- Thu từ khai thác và bán các nguồn tài nguyên thiên nhiên
- Thu từ thuế và phần nộp ngân sách từ các khoản phí, lệ phí
- Thu từ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của NN: thu
hồi vốn, thu hồi tiền cho vay, thu nhập từ vốn góp
- Thu từ mở rộng cung tiền
- Vay nợ, viện trợ
- Các khoản thu từ sự đóng góp tự nguyện của các tổ chức,
cá nhân
Trang 6


- Các khoản thu khác
2. Chi NSNN
Chi NSNN là việc chi tiêu của Nhà nước cho các mục tiêu công theo
những định hướng nhất định. Nói cách khác, đó là việc phân bổ và sử dụng
quỹ NSNN để thực hiện các chức năng của NN theo các nguyên tắc nhất định
đã được quy định trước.
Các khoản chi NSNN bao gồm:
- Chi thường xuyên
- Chi đầu tư phát triển
- Chi trả nợ, cho vay
- Chi bổ sung quỹ dự trữ
- Chi khác
IV. Tiêu chuẩn của một ngân sách tốt:
Một ngân sách tốt phải đảm bảo các yêu cầu sau:
- Đảm bảo kỷ luật ngân sách, đảm bảo hiệu quả và cho phép thoả mãn
nhu cầu của cộng đồng;
- Phải có tầm nhìn dài hạn và chỉ ra được hiệu quả của các lựa chọn
công;
- Dự báo trước các khoản thu và nhiệm vụ chi tiêu để xây dựng chính

xác kế hoạch thu, chi;
- Đảm bảo có sự tham gia của cộng đồng và thể hiện được các lợi ích
khác nhau;
- Đảm bảo tính công khai, minh bạch để ngăn chặn tình trạng thất thoát,
trốn thuế hoặc lạm dụng chi tiêu công;
- Đảm bảo tính bền vững của ngân sách: Cho phép dễ dàng nắm bắt mục
tiêu, thách thức, tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều chỉnh những thay đổi của
môi trường.
V. Một số vấn đề trong quản lý ngân sách bền vững
Quản lý ngân sách bền vững cần lưu ý một số vấn đề sau:
- Phải tăng cường quy trách nhiệm và công khai ngân sách (gắn
kết quả thực hiện với trách nhiệm của cá nhân, tập thể sử dụng và/hoặc ra
quyết định sử dụng NSNN).
Trang 7


- Đảm bảo tính công khai minh bạch trong quản lý ngân sách
(thông tin rõ ràng, đúng lúc, phân định rõ vai trò và trách nhiệm, đồng thời chỉ
rõ những chỉ tiêu, chính sách và các khoản mục ưu tiên nhằm giảm thiểu nguy
cơ tham nhũng, thất thoát do sử dụng ngân sách không hiệu quả).
- Tạo lập tầm nhìn trong trung hạn và dài hạn cho ngân sách (đảm
bảo tính dự báo của ngân sách, chú trọng yếu tố phương pháp, chiến lược của
quản lý NSNN để tránh nguy cơ đưa ra những dự toán NSNN không đúng,
không sát với thực tế, hoặc đẩy các khoản chi ra ngoài phạm vi xem xét).
VI. Các nguyên tắc cơ bản trong quản lý NSNN
Quản lý tốt NSNN phải đáp ứng bốn nguyên tắc sau:
1. Tính trách nhiệm:
Tính trách nhiệm gồm có 2 bộ phận cấu thành là (1) trách nhiệm giải
trình về các hoạt động ngân sách và (2) lường trước các tác động có thể xảy ra
khi đưa ra các quyết định về ngân sách. Tính trách nhiệm được xem xét trên

hai khía cạnh: trách nhiệm đối với cơ quan quản lý cấp trên và trách nhiệm đối
với công chúng, xã hội.
Muốn tăng cường trách nhiệm giải trình đòi hỏi phải phân định rõ quyền
hạn và trách nhiệm của từng cơ quan trong chính phủ đối với NSNN. Nói cách
khác, tăng cường trách nhiệm giải trình phải được gắn liền với quá trình quy
trách nhiệm trong quản lý ngân sách.
2. Tính minh bạch
Tính minh bạch có nghĩa là mọi thông tin về tài chính và ngân sách đều
phải được công khai hoá, đảm bảo cho mọi tầng lớp dân cư có thể tham gia
theo dõi và giám sát các hoạt động ngân sách. Minh bạch tài chính ở đây
không chỉ là việc công bố các thông tin về ngân sách, mà còn phải đảm bảo
tính tin cậy, kịp thời và dễ hiểu của các thông tin đó. Tính minh bạch được
xem là cơ sở thiết yếu cho việc cải tiến công tác quản lý tài chính theo hướng
nâng cao hiệu quả và hiệu lực.
3. Tính tiên liệu: tạo ra cho ngân sách tầm nhìn trung và dài hạn
Tính tiên liệu thể hiện ở chỗ mọi đạo luật hay quy định về ngân sách
phải rõ ràng, có tính dự báo và được thực thi một cách thống nhất, liên tục.
Tính tiên liệu giúp các cơ quan công quyền cũng như khu vực tư nhân đưa ra
được những định hướng tốt cho chiến lược phát triển quốc gia, chiến lược phát
triển của ngành, vùng và chiến lược phát triển của đơn vị, từ đó đưa ra các
quyết định đúng đắn cho hoạt động của mình.

Trang 8


4. Sự tham gia của xã hội
Các hoạt động của Nhà nước nhằm mục đích phục vụ xã hội. Vì vậy,
một ngân sách tốt phải phản ánh được lợi ích của đông đảo tầng lớp, bộ phận,
cộng đồng dân cư vào trong các chính sách và hoạt động thu, chi ngân sách.
Sự tham gia của xã hội, người dân vào công tác quản lý NSNN được

thực hiện trong suốt chu trình ngân sách, từ khâu lập dự toán, chấp hành đến
quyết toán ngân sách. Sự tham gia đầy đủ của xã hội không chỉ thể hiện rõ
nguyên tắc dân chủ trong quản lý ngân sách, mà còn giúp làm cho ngân sách
minh bạch hơn, các thông tin trong ngân sách trung thực, chính xác hơn. Đồng
thời, việc tăng cường sự tham gia của người dân sẽ tạo điều kiện giúp nguời
dân, xã hội thực thi quyền giám sát của mình đối với các hoạt động của NN.

Trang 9


CHƯƠNG II
TÌNH HÌNH THỰC HIỆN DỰ TOÁN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
2011, 2012 VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
I. Tình hình thu, chi ngân sách năm 2011, 2012:
Trong bối cảnh khó khăn của nền kinh tế, nhằm thực hiện tốt dự toán
NSNN năm 2011 cũng như các nhiệm vụ được giao, Bộ Tài chính đã ban hành
Kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết 11 (Quyết định số 527/QĐ-BTC
ngày 01/03/2011). VIệc đề ra các giải pháp kịp thời đã góp phần không nhỏ
vào việc thực hiện tốt nhiệm vụ thu chi NSNN năm 2011 và 2012:
1. Thu ngân sách 2011 và 2012
Theo ước tính của Bộ Tài chính, tổng thu NSNN năm 2011 ước đạt
674.500 tỷ đồng, đạt 113,4% dự toán, tăng xấp xỉ 21% so với cùng kỳ năm
2010, trong đó:
+ Thu nội địa ước 390.000 tỷ đồng, đạt 102% dự toán năm, tăng 16,6%
so cùng kỳ 2010 (trong đó: tính đến hết tháng 11/2011, thu từ kinh tế quốc
doanh đạt 89,1% dự toán, tăng 12,1% so cùng kỳ; thu khu vực công thương
nghiệp và dịch vụ ngoài quốc doanh đạt 98,7% dự toán, tăng 23,7% so cùng
kỳ; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 94,0% dự toán, tăng
15,3% so với cùng kỳ; thuế thu nhập cá nhân đạt 119,7% dự toán, tăng 45,4%
so cùng kỳ; các khoản thu từ nhà và đất đạt 135,9% dự toán, tăng 7,8% so với

cùng kỳ...).Cần lưu ý rằng theo yêu cầu hỗ trợ các gia đình và doanh nghiệp
vượt qua bất ổn của năm 2011, đã có hàng loạt các chính sách miễn giảm, gia
hạn thời gian nộp thuế của một số sắc thuế như thuế Thu nhập các nhân, thuế
TNDN ( giảm 30 % số thuế phải nộp năm 2011 đối với DNNVV, doanh
nghiệp sử dụng nhiều lao động trong lĩnh vực ưu tiên…).
+ Thu từ dầu thô cả năm 2011 ước 100.000 tỷ đồng, đạt 144,3% dự
toán, tăng 35,9% so với cùng kỳ;
+ Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, thu NSNN từ xuất nhập khẩu
ước 186.833 tỷ đồng, đạt 99% dự toán năm, tăng 19,3% so với cùng kỳ năm
2010) bất chấp chính sách hạn chế nhập khẩu và giảm, miễn thuế đối với nhập
khẩu xăng dầu những tháng đầu năm. Thu từ hoạt động xuất nhập khẩu tăng
do nhiều nguyên nhân, trong đó có tác động từ tăng kimngạch xuất nhập khẩu
hàng hóa, thay đổi tỷ giá đồng Việt Nam và các giải pháp mạnh nhằm chống
thất thu thuế của Bộ Tài chính.

Trang 10


Thu NSNN cả năm 2011 ước tính có thể tăng 23,4% so với năm 2010,
đây là con số cao thứ nhì trong 5 năm gần đây (chỉ thấp hơn mức 27,2% của
năm 2008). Tuy nhiên, cũng phai lưu ý là nếu tính đến tỷ lệ lạm phát cao của
năm 2011 thì kết quả này không thật sự nổi trội so với các năm gần đây.
Năm 2012: Dự toán thu NSNN cả năm 2012 là 740.500 tỷ đồng, lũy kế
thu cả năm ước đạt 742.380 tỷ đồng, đạt 100,3% dự toán.
Trong đó, thu nội địa 459.480 tỷ đồng, thu từ dầu thô đạt 144.400 tỷ
đồng, thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt 131.500 tỷ đồng,
thu viện trợ đạt 7.000 tỷ đồng.
2. Chi ngân sách 2011, 2012:
Tổng chi NSNN (kể cả trả nợ và chuyển nguồn cho năm 2012) lũy kế cả
năm 2011 ước đạt 796.000 tỷ đồng, trong đó chi NSNN không bao gồm trả nợ

khoảng 732.000 tỷ đồng, bằng 101% dự toán năm. So với dữ liệu tương ứng
của cùng kỳ năm 2010, con số thực hiện năm 2011 đã tăng 19%, thấp hơn đôi
chút so với tốc độ tăng thu tương ứng. Điều này phản ánh thực tế là khi lạm
phát cao thì thu ngân sách cao hơn nhưng chi ngân sách cũng tăng lên rất
mạnh. Tuy nhiên việc tốc độ tăng chi chỉ xấp xỉ lạm phát cho thấy cố gắng rất
lớn trong điều hành chính sách tài khóa 2011 của Chính phủ vì nhiều năm gần
đây tốc độ tăng chi thường cao hơn nhiều tốc độ lạm phát.
Ước tính cả năm tổng chi cho đầu tư phát triển đạt 175.000 tỷ, chỉ tăng
2,34 % so với cùng kỳ 2010. Đây là một con số rất đáng khích lệ trong bối
cảnh lạm phát cao. Bên cạnh việc đảm bảo cấp phát, thanh toán vốn đầu tư
theo dự toán năm, công tác thanh toán vốn cho các dự án từ nguồn trái phiếu
Chính phủ cũng được chú trọng.
Chi trả nợ, viện trợ luỹ kế 11 tháng đạt 93.410 tỷ đồng, bằng 108,6% dự
toán, tăng 18,6% so cùng kỳ năm 2010, đảm bảo thanh toán đầy đủ và đúng
hạn các khoản nợ đã cam kết.
Chi phát triển sự nghiệp kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh (bao gồm
chi cải cách tiền lương) luỹ kế 11 tháng đạt 442.890 tỷ đồng, bằng 94,4% dự
toán, tăng 26,3% so cùng kỳ năm 2010; các nhiệm vụ chi NSNN được đảm
bảo thực hiện phù hợp với tiến độ thực hiện và dự toán năm được giao. Ước
tính cả năm 2011 chi thường xuyên đạt 535.100 tỷ, tăng 21 % so với dự toán
năm và tăng 23 % so với cùng kỳ năm 2010. Điều này một phần do lạm phát
làm tăng chi tiêu và một phần để thực hiện tăng lương và các chính sách an
sinh xã hội của Chính phủ năm 2011.

Trang 11


So sánh 5 năm gần đây cho thấy việc tuân thủ dự toán chi cân đối
NSNN năm 2011 là khá tốt. Chi NSNN tuân thủ khá tốt dự toán Ngân sách
2011 đã được phê chuẩn với mức vượt thấp nhất trong 5 năm gần đây. Điều

này phản ánh việc ban hành Nghị quyết 11 về cắt giảm chi NSNN đã có tác
dụng nhất định đến chi tiêu ngân sách năm 2011.
Số liệu so sánh 5 năm gần đây cho thấy năm 2011 có tỷ lệ bội chi thực
tế so với dự toán thấp nhất, ước khoảng 4,9% GDP trong khi dự toán bội chi
NSNN năm 2011 mà Quốc hội cho phép là 5,3%GDP. Việc thực hiện chặt chẽ
và giám sát hiệu quả hơn các quy định về chi tiêu NSNN là những lý do giải
thích cho việc giảm bội chi ngân sách.
Về chi NSNN 2012, lũy kế cả năm là 905.250 tỷ đồng, đạt 100,2% dự
toán. Trong đó: chi đầu tư phát triển đạt 191.791 tỷ đồng, chi trả nợ và viện trợ
đạt 100.000 tỷ đồng, chi phát triển sự nghiệp kinh tế - xã hội, quốc phòng, an
ninh, quản lý hành chính đạt 613.359 tỷ đồng.
Bội chi NSNN năm 2012 giữ ở mức Quốc hội quyết định là 4,8% GDP.
II. Đánh giá chung
Từ tình hình thu chi NSNN năm 2011 và 2012 có thể rút ra một số nhận
định như sau:
Một là, sự chỉ đạo điều hành kịp thời của Chính phủ trước những biến
động của nền kinh tế đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện dự toán
NSNN. Việc Bộ Tài chính ban hành Chương trình hành động nhằm thực hiện
Nghị quyết 11 là nguyên nhân quan trọng giải thích cho sự thành công của
năm tài khóa 2011 và 2012.
Hai là, trong bối cảnh kinh tế khó khăn thì việc tăng cường kiểm tra,
giám sát trong quản lý thu thuế, chống thất thu thuế; tập trung xử lý các khoản
nợ đọng thuế; triển khai các biện pháp cưỡng chế nợ thuế để thu hồi nợ đọng
và hạn chế phát sinh số nợ thuế mới cần đặc biệt được quan tâm.
Ba là, cần có những hướng dẫn cụ thể chi tiết để các bộ, cơ quan, địa
phương chủ động sắp xếp lại các nhiệm vụ chi nhằm tiết kiệm thường xuyên.
Bốn là, cần chủ động và tích cực trong việc phối hợp các bộ, ngành rà
soát toàn bộ các dự án đầu tư, kiến nghị kịp thời Thủ tướng Chính phủ các
biện pháp xử lý, loại bỏ các dự án đầu tư kém hiệu quả, đầu tư dàn trải, kể cả
các dự án đầu tư ra nước ngoài.


Trang 12


Có thể nói, công tác tổ chức điều hành NSNN đã được triển khai tích
cực, chủ động; trong điều kiện thu khó khăn, công tác quản lý chi NSNN được
tăng cường, bảo đảm tiết kiệm, chặt chẽ và hiệu quả; nghiêm túc thực hiện chủ
trương thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong chi thường xuyên; hạn chế tối
đa việc bổ sung ngoài dự toán và ứng vốn, tăng cường công tác kiểm tra, kiểm
soát chi NSNN, đảm bảo chi ngân sách đúng chế độ, thúc đẩy giải ngân vốn
đầu tư phát triển.
Qua đó, NSNN đã đảm bảo nguồn đáp ứng kịp thời các nhu cầu chi theo
dự toán; đáp ứng kịp thời, đầy đủ các nhiệm vụ chi về đảm bảo quốc phòng, an
ninh và chi các sự nghiệp giáo dục - đào tạo, y tế, văn hoá, đảm bảo xã hội;
phòng chống khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh...

Trang 13


CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP MANG TÍNH BỀN VỮNG
TRONG CÂN ĐỐI THU CHI NGÂN SÁCH NĂM 2013 VÀ NHỮNG
NĂM SAU
I. Cơ hội và thách thức với thực hiện dự toán ngân sách năm 2013
và những năm sau:
1. Cơ hội
Phân tích tình hình kinh tế và dự toán NSNN năm 2013, có thể thấy việc
thực hiện thu NSNN có một số thuận lợi như sau:
Thứ nhất, tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ có thể thoát ra khỏi giai đoạn suy giảm
vào giữa năm 2013, góp phần làm tăng thu ngân sách. Năm 2013, hệ số ICOR
theo mục tiêu giảm (từ gần 6,7 lần xuống 5,5 lần), do tỷ lệ vốn đầu tư/GDP

giảm xuống (30% so với 33,5%), do tốc độ tăng trưởng GDP cao lên (5,5% so
với 5,03%); tốc độ tăng năng suất lao động cũng cao lên (năm 2012 tăng gần
2,3%, mục tiêu năm 2013 tăng lên 2,7%). Theo ước tính, nếu GDP năm 2013
tăng trưởng đạt 5,5 – 6% thì tăng thu NSNN có thể tăng từ 9-10% so với thực
hiện năm 2012, tức là đạt mức theo dự toán.
Thứ hai, các DN và cả nền kinh tế được kỳ vọng sẽ từng bước hồi phục
khi lạm phát được kiểm soát và lãi suất cho vay giảm đi. Các biện pháp hỗ trợ
DN qua miễn, giảm thuế sẽ từng bước có tác dụng khôi phục lại hoạt động của
DN. Điều này góp phần vào việc tăng nguồn thu cho NSNN. Hơn nữa, do lạm
phát năm 2012 thấp nên việc lập dự toán thu theo số danh nghĩa cho năm 2013
cũng không bị thổi phồng như đã xảy ra với dự toán năm 2012. Nói cách khác
là dự toán thu NSNN năm 2013 sẽ sát với thực tiễn hơn.
Thứ ba, một số sắc thuế mới có hiệu lực như thuế sử dụng đất phi nông
nghiệp, thuế bảo vệ môi trường sẽ làm tăng nguồn thu cho NSNN.
Thứ tư, việc tiếp tục thực hiện các giải pháp theo Chương trình hành
động của Bộ Tài chính nhằm thực hiện Nghị quyết 11/CP trong đó tập trung
vào việc chống thất thu thuế, hạn chế tình trạng nợ đọng thuế sẽ tạo điều kiện
cho việc tăng thu NSNN. Hơn nữa, các giải pháp thực hành tiết kiệm chi
thường xuyên trong kế hoạch này và thực hiện chỉ thị 1792/ CT-TTg của
Chính phủ về việc tăng cường quản lý đầu tư từ vốn NSNN và trái phiếu chính
phủ giai đoạn 2012-2015 sẽ là cơ sở cho việc thực hiện tốt dự toán chi NSNN
năm 2013 và những năm sau.
2. Thách thức
Bên cạnh những cơ hội, thực hiện dự toán ngân sách những năm sau
cũng sẽ đối mặt với những thách thức không nhỏ.
Trang 14


Thứ nhất, rủi ro của các yếu tố bên ngoài có thể tác động xấu đến tăng
trưởng làm giảm nguồn thu NSNN.

Kinh tế Việt Nam hiện nay đang phụ thuộc khá lớn vào tình hình biến
động của kinh tế thế giới (độ mở của nền kinh tế, tính theo quy mô ngoại
thương/ GDP trong giai đoạn gần đây lên đến 150%). Tăng trưởng của Việt
Nam phụ thuộc rất lớn vào xuất khẩu khi kinh tế khu vực EU và Mỹ khó khăn
thì kinh tế Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng. Theo dự báo của IMF vào tháng
12/2012 thì kinh tế thế giới sẽ chỉ tăng trưởng 3,6% trong năm 2013 và nhóm
các nước phát triển chỉ tăng trưởng ở mức 1,6 %.
Thứ hai, nguồn thu giảm do chính sách miễn giảm thuế của Chính phủ:
Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 02/NQ-CP ngày 07/01/2013, tháo gỡ
khó khăn cho DN trong đó có gia hạn thời hạn nộp thuế, miễn, giảm thuế
TNDN. Việc áp dụng thuế thu nhập cá nhân mới với sự thay đổi về ngưỡng
chiết trừ gia cảnh và thang thu nhập chịu thuế dự kiến sẽ làm giảm thu NSNN.
Thu thuế xuất nhập khẩu cũng có thể giảm đi khi Việt Nam tiếp tục cắt giảm
thuế suất theo cam kết gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và hoạt
động xuất nhập khẩu bị tác động của suy giảm tăng trưởng kinh tế.
Việc thực hiện tái cơ cấu hệ thống DNNN và hệthống các NHTM sẽ đòi
hỏi chi phí không nhỏ. Về ngắn hạn, các chính sách này có thể làm giảm
nguồn thu đồng thời làm tăng chi NSNN, do vậy, sẽ ảnh hưởng đến dự toán về
bội chi NSNN. Hơn nữa, nguồn thu từ dầu thô sẽ khó tăng khi dự báo giá dầu
năm 2012 sẽ ít biến động, thậm chí có thể giảm nếu kinh tế thế giới rơi vào
suy thoái.
Thứ ba, rủi ro kinh tế khiến một số nguồn thu khó đạt dự toán
Thứ tư, chi tiêu NSNN không dễ dàng cắt giảm.
Việc cắt giảm chi tiêu từ NSNN cũng không dễ do: (i) lạm phát làm
tăng giá các sản phẩm (trong đó có các sản phẩm dịch vụ phục vụ cho hoạt
động của Nhà nước); (ii) do lợi ích của các bên trong sử dụng ngân sách; (iii)
do phải tiếp tục hoàn thiện các dự án dang dở từ nhiều năm trước.
Thứ năm, việc giải quyết nợ xấu trong hệ thống các ngân hàng thương
mại và của hệ thống DN sẽ đòi hỏi chi phí không nhỏ. Về ngắn hạn, các chính
sách này có thể làm giảm nguồn thu từ thuế TNDN, thuế thu nhập cá nhân.


Thứ sáu, vấn đề dự báo thu chi ngân sách dựa trên số danh nghĩa.
Việc dự báo thu ngân sách năm sau trong lập dự toán thường được xem
xét trên cơ sở số thu năm hiện hành. Như đã đề cập ở trên, số thu NSNN năm
Trang 15


2011, 2012 tăng mạnh do có phần không nhỏ từ lạm phát cao và thay đổi tỷ
giá. Do vậy, dự toán số thu cao của năm 2013 dựa trên kết quả thu thực tế năm
2012 sẽ có những rủi ro nhất định.
II. Một số giải pháp:
Theo dự toán NSNN năm 2013 đã được Quốc hội phê chuẩn thì số thu
cân đối ngân sách dự kiến là 816.000 tỷ đồng, trong đó thu nội địa là 545.500
tỷ đồng (thu từ nhà đất dự kiến là 45.707 tỷ đồng), thu từ hoạt động xuất nhập
khẩu là 166.500 tỷ đồng và từ dầu thô là 99.000 tỷ đồng, bội chi dự kiến là
162.000 tỷ đồng, tương đương 4,8 % GDP.
Một trong những nguồn thu quan trọng là thu NSNN từ dầu thô cũng sẽ
khó tăng khi dự báo giá dầu năm 2013 sẽ ít có biến động mạnh, thậm chí có
thể giảm đi nếu tình hình khu vực Trung Đông ổn định.
Thị trường bất động sản chưa khởi sắc sẽ làm nguồn thu từ đất đai tiếp
tục khó đạt mục tiêu đặt ra. Theo dự toán, thu NSNN từ đất đai năm 2013 tăng
7,7 % so với dự toán 2012, song trong bối cảnh hiện nay và thực tế tình hình
năm 2013 thì cũng sẽ không dễ thực hiện được số thu này.
Bài học từ thực tiễn điều hành thu NSNN năm 2012 và những năm
trước đây cho thấy để thực hiện tốt dự toán thu NSNN năm 2013, cần tiếp tục
hoàn thiện các giải pháp sau:
Một là, cần tiếp tục thực hiện phương châm “khoan sức dân, nuôi dưỡng
nguồn thu”, bởi tỷ lệ giữa tổng thu NSNN/GDP, mặc dù đã giảm so với năm
trước (còn 25,1%), nhưng vẫn còn cao hơn so với định hướng 22- 23%. Ngành
Tài chính cần phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành khác thực thi các chính

sách điều tiết kinh tế vĩ mô, tạo thuận lợi tối đa cho DN, tạo niềm tin vào hoạt
động sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, vượt qua
giai đoạn khó khăn.
Hai là, tăng cường công tác tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế ở tất cả
các khâu, các bộ phận, các lĩnh vực, đảm bảo phương châm hành động theo
Tuyên ngôn ngành Thuế :“Minh bạch, chuyên nghiệp, liêm chính, đổi mới” đi
vào thực chất. Tổ chức thực hiện tốt 02 Luật thuế mới sửa đổi bổ sung có hiệu
lực trong năm 2013; tham mưu trình Bộ Tài chính, Chính phủ ban hành kịp
thời các văn bản hướng dẫn và triển khai thực hiện tuyền truyền, phổ biến rộng
rãi trong xã hội; đồng thời nâng cấp đồng bộ ứng dụng công nghệ thông tin; bổ
sung, sửa đổi quy trình quản lý để đáp ứng yêu cầu công tác quản lý thuế.
Theo dự toán NSNN năm 2013 đã được Quốc hội phê chuẩn, số thu cân
đối ngân sách dự kiến 816.000 tỷ đồng, trong đó thu nội địa là 545.500 tỷ
đồng (thu từ nhà đất dự kiến là 45.707 tỷ đồng), thu từ hoạt động xuất nhập
khẩu là 166.500 tỷ đồng và từ dầu thô là 99.000 tỷ đồng, bội chi dự kiến là
162.000 tỷ đồng, tương đương 4,8 % GDP.
Trang 16


Ba là, kiểm soát chặt chẽ nguồn thu ngân sách, thường xuyên kiểm tra,
rà soát để nắm bắt kịp thời số lượng, tình trạng hoạt động của DN, hộ kinh
doanh trên địa bàn để đưa vào diện quản lý. Tăng cường công tác thanh tra,
kiểm tra chống thất thu ngân sách, chú trọng việc thanh tra đối với các chuyên
đề như: chuyển giá, thương mại điện tử, kinh doanh qua mạng, hoàn thuế, hộ
kinh doanh cá thể; thanh tra đối với các DN lớn, DN có vốn đầu tư nước
ngoài.
Bốn là, đẩy mạnh áp dụng các biện pháp thu nợ và cưỡng chế nợ thuế
nhằm hạn chế nợ mới phát sinh, động viên kịp thời nguồn lực cho NSNN.
Năm là, tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính thuế nhằm cắt
giảm chi phí tuân thủ, tạo mọi điều kiện thuận lợi để DN phát triển sản xuất

kinh doanh; đẩy mạnh triển khai thực hiện các đề án thuộc Chiến lược phát
triển hệ thống thuế giai đoạn 2011-2020, đảm bảo lộ trình và yêu cầu đã đề ra.
Sáu là, cần tạo lập lại và duy trì ổn định trong hệ thống chính sách luật
pháp liên quan đến đầu tư và thu hút đầu tư, đặc biệt là trong lĩnh vực đầu tư
trực tiếp nước ngoài. Chính sách thuế đối với ngành công nghiệp ô tô cần
hướng đến việc tăng số lượng đối tượng nộp thuế để bù đắp sự sụt giảm về
thuế suất do lộ trình gia nhập vào các tổ chức quốc tế. Cụ thể, thuế suất nhập
khẩu oto nguyên chiếc loại từ 9 chỗ trở xuống hiện nay đang ở mức 83%, theo
lộ trình cam kết giữa Việt Nam và các nước ASEAN thì mức thuế này sẽ giảm
xuống 0% vào năm 2018, và theo lý thuyết thì Việt Nam sẽ bước vào giai đoạn
“oto hóa” vào khoảng năm 2020-2022, như vậy chúng ta cần có sự tính toán
để đến lúc đó, doanh số thuế nội địa (thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế GTGT) trong
tiêu thụ oto sẽ đảm bảo bù đắp được mức sụt giảm nguồn thu từ nhập khẩu oto
mà không làm ảnh hưởng đến sức mua của dân chúng.
Bảy là, Cần có cơ chế kiểm soát giá đầu vào đối với các doanh nghiệp
FDI để triệt để ngăn chặn tình trạng chuyển giá làm thất thu thuế của Nhà
Nước.
Tám là, tuyệt đối hóa đối tượng nộp thuế GTGT thông qua việc hoàn
thiện cơ chế, chính sách thanh toán không dùng tiền mặt. Cần có cơ chế tuyên
truyền từng bước, dần tiến tới luật hóa mọi giao dịch trong nền kinh tế phải
thanh toán thông qua hệ thống ngân hàng thương mại; có cơ chế khuyến khích
giai đoạn đầu, tiến tới bắt buộc thực hiện ở giai đoạn sau đối với việc trang bị
các thiết bị thanh toán qua ngân hàng (POS) ở tất cả các hộ kinh doanh có giấy
phép và cả kinh doanh nhỏ lẻ.
Năm 2010, nguồn thu từ thuế GTGT chiếm 28-30% tổng thu thuế nhà
nước, và thực tế thì rất nhiều đối tượng chịu thuế GTGT đã không nộp đủ
thiền thuế vào cho NSNN do thanh toán không dùng tiền mặt và không cần
đến hóa đơn chứng từ.

Trang 17



Làm một phép tính đơn giản, mỗi một người dân bình quân tiêu dùng
hết 50.000 đồng cho chi tiêu sinh hoạt hàng ngày, nếu họ phải chịu mức tối
thiểu 5% thuế GTGT tương đương với 2.500 đồng, tính trên dân số khoảng 90
triệu dân như hiện nay thì con số thuế GTGT có thể thu về hàng năm cỡ
khoảng 80x1012 đồng (tám mươi nghìn tỷ đồng), tương đương 10% dự toán
thu NSNN năm 2013; đó là chưa tính đến một lượng lớn thuế GTGT phát sinh
do tiêu dùng của khối doanh nghiệp và xây dựng cơ bản tạo ra.

Trang 18


C. KẾT LUẬN
Mặc dù bối cảnh kinh tế những năm qua có nhiều bất ổn song bức tranh
ngân sách về tổng quan có thể coi là thành công. Thu NSNN vẫn tăng và ước
đạt trên 20% dự toán. Chi NSNN đã từng bước được thắt chặt dù nhu cầu chi
tiêu phục vụ các nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội vẫn rất lớn. Bội chi NSNN
thấp hơn 5% GDP và thấp hơn nhiều mức dự toán 5,3% cho năm 2011 và
4,8% năm 2012. Đây là cố gắng rất lớn của Chính phủ trong việc thực hiện
chính sách tài khóa những năm qua.
Việt Nam hiện đã trở thành một nước có thu nhập trung bình (tuy đang
ở nhóm khởi đầu), điều đó đồng nghĩa với việc mức chi tiêu của người dân sẽ
tăng lên và mức đóng góp vào NSNN thông qua các sắc thuế cũng sẽ tăng
tương ứng. Tuy nhiên để tránh rơi vào bẫy của các nước thu nhập trung bình
thì vấn đề khoan sức dân và làm sao để dân chúng đóng góp ngày càng nhiều
vào NSNN mà không có cảm giác bị thuế khóa đè nặng lên vai họ là một
nhiệm vụ mang tầm chiến lược cần được đặt ra và thực thi ngay từ bây giờ.
Với những giải pháp như đề tài đã đưa ra, nếu được thực thi có hiệu quả
thì hy vọng thu NSNN trong năm 2013 và những năm tiép theo sẽ từng bước

được nâng cao và nền tài chính quốc gia của Việt Nam sẽ ngày càng lớn mạnh.

Trang 19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TS. Nguyễn Ngọc Thao, Tài liệu Tài chính công, Hà Nội 2010.
2. GS-TS Hồ Xuân Phương, PGS-TS Nguyễn Công Nghiệp, Tài chính Việt
Nam qua các thời kỳ lịch sử, NXB Tài chính, 2001.
3. Văn phòng Chính phủ, Báo cáo đánh giá bổ sung về kết quả thực hiện
Ngân sách Nhà nước năm 2010, tình hình triển khai thực hiện và những
giải pháp điều hành Ngân sách Nhà nước năm 2011.
4. Văn phòng Chính phủ, Báo cáo về việc Quốc hội thông qua Nghị quyết
về phân bổ Ngân sách Trung ương năm 2011.
5. Bộ Tài chính, Báo cáo hướng dẫn triển khai nhiệm vụ tài chính – ngân
sách năm 2011.
6. Bộ Tài chính, Báo cáo tóm tắt công tác quản lý, điều hành giá cả, tài
chính – ngân sách năm 2010, nhiệm vụ, giải pháp năm 2011.
7. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Báo cáo tóm tắt bổ sung tình hình kinh tế - xã
hội năm 2010 và triển khai thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội năm 2011.
8. Nguyễn Thanh Liêm, Quản trị tài chính, NXB Thống kê, 2007.

Trang 20


MỤC LỤC
A. MỞT ĐẦU
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I:

MỘT SỐ NỘI DUNG VỀ QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
I.
II.
III.
IV.
V.
VI.

Khái niệm Ngân sách Nhà nước ………………………………….
Vai trò của Ngân sách Nhà nước………….. ……………………..
Những nội dung thu, chi chủ yếu của Ngân sách Nhà nước……….
Tiêu chuẩn của một ngân sách tốt …………………………………
Một số vấn đề trong quản lý ngân sách bền vững………………….
Các nguyên tắc cơ bản trong quản lý Ngân sách Nhà nước ……….

4
4
6
7
7
7

CHƯƠNG II
TÌNH HÌNH THỰC HIỆN DỰ TOÁN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
2011, 2012 VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
I. Tình hình thu chi NSNN năm 2011, 2012……… ………........……. 10
1. Tình hình thu Ngân sách Nhà nước 2011,2012..……………….

10


2. Tình hình chi Ngân sách Nhà nước 2011, 2012 …………………

11

II. Đánh giá chung ………………………………………………….

12

CHƯƠNG III
MỘT SỐ GIẢI PHÁP MANG TÍNH BỀN VỮNG TRONG CÂN ĐỐI
THU CHI NGÂN SÁCH NĂM 2013 VÀ NHỮNG NĂM SAU
I. Cơ hội và thách thức với thực hiện dự toán ngân sách năm 2013 và
những năm sau …………………………………………………
13
1. Cơ hội ……………………………………………………………..

13

2. Thách thức ………………………………………………………...

14

II. Một số giải pháp ………………………………………………….

16

C. KẾT LUẬN
Trang 21




×